Tải bản đầy đủ (.docx) (95 trang)

đặc điểm nghệ thuật thơ thanh thảo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (481.05 KB, 95 trang )

A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1. Thanh Thảo (1946), tên khai sinh là Hồ Thành Công, ông là một trong
những nhà thơ trẻ thuộc thế hệ những nhà thơ bước ra từ cuộc kháng chiến chống
Mĩ. Bằng tài năng và tâm huyết của mình, Thanh Thảo đã sớm khẳng định một
phong cách thơ độc đáo, đem đến cho nền thi ca dân tộc một cách tiếp cận, sáng
tạo mới lạ. Ông là một trong những nhà thơ có tầm ảnh hưởng lớn lao và có nhiều
đóng góp quan trọng trong nền thi ca hiện đại Việt Nam.
2. Thơ ông luôn là sự kết hợp hài hòa giữa chủ nghĩa tượng trưng, siêu thực
phương Tây và truyền thống thơ ca Dân tộc, tạo ra những tác phẩm độc đáo rất cá
tính, rất Thanh Thảo. Thanh Thảo là một nhà thơ không ngừng tiếp cận những
trào lưu văn học mới, ở ông luôn có sự tìm tòi, sáng tạo không ngừng nghỉ. Dấu
ấn của chủ nghĩa hiện đại và khuynh hướng thơ tượng trưng, siêu thực luôn được
khắc họa đậm nét trong các sáng tác của ông, tạo nên một “tiếng vang” trong
làng thơ Việt Nam. Điều đó khiến cho các sáng tác của ông càng ngày càng đến
gần hơn với hơi thở của thơ ca đương đại.
3. Điều đặc biệt ở nhà thơ Thanh Thảo là lối tư duy “vệ tinh” và thủ pháp tạo
ra những “không gian rỗng”, khoảng trắng, khoảng mờ, mở ra nhiều trường liên
tưởng đã làm lạ hóa diện mạo thơ đương đại và cũng để lại nhiều ám ảnh và suy tư
cho người đọc bởi lối thơ hình tượng mới lạ, nhưng lại tạo được cảm giác hứng
thú, say mê để độc giả cùng tham gia đồng sáng tạo với nhà thơ. Chính vì thế, tìm
hiểu và đánh giá thơ ca Thanh Thảo là một điều vô cùng thú vị và cần thiết, bởi lẽ
rất khó để có thể nhận định được một cách chính xác về phong cách thơ độc đáo
của ông chỉ bằng một vài ý kiến, mà phải được xem xét trên nhiều phương diện
nghệ thuật dưới cái nhìn đa chiều, đa góc cạnh.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Hiện nay, cũng đã có một vài nghiên cứu về những khía cạnh nghệ thuật của
thơ Thanh Thảo. Những vấn đề nghiên cứu, bàn luận về nghệ thuật thơ ca và
1
phong cách sáng tạo độc đáo của Thanh Thảo không phải là quá mới, bởi khi vừa
mới xuất hiện trên thi đàn, cả thơ ca và con người độc đáo ấy đã trở thành một


“hiện tượng” vô cùng thú vị, do đó có rất nhiều nhà nghiên cứu và phê bình văn
học nghiên cứu về thơ Thanh Thảo, đặc biệt phải kể đến: Nguyễn Trọng Tạo,
Trần Mạnh Hảo, Trần Đình Sử, Bích Thu, Đăng Xuyền, Trần Ngọc Thảo…
Nguyễn Trọng Tạo trong công trình nghiên cứu Văn chương cảm và luận khi
khảo sát trường ca sau năm 1975 đã đề cập đến thơ Thanh Thảo là một “Hồn thơ
ẩn chứa một tâm trạng sâu kín và dữ dội”[2]. Với bài Chợt ghi về mấy nhà thơ
cùng thời ông cũng phát hiện và nhấn mạnh đến sự bí ẩn, độ mơ hồ và mờ nhòe
về nghĩa trong thơ Thanh Thảo: “Thơ anh không sờ mó được. Nó là tia chớp từ
trời cao làm hiện lên lung linh tất cả sự vật xung quanh ta vốn chìm trong bóng
tối bí mật, rồi vụt tắt sau những khoảng tối”[2].
Trong bài Suy nghĩ mới về nhân dân trong Những ngọn sóng mặt trời của
Thanh Thảo hai tác giả Trần Đình Sử và Trần Đăng Xuyền khẳng định rằng:
Thanh Thảo đã “sáng tạo ra một quan niệm thẩm mĩ mới về con người và cuộc
đời, chứ không phải chỉ giản đơn miêu tả hiện thực mới”[24]. Trong Mấy ghi
nhận về thế hệ các nhà thơ trẻ thời kì chống Mỹ, Đăng Xuyền lại tiếp tục khẳng
định rằng: “Thanh Thảo phóng khoáng, tài hoa mà giàu những suy tư”[28].
Đánh giá về thơ và con người nhà thơ Thanh Thảo, trong bài Viết lại chiến
tranh trong thời bình, Nguyễn Thuỵ Kha phát hiện, sau xuất hiện thành công ban
đầu, Thanh Thảo “không chững lại trước những phạm vi hiện thực mới, từ “cái
tôi từng trải, cái tôi chứng kiến” chuyển sang “cái tôi nhập cuộc cái tôi hoá
thân”[14]. Còn đối với Trần Mạnh Hảo, trong bài nghiên cứu Có một thời đại
mới trong thơ ca cũng cho rằng: “Thơ của ông ít chất tài hoa nhưng bù lại, ông
rắn và chắc, trầm và lặng, góc cạnh và tinh tế”[12].
Võ Vĩnh Khuyến trong Thơ và Trường ca Thanh Thảo, từ trực giác đến
chiêm nghiệm cũng phát hiện cá tính không giống ai, không thể lẫn lộn với bất kỳ
ai trong thơ ông: “Thơ Thanh Thảo không chỉ có khả năng gợi lên những cảm
xúc vi diệu của hồn người, thơ anh chủ yếu khơi dậy, định hướng, gợi mở những
2
nghĩ suy, đặt con người trước những vấn đề cần lý giải bằng những tư duy, suy
tưởng khoa học, qua đó rút ra những luận đề về ý nghĩa nhân văn, nhân

bản”[15].
Còn với Khối vuông rubic và hình tượng tư duy thơ của Thanh Thảo, Đông
Hải lại tiếp tục phát hiện ra sự thần bí, mơ hồ trong thơ, tư duy thơ và sự cống
hiến của Thanh Thảo: “Thực mà ảo, mê mà tỉnh, chỉ định mà vô định…, đọc thơ
Thanh Thảo chúng ta có cảm giác như thơ anh đang cháy sáng, đang rừng rực
một màu hồng kết tủa trên từng đối tượng phản ánh, ở đó, xúc thơ khúc xạ loang
loáng như một đường gươm, cuối cùng đưa người đọc đến một niềm tin vốn có
mà mới lạ như chưa tồn tại bao giờ”[11].
Có thể nói, Thanh Thảo xuất hiện không chỉ là một hiện tượng lạ mà còn là
một khối rubic đầy những bí ẩn, khiến người ta muốn tìm tòi, khám phá, và càng
tìm tòi khám phá bao nhiêu thì càng tiếp tục bắt gặp những bí ẩn nhỏ lẻ vô cùng
thú vị và hấp dẫn. Chính vì thế mà hành trình nghiên cứu và cảm nhận thơ Thanh
Thảo không chỉ dừng lại ở những công trình nghiên cứu, luận bàn của các nhà
nghiên cứu văn học trong nước, mà thậm chí còn tạo nên một lực hấp dẫn, cuốn
hút vô cùng lớn đối với các nghiên cứu gia nước ngoài.
Tiêu biểu có nhà thơ Boey Kim Cheng người Australia, trong bài viết Thơ
Thanh Thảo “Chống lại ngày quên lãng”, đã đề cập đến việc phát hiện ra một
khả năng đặc biệt và có giá trị lớn lao của thơ Thanh Thảo, đó là khả năng:
“chống lại ngày quên lãng”. Theo nhà nghiên cứu, để có được khả năng này, thơ
Thanh Thảo phải đạt giá trị cao trên mọi phương diện, bởi: “Ở một đất nước chìm
đắm quá lâu trong quá khứ đau buồn như Việt Nam, thì tương lai xán lạn hứa hẹn
một sự giải thoát khỏi lịch sử đầy biến cố của nó. Nhưng đây là sự giải thoát
chứa đựng cả nguy cơ quên lãng không chỉ niềm tự hào và quá khứ oai hùng mà
còn cả những truyền thống, những giá trị mà vì chúng đất nước đã phải đấu
tranh. Đó chính là lý do khiến tác phẩm của Thanh Thảo trở thành bất tử”[10].
Đối với các nhà nghiên cứu về thơ, thơ của Thanh Thảo luôn là một quá
trình kiếm tìm những bí mật ẩn chứa chưa bao giờ ngừng nghỉ và cũng chưa bao
3
giờ thiếu sự cuốn hút; nên để thuận tiện và có thể nghiên cứu một cách chu toàn
thì các nhà nghiên cứu thường chia nhỏ vấn đề và đào sâu vào một vài khía cạnh

cụ thể thuộc những yếu tố nghệ thuật để giải mã được những bí ẩn độc đáo đáo.
Bởi thơ Thanh Thảo: “Đó là những bài thơ mãnh liệt, đôi khi là cái đẹp khắt khe,
đầy lo ngại” và “Đó còn là thi ca về sự tồn tại, thứ thi ca có thể giành lại ý thức
về cái đẹp trong những trải nghiệm hoang sơ và khủng khiếp nhất”[10]. Mà
những nét độc đáo trong nghệ thuật thơ Thanh Thảo thì vẫn còn rất nhiều những
bí ẩn chưa được khám phá hết, nói cách khác, nghiên cứu về đặc điểm nghệ thuật
thơ Thanh Thảo vẫn đanglà một vấn đề khá rộnglớn và thú vị.
Chính vì thế, với khả năng hạn hẹp của mình, trong việc nghiên cứu đề tài khóa
luận về “Đặc điểm nghệ thuật thơ Thanh Thảo” tôi xin được trình bày những đóng
góp của cá nhân để có thể giúp làm rõ thêm những yếu tố nghệ thuật đặc sắc của một
phong cách thơ đậm chất triết lý, sáng tạo và độc đáo - Thanh Thảo.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Với đề tài “Đặc điểm nghệ thuật thơ Thanh Thảo” khóa luận sẽ khảo sát
qua 4 tập thơ sau năm 1975:
- Trường ca Những người đi tới biển (1977), Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
- Khối vuông Ru bích (1985), Nxb Tác phẩm mới, Hội nhà văn Việt Nam, Hà Nội.
- 123 (2007), Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
- Thanh Thảo 70 (2008), Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài sẽ đi sâu tìm hiểu, có tính khái quát, hệ thống và làm rõ một vài đặc
điểm nghệ thuật của những sáng tác thơ Thanh Thảo, đặc biệt là từ quá trình hình
thành một phong cách thơ mới lạ đến việc cụ thể hóa phong cách trong các sáng
tác của ông, thông qua cả nội dung và hình thức biểu hiện nghệ thuật.
4. Phương pháp nghiên cứu
Với đề tài này, khóa luận sẽ đề cập đến các phương pháp chủ yếu như:
4
- Phương pháp phân tích - đánh giá: Sử dụng phương pháp này để chỉ ra giá
trị thẩm mỹ của những sáng tác, những đặc sắc và sự kết tinh cái đẹp của lối thơ
sáng tạo hình tượng độc đáo của nhà thơ.

- Phương pháp hệ thống: Tìm hiểu thế giới nghệ thuật thơ Thanh Thảo trên
cơ sở tổng thể hàm chứa các yếu tố hình thức, nội dung và thi pháp, nghiên cứu
sự thống nhất và toàn vẹn nội tại của chỉnh thể các sáng tác.
- Phương pháp thống kê - phân loại: Phân tích các sáng tác thơ, từ đó khai
phá được những nét nghệ thuật nổi bật độc đáo và đầy sáng tạo của nhà thơ.
5. Đóng góp của khóa luận
- Khảo sát có hệ thống một vài tập thơ của Thanh Thảo, góp phần khẳng
định toàn diện hơn về những sáng tạo độc đáo của Thanh Thảo, khẳng định những
đặc điểm nghệ thuật độc đáo cùng với sự đổi mới trong tư duy và quan điểm nghệ
thuật của chình nhà thơ nhìn từ cái tôi trữ tình và các phương thức biểu hiện trong
thơ ông.
- Đồng thời khai mở một hướng mới khi nghiên cứu về thơ Thanh Thảo, góp
phần khẳng định vị trí của nhà thơ trong hành trình thơ Việt Nam hiện đại sau
năm 1975.
6. Cấu trúc của khóa luận
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung của khóa luận với đề tài “Đặc
điểm nghệ thuật thơ Thanh Thảo” gồm có 3 chương như sau:
Chương 1. Thơ Thanh Thảo - Hành trình sáng tạo và quan niệm nghệ thuật
Chương 2. Đặc điểm nghệ thuật thơ Thanh Thảo nhìn từ cái tôi trữ tình
Chương 3. Đặc điểm nghệ thuật thơ Thanh Thảo nhìn từ phương thức biểu
hiện
5
B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
THƠ THANH THẢO - HÀNH TRÌNH SÁNG TẠO
VÀ QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT
1.1. Hành trình sáng tạo thơ của Thanh Thảo
1.1.1. Thơ tượng trưng siêu thực và hành trình sáng tạo thơ Thanh Thảo
Chủ nghĩa tượng trưng đặc biệt đề cao cảm giác, tính biểu tượng, sự tương
hợp của các giác quan, tạo ra một thế giới mơ hồ, bí ẩn. Không mô tả khách quan

mà đi sâu khám phá cái bí ẩn vô tận trong tâm hồn con người ở cả tâm thức và
tiềm thức. Còn Chủ nghĩa siêu thực thì lại chủ yếu tìm đến và khám phá những bí
ẩn của thế giới tâm linh trong tiềm thức của con người, là sự pha trộn giữa hư và
thực, mộng ảo và hiện thực khách quan.
Thơ tượng trưng quan niệm giữa vũ trụ và con người có một mối tương
giao, tương hợp diễn ra trên nhiều mặt, có sự tương giao về ý niệm: hư - thực; có
sự tương giao về cảm giác: ánh sáng - bóng tối; có sự tương giao về không gian:
ngang - dọc; có sự tương giao về màu sắc: đen - trắng; có sự tương giao về mùi
vị: trong - ngọt
Thơ siêu thực thường hướng về thế giới vô thức của con người, đề cao cái
ngẫu hứng, ghi chép lại những khoảnh khắc xuất thần của tiềm thức trên cơ sở vứt
bỏ sự phân tích logic, đập tan các gông cùm của lý trí, đạo đức, tôn giáo và chỉ tin
cậy ở trực giác, giấc mơ, ảo giác, ở những linh cảm bản năng và sự tiên tri.
Sự kết hợp giữa Chủ nghĩa tượng trưng và Chủ nghĩa siêu thực đã tạo nên
một khuynh hướng thơ ca độc đáo, mới lạ: Thơ tượng trưng - siêu thực. Và từ
những năm 30 của thế kỉ XX, xu hướng sáng tác thơ theo khuynh hướng Tượng
trưng siêu thực đã chính thức xuất hiện trên thi đàn thơ ca Việt Nam qua sự tiếp
nhận của một lực lượng nhà văn, nhà thơ đông đảo như Bích Khê, Hàn Mặc Tử,
6
Chế Lan Viên… Xu hướng sáng tác này phát triển mạnh mẽ và vượt trội từ sau
năm 1975 với những tên tuổi quen thuộc với độc giả như Dương Tường, Trần
Dần, Lê Đạt Và một trong số những nhà thơ tiếp nhận xu hướng mới lạ đó, đạt
được thành công và dấu ấn sâu sắc trong lòng người đọc không ai khác, chính là
nhà thơ Thanh Thảo.
Hành trình đến với thơ tượng trưng siêu thực của Thanh Thảo trải qua không
ít những biến cố và thăng trầm. Nhưng với đầu óc tinh nhạy, và ý chí tìm tòi, sáng
tạo bền bỉ, Thanh Thảo đã thành công trong việc tiếp nhận những yếu tố độc đáo
của văn học phương Tây, đó chính là khuynh hướng thơ tượng trưng và sự mờ
nhòe, siêu thực.
Xuất phát từ việc nắm rõ được những độc đáo của khuynh hướng thơ tượng

trưng - siêu thực, Thanh Thảo sử dụng biểu tượng như là một cấu tạo hình tượng
đặc biệt để tạo ra những bí ẩn thú vị bằng cách dùng những từ ngữ để gợi lên hình
ảnh mang ý nghĩa. Thế giới hữu hình trong thơ tượng trưng chỉ là hình ảnh, là cái
bóng, là tượng trưng cho một thế giới mà ta không nhìn thấy được, nhưng đó lại
chính là bản thể của thế giới. Phá bỏ mọi yếu tố truyền thống đã ăn sâu vào tâm
thức những thế hệ nhà thơ, mọi sự logic, lý trí, Thanh Thảo đặt niềm tin vào trực
giác, vào những giấc mơ, ảo giác, ở những linh cảm bản năng từ tận sâu chính
trong tâm hồn và tiềm thức của con người. Cho nên, Thanh Thảo ý thức rất rõ trên
con đường hiện đại hóa thơ ca, ông đến với cuộc sống bằng trực giác vì ông hiểu
chỉ có trực giác mới tìm ra cái bí ẩn nằm sau thế giới hữu hình, mới nhìn thấy thế
giới đích thực là cái thế giới không nhìn thấy được.
Thanh Thảo quan niệm: “Bản chất của thơ là thơ ngây, là bất thường, là
xuất kỳ bất ý”[20, tr.76], thơ là con dao găm “Tôi ném vào khoảng trống”,
“nhưng người bị thương lại chính là tôi”[3, tr.5]. Với ông: “Thơ là chữ nghĩa
cũng không là chữ nghĩa, là ý thức mà không phải ý thức, là vô thức mà không
hẳn vô thức. Thơ đúng nghĩa là sự bộc lộ tận cùng của nhà thơ”[17, tr.66], “là
tiếng nói của tâm linh, tiếng nói của sự chiêm nghiệm nhiều khi là cả đời người,
của nhiều đời người”.
7
Quan niệm này chính là nền tảng để Thanh Thảo vững chắc vận hành tiến
trình thơ ông đến với xu hướng tượng trưng, siêu thực. Trên con đường sáng tạo
không mệt mỏi của mình, Thanh Thảo đã không ngần ngại hướng ngòi bút của
mình về phía cuộc sống hiện đại để phát hiện và thể hiện ra trong thơ những ngổn
ngang, những điều mà mắt không muốn nhìn, tai không muốn nghe, và cả những
“bụi bặm” ngập đầy trong cuộc sống với xu hướng trở về với cái tôi cá nhân,
những âu lo của đời sống thường nhật.
Nhưng thơ ông dường như luôn tồn tại một sức sống và tỏa sáng mãnh liệt
có thể làm lu mờ đi chính những bụi bặm, ồn ào bám riết dày đặc ấy. Ông“chống
lại ngày quên lãng”, chiếu rọi, phơi bày “không giống ai” những mảng màu của
quá khứ bằng cách cứ để chúng chìm dần, mờ nhòe đi và lan tỏa trong chính hiện

tại xô bồ, ráo riết với những ranh giới mờ ảo giữa thực và hư, giữa hiện tại và quá
khứ, giữa thế giới hữu hình và tiềm thức. Từ đó, chính độc giả đóng vai là những
nhà khảo cổ học, đào bới những huyền bí, bí ẩn trong từng câu chữ đầy hình
tượng, siêu thực để tìm ra được giá trị đích thực của một nghệ thuật thơ cách tân
độc đáo.
Sự tiếp nhận thơ tượng trưng siêu thực của Thanh Thảo không chỉ dừng lại ở
lớp hình tượng, hình ảnh thơ tạo độ mờ nhòe mà còn được thể hiện thông qua lối
kiến tạo ngôn ngữ mới lạ và huyền bí. Ông viết về những cõi miền của vô thức,
tâm linh thông qua lớp ngôn từ mang đầy tính hình tượng tạo sự mờ nhòe, tương
giao cảm giác, viết như đang mê sảng, nửa tỉnh nửa mê nhưng đầy sáng tạo và
chủ động.
Đàn ghi ta của Lorca là một trong những bài thơ tiêu biểu được sáng tác
theo lối thơ Tượng trưng siêu thực với kết cấu của những vỉa tầng văn hóa Tây
Ban Nha rộng lớn và sự đan xen, chồng chéo giữa màu sắc - âm thanh - hình
khối. Khi sáng tạo lối thơ Tượng trưng - siêu thực, Thanh Thảo đã nắm chắc
những nét văn hóa đã trở thành biểu tượng không thể tách rời trong đời sống Tây
Ban Nha, đó là đàn ghi ta, điệu nhảy Flamenco và đấu bò. Và trên cái nền rộng
lớn ấy, nhà thơ dựng xây vũ điệu bi hùng của cái chết, sự sống và đương nhiên là
8
cả sự bất tử của một con người, một dân tộc qua những mảng màu giao hòa hình
ảnh, màu sắc và âm thanh: “li-la li-la li-la” - là âm thanh của tiếng đàn, nhưng
cũng gợi lên tên loài hoa tử đinh hương (lilac), một loài hoa màu hồng đỏ đằm
thắm mà nhiều người dân Tây Ban Nha ưa chuộng. Trong sắc đỏ của màu hoa và
của tấm áo choàng, hành trình của người nghệ sĩ Lorcahiện lên trước mắt độc giả
vừa ngút ngàn sắc thắm văn hóa vừa cô đơn trên hành trình tìm kiếm chân lý.
Việc sáng tạo ra lớp ngôn từ khơi gợi những hình ảnh giàu tính biểu tượng
tạo ra một thế giới bí ẩn vô tận kết hợp với hành trình tìm tòi, sáng tạo không
ngừng nghỉ của Thanh Thảo đã làm bật lên được sự mờ nhòe, pha trộn cảm giác,
ngôn từ và hình tượng thơ mang đầy những bí ẩn của một thế giới tâm linh con
người và sự kết hợp tinh vi, chuẩn xác giữa thực và ảo.

Bằng lối tư duy vệ tinh hiện đại, Thanh Thảo đã khai thác triệt để chất liệu
ngôn ngữ, tạo cho thơ một màu sắc tượng trưng độc đáo đầy chất siêu thực, tạo
cho thơ một đời sống riêng. Ông có ý thức cách tân một cách tuyệt đối về mặt
ngôn ngữ tạo ra hàng loạt từ ngữ và câu thơ mới lạ có sức gợi cảm mạnh mẽ và
luôn trong tư thế tạo nghĩa, phái sinh cảm xúc, có khả năng phá vỡ hoàn toàn mọi
biên giới để đến với sự tương hợp của mọi giác quan.
1.1.2. Sự đổi mới tư duy trong thơ Thanh Thảo
Thanh Thảo là người ý thức rất sâu sắc về vấn đề khai phá tính sáng tạo, mới
lạ, độc đáo của văn chương, bởi ông hiểu : “Văn chương không cần những người
thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp
những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng
tạo những cái gì chưa ai có” (Nam Cao). Chính vì thế nên thơ ông luôn là sự đổi
mới trên mọi phương diện nhưng trước hết, quan trọng nhất và ấn tượng nhất là
sự đổi mới về mặt tư duy thơ.
Từ quan niệm thơ phản ánh hiện thực, phải viết ra cho được những gì mà
hiện thực cuộc sống có, không tô hồng cuộc sống, mà chỉ có phơi bày những gì
chân thật, sống động nhất. Thanh Thảo đã đến với lối tư duy thơ hiện đại và mới
9
mẻ đầy những khoảng mờ, khoảng lặng và những câu thơ bỏ ngõ lửng lơ. Đó
trước hết là lối tư duy tượng trưng siêu thực.
Thơ Thanh Thảo luôn chứa đầy những ám ảnh, ảo giác, khoảng trống, những
vùng tâm linh mờ nhòe, những mảnh vỡ kí ức hòa quyện với thực tại mông lung,
tâm thức và tiềm thức đan xen. Và trong thơ Thanh Thảo, lối tư duy tượng trưng,
siêu thực đã được ông khai phá một cách triệt để, từ đó tạo nên những hiệu ứng
thẩm mỹ kỳ thú, thi vị cho các sáng tác như các bức họa trừu tượng luôn đòi hỏi
sự khám phá không ngừng nghỉ và một lối tư duy chưa bao giờ cũ. Bởi vì với bản
thân Thanh Thảo: “Thơ là chữ nghĩa cũng không phải chữ nghĩa, là ý thức mà
không phải ý thức, là vô thức mà không hẳn vô thức. Thơ đúng nghĩa là sự bộc lộ
tận cùng của nhà thơ”[17, tr.66].
Chính quá trình tìm tòi và thử nghiệm này giúp ông thực hiện một cuộc hành

trình trong tư duy và phương thức biểu hiện, dần dần dịch chuyển về phía tượng
trưng, siêu thực. Chính hành trình tinh vi này làm cho thơ Thanh Thảo càng trở
nên độc đáo và quyến rũ người đọc hơn, thể hiện đúng và sâu sắc hơn kiểu tư duy
Thanh Thảo - tư duy thơ “vệ tinh”.
Hiện thực trong thơ Thanh Thảo luôn là hiện thực của đời sống xã hội và
hiện thực của tâm hồn con người. Thơ Thanh Thảo phản ánh cuộc sống như
những gì nó vốn có. Nhưng tất cả những mảng màu hiện thực đó đều được ông
pha trộn trong cùng một bảng pha màu đầy chất nghệ thuật, người đọc khi tiếp
nhận các sáng tác của ông đều như có cảm giác rơi vào một mê cung thần bí của
các mảng màu sáng - tối, thực - ảo đan xen. Chính những bức tranh của hiện thực
cuộc sống đôi khi lại gây ra cái cảm giác hư hư thực thực, có chút gì đó rất mơ hồ
và vô cùng khó hiểu. Nhưng một khi đã tìm ra được chiếc chìa khóa vạn năng,
nắm bắt được miền vô thức tâm linh, thì xuyên qua bảng pha màu của hiện thực
cuộc sống đó, chúng ta lại phát hiện ra được đó không chỉ là hiện thực mà còn là
quá khứ, đó không chỉ là cuộc sống được cảm nhận dựa trên một chiều hướng mà
là được soi xét trên mọi phương diện và nhiều trạng thái tâm lý khác nhau…
10
Sự đổi mới tư duy thơ Thanh Thảo là hành trình từ cái tôi hướng ngoại đến
cái tôi hướng nội phức cảm để khám phá tận cùng những trạng thái tâm lý, cảm
xúc khác nhau của con người và sự đa chiều, biến ảo của cuộc sống. Nhà thơ
quan niệm: Tư duy thơ hiện đại là kiểu tư duy có bước nhảy cấu tứ thơ đầy
khoảng lặng tạo nên rất nhiều “không gian rỗng” trong thơ. “Chính ở khoảng
giữa của những câu thơ độc lập tương đối, đã ẩn hiện cái không gian rỗng của
bài thơ, là cái thoạt nhìn, mới đọc cứ ngỡ như không thấy gì, không nói lên điều
gì. Cái kỳ lạ của thơ là ở đó: chữ nương tựa vào không - chữ, chỗ dày rậm cậy
nhờ chỗ trắng trong, không - gian - đặc được cấu trúc lên nhờ không - gian -
rỗng”[18, tr. 80]. Thơ hiện đại “không nhằm vào từng câu thơ” mà nhằm vào
“từng mảng thơ”, “những mảng tối, mảng sáng trong bài thơ đan xen nhau,
những mảng có nghĩa và vô nghĩa đan xen nhau… buộc tiềm thức, vô thức của ta
phải làm việc, buộc ta phải ngụp lặn xuống lòng nước tối, ngụp lặn vào chính

những giấc mơ của ta”[18, tr. 81].
Đó chính là kiểu tư duy tương hợp, đầy những liên tưởng hết sức bất ngờ
và thú vị. Sự tương giao cảm giác trong thơ Thanh Thảo chính là sự kết hợp của
các trạng thái cảm giác thông qua sự liên tưởng bất ngờ, nhiều khi đột biến mà ít
ai có thể tưởng tượng được trước. Điều này đẩy tư duy người đọc xa dần với
những cái cụ thể để đến với địa hạt của những trạng thái phức hợp giữa tâm thức
và tiềm thức, giữa thực và hư, giữa mê và tỉnh để cảm nhận thơ không theo cách
của tư duy duy lý. Chính kiểu tư duy mới mẻ này cho ta bắt gặp trong thơ những
ảo giác, những vùng khuất, vùng mờ tâm linh, những mảnh vỡ ký ức hòa quyện
với thực tại mông lung, tâm thức và tiềm thức đan xen tạo nên trường cảm xúc
siêu đoạn tính và hình ảnh siêu tượng trưng.
Cũng xuất phát từ đội ngũ những nhà thơ trẻ, và là một trong những nhà thơ
chịu ảnh hưởng không nhỏ của các khuynh hướng văn học phương Tây. Trong
thơ Việt Nam hậu hiện đại, Thanh Thảo xứng đáng là một trong những cánh chim
đầu đàn. Chính lối viết tượng trưng, siêu thực, thể thơ tự do và ngôn ngữ thơ đầy
11
hình tượng, mờ nhòe về ý nghĩa đã khiến thơ ông mang đậm hơi thở của một lối
tư duy thơ mang đậm dấu ấn Chủ nghĩa hậu hiện đại.
Thanh Thảo là nhà thơ liên tục đổi mới bút lực của mình. Với lối viết không
tuân thủ cấu trúc thơ truyền thống, những yếu tố thiên về hậu hiện đại như thể thơ
tự do, thơ văn xuôi, liên văn bản… nhà thơ đã chuyển tải được những vấn đề của
đời sống hiện đại, nhịp điệu của thời đại và giọng điệu của nhà thơ hiện đại.
Thuộc tính tự do thể hiện trên mọi bình diện, từ cảm xúc đến tư duy, từ hình
tượng đến cấu tứ, từ ngôn ngữ đến giọng điệu, nhịp điệu.
Mai Bá Ấn đã rất tinh tế nhận xét rằng: Tư duy thơ Thanh Thảo “đã nghiêng
hẳn về lối sáng tác của chủ nghĩa hậu hiện đại. Chính lối tư duy thơ này đã khiến
Thanh Thảo cấu trúc tác phẩm thơ hoàn toàn mở, nhằm “rủ rê” sự tham gia của
người tiếp nhận theo quan niệm “cái chết của tác giả” của chủ nghĩa hậu hiện
đại”[27]. Chúng ta nhận thấy chính cách nhìn về thế giới, về cuộc sống của
Thanh Thảo đã thay đổi tâm thế thơ và hình thức thơ ông. Đây được xem như một

sự đột phá mới trong sáng tạo nghệ thuật thơ Thanh Thảo.
Ở góc nhìn cách tân, cũng như các nhà thơ khác, Thanh Thảo dứt khoát từ
bỏ cái thế giới đóng khung để hướng đến một thế giới lắp ghép, phân mảnh, đứt
đoạn bằng kĩ thuật xốc ngửa, lắp ráp từ ngữ, sử dụng chất humour, pha tạp thể
loại để chạm vào những vấn đề tinh tế và nhạy cảm mà hầu như thơ ca trước
đây còn ngại ngùng. Ông đưa vào thơ những ngôn từ đời thường, gần gũi với đời
sống nhưng không dễ làm mất đi chất thơ, mà ngược lại càng tạo thêm hiệu ứng
thẩm mỹ bới tính ảo giác hóa và hình ảnh của một cái tôi hoài nghi về sự tồn tại.
Thanh thảo bộc bạch: “Thực ra, nhà thơ cách tân không phải lúc nào cũng
chăm chăm làm cho mình quái lạ đi. Làm thơ phải cực kỳ đơn giản, làm mà như
không ấy”[19, tr.88]. Ông quan niệm: Tư duy thơ hiện đại là kiểu tư duy có bước
nhảy cấu tứ thơ đầy khoảng lặng tạo nên rất nhiều không gian rỗng trong thơ:
“Chính ở khoảng giữa của những câu thơ độc lập tương đối, đã ẩn hiện cái
không gian rỗng của bài thơ, là cái thoạt nhìn, mới đọc cứ ngỡ như không thấy
gì, không nói lên điều gì. Cái kỳ lạ của thơ là ở đó: chữ nương tựa vào không -
12
chữ, chỗ dày rậm cậy nhờ chỗ trắng trong, không - gian - đặc được cấu trúc lên
nhờ không - gian - rỗng”[18, tr.80]. Chính vì thế mà thơ ông luôn là sự đan xen
của những mảng tối, mảng sáng, những mảng có nghĩa và vô nghĩa… buộc người
đọc phải huy động hết tiềm thức để làm việc, ngụp lặn xuống lòng nước tối, ngụp
lặn vào chính những giấc mơ của mình. Chính cái “lòng nước tối”, chính “những
giấc mơ” ấy đã tạo nên độ mờ nhòe về nghĩa lý cho những câu thơ của Thanh
Thảo.
Trong các sáng tác của mình, Thanh Thảo đã vận dụng triệt để thể thơ tự do,
không theo niêm luật, không bị khống chế bởi số lượng câu, chữ, vần… Từ đó,
ông xây dựng nên lối thơ tượng trưng thông qua sự cách tân rất hậu hiện đại trong
cấu trúc thơ cùng sự hiện diện của các yếu tố hậu hiện đại trong thơ với từng
bước chuyển mình rất rõ rệt, qua tập thơ 123:
Trong Một người lính nói về thế hệ mình, âm hưởng của chủ nghĩa hậu
hiện đại bắt đầu xuất hiện qua kết cấu thơ mới lạ: “thế hệ chúng tôi/ nhìn rất rõ/

mặt mình”. Các câu thơ nối tiếp nhau dường như không theo vần điệu, hết sức
phóng khoáng, tự do, với rậm rạp dòng thơ in, chữ in, không chứa nhiều khoảng
trắng bí ẩn của thơ đương đại, nhưng khi đọc lên, người đọc dễ dàng hiểu được
nghĩa lý mà nhà thơ muốn nói. Với lối tư duy thơ này, người đọc rất khó lòng cấu
trúc lại bài thơ theo lối cảm xúc và tiếp nhận của riêng mình.
Đến Dao động sóng, dù tên bài thơ đã hoàn toàn có sự nhòe mờ về nghĩa,
nhưng từng bước đi của thơ vẫn còn thiên về truyền thống, yếu tố vần nối giữa
các câu vẫn còn rõ nét. Tư duy thơ vẫn còn lắng đọng qua hai đoạn thơ cấu trúc
không đều nhau. Tuy nhiên, thông qua bài thơ này, tư duy thơ Thanh Thảo đã
bước dần đến lối cấu trúc hậu hiện đại. Mà chỉ có cấu trúc tác phẩm theo tư duy
như thế thì mới tạo điều kiện cho người đọc tham gia đồng sáng tạo cùng tác giả.
Dấu ấn đánh dấu sự chuyển đổi hoàn toàn của tư duy thơ nghiêng hẳn về lối
sáng tác theo tư duy hậu hiện đạilà 13 bài thơ còn lại trong tập thơ 123. Theo Mai
Bá Ấn đã nhận định: Chính lối tư duy thơ này đã khiến Thanh Thảo cấu trúc tác
phẩm thơ hoàn toàn mở, nhằm “rủ rê” sự tham gia của người tiếp nhận theo
13
quan niệm “cái chết của tác giả” của chủ nghĩa hậu hiện đại. Tham gia “trò
chơi” trí tuệ này, ta lại bắt gặp lý thuyết “giải cấu trúc” theo quan niệm của
Derrida: “Chúng ta liên tục tạo ra những kết cấu, nhưng bản chất của chúng là
cái khả năng mà trò chơi bảo đảm cho người sử dụng nó: người ta có thể đưa
những sự việc, ý nghĩ, liên tưởng vào sự bổ sung liên tục cho trò chơi để rồi kết
cấu tạo ra ý nghĩa mới, làm hình thành hình thức tồn tại mới. Có vô số sự thay
thế ẩn chứa trong cấu trúc lúc đó… đã là trò chơi thì tất yếu nó phải thuộc về
người tiếp nhận, bởi vì không phải người nghĩ ra trò chơi mà là người chơi chơi
nó”[30]. Như vậy, Thanh Thảo chỉ đóng vai trò là một người “quản trò”, còn
người đọc mới chính là những “người chơi” tham gia vào trò chơi do chính tác
giả dẫn dắt bằng cách sử dụng vô số những hình ảnh mờ nhòe, ám ảnh.
Bằng cách sử dụng ngôn ngữ bình dân, đời thường đề cập các vấn đề thường
nhật, những lo lắng, ưu tư mang tính cá thể, đơn lẻ, vụn vặt, nhà thơ đã xóa bỏ
khoảng cách phân ranh giới thơ cao cấp và thơ thấp cấp. Với Thanh Thảo và

nhiều nhà thơ theo khuynh hướng thơ hậu hiện đại khác, họ quyết đẩy thơ và
người làm thơ rơi vào giữa lòng đời.
Nét đặc trưng nhất của lối tư duy hậu hiện đại trong thơ Thanh Thảo chính là
sự phá vỡ trật tự thời gian, sự phân mảnh, tính lỏng lẻo trong liên kết ý tưởng, sự
sáng tạo những cặp vòng tương tác… Không những thế, trong các sáng tác thơ
của ông, với những câu thơ ngắn dài không đều, cách viết hoa đầu dòng khác lạ,
cách ngắt dòng cũng đã tạo ra được cảm giác vô cùng tự do, phóng khoáng. Và
một trong những đặc trưng của lối thơ hậu hiện đại trong các sáng tác của ông
chính là nghệ thuật tạo ra các khoảng trống. Điều này được thể hiện rất rõ qua bài
thơ Đàn ghita của Lorca với cách viết như mê sảng, những vỉa tầng văn hoá Tây
Ban Nha, những hình ảnh giao hòa, lẫn lộn giữa sự sống và cái chết, sự mờ nhòe,
đứt gãy của những mảng không - thời gian, sự pha trộn giữa màu sắc - âm thanh -
hình khối…
Thanh Thảo là một nhà thơ khá đặc biệt bởi lối “tư duy thơ vệ tinh” (Mai Bá
Ấn), lối tư duy tượng trưng siêu thực và lối tư duy tương hợp, từ đó thơ ông tạo ra
14
sự tượng giao cảm giác, táo bạo và tương đối thẳng thắn trong cách biểu hiện
quan điểm nghệ thuật, quan niệm về cuộc sống và con người. Và cùng với giọng
thơ mới lạ, táo bạo, gai góc và lối tư duy thơ chứa đầy cảm thức hậu hiện đại, thơ
của ông luôn đầy những khoảng trắng, khoảng mờ nhòe, và cả những đoạn bỏ ngõ
lơ lửng gây nhiều ám ảnh cho người đọc.
Khám phá thơ Thanh Thảo và phong cách nghệ thuật độc đáo của nhà thơ,
chẳng khác gì việc chơi một trò chơi trốn tìm mà người đi tìm luôn là độc giả, và
thứ được tìm thấy dường như luôn biết cách trốn đi, chìm khất đằng sau những
mảng mờ nhòe, trong sự đan xen lẫn lộn của hiện thực và ảo giác. Với bản chất
sáng tạo nghệ thuật luôn không ngừng nghỉ, nhà thơ không bao giờ tự thỏa hiệp
với chính mình mà luôn tự đổi mới, luôn tự thể nghiệm những phương thức tư
duy mới vì Thanh Thảo là người luôn ý thức một cách sâu sắc và tuyệt đối: “Cái
bình thường là cái chết của nghệ thuật” (V.Hugo).
1.2. Quan niệm nghệ thuật của Thanh Thảo

1.2.1. Quan niệm về Thơ
Dường như với Thanh Thảo thơ là lẽ sống của cuộc đời nên trong quan niệm
của mình ông nhìn thơ ở mọi góc cạnh của cuộc sống, ông cho thơ một định
nghĩa, ông kiếm tìm bản chất của thơ, những mối quan hệ của thơ và thế giới, và
quan trọng hơn là những tư tưởng tân kỳ, mới mẻ và đổi mới, làm giàu cho thơ
luôn thôi thúc ông từng ngày từng giờ, qua từng tác phẩm. Những quan niệm này
chủ yếu được thể hiện trong những lần trả lời phỏng vấn trước báo chí, thông qua
những tiểu luận phê bình của nhà thơ và đặc biệt là qua những tác phẩm của ông.
Với Thanh Thảo, thế giới của thơ mãi mãi là thế giới của sự huyễn hoặc,
bởi: “Cõi thơ là cõi bồng phiêu” (Bùi Giáng). Cho nên đi vào thế giới của thơ là
đi vào thế giới của ảo mộng, của hư vô, của miền vô thức tâm linh trong tiềm
thức con người. Vì: “Thơ không cần lý giải, mà cần được cảm, được xúc động,
được đánh thức một cách như tình cờ”[6, tr.477]; “Thơ có thể bất chợt, rất nhẹ
nhàng, chạm tới những tầng sâu, những nơi âm thầm nhất của phận người”[6,
tr.116].
15
Đồng thời, nhà thơ cũng đề cao sự nhạy bén của thơ, tư duy thơ và sức ám
ảnh, sự “sát thương” của nó đối với người làm thơ. Đối với chức năng giáo dục
của thơ, Thanh Thảo có một quan niệm khá mới lạ, theo ông: “Thơ đích thực
không nhằm giáo dục cải tạo ai, nhưng nó lại giúp thanh lọc tâm hồn con
người”[6, tr.299] vì “thơ thức tỉnh con người trước cái “trăm năm”, thơ đặt con
người đối diện với nghìn năm, thơ cho con người một thoáng nhìn lại chính mình
một cách bình thản”[18, tr.80].
Thanh Thảo đã có những định nghĩa rất thú vị về thơ, trong đó nhà thơ đề
cao thiên chức của thơ hơn cả, ông cho rằng: “thơ cao hơn bản năng. Đó là tiếng
gọi từ một thiên năng”[6, tr.123]. Giá trị vĩnh hằng của thơ vẫn là những giá trị
mang tính nhân văn, những vấn đề thuộc về con người, về nhân loại. Và cái làm
nên giá trị ấy chính là ở sự thanh lọc tâm hồn: “Bởi tâm hồn, chính là thế giới.
Một thế giới cũng nhỏ hẹp, cũng mênh mông và đầy bất trắc. Một thế giới có thể
trượt qua nhiều thế giới”[3, tr.24].

Nói như vậy vì Thanh Thảo luôn cho rằng, thơ không phải là thứ vật chất
bình thường mà là tiếng gọi của tâm linh, hơn thế nữa thơ còn giống như một
“tôn giáo” mà người làm thơ, người đọc thơ nhiều khi phải chấp nhận bi kịch để
vác “cây thập giá” thơ bước qua những khổ nạn của cuộc đời, có thế thì mới
mong chạm đến bản thể của thơ: “Thơ là tiếng nói của tâm linh, tiếng nói của sự
chiêm nghiệm nhiều khi là cả đời người, của nhiều đời người”[6, tr.233]. Thơ
cũng có thể là “kinh thánh của tâm hồn”[18, tr.79], là thứ không thể mua và
không thể bán. Thơ là “tiếng gọi từ một thiên năng”[6, tr.123], do đó không phải
lúc nào cũng nằm trong tầm nắm bắt của con người: “Thơ vẫn là cái gì mờ mờ ảo
ảo, vẫn là cái gì ta vừa bắt được đó lại vừa tuột đâu mất. Thơ vẫn là hình bóng,
đôi khi là bóng của bóng nữa”[6, tr.123].
Trong cái nhìn của Thanh Thảo, thơ có vẻ nghiêng về phía của vô thức, nó
xuất phát từ nguồn nội lực sâu thẳm dồn nén tận sâu bên trong con người: “Thơ
là tiếng thét trong im lặng, là những dồn nén đến tận cùng dưới một vẻ bình thản
như đất”. Đến với thơ ca, con người đang làm một cuộc hành trình đi tìm mình,
16
đi khám phá những bí mật vô tận ẩn náu trong những vùng tối tăm của tâm hồn
mình, bởi thơ “buộc tiềm thức, vô thức của ta phải làm việc, buộc ta phải ngụp
lặn xuống lòng nước tối, ngụp lặn vào chính những giấc mơ của ta”[6, tr.123].
Khi làm thơ, Thanh Thảo luôn tâm niệm phải làm sao để thơ đến thực gần
với đời sống, phải làm sao để thơ có thể nói lên được những suy nghĩ của con
người về cuộc đời, về thế giới. Chính bởi điều đó nên đối với Thanh Thảo, thơ
cũng phải gắn liền với số phận cá nhân của con người. Dù viết về vấn đề gì, dù
cách tân đến đâu, thơ muôn đời vẫn không đi ra khỏi tiếng nói của số phận, thay
con người nói lên những tâm tư, tình cảm, những nỗi niềm gửi gắm. Nói cách
khác, thơ trước hết là những ký gửi thầm kín của người nghệ sĩ, sau nữa là sự
cộng hưởng của tâm hồn thi nhân với những thân phận khác trong cuộc đời: “Thơ
từ xưa tới giờ luôn là kinh cầu nguyện cho tâm hồn con người, nơi con người có
thể sám hối, có thể khắc khoải, có thể khao khát và công khai bày tỏ những khát
khao thầm kín nhất, nơi bất cứ một ánh nhìn nào cũng đều được “trong trẻo

hóa”, đều thăng hoa, hướng thượng”[18, tr.79].
Theo đó, thơ không chỉ giải tỏa mà còn phản ánh, không chỉ phản ánh mà
còn thanh lọc. Thơ vừa mang hơi thở độc thoại, vừa không ngừng đối thoại,
nhưng trên hết, “Thơ không thể thiếu những số phận cá nhân, nhà thơ không thể
“tự quên mình” để chỉ nâng cây đàn lyre của vô thức tập thể, dù giọng ca có bi
hùng đến mấy thì người đọc vẫn thấy thiếu một cái gì có thể động đến những
khoảng nhỏ rất riêng của tâm hồn mình. Sự đồng điệu không chỉ đến từ những
bài ca tập thể, nó là của giai đoạn ngây thơ hồn nhiên ban đầu.”[18]. Thơ phản
chiếu số phận, nhưng tuyệt nhiên không phải là sự sao chép, lặp lại. Bởi hơn ai
hết, nhà thơ hiểu rằng đời là đời mà thơ là thơ, mỗi khi đắm chìm vào những câu
thơ là như đang sống một cuộc đời khác, mơ những giấc mơ khác, thậm chí chu
du vào một thế giới khác. Thơ có khả năng khơi gợi được hiện thực, nhưng cũng
có khả năng tạo ra những ảo giác dẫn lối cho sự chiêm nghiệm của nhà thơ và sau
đó là độc giả.
17
Thơ trong quan niệm của Thanh Thảo còn độc đáo bởi khả năng thức tỉnh
của nó. Trước hết đó là sự thức tỉnh của bản thân người cầm bút trước một hình
ảnh nào đó trong đời sống gọi dậy một tứ thơ đã ấp ủ. Sự thức tỉnh ấy không phải
là một tình trạng, mà là một trạng thái tinh thần có nguồn gốc sâu xa từ quá trình
chiêm nghiệm lâu dài của nhà thơ về đời sống. Nói như Thanh Thảo: “Con
đường tới với thơ không phải là con đường phân tích, mà là con đường cảm
nhận, con đường của sự đột nhiên, của một thức tỉnh từ một hình ảnh ít gặp, hoặc
chưa gặp nào đó”[18]. Mà những suy tư chất chứa trong tâm tưởng nhà thơ một
khi bắt gặp một hình ảnh nào đưa đẩy, gợi nhắc, sẽ bùng phát thành cảm hứng
sáng tạo. Đó chính là linh cảm, là sự bừng tỉnh của tiềm thức, là cái đột khởi của
tư tưởng đã được thai nghén lâu ngày.
Có thể nói những quan niệm về thơ của Thanh Thảo khá phong phú, ngoài
những nhận định về thơ trên bề nổi, Thanh Thảo còn đi sâu vào tìm hiểu thi pháp
của thơ, ông đưa ra những nhận định và quan niệm về ngôn ngữ thơ, biểu tượng
thơ rất sâu sắc.

“Thơ là nghệ thuật lấy ngôn ngữ làm cứu cánh” ( Jakobson). Và “làm thơ
là tạo ra một hành tinh thứ hai bằng ngôn ngữ” (Chế Lan Viên ). Nên đặc điểm
tất yếu của thơ, và văn chương nói chung là sử dụng ngôn từ như một tín hiệu
nghệ thuật đầy tính thẩm mỹ để thể hiện tài năng của nhà thơ. Với sứ mệnh cao
trọng hóa tiếng nói con người, nhà thơ phải mang trong mình một phong cách
sáng tạo ra một tiếng nói riêng, một giọng điệu riêng, một lối dùng chữ riêng
trong thế giới nghệ thuật của mình.
Vì thế, đối với Thanh Thảo ngôn ngữ thơ không chỉ là những kí hiệu phản
ánh hiện thực cuộc sống bên ngoài mà còn là những mã hiệu thẩm mỹ giúp người
đọc cảm nhận, khám phá hiện thực bên trong, với ông, “ngôn ngữ thơ là làm
phong phú ngôn ngữ con người”, “nó chỉ chắt lọc tinh túy của ngôn ngữ con
người”. Bởi ông hiểu rằng ngôn ngữ thơ là điều ám ảnh thường trực trong tư duy
sáng tạo của nhà thơ: “Ngôn ngữ trong tay người làm thơ cũng giống như những
cây que, những chiếc vòng trong tay trẻ nhỏ. Chúng có thể biến hóa nên bao trò
18
chơi, mà trò chơi nào cũng chóng chán, cũng đòi người chơi phải bày ra trò mới
khác đi”[3, tr.26].
Không dừng lại ở cấp độ ngôn ngữ thơ, hình tượng và biểu tượng thơ của
Thanh Thảo luôn là những hình ảnh, những biểu tượng thơ không chỉ có tác dụng
kích thích trí tưởng tượng của con người, mà “nó còn khiến con người vững tin
rằng ngoài những hình ảnh thế giới mà mình thấy được, cảm nhận được còn
những hình ảnh mà mình chưa thấy nhưng sẽ thấy, chưa cảm được nhưng sẽ cảm
được. Có những giấc mơ mình sẽ mơ, và có những cuộc đời mình sẽ sống cùng
với cuộc đời chính mình đang sống”[12, tr.81]. Thế giới biểu tượng trong thơ
Thanh Thảo thường khơi gợi lên cho độc giả những cảm xúc rất riêng, rất độc
đáo, chúng thường là sự mờ nhòe về ý nghĩa, khó đoán biết được, thường là sự
đánh lạc hướng ra khỏi quỹ đạo logic của tư duy bình thường. Ở chúng phảng
phất một cái gì đó có vẻ là lạ, khó hiểu nhưng lại tân kì, hiện đại, vô cùng hấp dẫn
và thú vị. Đó chính là phong cách sáng tạo “không giống ai” của Thanh Thảo.
Với ông, “Thơ mãi mãi là bí mật”[6] nên trong suốt cả cuộc đời cầm bút

Thanh Thảo dường như cứ luôn giữ mãi cái khoảng lặng bí mật ấy, trong thơ ông
chỉ phơi bày ra những nốt lặng, những khoảng trống và người đọc cứ thế mà
chiêm nghiệm, mà tư duy để cảm theo cách của riêng họ. Vì thế, người ta bảo thơ
Thanh Thảo quá khó hiểu cũng có cái lý của nó. Sự hiện đại hóa thơ ca này của
ông dường như vừa mang đến cho người đọc những chiều sâu tư tưởng mới, xa
hơn cách nghiệm thơ theo kiểu truyền thống, nhưng cũng gần hơn cách nghiệm
thơ đi từ bản năng, tâm hồn con người. Có lẽ, với nhà thơ, không hiện đại thì
không được, vì người nghệ sĩ luôn phải tìm ra những điều mới lạ không chỉ để thu
hút độc giả mà còn để chắp cánh cho nghệ thuật của chính mình. Nhưng hiện đại
theo cách nào mới là điều đáng bàn, bởi nếu ai cũng hiện đại theo cách giống
nhau thì dường như lại chỉ là sự lặp lại, nhàm chán, thế nên muôn đời thơ vẫn nên
là “chuyện rút ruột rút gan mình ra”[6, tr.83], để mà nhào nặn ra những tác phẩm
chân thực nhất và độc đáo nhất.
19
Thật vậy, những vần thơ củaThanh Thảo như tuôn chảy từ mạch ngầm của
chính tâm hồn nhà thơ mà không hề có những chau chuốt về kỹ thuật, chữ nghĩa,
về những dụng ý tư tưởng, nhưng tự bản thân những tác phẩm ấy lại mang trong
mình tất cả. Để từ đó, người đọc chính là những người chơi tham gia vào trò chơi
truy tìm bí ẩn biến mất sau những câu từ mờ nhòe, đầy ám ảnh ấy. Cái cách viết
theo lối “trò chơi”, “cứ như không” là cách viết bằng tâm hồn, bằng xúc cảm,
bằng chính nhiệt huyết trải bày hết những gì mà Thanh Thảo có. Đó chính là quan
niệm thơ của Thanh Thảo.
Đặt Thơ trong mối quan hệ với con người, với độc giả, Thanh Thảo lại rất đề
cao vai trò và vị trí của người tiếp nhận, với ông: “Thơ có thể cùng lúc kích động
được nhiều người, nhưng thơ lại chỉ dành cho từng con người riêng biệt, từng
con người muốn qua cảm nhận thơ để cảm nhận chính con người mình, và qua
chính con người mình mà cảm nhận thế giới”[6, tr.215]. Ông rất có ý thức tôn
vinh vai trò của người đọc trong việc giải mã văn bản tác phẩm thơ, bởi lẽ, tác
phẩm văn học bao giờ cũng là một cấu trúc mở. Và điều tạo nên cấu trúc mở của
tác phẩm văn học đó chính là độ mờ của ngôn ngữ được thể hiện trong văn bản.

1.2.2. Quan niệm về nhà thơ và sáng tạo nghệ thuật
Ý thức được vai trò của thơ trong cuộc sống: Thơ không thể chấp nhận
và không bao giờ chấp nhận sự trần trụi đến lạnh lùng với những lọc lừa,
dối trá đầy buồn nôn của đời sống. Từ đó, Thanh Thảo không chỉ quan tâm đến
việc đi tìm bản thể thơ mà còn quan tâm đến sứ mệnh của nhà thơ, nhà thơ phải
sống thật với mình và với đời, như lời ông tự bạch: “Làm thế nào để thành một
nhà thơ thì tôi không biết nhưng khi là một nhà thơ thì có lẽ, đức tính đầu tiên là
đừng nói dối, đừng “đánh quả lừa”[3, tr.37]. Bởi lẽ, thi sĩ không chỉ là người
sáng tạo thơ mà qua thơ, họ còn phải tạo nên những giá trị mỹ cảm cho cuộc
sống: “Dù thi sĩ một phút thôi cũng không giấu nổi mình”[5, tr.59].
Thanh Thảo luôn tâm niệm nhà thơ phải luôn gắn chính mình với sự sáng
tạo, phải đi trên đôi chân chính mình, bay bằng đôi cánh thơ mình, và viết bằng
chính “ruột gan” của mình trên hành trình nghệ thuật chân chính. Vì thế quan
20
niệm về người sáng tạo thơ của Thanh Thảo cũng luôn gắn liền với quan niệm về
sáng tạo nghệ thuật. Với ông, hành trình sáng tạo nghệ thuật luôn phải là một
chuyến đi dài với những bước chân chưa bao giờ biết mệt mỏi, mà người nghệ sĩ
dù ở trong hoàn cảnh nào, phải luôn gìn giữ sự tự do và sự chân thành trong tâm
hồn.
Bởi sự tự do trong tâm hồn là điều kiện tiên quyết để người nghệ sĩ trải
nghiệm, suy tư và sáng tạo, chính điều đó đã đem đến cho người nghệ sĩ khả năng
khai phóng nguồn năng lượng tinh thần, mở đường cho những liên tưởng không
biên giới, đồng thời nuôi dưỡng khát khao của người nghệ sĩ đối với cái đẹp của
nghệ thuật, cái tuyệt mỹ của từng câu thơ, từng bài thơ: “thơ cần một sự tự do
tuyệt đối trong tâm hồn người làm thơ” vì “không thể có thơ ở một nhà thơ có
tâm hồn nô lệ, dẫu người ấy tài giỏi tới đâu, ngôn từ giàu có tới đâu”[6, tr.130-
131].
Và sự chân thành trong thơ cũng là một điều quan trọng trong quan niệm về
người sáng tạo thơ của Thanh Thảo. Với ông, dối trá trong thơ, hay dối trá trong
văn chương là một sự nhục mạ nghệ thuật: “Khi là một nhà thơ thì có lẽ, đức tính

đầu tiên là đừng nói dối (…) đức tính thứ hai là đừng hèn. Thực ra dối trá và đớn
hèn là chị em ruột”[18, tr.37]. Ông cho rằng, nhà thơ khi viết nên tác phẩm, nếu
không bắt nguồn từ sự chân thành của sâu trong nội tại tâm linh, từ chính cái tôi
gần gũi với cuộc sống thì sẽ chỉ viết được những thứ giả dối, sáo mòn. Thế nên,
những tác phẩm của người nghệ sĩ dù đi ngược về xuôi thế nào, trước sau vẫn
phải chân thật và trung thành với con người và đời sống: “Người viết phải sống
hết mình, yêu thương và căm giận hết cỡ, và tuyệt đối chân thành với chính mình,
cũng là chân thành với cuộc đời. Cứ như thế, cộng với cái “trời cho” là tài năng,
nhà văn sẽ có tác phẩm, dù không “ngang tầm thời đại” gì đó như người ta hay
nói một cách sáo rỗng, thì đơn giản nhất, cũng khiến người viết không phải
ngượng với chính mình”[18].
Thanh Thảo đã đến với thơ bằng một phong cách sáng tạo độc đáo, cách tân
thơ bằng lối tư duy hiện đại và ông đặt vào trong thơ của mình những khoảng
21
trắng, vùng mờ tâm linh, siêu thực. Thế nên, trong sáng tạo nghệ thuật ông nhấn
mạnh điều tối kỵ đối với nhà thơ trong sáng tác là việc lặp lại ở những người khác
và tồi tệ hơn là việc lặp lại chính mình, thơ phải mang dấu ấn sáng tạo riêng của
mỗi nhà thơ, nhưng chính dấu ấn của nhà thơ cũng không được phép trùng lặp
trong các tác phẩm.
Sáng tạo nghệ thuật là hoạt động tất yếu của người nghệ sĩ. Nhưng tên tuổi
của người nghệ sĩ chỉ có thể tồn tại khi tạo được cho mình một phong cách, một
cá tính riêng trong sáng tạo, bởi không thể hối lộ hay móc ngoặc mà vào bất tử
được. Mà “Thơ mỗi người mỗi cách”[6, tr.266], nên nhà thơ phải biết cách luôn
tự đổi mới, trong sáng tạo thơ, lặp lại người khác hoặc lặp lại mình là một sự tự
sát và giết chết nghệ thuật chân chính: “Thơ được làm nên bởi những nhà thơ, vì
thế sự khác nhau chính là sự tồn tại và ngược lại sự giống nhau là cái chết”[6,
tr.249] vì “Mỗi nhà thơ đi qua cuộc đời này theo một lối riêng”[6, tr.265].
Nói đến thơ là nói đến sự sáng tạo và sáng tạo cái đẹp, người làm thơ cũng
chính là những người thợ lành nghề nhào nặn ra cái đẹp theo trí tưởng tượng của
riêng họ. Đối với Thanh Thảo, cái đẹp trong thơ là một phạm trù khá phức tạp, và

quá trình sáng tạo nên cái đẹp trong thơ không hề đơn giản chút nào, chính Thanh
Thảo cũng đã không hề ngần ngại khi cho rằng: “Nhà thơ là con người không
phải thiên thần”[6, tr.474]. Nhưng thơ của họ thì phải là lời của thiên thần; nghĩa
là phải đẹp, phải thánh thiện và thanh cao. Thơ phải là tiếng gọi từ tâm thức và
thiên lương của nhà thơ.
Chính điều này đã khiến cho thơ trở nên cuốn hút và hấp dẫn độc giả. Khi
nói về vấn đề sáng tạo của người nghệ sĩ, cách nói của Thanh Thảo đã bộc lộ
được nét độc đáo và dí dỏm của mình: “Hơn ai hết, người làm thơ phải là người
bình tĩnh khi buông dây câu về vô định mong giật được con - cá - bặt - tăm
Nghĩa là khi làm thơ, nhà thơ biết mình sống trong lòng sự sáng tạo. Đó là
niềm tự hào và điều an ủi lớn nhất đối với một nhà thơ”[18]. Khi sáng tạo
nghệ thuật cũng như chơi một ván cờ, mà nhà thơ chính là người chơi cờ, nếu
vội vàng thì nước cờ sẽ rơi vào bế tắc, nên nhà thơ Thanh Thảo đã không ngần
22
ngại khi khẳng định điều tạo nên thành công cho một nhà thơ chân chính, đó
chính là sự thong thả.
Sự ra đời của thơ ca không nằm trong chủ ý của thi nhân nhằm đạt đến sự
bất tử về tên tuổi, nó trước hết là một kiểu phản ứng của nhà thơ đối với những
rung động cảm xúc trước cuộc sống và trong tâm hồn. Đối với nhà thơ, Thanh
Thảo cũng đã bày tỏ một cái nhìn khá hiện đại: “Người làm thơ ngày thường
cũng nói nhỏ, họ chỉ nói to hơn trong thơ”. Họ “nói về những dự cảm”, “hướng
đến một cộng đồng, một dân tộc, một đất nước, nó hướng đến Con Người, đến
toàn nhân loại” nhưng “thơ vốn âm thầm, tìm được một người tri âm đã mừng
hết lớn, đâu dám ước ao mê hoặc được hàng vạn hàng triệu người”[22, tr.139].
Thơ ra đời bởi nhu cần được giải tỏa khỏi những ẩn ức tinh thần, và trong quá
trình tìm cách giãi bày những ẩn ức ấy, thông qua khả năng sáng tạo nghệ thuật
độc đáo, cách viết mờ nhòe của tiềm thức, nhà thơ phải để lại dấu ấn của mình
theo cách “hồn nhiên” nhất. Đây cũng chính là quan điểm để Thanh Thảo tự soi
chiếu vào bản thân mình trong quá trình sáng tạo thơ.
Với quan niệm, làm thơ phải tìm kiếm chân lý trong những điều đơn giản để

hướng vào cội rễ của bản chất đời sống. Trước giờ khắc chuyển giao, nhà thơ phải
là người nhận ra được những mặt trái của cái thế giới đang mở toang, đang phơi
bày những hiện thực trần trụi. Bằng ý thức của một cái tôi nghề nghiệp, Thanh
Thảo đã luôn nhắc nhở mình về điều ấy, và khi ông nhận thấy thế giới cũ đang
qua đi và thế giới mới lại đến, ngỡ là đổi thay, nhưng cũng chỉ là hình thức
chuyển giao từ chiếc lồng này sang chiếc lồng khác mà thôi: “bây giờ tôi biết/
những thế giới khác/ cũng thế thôi/ như con chim tập yêu chiếc lồng của mình/
nhưng không cần tập hót” (Khúc chậm 2000).
Quan niệm của Thanh Thảo về việc sáng tạo gắn liền với quan niệm về nhà
thơ mà theo ông, sáng tạo là biểu hiện của sự sống, nghệ thuật bắt nguồn từ
nội tại cuộc sống, nói cách khác, cũng vì bắt đầu từ sự sống và những năng lượng
sống mà nghệ thuật không bao giờ tàn lụi: “Không phải vì chống lại cái chết mà
con người sáng tạo. Chính nhu cầu tự thân của cái sống làm nảy lên cây táo non,
23
làm nảy lên nghệ thuật”[18]. Vì vậy quá trình sáng tạo thơ bao giờ cũng thể hiện
được thiên năng của nhà thơ. Đây cũng là vấn đề được quan tâm bàn đến trong
quan niệm thơ của Thanh Thảo bởi với ông: “Nhà thơ đích thực là người có thể
mơ khi đang tỉnh, và rất tỉnh khi đang mơ. Với họ có ít nhất hai thế giới tồn tại
song song. Và họ dễ dàng “đi lại” giữa hai thế giới ấy. Cái nhìn trong suốt là cái
nhìn của tâm hồn, và cái mờ ảo của ngôn ngữ là kết quả của sự tương tác giữa
hai thế giới”[6, tr.228].
Xuất phát từ một góc nhìn khác, Thanh Thảo lại cho rằng đối với nhà thơ,
sáng tạo không còn là một hành trình tinh thần mang tính giải khuây “đưa người
làm thơ vào cách đi của người mộng du, đi trong mơ với cặp mắt mở to, mở to
những như không thấy gì, nghe tất cả mà cuối cùng chỉ là những tiếng văng
vẳng”[6]. Mà còn là một cuộc phiêu lưu đầy hứng thú và bí hiểm bởi thơ tự bản
thân nó là nguy hiểm,“Nó nguy hiểm trước hết với người đẻ ra nó, là nhà thơ.
Nhiều nhà thơ đã chết vì thơ của mình”[6]. Thơ là cội nguồn của niềm hứng khởi,
khoái cảm thẩm mỹ của nhà thơ, đồng thời cũng là nơi đem lại cho nhà thơ biết
bao day dứt.

Sáng tạo nghệ thuật cũng như sự chinh phục các vòng xoay trong trò chơi
rubic, một người có thể chỉ cần vài vòng xoay là đạt được sự đồng thuận của một
ô màu nào đó, có người lại cần đến nhiều vòng xoay hơn, đó là tuỳ vào năng lực
và khả năng của từng người. Mà cho đến cuối cùng, thơ vẫn “mãi mãi là bí mật”,
là một sự giải thoát cũng là một chốn“đày ải” tinh thần con người trong một
niềm say mê, khát khao không bao giờ dứt.
Bằng sự chiêm nghiệm của bản thân, Thanh Thảo đã cho thấy quá trình sáng
tạo của nhà thơ luôn đòi hỏi sự trải nghiệm để có thể cảm một cách sâu sắc
và tinh tế như thế. Chính vì vậy, ông rất coi trọng những giây phút thăng hoa
trong sáng tạo của nhà thơ. Theo ông, thi nhân chỉ có thể sáng tạo trong ám ảnh
của vô thức và tâm linh, khi mà: “Thơ đưa người làm thơ vào cách đi của người
mộng du, đi trong mơ với cặp mắt mở to, mở to nhưng không thấy gì, nghe tất cả
mà cuối cùng chỉ là những tiếng văng vẳng.”[6, tr.300].
24
Và cũng trong cảm thức này, ở một chỗ khác nhà thơ lại tiếp tục khẳng định
những bài thơ hay là những bài thơ được nhà thơ sáng tạo trong tâm thức chênh
vênh giữa hai bờ hư thực. Quan niệm của Thanh Thảo về quá trình sáng tạo thơ
chịu ảnh hưởng khá sâu sắc thuyết phân tâm học của Freud khi cho rằng nghệ sĩ
giống như người mắc bệnh tâm thần, rời bỏ thực tại để đi vào thế giới ảo tưởng
mà quá trình sáng tạo thơ giống hệt như là lúc đang rơi “lơ lửng giữa đỉnh và vực
là lúc mà nhà thơ có được những thi phẩm xuất thần”[6, tr.120].
Trong Khối vuông Rubic Thanh Thảo đã bày tỏ quan niệm về sáng tạo nghệ
thuật của nhà thơ, nhà thơ không nên “tính toán” thơ, không nên “lợi dụng” thơ,
bởi “những kẻ nào toan tính, lợi dụng thơ, rốt cuộc đều bị thơ lợi dụng, và không
hiếm kẻ đã bị thơ làm điên đảo khi nó hứa hẹn những thiên đàng bất tử, những
trái quả ngon ngọt của vinh quang”[4, tr.23]. Đó như là một tuyên ngôn mở ra
con đường tiếp cận thế giới nghệ thuật thơ cũng như con đường để đến với thơ
hiện đại.
Qua thực tiễn sáng tác của chính mình, Thanh thảo đã khẳng định những
quan niệm về thơ ca và con người, về người nghệ sĩ và hành trình sáng tạo nghệ

thuật. Với ông: “Thơ chẳng là gì nhưng cũng có thể là tất cả”, và nhà thơ chính
là người sống trong lòng sáng tạo. Người nghệ sĩ với các sáng tác của chính họ đã
giữ gìn được vẻ đẹp trong sáng của tâm hồn con người bằng cách đưa thơ ca nghệ
thuật - thứ mà theo nhà thơ có thể thanh lọc tâm hồn con người - vào đời sống,
đến gần hơn với cuộc sống của con người.
Có thể nói những quan niệm về thơ và nhà thơ của Thanh Thảo khá phong
phú, chính sự thấu hiểu thơ ca đến tận cùng của nguồn gốc và sự sáng tạo như vậy
nên Thanh Thảo là một người nghệ sĩ có ý thức cách tân rất rõ rệt. Những tác
phẩm ra đời như một sự minh chứng cho quan điểm nghệ thuật của một tâm hồn
thi nhân ham đổi mới và dám đổi mới cho thơ, một nhà thơ có cống hiến lớn cho
sự vận động của thơ hiện đại Việt Nam.
25

×