Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

(Tóm tắt luận án tiến sĩ Ngữ văn) PHẢN TRINH THÁM TRONG BỘ BA NEW YORK CỦA PAUL AUSTER

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (495.42 KB, 27 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

ĐẶNG THỊ BÍCH HỒNG

PHẢN TRINH THÁM
TRONG BỘ BA NEW YORK CỦA PAUL AUSTER
Chuyên ngành: Lí luận văn học
Mã số: 62.22.01.20

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

HÀ NỘI - 2016


Cơng trình được hồn thành tại:
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội

Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. LÊ HUY BẮC

Phản biện 1: PGS.TS. Nguyễn Đức Hạnh
Trường Đại học Thái Nguyên
Phản biện 2: PGS.TS. Hồng Minh Lường
Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Phản biện 3: PGS.TS. Lê Nguyên Cẩn
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Trường,
họp tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
vào hồi …..giờ … ngày … tháng… năm 2016


Có thể tìm hiểu luận án tại:
- Thư viện Quốc gia Việt Nam
- Thư viện Trường Đại học Sư phạm Hà Nội


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
i. Barry Lewis cho rằng thể loại trinh thám là một trong những ứng
viên cho tư cách bạn đồng hành đúng nghĩa của hậu hiện đại. Những
“luật lệ” của truyện trinh thám có khi trở thành chất liệu để nhà văn viết
nên những tác phẩm phản trinh thám. Cả tiểu thuyết phản trinh thám và
văn học hậu hiện đại đều không đủ cơ sở để lý giải những sự việc theo
mối quan hệ nhân quả.
ii. Paul Auster là một trong những nhà văn đương đại tiêu biểu trên
văn đàn Âu – Mỹ. Trong sự nghiệp sáng tác của mình, Paul Auster thử
bút trên nhiều thể loại. Tuy nhiên, ở lĩnh vực tiểu thuyết, nhà văn thu
được nhiều thành công hơn cả. Tác phẩm của Paul Auster đã được dịch
sang hơn 30 thứ tiếng khác nhau và thế giới vinh danh ông bằng nhiều
giải thưởng uy tín, trong đó có giải thưởng văn học Price Asturia. Riêng
Bộ ba New York, sau hai năm ra mắt độc giả, tác phẩm đã dành giải
thưởng France Culture về lĩnh vực văn học nước ngoài.
iii. Bộ ba New York của Paul Auster được đánh giá là một trong
những tác phẩm hư cấu trinh thám hậu hiện đại phổ biến nhất. Sau khi ra
mắt công chúng, bộ ba tiểu thuyết này đã thu hút được sự chú ý của
đông đảo độc giả cũng như giới nghiên cứu phê bình.
iv. Ở Việt Nam, những sáng tác của Paul Auster đang ngày một
gần gũi với độc giả. Tuy nhiên việc nghiên cứu về Paul Auster vẫn cịn
sơ sài, đặc biệt, chưa có cơng trình khoa học nào đề cập đến nhà văn

này với tư cách một tác giả văn học trinh thám hậu hiện đại. Vì thế,
chúng tơi lựa chọn đề tài “Phản trinh thám trong Bộ ba New York của
Paul Auster”.
v. Thực hiện đề tài này, chúng tôi hướng đến xác lập cơ sở lý thuyết
để phân tích những độc đáo trong nghệ thuật tự sự phản trinh thám của
Paul Auster, từ đó khẳng định xu thế vận động của văn học trinh thám
trong thời kỳ hậu hiện đại. Bên cạnh đó, chúng tơi hy vọng đề tài sẽ góp
phần đưa tác phẩm của Paul Auster cũng như khuynh hướng sáng tác phản
trinh thám đến gần hơn với đời sống văn chương Việt.


2

2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những khía cạnh, biểu hiện phản
trinh thám trong Bộ ba New York của Paul Auster.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là tiểu thuyết Bộ ba New York.
Những trích dẫn tác phẩm đưa vào luận án được chúng tôi trực tiếp dịch
từ cuốn The New York Trilogy của Paul Auster (Penguin Books, 2006),
tham khảo bản dịch Trần trụi với văn chương của Trịnh Lữ (NXB Phụ
nữ, 2007). Ngoài ra, đề tài mở rộng phạm vi tư liệu khảo sát đến những
tác phẩm khác trong trường hợp cần thiết.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu
Thực hiện đề tài này, chúng tôi khẳng định phản trinh thám là một
bước nối tiếp, phát triển của thể loại văn học trinh thám. Đặt vấn đề
“phản trinh thám trong Bộ ba New York”, chúng tôi hướng đến làm rõ
những đặc trưng độc đáo trong nghệ thuật phản trinh thám của Paul
Auster. So sánh với những tiểu thuyết được viết sau đó, luận án đồng thời
cho thấy vai trị của Bộ ba New York trong việc định hình phong cách
sáng tạo của nhà văn.

Để đạt được mục tiêu này, luận án đặt ra ba nhiệm vụ cơ bản:
Thứ nhất, hệ thống hóa, giới thiệu tiến trình vận động, phát triển của
thể loại văn học trinh thám. Xuất phát từ thực tế bộ phận văn học phản trinh
thám hầu như chưa được dịch thuật, nghiên cứu ở Việt Nam, chúng tôi nỗ
lực khái quát diện mạo văn học trinh thám, nhấn mạnh sự khác biệt giữa
trinh thám và phản trinh thám qua những tác giả, tác phẩm tiêu biểu.
Thứ hai, khẳng định cách thức xây dựng hình tượng nhân vật thám tử
trong Bộ ba New York là một minh chứng rõ ràng của nghệ thuật phản
trinh thám. Các thám tử của Paul Auster lần lượt làm đổ vỡ những ảo
tưởng của độc giả về một người hùng bất khả chiến bại. Thám tử dịch
chuyển từ hành trình kiếm tìm thủ phạm sang hành trình kiếm tìm chính
cái tơi của mình trong một thế giới đầy rẫy sự ngẫu nhiên và bất định. Đây
cũng sẽ là những chủ đề sẽ trở đi trở lại trong nhiều tiểu thuyết của Paul
Auster sau này.
Thứ ba, chỉ rõ nghệ thuật xây dựng cốt truyện phản trinh thám trong
Bộ ba New York như một chiến lược phủ định những nguyên tắc tưởng


3

chừng bất di bất dịch của cốt truyện trinh thám. Siêu hư cấu, liên văn bản
là hai thủ pháp nghệ thuật hữu hiệu giúp Paul Auster mờ hóa cốt truyện
dramatic và gài vào tiểu thuyết những câu chuyện bên ngoài khuôn khổ
tuyện trinh thám. Những câu chuyện này đồng thời định hình phong cách
tiểu thuyết Paul Auster trong các sáng tác tiếp theo.
4. Phương pháp nghiên cứu
Thực hiện đề tài, chúng tơi phối hợp sử dụng các phương pháp: loại
hình, tự sự học, so sánh và nghiên cứu lịch sử – văn hóa.
5. Những đóng góp mới của luận án
Luận án giới thiệu, hệ thống hóa những nghiên cứu về thể loại văn

học trinh thám trong tiến trình vận động từ truyện trinh thám đến phản
trinh thám. Đặc biệt, trước luận án này, bộ phận văn học phản trinh thám
hầu như chưa được dịch thuật, nghiên cứu ở Việt Nam. Nỗ lực khái quát
diện mạo văn học trinh thám có thể trở thành tài liệu tham khảo cho những
đối tượng quan tâm đến thể loại văn học này.
Trên cơ sở lý thuyết, luận án thể nghiệm nghiên cứu một hiện tượng
văn học đương đại tiêu biểu và đa trị: tiểu thuyết phản trinh thám của Paul
Auster. Chúng tôi đưa ra một góc nhìn khác khi tiếp cận tính chất phản
trinh thám trong Bộ ba New York, đó là những phương diện cơ bản của tự
sự học với các thủ pháp thuộc về hư cấu hậu hiện đại, từ đó chỉ ra thế giới
nghệ thuật đặc thù trong sáng tác phản trinh thám của Paul Auster.
Qua sự khái quát lý thuyết và liên hệ mở rộng trong quá trình thể
nghiệm lý thuyết, chúng tôi khẳng định sự chuyển dịch vị thế của văn học
phản trinh thám từ khu vực văn chương đại chúng sang khu vực văn
chương bác học đồng thời chỉ ra khả năng phát triển của thể loại văn học
này trong bối cảnh hậu hiện đại.
6. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, luận án được cấu
trúc thành bốn chương:
Chương 1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
Chương 2. Truyện phản trinh thám trong tiến trình thể loại
Chương 3. Hình tượng thám tử đa diện trong Bộ ba New York
Chương 4. Cốt truyện phản trinh thám trong Bộ ba New York


4

Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Những nghiên cứu về truyện phản trinh thám

Năm 1972, thuật ngữ “phản trinh thám” lần đầu tiên xuất hiện trong
đời sống nghiên cứu phê bình văn học bởi sự đề xuất của William Spanos.
Từ đó đến nay, việc nghiên cứu về truyện phản trinh thám đã thu hút được
sự quan tâm của không ít học giả. Ở đây, chúng tơi tổng thuật tình hình
nghiên cứu về truyện phản trinh thám từ hai nguồn tư liệu tiếng Việt và
tiếng Anh, tập trung vào hai nội dung lớn: quan niệm về truyện phản trinh
thám và đặc trưng cơ bản của hình thái văn học này.
1.1.1. Tư liệu tiếng Việt
Tìm hiểu về truyện trinh thám trong diễn ngơn phê bình văn học Việt
Nam, chúng tơi thấy thể loại này chiếm một vị thế đáng kể. Nhiều cơng
trình nghiên cứu kinh điển về truyện trinh thám của các học giả nổi tiếng
thế giới đã được chuyển dịch sang tiếng Việt. Ngồi ra, khơng ít tác giả
Việt Nam đã trực tiếp đưa ra những luận bàn sâu sắc về văn học trinh
thám. Tuy nhiên, hầu như chưa có cơng trình nào đặt vấn đề nghiên cứu
hình thái văn học phản trinh thám. Lê Huy Bắc là người duy nhất đề cập
đến một nhánh phát triển của thể loại văn học trinh thám trong bối cảnh
hậu hiện đại với khái niệm giả trinh thám (pseudo detective).
1.1.2. Tư liệu tiếng Anh
Tổng quan tình hình nghiên cứu về truyện phản trinh thám ở mảng
tư liệu tiếng Anh, chúng tôi thấy những quan điểm luận bàn về thể loại
văn học này vẫn không ngừng được bổ sung, mở rộng theo những biến
đổi của thực tiễn sáng tạo. Chúng tôi chú ý tới nghiên cứu của các tác
giả William Spanos, Malcah Effron, Hans Bertens, Larry McCaffery...
Có thể thấy, truyện trinh thám trong lịch sử nghiên cứu phê bình văn học
phương Tây vẫn liên tục phát triển, thậm chí, phản biện nhau theo sự
vận động của hoạt động sáng tạo. Bên cạnh những nghiên cứu về văn
học trinh thám, khơng ít cơng trình đã hướng sự quan tâm đến những đổi
thay của thể loại gắn liền với sự đổi thay của bối cảnh lịch sử xã hội.
Tuy nhiên, vẫn chưa có một cơng trình nào tái hiện đầy đủ tiến trình của
thể loại văn học này.



5

1.2. Những nghiên cứu về tiểu thuyết Paul Auster
Cũng như cách tiếp cận tổng quan về truyện phản trinh thám, ở đây,
chúng tơi tổng thuật tình hình nghiên cứu về Paul Auster từ hai nguồn : tư
liệu tiếng Việt và tư liệu tiếng Anh.
1.2.1. Tư liệu tiếng Việt
Đời sống văn học Việt đang ngày một tiệm cận với sự nghiệp của
Paul Auster. Tuy nhiên, đến thời điểm này, tình hình nghiên cứu về Paul
Auster ở Việt Nam nhìn chung vẫn chưa xứng tầm với tài năng, đóng góp
của nhà văn. Tổng quan tình hình nghiên cứu về Paul Auster ở Việt Nam,
chúng tôi chú ý tới một số ý kiến của Lê Huy Bắc, Nguyễn Thị Thanh
Hiếu thông qua những bài báo và cơng trình luận án đã được bảo vệ.
1.2.2. Tư liệu tiếng Anh
Trên văn đàn thế giới, Paul Auster đã khẳng định được vị thế của
mình từ những năm 80 của thế kỷ XX và những cơng trình nghiên cứu về
tác phẩm của ông cũng đã tạo thành một hệ thống khá phong phú. Sáng tác
của Paul Auster đã trở thành đối tượng của những cuốn sách chuyên khảo,
luận án, luận văn, tiểu luận, bài báo khoa học… Ở đây, chúng tôi không
tiếp cận tư liệu nghiên cứu về Paul Auster theo chủ đề mà tiếp cận theo
nhóm tư liệu bởi mỗi tư liệu gần như đặt ra một khía cạnh khác nhau
trong việc “đọc” Paul Auster.
Theo đó, chúng tôi phân loại các tư liệu thu thập được thành 2
nhóm: sách chuyên khảo và các bài báo, luận văn, luận án đã công bố.
Chúng tôi đặc biệt chú ý đến ba cuốn chuyên khảo của Bernd
Herzogenzath, Aliki Varvogli, Brendan Martin và các nghiên cứu của
Dragana, Stephen E.Alford…
1.3. Những nghiên cứu về Bộ ba New York

Những kiến giải về Bộ ba New York xuất phát từ nhiều góc độ khác
nhau nhưng nhìn chung đều thống nhất ở tính chất hậu hiện đại phía sau
cái vỏ tiểu thuyết trinh thám của bộ ba tác phẩm.
1.3.1. Tư liệu tiếng Việt
Tổng quan tình hình nghiên cứu về Bộ ba New York ở Việt Nam, chúng tôi
chú ý tới lời giới thiệu tác phẩm của Trịnh Lữ và nghiên cứu của Lê Huy Bắc.
Các ý kiến đã ít nhiều đề cập tới tính chất phản trinh thám trong bộ tiểu thuyết.


6

1.3.2. Tư liệu tiếng Anh
Ở mảng tư liệu tiếng Anh, chúng tôi tiếp cận theo hai phạm vi:
nghiên cứu về những độc đáo của Bộ ba New York nói chung và
nghiên cứu về tính chất phản trinh thám trong bộ tiểu thuyết này nói
riêng. Chúng tơi chú ý tới những nghiên cứu về Bộ ba New York của
Anne M. Holzapfel, John Zilcosky, William Lavender, Alison
Russell, Stephen E.Alford, Mark Brown, Norma Rowen, Madeleine
Soprapure, Jeffrey Nealon, Paul Jahshan, Dan Homes, Matthias
Kugler, Toni Rudat…
1.4. Những vấn đề đặt ra
Từ quá trình tổng thuật tài liệu nghiên cứu về truyện phản trinh thám,
tiểu thuyết Paul Auster và Bộ ba New York, chúng tôi nhận thấy:
Nghiên cứu về phản trinh thám ở Việt Nam và trên thế giới có một
độ vênh khá rõ nét. Hiện chưa có một cơng trình khoa học nào tái hiện
tồn bộ tiến trình thể loại văn học trinh thám.
So với khơng khí nghiên cứu về Paul Auster ở nước ngồi và so với
chính tầm vóc của Paul Auster, sự nghiên cứu về tác giả này ở Việt Nam
còn mỏng.
Luận án của chúng tôi tiếp cận sáng tác của Paul Auster theo một

con đường riêng: nhấn mạnh vào những thủ pháp nghệ thuật thuộc về hư
cấu hậu hiện đại mà nhà văn sử dụng để kiến tạo nên tiểu thuyết phản
trinh thám.
Chương 2
TRUYỆN PHẢN TRINH THÁM TRONG TIẾN TRÌNH THỂ LOẠI
Yếu tố trinh thám manh nha rất sớm trong lịch sử văn hóa, văn học
phương Tây, từ câu chuyện về Cain và Albert trong Kinh Thánh, từ huyền
thoại Oedipus trong bi kịch Hy Lạp, từ câu chuyện về ba quả táo được
nàng Scheherazade thuật lại trong Nghìn lẻ một đêm… Tuy nhiên, đến
1841, với những sáng tác của Edgar Poe, truyện trinh thám mới thực sự trở
thành một thể loại văn học. Từ đó đến nay, văn học trinh thám phát triển
qua nhiều hình thái khác nhau.


7

2.1. Các hình thái truyện trinh thám
Truyện trinh thám là tập hợp những tác phẩm văn học xoay quanh
một vụ án, một hành trình điều tra. Câu chuyện được tổ chức theo sự vận
động tuyến tính, trong đó, thám tử, tội phạm cũng như tất cả các nhân vật
liên quan đến hành trình kiếm tìm khơng nằm ngồi định hướng làm sáng
tỏ điều bí ẩn.
2.1.1. Truyện trinh thám cổ điển (The Classic Detective Fiction)
Truyện trinh thám cổ điển chính thức bắt đầu từ tháng 4 năm 1841
với sự kiện Edgar Poe công bố truyện ngắn Vụ án đường Morgue. Khởi đi
từ Mỹ nhưng những tên tuổi được biết đến nhiều nhất ở hình thái văn học
này chủ yếu lại là các nhà văn Anh. Từ nửa cuối thế kỷ XIX đến 1945 là
quãng thời gian truyện trinh thám cổ điển phát triển rực rỡ nhất, thậm chí,
khoảng giữa hai cuộc thế chiến được định danh là “thời đại hoàng kim của
truyện trinh thám”. Nối tiếp những tiêu chuẩn mà Edgar Poe khai mở, Van

Dine, Elery Queen (Mỹ), Emile Graboriau, Gaston Leroux (Pháp), Conan
Doyle, Agatha Christie, Cecil Day Lewis (Anh)… đưa hình thái truyện kể
này phát triển lên đỉnh cao.
Trong bối cảnh giao thoa văn hóa Pháp – Việt những năm đầu thế kỷ
XX, một số nhà văn Việt Nam đã mô phỏng, học tập cách viết truyện trinh
thám của các nhà văn phương Tây, tiêu biểu là Phạm Cao Củng và Thế
Lữ. Cách mạng tháng Tám thành công làm thay đổi căn bản bối cảnh lịch
sử xã hội, cùng với nó là sự gián đoạn truyện trinh thám ở Việt Nam. Đến
những năm 80 của thế kỷ XX, hình thức cổ điển của thể loại văn học này
tái xuất với những tiểu thuyết điều tra của Phùng Thiên Tân, Trần Tử Văn,
Võ Duy Linh, Trần Thanh Hà, Di Li…
2.1.2. Truyện trinh thám đen (The Hard–Boiled Detective Fiction)
Sự xuất hiện của trinh thám đen với những đại diện tiêu biểu như
Chandler, Hammett, James Chase là kết quả sự phản ứng trực tiếp với một
số đặc trưng của truyện trinh thám cổ điển. Sự thay đổi trong hình thức
cũng như nội dung của truyện trinh thám tương ứng với một nền văn hóa
đơ thị mới ở Mỹ. Thời hậu chiến ở phương Tây, tiểu thuyết trinh thám đen
xuất hiện phổ biến ở Pháp và các nước châu Âu. Số lượng xuất bản tiểu
thuyết trinh thám đen ở châu Âu không lớn như ở Mỹ nhưng vẫn có nhiều


8

tên tuổi nổi bật như Leo Malet, Auguste Le Breton, Jose Giovanni…
Những thập niên cuối thế kỷ XX, Việt Nam xuất hiện nhiều tác phẩm
phản ánh thực trạng tội phạm và cuộc chiến chống tội phạm. Tiểu thuyết vụ
án Việt Nam gần với những cuốn tiểu thuyết đen phương Tây. Tuy nhiên,
khác với tiểu thuyết đen thể hiện cái nhìn phủ nhận đối với xã hội phương
Tây mục ruỗng, những cuốn tiểu thuyết vụ án Việt Nam của Xuân Đức,
Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Như Phong… ghi nhận cuộc đấu tranh của

công an, của xã hội chống lại những lực lượng phi nghĩa trong đời sống.
2.1.3. Truyện trinh thám chính trị (The Political Detective Fiction)
Truyện trinh thám chính trị bắt nguồn ở nước Anh từ những năm đầu
thế kỷ XX. Gắn chặt với các sự kiện chính trị lớn của thế giới, hình thái
văn học này chủ yếu khai thác nguồn chất liệu thực tế. Những tác phẩm
của Ian Fleming, John Le Carre, Graham Greene (Anh), Xemionov,
Bogomolov (Nga), Charles McCarry, Tom Clancy (Mỹ)… hấp dẫn đông
đảo độc giả phương Tây. Ngày nay, với sự trỗi dậy của chủ nghĩa khủng
bố, các cây bút trinh thám như Forsythe, Tom Clancy đã chuyển hướng
khai thác hoạt động gián điệp trong cuộc chiến đầy khốc liệt này.
Ở Việt Nam, tiểu thuyết tình báo – phản gián là thuật ngữ được sử
dụng quen thuộc, tương đương với thuật ngữ tiểu thuyết trinh thám chính
trị ở phương Tây. Hình thái văn học này bắt đầu xuất hiện từ những năm
60 của thế kỷ XX. Nó hé lộ cuộc chiến thầm lặng của những chiến sĩ tình
báo, trinh sát bên cạnh cuộc chiến thần thánh của toàn dân tộc trong sự
nghiệp đấu tranh chống đế quốc. Sau ngày đất nước thống nhất, tiểu thuyết
tình báo – phản gián phát triển ở Việt Nam với các sáng tác của Đặng
Thanh, Nguyễn Trường Thiên Lý, Hữu Mai...
2.1.4. Truyện trinh thám tâm lý (The Psychological Detective Fiction)
Truyện trinh thám hiện đại coi yếu tố thuộc về tâm lý là cơ sở để truy tìm
căn nguyên hành vi con người. Tiểu thuyết trinh thám, vì thế, nhấn mạnh vai trị
của bác sĩ, của nhà tâm lý, nhà khoa học… Tác phẩm có thể coi là nghệ thuật
nghiên cứu tâm lý tội phạm. Những nhà văn nổi bật trong lĩnh vực tiểu thuyết
trinh thám ngày nay như Georges Simenon (Pháp), Patricia Cornwell (Mỹ), Rut
Rendell (Anh), Ingrid Noll (Đức), Alecxandra Marinina (Nga), Lôi Mễ (Trung
Quốc)… đồng thời cũng là những cây bút sành sỏi về khai thác tâm lý.


9


Tiểu thuyết điều tra của Việt Nam là hình thức gần nhất với trinh
thám cổ điển nhưng vẫn nổi bật yếu tố phân tích tâm lý – xã hội. Bên cạnh
đó, ở tiểu thuyết vụ án, các nhà văn thay vì bám sát hành trình khám phá
tội ác lại tập trung vào kẻ phạm tội với những chi tiết phân tích hành vi,
động cơ vụ án. Những tiểu thuyết trinh thám của Bùi Anh Tấn, Nguyễn
Đình Tú… đậm đặc yếu tố tâm lý.
2.2. Truyện phản trinh thám: bước phát triển mới của thể loại
trinh thám
2.2.1. Thuật ngữ phản trinh thám (anti–detective)
Kiểu sáng tác phản trinh thám manh nha từ những năm đầu thế kỷ
XX trong Vụ án của Kafka và tiếp tục phát triển đến giữa thế kỷ với Chân
dung một người xa lạ của Nathalie Sarraute, Những cục tẩy của Robbe–
Grillet, Bộ ba của Beckett, Nạn nhân của trách nhiệm của Ionesco… Một
số nhà văn hậu hiện đại vận dụng, phỏng nhại hình thức và những nguyên
tắc của tiểu thuyết trinh thám để sáng tạo nên tiểu thuyết phản trinh thám.
Thuật ngữ phản trinh thám (anti-detective) được đề xuất lần đầu tiên
năm 1972 trong bài viết Thám tử và giới hạn: vài lưu ý về hư cấu văn
chương hậu hiện đại của William Spanos. Hạt nhân quan niệm “phản trinh
thám” của Spanos là “phản chủ nghĩa Aristotle”. Ông khẳng định, câu
chuyện phản trinh thám đi ngược lại nguyên tắc xây dựng tác phẩm theo
quan hệ nhân quả với cấu trúc ba phần: mở đầu, trung tâm, kết thúc.
Tani lập luận rằng, tiểu thuyết phản trinh thám không phải là sự tiếp
nối của tiểu thuyết trinh thám. Nó là sự phá vỡ giới hạn của tiểu thuyết
trinh thám.
Có thể nói, quan niệm về phản trinh thám chưa thật thống nhất
trong giới nghiên cứu phê bình. Hiện nay, mục từ “phản trinh thám”
cũng chưa được xác định trong các từ điển thuật ngữ chuyên ngành
văn học.
Xuất phát từ thực tế này, chúng tơi đề xuất quan niệm của mình
về truyện phản trinh thám. Theo đó, chúng tơi cho rằng, phản trinh

thám là một hình thái trong tiến trình vận động của thể loại văn học
trinh thám, ra đời và phát triển từ nửa sau thế kỷ XX. Truyện phản
trinh thám thường xuyên gợi nhắc những hình thức, nguyên tắc của


10

truyện trinh thám nhằm mục đích phỏng nhại chúng. Hạt nhân của
truyện phản trinh thám là sự phủ định kiểu nhân vật thám tử ưu
việt với khả năng suy lý, hành động; là sự phá vỡ mơ hình cốt
truyện về cuộc điều tra với cấu trúc dramatic. Qua đó, câu chuyện
phản trinh thám vượt ra ngồi khn khổ một hành trình khám phá
điều bí ẩn để thể nghiệm cái nhìn của nhà văn về các vấn đề đời
sống, nghệ thuật…
2.2.2. Một số tác gia phản trinh thám tiêu biểu
Nếu như ở truyện trinh thám, người đọc dễ dàng tìm được một tác
giả mà tên tuổi của họ gần như gắn liền với danh tính một nhà thám tử thì
đến văn học phản trinh thám, nhà văn không phải là người chuyên chú với
thể loại này. Tuy nhiên, những nhà văn như Samuel Beckett, Louis
Borges, Umberto Eco, Paul Auster… đã tạo ra được những tác phẩm phản
trinh thám nổi tiếng thế giới. Mỗi nhà văn lại thể hiện một dấu ấn văn hóa
đặc thù trong tác phẩm của mình.
Samuel Beckett (1906 – 1989) là nhà văn Ireland đã đoạt giải Nobel
Văn học năm 1969. Với việc xây dựng kiểu nhân vật thám tử – nhà văn,
Bộ ba của Beckett trở thành sự trải nghiệm quá trình kiếm tìm nhân dạng
cũng như bộc lộ những trăn trở về hoạt động viết lách. Cấu trúc truyện kể
và những chủ đề nổi bật trong Bộ ba của Beckett gần gũi với Bộ ba New
York của Paul Auster.
Jorge Louis Borges (1899 – 1986) là nhà văn, nhà thơ, dịch giả nổi
tiếng của Argentina. Ông được coi là cha đẻ của chủ nghĩa hiện thực

huyền ảo Mỹ Latinh. Sáng tác của Borges kết nối với nhau bởi những chủ
đề phổ biến như giấc mơ, mê cung, vơ thức, huyền thoại… Phía sau hình
thức một tác phẩm trinh thám, Cái chết và chiếc la bàn của Borges đề xuất
cái nhìn thế giới như một mê cung.
Umberto Eco (1932–2016) là nhà văn người Ý có mặt trong danh
sách hai mươi nhà tư tưởng đương đại lớn nhất thế giới, ứng cử viên
thường trực cho giải Nobel văn học của Viện Hàn lâm Thụy Điển. Tiểu
thuyết đầu tay của ông – Tên của đóa hồng (The Name of the Rose) – đã
mượn các “phụ tùng trinh thám” để đặt ra nhiều vấn đề mang tầm vóc triết
học của nhân loại.


11

2.3. Từ trinh thám đến phản trinh thám: những vận động trong
truyện kể
2.3.1. Những vận động trong bình diện nhân vật
Trong truyện trinh thám, hình tượng nhân vật thám tử được khu biệt
bởi trí tuệ vượt trội, bởi chun mơn nghiệp vụ tài tình, bởi sự lịch thiệp
đáng trọng… Sự xuất hiện của bạn thám tử, cảnh sát, các nghi phạm lầm
lẫn chung quy lại cũng để nhấn vào năng lực của thám tử. Tình huống
thám tử đối mặt với một tội ác như là biểu tượng của sự tan vỡ trật tự
thông thường trong xã hội. Nhà văn thường xun gài vào những tình tiết
làm trì hỗn tiến trình phơi bày bộ mặt thật của kẻ phạm tội. Tài năng của
tội phạm xứng đáng là một đối trọng với thám tử. Từ đó, sự chú ý sẽ được
dồn vào hình tượng thám tử cũng như hành trình điều tra của anh ta. Thám
tử đóng vai trị tái lập trạng thái ổn định ban đầu. Ở truyện trinh thám đen,
thám tử sử dụng sức mạnh của nắm đấm, của súng đạn và trở thành một
kiểu phản anh hùng mới trong cái xã hội xuống cấp về mọi phương diện.
Họ phủ nhận vai trị của lý trí và tin vào sức mạnh tuyệt đối của điều bí ẩn.

Tiểu thuyết phản trinh thám kế thừa đặc điểm của tiểu thuyết trinh
thám đen ở sự phủ nhận vai trị của lý trí. Trong những tác phẩm trinh
thám hậu hiện đại, nhân vật thám tử thậm chí khơng phải là một thám tử
đích thực mà có thể là một nhà văn, một nhà báo, một tu sĩ, một nhà khảo
cổ, một chuyên gia chế tác bản đồ… Hành trình điều tra của anh ta chỉ cịn
là một mã biểu đạt. Độc giả ít quan tâm đến việc tay thám tử sẽ thành công
hay thất bại mà dõi theo hành trình ấy để tìm ra những cái được biểu đạt
khác nhau.
2.3.2. Những vận động trong bình diện cốt truyện
Cấu trúc của truyện trinh thám truyền thống được nhấn mạnh ở tính
chất hợp lý, logic của các sự kiện với những quy tắc rõ ràng.
Về tình huống truyện, tác phẩm bắt đầu với một tội ác bí ẩn mà hầu
hết các tình tiết của câu chuyện đã thuộc về q khứ.
Về mơ hình hành động, truyện trinh thám vận động qua sáu giai đoạn
chính liên quan đến mơ hình được thiết lập từ những tác phẩm trinh thám của
Edgar Poe, đó là: giới thiệu nhân vật thám tử; tội ác và các manh mối; quá
trình điều tra; cơng bố giải pháp; giải thích về giải pháp; kết cục câu chuyện.


12

Tiểu thuyết phản trinh thám giễu nhại và lật đổ nguyên tắc vận động
tuyến tính của cốt truyện. Kết lại hành trình truy tìm sự thật trong tiểu
thuyết phản trinh thám là một cái kết không trọn vẹn. Xét cho cùng, sự
khác biệt trong vận động cốt truyện giữa truyện trinh thám và phản trinh
thám nằm ở cách nhà văn thiết kế các giải pháp.
Khác với yêu cầu về tính nhị nguyên truyện mà Todorov từng tổng
kết, tiểu thuyết phản trinh thám không chia thành hai tầng truyện rành
mạch. Ranh giới giữa sự thật và giả tạo, hiện thực và tưởng tượng, hiện tại
và q khứ dần bị xóa nhịa. Spanos, người đầu tiên đề xuất thuật ngữ phản

trinh thám, nhận thấy mối quan hệ rõ ràng giữa thể loại văn học này với lối
tư duy hậu hiện đại.
*
Nói về truyện trinh thám, chúng tôi cho rằng, những đổi thay trong
nội dung truyện trinh thám không làm cho tác phẩm đứng ra ngồi thể loại
của nó. Qua hơn 200 năm phát triển, truyện trinh thám đã vận động qua
nhiều hình thái, từ trinh thám cổ điển, trinh thám đen, trinh thám chính trị,
trinh thám tâm lý đến phản trinh thám. Truyện phản trinh thám vận dụng
những yếu tố hình thức của thể loại trinh thám để chuyển tải quan niệm
nghệ thuật, nhân sinh độc đáo của nghệ sĩ. Từ truyện trinh thám đến phản
trinh thám, những yếu tố thuộc về cốt truyện và nhân vật có sự thay đổi
căn bản. Và chính sự vận động thể loại là nguyên cớ khiến truyện trinh
thám trở thành trường hợp minh chứng cho sự xóa nhịa ranh giới giữa văn
chương “đích thực” và văn học tiêu thụ.
Chương 3
HÌNH TƯỢNG THÁM TỬ ĐA DIỆN
TRONG BỘ BA NEW YORK
Với vai trò như những “tấm gương của cuộc đời”, nhân vật trở thành
yếu tố không thể thiếu của sáng tạo văn học. Nói đến nhân vật trong truyện
trinh thám là nói đến kiểu nhân vật cặp đơi. Mơ hình này đã được xây
dựng từ những sáng tác của Edgar Poe. Diễn biến truyện trinh thám trở
thành hành trình đuổi bắt của nhà thám tử với kẻ phạm tội để tìm ra điều bí


13

ẩn. Từ mối quan hệ này, nhiều mối quan hệ cặp đơi khác nảy sinh trong
q trình phá án như mối quan hệ thám tử – nạn nhân, thám tử – người
đồng hành, thám tử – cơ quan điều tra… Ở tiểu thuyết phản trinh thám,
thám tử khơng cịn là biểu tượng cho sức mạnh của sự thật. Anh ta sắm

cùng lúc nhiều vai và thậm chí bất lực khi tri nhận vai diễn của chính
mình. Trên cơ sở khái quát những khác biệt của hình tượng thám tử giữa
truyện trinh thám và phản trinh thám, chúng tôi sẽ làm rõ tính chất đa diện
của hình tượng thám tử trong Bộ ba New York qua sự chuyển hóa hành
trình từ giải mã điều bí ẩn sang kiếm tìm bản ngã.
3.1. Thám tử trên hành trình giải mã điều bí ẩn
3.1.1. Thám tử và các mối quan hệ đặc thù
Trong thế giới trinh thám, nhà văn bao giờ cũng đặt hình tượng thám
tử vào một tình huống bí ẩn để thử thách tài năng của anh ta. Truyện trinh
thám cổ điển thậm chí trở thành cuộc đấu trí căng thẳng giữa hai kẻ ngang
tài là thám tử và tội phạm. Bộ ba New York sử dụng những “phụ tùng”
trinh thám, mở đầu, người ta tưởng chừng như cũng có một thám tử, một
tội phạm, hoặc ít nhất, một điều bí ẩn. Tuy nhiên, diễn biến câu chuyện lại
phá vỡ mối quan hệ đặc thù của nhân vật được gọi là thám tử.
Với cái vỏ của một cuốn tiểu tuyết trinh thám, Thành phố thủy tinh
đặt bạn đọc vào một tình huống đặc trưng – tình huống về khả năng của tội
ác. Quinn vào vai thám tử nhưng bản thân Quinn lại chẳng phải là một
thám tử thực sự. Hắn chỉ là một nhà văn viết truyện trinh thám. Khác với
Quinn vốn chẳng liên quan gì đến nghề thám tử, Blue trong Những bóng
ma được White lựa chọn đúng với cơng việc của hắn ngay từ đầu. Càng
lún sâu vào các sự kiện, Blue càng thấm thía rằng mối quan hệ bộ ba
White – Blue – Black không thuần túy là quan hệ thân chủ – thám tử – đối
tượng. Người kể chuyện xưng “tơi” trong Căn phịng khóa kín khơng phải
là nhà văn viết truyện trinh thám cũng chẳng phải là một thám tử tư nhưng
sự biến mất của Fanshawe đã đẩy anh ta vào một cuộc kiếm tìm. Rốt cuộc,
hành trình viết một cuốn sách, hành trình điều tra danh tính, số phận một
con người cũng chính là một hành trinh thám.
Một điểm chung trong bộ ba tiểu thuyết của Paul Auster, đó là hầu
hết các nhân vật đã khơng có gì để đảm bảo cho việc làm của mình trong



14

q trình vào vai một thám tử, đồng thời, có một sự đổi vai rất thú vị trong
cả ba câu chuyện. Nhân vật thoát khỏi sự giam hãm trong thế giới mà tác
giả tạo ra cho họ để tự viết nên câu chuyện về chính cuộc đời mình.
3.1.2. Mê cung trí tuệ – tính chất trị chơi trinh thám
Truyện trinh thám, như cách định nghĩa của Van Dine, là một loại
“trị chơi trí tuệ”. Nó địi hỏi cao độ về tư duy duy lý của thám tử trong quá
trình lần theo dấu vết giải mã điều bí ẩn. Bộ tiểu thuyết phản trinh thám
của Paul Auster phá vỡ tính chất hợp lý, logic của các sự kiện với những
quy tắc rõ ràng theo quan hệ nhân quả. Tác giả cấu trúc “trị chơi trí tuệ”
thành một mê trận, nhấn vào những cái tạm thời ngẫu hứng khơng với mục
đích giải thích điều bí ẩn mà ngược lại, để thích ứng với nó. Thám tử bước
vào cuộc chơi này, theo đó, cũng bị lạc vào một mê trận. Phá bỏ mọi luật
lệ của trinh thám cổ điển, Paul Auster tái hiện quá trình truy tìm của nhà
thám tử nhằm thể hiện mê cung trí tuệ bi thảm của con người.
Kết thúc một tác phẩm trinh thám truyền thống, nhà văn bằng cách
này hay cách khác sẽ đưa ra đáp số cuối cùng cho câu chuyện. Bộ ba New
York không đưa ra một cái kết hồn tất. Khép lại chuỗi hành trình của nhân
vật, các sự kiện trong tiểu thuyết Paul Auster phá vỡ nguyên tắc đặt mọi
chuyện trong bối cảnh của một sự thật cuối cùng.
3.2. Thám tử trên hành trình kiếm tìm bản ngã
3.2.1. Bản ngã trong thế giới ngẫu nhiên
Cái ngẫu nhiên là những sự kiện xảy ra vượt ngồi tầm kiểm sốt của
con người. Đây là một trong những vấn đề ám ảnh trong tiểu thuyết của
Paul Auster. Cái ngẫu nhiên xuất hiện trong bộ tiểu thuyết phản trinh thám
đã phủ nhận triệt để sức mạnh của lí lẽ và các mối quan hệ nhân quả.
Cả ba tác phẩm mở đầu tình huống trinh thám bằng những sự kiện
ngẫu nhiên mà các nhân vật của sự kiện ấy đều khơng ý thức hết được tính

chất phức tạp của nó. Dưới tác động của chuỗi sự kiện ngẫu nhiên, tính
thống nhất trong sự phát triển cá tính của nhân vật bị phá vỡ.
Bằng những con đường khác nhau, các thám tử của Paul Auster đều
tình cờ bước vào một khơng gian giống nhau: khơng gian căn phịng kín.
Đây vốn là motif phổ biến trong truyện trinh thám mà Edgar Poe mở màn từ
Vụ giết người ở phố Morgue. Tuy nhiên, nếu trong truyền thống trinh thám,


15

motif này gắn liền với tội ác bí ẩn thì đến Bộ ba New York, nó lại trở thành
khơng gian để nhân vật được phiêu lưu trong thế giới nội tâm của chính
mình. Trong căn phịng ấy, nhân vật có điều kiện trải nghiệm nỗi cơ đơn
phận người. Đó là nơi họ nhìn thấy chính mình, cũng là nơi họ được tái sinh
trên hành trình cơ độc. Căn phịng khép kín đồng thời là một ẩn dụ về việc
viết lách. Trong khơng gian riêng tư và kín đáo này, các thám tử viết nên
những câu chuyện và tìm thấy cái tơi của mình trong sự viết lách ấy.
Hình tượng thám tử trong tiểu thuyết Paul Auster trở thành ẩn dụ của
quy luật sự lựa chọn ngẫu nhiên đem lại những ngã rẽ cho số phận, là biểu
tượng của nỗi mong manh bản thể, phận người. Nhà văn hướng con người
đến việc chấp nhận nó như một tất yếu. Đó là cách chúng ta thích nghi với
thực tế hiện tồn nhiều dâu bể, thậm chí bất trắc.
3.2.2. Bản ngã qua gương chiếu tha nhân
Trong thế giới vô thường, nhân vật của Paul Auster chỉ có thể trải
nghiệm sự tồn tại của mình thơng qua một người khác. Ở Bộ ba New York,
tình huống gặp gỡ xuất hiện theo dạng thức cái ngẫu nhiên. Quá trình
khám phá bản ngã của hình tượng thám tử không tách khỏi gương chiếu
của những nhân vật song trùng.
Bản chất của gương chiếu tha nhân trong tiểu thuyết Paul Auster lại
phản ánh nỗi cô đơn phận người. Mối liên hệ giữa một người với một

người khác không thể nhận biết thông qua tiếp xúc trực tiếp mà chỉ có thể
nhận biết được trong sự cơ đơn. Thậm chí, dù tồn tại giữa nhiều người thì
mỗi người cũng chỉ có thể sống cuộc đời đích thực duy nhất là những gì
diễn ra ở bên trong cõi nội tâm sâu thẳm. Bản thân cõi nội tâm ấy lại là
một mê trận – cái mê trận mà có đi đến hết đời con người cũng chẳng thể
nào vượt thoát ra được. Ngẫm lại, mê lộ phức tạp nhất khiến con người ta
mắc kẹt hóa ra lại là chính mình.
*
Trong truyện trinh thám, hình tượng thám tử được xây dựng bao giờ
cũng gắn liền với một câu chuyện bí ẩn về những vụ phạm tội, với hành
trình điều tra kiếm tìm lời giải… Ở Bộ ba New York, hành trình thám tử giải
mã điều bí ẩn khơng cịn đơn thuần là cuộc kiếm tìm thủ phạm mà chuyển
hóa và nối dài hành trình truy tìm bản ngã khơng hồi kết.


16

Trên hành trình truy tìm điều bí ẩn, chúng tơi chú ý đến nhân vật
trong những mối quan hệ đặc thù. Tuy nhiên, điểm đặc biệt trong cuộc truy
tìm ấy là khơng có gì được xây dựng trên cơ sở thực tế chắc chắn giúp nhà
thám tử phát huy khả năng tư duy logic. Tác giả sử dụng quá trình truy tìm
để thể hiện sự bất khả trong việc kiếm tìm sự thật. Hành trình ấy là sự lạc
lối trong mê cung trí tuệ, yếu tố may rủi ngẫu nhiên phủ nhận không
thương tiếc khả năng suy lý của con người.
Các thám tử trong Bộ ba New York liên tục vận động trên con đường
hình thành và phủ định cái tơi dù sự vận động đó có thể nằm ngồi ý thức
nhân vật. Thái độ bình thản chấp nhận sự tha hóa như là một yếu tố tất nhiên
của đời sống đã mang lại cho bộ tiểu thuyết tinh thần hậu hiện đại: tinh thần
chơi với cái vô nghĩa thay vì cố gắng tạo ra nghĩa cho thế giới vơ nghĩa.
Chương 4

CỐT TRUYỆN PHẢN TRINH THÁM
TRONG BỘ BA NEW YORK
Cốt truyện, theo định nghĩa của từ điển Oxford, là dàn ý hay phác họa
các sự kiện trong một cuốn tiểu thuyết hoặc một vở kịch. Khi bàn về truyện
trinh thám, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, thể loại văn học này đứng bên
ngoài xu hướng đổi mới cốt truyện của văn học đương đại. Nó vẫn diễn
biến tuần tự qua các chặng mở đầu, phát triển, kết thúc. Song chúng tơi cho
rằng, quan điểm này khơng cịn phù hợp với những sáng tác phản trinh
thám. Ở truyện phản trinh thám, mơ hình ba phần truyện kể bị vi phạm.
Cái đích tác phẩm hướng tới không phải là giải mã điều bí ẩn. Đến chung
cục, bạn đọc có khi lại đối mặt với vơ vàn bí ẩn mới mà nhà văn mở ngỏ
trong truyện kể.
Điểm đặc biệt ở đây là, nếu như truyện trinh thám có một mơ hình
cốt truyện chung để nhà văn xây dựng nên những câu chuyện trinh thám
riêng thì ở truyện phản trinh thám, mỗi nhà văn lựa chọn một mơ hình cốt
truyện khác nhau. Với Paul Auster, chúng tôi nhận thấy hai điểm nhấn mà
nhà văn sử dụng để xây dựng cốt truyện phản trinh thám là siêu hư cấu và
liên văn bản. Nguyễn Thị Thanh Hiếu trong luận án Đặc trưng bút pháp


17

hậu hiện đại trong tiểu thuyết Paul Auster nhận định siêu hư cấu và liên
văn bản là hai chiến lược tổ chức nghệ thuật quan trọng nhất trong sáng
tác của Paul Auster. Có thể nói, siêu hư cấu và liên văn bản trở thành
xuất phát điểm cho những hướng nghiên cứu khác nhau. Nếu Nguyễn
Thị Thanh Hiếu coi siêu hư cấu và liên văn bản như là cách thức bộc lộ
cảm quan hậu hiện đại của nhà văn thì chúng tôi tiếp cận những thủ pháp
này trong Bộ ba New York để làm rõ nghệ thuật phản trinh thám của
Paul Auster trên bình diện cốt truyện. Ở đây, siêu hư cấu phá vỡ cấu trúc

truyền thống của cốt truyện trinh thám và liên văn bản kiến tạo nên một
kiểu cốt truyện mới: cốt truyện đa tuyến.
4.1. Siêu hư cấu như là nghệ thuật mờ hóa cốt truyện trinh thám
Là thuật ngữ của văn chương hậu hiện đại, siêu hư cấu được dùng để
gọi tên loại tiểu thuyết về tiểu thuyết, hư cấu trong hư cấu, ở đó, tác phẩm
như một trị chơi ngơn ngữ trình bày về chính cách chơi của nó. Nhà văn
kiêm vai trị của tác giả và độc giả, cố tình bỏ ngỏ những cái kết để mở ra
nhiều hướng tiếp nhận…
Tiểu thuyết phản trinh thám của Paul Auster là sự tập hợp tinh vi
những trang văn viết theo lối xóa nhịa ranh giới giữa hiện thực và hư cấu.
Đó cũng là yếu tố góp phần phá vỡ tính đơn nhất của cốt truyện, chuyển
quyền quyết định ẩn số câu chuyện từ nhà văn sang bạn đọc. Để tạo nên tính
siêu hư cấu, nhà văn xây dựng mơ hình người kể chuyện nhiều tầng bậc, kiến
tạo cấu trúc mở, đặt vấn đề mối quan hệ giữa tác giả và tác phẩm trong chủ
đích mờ hóa tác quyền truyện kể...
4.1.1. Mơ hình người kể chuyện nhiều tầng bậc
Người kể chuyện là một trong những phạm trù cơ bản của tự sự học.
Đây là hình tượng hư cấu của nhà văn để tổ chức văn bản, điều khiển các
tình huống, dẫn dắt câu chuyện. Ở Bộ ba New York, Paul Auster cố tình
xóa nhịa chủ thể phát ngơn trong truyện kể. Hình ảnh của tác giả dần biến
mất, độc giả bị cuốn hút vào việc đọc, cố gắng để lấp đầy những khoảng
trống và tìm kiếm sự liên hệ giữa các hiện thực khác nhau.
Với kiểu truyện lồng trong truyện, người kể đóng vai trị là người kể
lại câu chuyện của người khác, Thành phố thủy tinh có hai người kể, thứ
nhất, đó là Quinn – người tự kể lại câu chuyện của mình trong cuốn sổ đỏ,


18

thứ hai, đó là “tơi” – người kể lại câu chuyện của Quinn từ cuốn sổ đỏ tìm

thấy được. Giống Thành phố thủy tinh, Những bóng ma tồn tại hai người
kể chuyện. Gần như xuyên suốt tác phẩm, người kể chuyện ở vị trí ngơi
thứ ba số ít quan sát, kể lại câu chuyện của Blue. Căn phịng khóa kín được
trần thuật bởi người kể chuyện ngôi thứ nhất xưng “tôi” ngay từ đầu truyện
kể. Mạch truyện đan cài bởi hai câu chuyện chính, một là câu chuyện về
cuộc đời “tôi”, hai là câu chuyện của Fanshawe. Fanshawe không hiện
diện trực tiếp cho đến gần cuối tác phẩm, tuy nhiên, cuộc đời và những câu
chuyện của Fanshawe, về Fanshawe là cái cớ cho tồn bộ mạch truyện
được duy trì, phát triển.
Kiểu truyện lồng trong truyện tạo ra một truyện kể nhiều tầng bậc.
Hình thức này khá phổ biến trong văn học trinh thám, bắt nguồn từ truyện
của Edgar Poe và được kế thừa phát triển trong những sáng tác của Conan
Doyle, Christie… Mục đích của việc tạo dựng cấu trúc truyện trong
truyện là hướng đến khẳng định tính chân thực của sự việc được kể.
Đến Bộ ba New York, cách thức tổ chức truyện trong truyện đẩy cái
mục đích về tính chân thực ấy đi xa hơn, tạo ra ấn tượng cuộc sống tự nó
giống như một văn bản. Cuộc đời trở thành văn chương với tất cả sự trần
trụi, thơ ráp của nó; khơng sắp xếp, khơng chỉnh sửa. Sự ghi chép của nhân
vật dừng lại ở đâu, người kể chuyện dừng lại ở đó; khơng có bàn tay can
thiệp của tác giả để đi tới điểm hoàn kết các sự kiện.
4.1.2. Cấu trúc mở trong truyện kể
Cấu trúc mở tạo ra một hệ thống những ký hiệu có thể được diễn
dịch ra đến vô tận. Cốt truyện Bộ ba New York đưa người đọc vào trạng
thái mơ hồ khi đứng trước lời giải của vấn đề, các sự kiện ngày càng tối
nghĩa, các nhân vật đi vào trang viết mà khơng được giải thích, và truyện
kể hóa ra lại khơng có chuyện.
Truyện phản trinh thám của Paul Auster bỏ lửng “nhiều cái để nói” trên
hành trình hướng đích của các nhân vật. Nhà văn không đem lại cho độc giả
một tác phẩm với một cốt truyện, một sự khởi đầu, một xung đột, một cách
giải quyết vấn đề và một kết thúc. Thay vào đó, con chữ cuối cùng đóng lại

cuốn sách đồng thời mở ra khả năng mới để vấn đề lại bắt đầu được giải mã,
không phải bởi nhà văn, cũng không phải bởi nhân vật mà bởi chính độc giả.


19

4.1.3. Quan hệ tác giả – tác phẩm và vấn đề tác quyền truyện kể
Truyện trinh thám, như Van Dine tổng kết, có sự đối ứng: tác giả :
độc giả = tội phạm : thám tử. Nhà điều tra (và cả bạn đọc) lần theo các
manh mối của kẻ phạm tội (cũng là những chỉ dẫn mà tác giả đưa ra trong
truyện kể) để tìm lời giải đáp cho những điều bí ẩn. Trong bộ ba tác phẩm
của Paul Auster, mối quan hệ giữa nhà văn với nhân vật và người kể
chuyện cắt rời sự liên hệ giữa các hiện thực khác nhau, tạo thành mê trận
của những ranh giới.
Tác giả truyện kể ở Bộ ba New York đã “chết” như cách diễn đạt của
Roland Barthes về vai trò của tác giả trong trần thuật hậu hiện đại. Nhà
văn tự phủ nhận vai trị sáng tạo của mình. Trong truyện kể, ranh giới văn
bản giữa các tập truyện dần biến mất. Nhân vật thừa nhận anh ta là tác giả
của chính tập truyện đang kể về mình... Paul Auster tạo ra một kiểu siêu
hư cấu đa tầng với sự thế vị ngơi kể và dịch chuyển liên tục điểm nhìn, sự
tái thiết và phủ nhận không ngừng vị thế tác quyền truyện kể.
Khi các vai khác nhau của cùng hình tượng người kể chuyện không
thể đưa ra cái kết cuối cùng cũng là khi quá trình đọc trở thành quá trình
đồng sáng tạo.
4.2. Liên văn bản như là nghệ thuật đa tuyến cốt truyện
Liên văn bản là thuật ngữ được Julia Kristeva đề xuất để nói về mối
quan hệ của một văn bản với những văn bản khác. Theo tinh thần liên văn
bản, mỗi văn bản khi được sáng tạo và tiếp nhận đều chịu sự chi phối của
nhiều văn bản khác. Theo đó, cốt truyện khơng bao giờ đơn nhất mà sẽ
được đọc theo nhiều hướng khác nhau bằng kinh nghiệm liên văn bản của

độc giả.
Trong bộ tiểu thuyết phản trinh thám của mình, Paul Auster nối kết
các loại văn bản bằng nhiều hình thức khác nhau: trích dẫn văn bản, trích
dẫn sự kiện, trích dẫn giai thoại, thậm chí, sử dụng hình thức ký hiệu phi
ngơn ngữ… Với cấu trúc liên văn bản như vậy, câu chuyện của Paul
Auster tham chiếu tới nhiều vấn đề của xã hội hậu hiện đại. Ở đây, chúng
tôi đọc cấu trúc liên văn bản trong Bộ ba New York với những vấn đề mà
chúng tôi cho rằng đậm nét nhất, ám ảnh nhất, đó là câu chuyện ngơn ngữ
và câu chuyện văn hóa Mỹ.


20

4.2.1. “Bộ ba New York” và câu chuyện ngôn ngữ
Ngôn ngữ là một trong những chủ đề xuyên suốt Bộ ba New York. Từ
biểu tượng tháp Babel, Paul Auster đặt ra vấn đề hồi nghi ngơn ngữ.
Khơng có cùng những nền tảng như nhau, mỗi người có thể bị khép kín
trong một ngơn ngữ riêng. Con người thậm chí bị đẩy ra ngồi ngơn ngữ
của chính mình.
Cách nhìn về ngơn ngữ liên quan mật thiết với quan niệm của Paul
Auster về hoạt động sáng tạo nghệ thuật. Viết một tiểu thuyết giống như
tạo ra một thế giới bằng ngôn ngữ. Cơ sở của thế giới không cố định, vậy
nên thế giới cũng khơng thể có một dạng cố định. Hiện thực là những hình
ảnh được tạo nên thơng qua ngơn ngữ. Ngay cả ký ức cũng chỉ thuần túy là
trò chơi của các ký hiệu ngôn ngữ.
4.2.2. “Bộ ba New York” và câu chuyện văn hóa Mỹ
Tập hợp dưới cái tên The New York Trilogy, bộ ba tiểu thuyết của
Paul Auster chủ yếu xoay quanh không gian New York. Thành phố ấy
không chỉ là bối cảnh để nhân vật suy nghĩ, hành động mà cịn là khơng
gian gợi nhắc những sự kiện văn hóa làm nên một nước Mỹ dù không dài

về thời gian nhưng vẫn độc đáo về thành tựu.
Từng con phố, tòa nhà, từng tượng đài, cây cầu… đi vào Bộ ba New
York đồng thời gắn với những sự kiện, giai thoại độc đáo. Cùng với đó,
giai thoại về các nhà văn Mỹ xuất hiện ngẫu hứng trong truyện kể của Paul
Auster ám chỉ không ngừng tới quan niệm của tác giả về thế giới, con
người, nghệ thuật.
*
Xuất phát từ đặc trưng cốt truyện trinh thám với cấu trúc dramatic,
chúng tôi minh chứng sự đổi mới trong cách thức tổ chức cốt truyện ở Bộ
ba New York của Paul Auster qua những thủ pháp nghệ thuật được sử dụng
để phá vỡ cấu trúc cổ điển ấy. Siêu hư cấu, liên văn bản như là những điểm
nhấn về hình thức, kỹ thuật để từ đó, nhà văn thể hiện sự trăn trở về các vấn
đề của hiện thực đời sống đương đại.
Siêu hư cấu với chủ đích xóa nhịa ranh giới giữa văn chương và
cuộc đời đã phủ nhận tính thống nhất nhận thức trong Bộ ba New York của
Paul Auster. Bằng sự sáng tạo nên những câu chuyện “lồng” trong “cái


21

lồng” truyện kể, bằng sự bỏ ngỏ các sự kiện trinh thám, bằng sự nhập nhằng
ranh giới giữa các chủ thể sáng tạo, Paul Auster mở ra nhiều khả năng khác
cho cốt truyện ngồi tiến trình mở đầu, phát triển, kết thúc. Người đọc bị
lôi kéo vào lớp lớp sự hư cấu để tự trải nghiệm câu chuyện trong trạng thái
chưa hoàn tất như bản thân cuộc sống.
Tập trung vào những chủ đề ám ảnh trong Bộ ba New York thông qua
kỹ thuật liên văn bản, chúng tôi khẳng định một lần nữa: cốt truyện trinh
thám không phải là cái đích của tiểu thuyết phản trinh thám Paul Auster.
Gài vào truyện kể những sự kiện, giai thoại, văn bản đã tồn tại trước đó,
Paul Auster nói với bạn đọc về tình trạng gãy vỡ, dập vụn của ngơn ngữ, về

những giá trị văn hóa độc đáo của vùng đất Tân Anh quốc. Truyện kể tháo
dỡ tất thảy những gì được trình bày như một vĩ mơ, một chỉnh thể, một siêu
truyện. Ở đó, câu chuyện được ghép lại từ những mảnh vỡ hiện thực.
KẾT LUẬN
1. Todorov khi bàn về truyện trinh thám đã đặt nó trong mối quan hệ
với vấn đề thể loại. Ông khẳng định, một kiệt tác lớn thường sáng tạo nên,
theo cách nào đấy, một thể loại mới, đồng thời cũng vi phạm các quy tắc
của thể loại vẫn lưu hành trước đó; tức một tác phẩm lớn xác định thực tế
của hai chuẩn mực: chuẩn mực của thể loại mà nó vi phạm và chuẩn mực
của thể loại do nó sáng tạo. Todorov xếp truyện trinh thám ra ngồi quy luật
chung ấy. Ơng nhấn mạnh: kiệt tác của tiểu thuyết trinh thám là cuốn sách
tuân theo các quy tắc thể loại đã định hình. Chúng tơi cho rằng quan điểm
của Todorov đã khơng cịn phù hợp với truyện phản trinh thám. Khơng gị
mình trong những quy tắc có sẵn của thể loại trinh thám, mỗi nhà văn phản
trinh thám lựa chọn một con đường khác nhau để kiến tạo tác phẩm. Bộ ba
New York của Paul Auster là biểu hiện sống động của sự không phù hợp
giữa những khái niệm đã định hình với thực tiễn sáng tác. Để minh chứng
sự “trật khớp” giữa những nguyên tắc vốn ổn định của truyện trinh thám và
sự phá vỡ những nguyên tắc đó trong tiểu thuyết Paul Auster, chúng tôi xác
định nền tảng lý thuyết thể loại văn học trinh thám, từ đó tập trung vào
những điểm nhấn độc đáo trong nghệ thuật tự sự của Paul Auster.


22

2. Bắt đầu từ Edgar Allan Poe, truyện trinh thám đã nâng lên tầm văn
học để từ đó đến nay, sau gần 200 năm tồn tại và phát triển, nó làm nên
lịch sử thể loại qua nhiều thế hệ nhà văn. Song hành với chặng đường gần
200 năm đó, truyện trinh thám cũng nhận nhiều luồng ý kiến đánh giá phê
bình, có thể nói là ngược chiều. Trải qua nhiều loại hình, truyện trinh thám

từ trinh thám cổ điển đến trinh thám đen, trinh thám chính trị, trinh thám
tâm lý vẫn gặp gỡ ở một điểm đặc trưng mà chúng tơi coi là tiêu chí để
nhận diện văn học trinh thám, đó là tính định hướng độc giả. Giải mã điều
bí ẩn bao giờ cũng là đích đến của thể loại văn học này. Nó chi phối cách
thức nhà văn xây dựng cốt truyện và nhân vật. Truyện phản trinh thám,
theo chúng tơi, là một tiểu loại trong tiến trình phát triển của thể loại văn
học trinh thám. Nếu từ khái niệm “kịch” xuất hiện khái niệm “phản kịch”,
từ khái niệm “nhân vật” xuất hiện khái niệm “phản nhân vật” thì từ khái
niệm “truyện trinh thám” cũng xuất hiện “truyện phản trinh thám”. Đó là
bằng chứng của sự đổi mới trong hoạt động sáng tạo. Trong bối cảnh hậu
hiện đại, khi một số tiểu thuyết gia đã phát triển kỹ thuật kể chuyện, phá
vỡ những “luật lệ” của tiểu thuyết trinh thám, hình thành một văn phong
mới thì văn học phản trinh thám khơng cịn thuần túy là sự kích thích vào
tâm lý đám đơng từ những tình tiết vụ án li kỳ và hành trình điều tra gay
cấn. Cốt truyện bị phá vỡ cấu trúc đóng truyền thống với diễn biến qua các
chặng mở đầu, phát triển, kết thúc; nhân vật trật ra khỏi quỹ đạo giải mã
điều bí ẩn với khả năng suy lý, hành động. Tác phẩm đòi hỏi khắt khe kinh
nghiệm thẩm mỹ của độc giả trong q trình giải mã những thơng điệp
nghệ thuật, nhân sinh mà nhà văn gửi vào truyện kể. Tiểu thuyết phản trinh
thám, vì vậy, đã rời khỏi khu vực văn chương đại chúng để khẳng định vị
thế của mình ở bộ phận văn chương bác học. Tại Việt Nam, văn học trinh
thám chưa được nhìn nhận như một thể loại độc lập. Thay vì tập trung vào
bài tốn trí tuệ, các nhà văn thường xuyên gắn câu chuyện vụ án với những
phân tích tâm lý, xã hội. Điều này phần nào phản ánh quan niệm, tư duy
của người Việt Nam.
3. Nói tới nhân vật trong văn học trinh thám là nói tới hình tượng thám
tử. Anh ta là cơ sở để xác định sự tồn tại của một câu chuyện trinh thám và
qua đó, nhà văn xây dựng các nhân vật khác qua mối quan hệ cặp đôi: cặp



23

đôi thám tử – nạn nhân, cặp đôi thám tử – tội phạm, cặp đôi thám tử –
người đồng hành... Ở Bộ ba New York, chúng tôi nhấn mạnh sự giễu nhại
hình thức truyện trinh thám qua việc xây dựng kiểu nhân vật thám tử đa
diện. Tái hiện nhân vật qua các mối quan hệ đặc thù, hành trình khám phá
của thám tử trong tiểu thuyết Paul Auster đã không diễn ra theo những
nguyên tắc suy luận logic. Nhà văn đặt thám tử vào hành trình giải mã điều
bí ẩn, tuy nhiên, đó khơng phải là mục tiêu mà tác phẩm hướng tới. Hành
trình vọng ngoại của nhân vật chuyển hóa liên tục vào q trình khám phá
bản thể. Vấn đề cái tơi và sự bất định của nó trong một thế giới đầy các
yếu tố ngẫu nhiên, trong sự soi chiếu không ngừng từ một cái tôi khác trở
thành điểm nhấn ở bộ tiểu thuyết phản trinh thám của Paul Auster.
4. Bàn về cốt truyện, nhiều ý kiến cho rằng văn học trinh thám nằm
ngoài xu thế đổi mới. Nó vẫn duy trì kiểu cốt truyện truyền thống với
những quan hệ nhân quả chặt chẽ giữa các sự kiện hướng tới điểm hồn
kết. Chúng tơi khẳng định, truyện phản trinh thám đã hòa nhập vào xu thế
đổi mới cốt truyện của văn chương đương đại. Siêu hư cấu và liên văn bản
là hai lựa chọn quan trọng giúp Paul Auster phá vỡ thế độc tơn của hành
trình giải mã điều bí ẩn trong tổ chức cốt truyện. Bằng thủ pháp siêu hư
cấu, tác giả đã tráo đổi những khía cạnh thực, hư trong tác phẩm. Người kể
chuyện khẳng định câu chuyện men theo sự thật được chính người trong
cuộc ghi chép lại, các vai kể khác nhau lại hướng người đọc đến một kết
luận duy nhất: khơng có gì là thật ngồi sự hư cấu của chính nhà văn.
Cùng với sự thế vị ngôi kể, tạo dựng cấu trúc mở và tung hỏa mù về tác
quyền truyện kể, cấu trúc truyện trinh thám bị phân rã, hoạt động đọc trở
thành hoạt động đồng sáng tạo. Thủ pháp liên văn bản xuất hiện liên tục và
công khai trong Bộ ba New York tạo nên kiểu cốt truyện đa tuyến hướng
tới nhiều chủ đề khác nhau. Cũng như siêu hư cấu, liên văn bản không
phải là một thủ pháp kỹ thuật thuần túy. Chúng trở thành phương tiện

chuyển tải những quan điểm mỹ học hậu hiện đại của nhà văn.
5. Ở Việt Nam, nghiên cứu về Paul Auster và truyện trinh thám cơ bản
vẫn là một hướng đi nhiều tiềm năng. Trên cơ sở thực hiện đề tài, chúng tơi
thấy có nhiều triển vọng cho những hướng nghiên cứu khác nhau về các đối
tượng này. Bộ ba New York là sự kế thừa sáng tạo những thành tựu không


×