Tải bản đầy đủ (.doc) (54 trang)

du lịch các làng nghề thủ công truyền thống ở huyện phú vang, tỉnh thừa thiên huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (492.23 KB, 54 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong tiến trình lịch sử phát triển của tỉnh Thừa Thiên Huế, kể từ khi nhà Nguyễn
chọn đất Huế làm đất định đô, hệ thống làng xã nông thôn của Thuận Hóa - Phú Xuân
lúc bấy giờ đã có những chuyển động cùng với sự ra đời của những phố chợ, bến cảng
đặc biệt nhu cầu trao đổi hàng hóa đã tạo tiền đề thúc đẩy sự phát triển của ngành nghề
thủ công nghiệp. Quá trình hình thành và phát triển của làng nghề thủ công nghiệp
đồng thời là quá trình thu hẹp dần kinh tế nông nghiệp và đổi mới diện mạo nông thôn
theo hướng nghề và làng nghề gắn liền với hoạt động sản xuất nông nghiệp trong nền
kinh tế - xã hội nông thôn Việt Nam truyền thống.
Nghề và làng nghề truyền thống đã góp phần tạo dựng bản sắc văn hóa Huế,
đóng góp vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế - xã hội, nhất là đối với các vùng
nông nghiệp, nông thôn. Mặt khác, làng nghề truyền thống góp phần vào sự phân
công lao động trong nền kinh tế nông nghiệp Việt Nam truyền thống thành ba
ngành công - nông -thương nghiệp. Cơ cấu kinh tế này đã thực sự tạo cho làng xã
Việt Nam có thế ổn định lâu dài, vững chắc, thậm chí cho đến cuối thế kỷ XX đầu
thế kỉ XXI với những tiến bộ khoa học công nghệ tác động vào cũng không làm cho
nó thay đổi đáng kể. Vì vậy, trong xu thế hội nhập kinh tế và văn hóa giữa các nước
ngày càng phát triển, việc bảo tồn và phát triển các đặc trưng văn hóa của một vùng,
một quốc gia là điều vô cùng quan trọng, nó vừa giữ gìn, phát triển được truyền
thống văn hóa của dân tộc để có thể “ hòa nhập quốc tế nhưng không hòa tan”, vừa
góp phần tích cực tạo động lực thúc đẩy xóa đói giảm nghèo nâng cao đời sống cho
dân cư và đổi mới bộ mặt nông thôn, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động và cơ
cấu kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn phải gắn liền với quá trình
xây dựng nông thôn mới, trong đó phát triển ngành nghề tiểu thủ công nghiệp và
làng nghề là một trong những nhân tố có tính quyết định bởi vì phát triển ngành
nghề tiểu thủ công nghiệp và làng nghề trong nông thôn sẽ góp phần thúc đẩy phát
triển cơ sở hạ tầng nông thôn, cải tạo và giữ gìn môi trường sinh thái trong các cộng
đồng dân cư nhất là trong quá trình phát triển các ngành nghề và làng nghề truyền
1


thống gắn với du lịch sinh thái và du lịch làng nghề, cải thiện và nâng cao mức sống
cho cư dân nông thôn.
Để phát huy truyền thống của một vùng đất có bề dày lịch sử phát triển nghề
và làng nghề truyền thống phục vụ sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội
của địa phương trước xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, với lợi thế do
thiên nhiên ban tặng với một quần thể di tích văn hóa lịch sử, sinh thái thì việc khôi
phục và phát triển các làng nghề truyền thống thành các làng nghề truyền thống
phục vụ du lịch là một yêu cầu tất yếu khách quan cần thiết để giúp cho kinh tế du
lịch của tỉnh Thừa Thiên Huế phát triển nói riêng và của cả nước nói chung.
Du lịch từ lâu đã được ghi nhận như một sở thích, một hoạt động nghỉ ngơi
tích cực của con người. Ngày nay du lịch đã trở thành một nhu cầu xã hội không thể
thiếu được trong đời sống sinh hoạt của các nước đặc biệt là các nước có nền kinh
tế phát triển, các nước đang tiến hành công nghiệp hoá và đô thị hoá.
Trong những năm gần đây, du lịch làng nghề thủ công truyền thống ở Việt
Nam ngày càng hấp dẫn du khách, đặc biệt là du khách nước ngoài, bởi những giá
trị văn hóa lâu đời và cách sáng tạo sản phẩm thủ công đặc trưng ở mỗi vùng.
Nhiều du khách nước ngoài đã rất thích thú khi tham gia các tour du lịch làng
nghề. Họ từng cho biết lý do thích thăm làng nghề ở Việt Nam vì được ngắm nhìn
phong cảnh làng quê yên bình, được tìm hiểu về các vị tổ nghề, làm quen với các
nghệ nhân, nông dân và có khi còn được trực tiếp tham gia vào các quy trình sản
xuất sản phẩm thủ công.
Huế là cố đô duy nhất còn giữ lại gần như nguyên vẹn tổng thể kinh đô của
triều đại phong kiến cuối cùng ở Việt Nam với các công trình kiến trúc độc đáo
được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới. Với những ưu ái mà thiên
nhiên ban tặng cho Huế thì kinh tế du lịch thực sự trở thành ngành kinh tế mũi
nhọn. Tài nguyên du lịch ở Huế rất phong phú và đa dạng đã tạo nên sự đa dạng của
nhiều loại hình du lịch như: tham quan, chữa bệnh, an dưỡng, học tập, thể thao, tín
ngưỡng, lễ hội và đặc biệt là làng nghề truyền thống.
Phát triển du lịch làng nghề truyền thống sẽ giúp các làng nghề bước đầu phát
triển dịch vụ du lịch tại địa phương. Từng bước cải thiện chất lượng dịch vụ, khả

năng quản lý cũng như xây dựng cơ sở hạ tầng cần thiết cho việc phát triển du lịch,
để dần hướng tới các đối tượng khách hàng khắt khe hơn trong chất lượng dịch,
cũng như thu về lợi nhuận cao hơn.
2
Việc phát triển các dịch vụ du lịch làng nghề truyền thống không chỉ đem lại
lợi ích to lớn cho các làng nghề truyền thống mà còn mang lợi ích cho xã hội, bởi
bó tạo ra sân chơi mới và lành mạnh và nâng cao tầm hiểu biết của con người về
lịch sử văn hóa dân tộc nói chung và Huế-Phú Vang nói riêng.
Vấn đề phát triển du lịch làng nghề cũng được đánh giá là một vấn đề mang
tính vĩ mô và với tầ quan trọng của sự phát triển làng nghề gắn với du lịch và những
tiềm năng lớn của làng nghề với đối tượng khách du lịch, với lý do như vậy nên tôi
chọn “Du lịch các làng nghề thủ công truyền thống ở huyện Phú Vang, tỉnh
Thừa Thiên Huế” làm đề tài niên luận năm thứ ba của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Làng nghề thủ công truyền thống, nhiều tác giả đã nghiên cứu và viết thành
sách về nhiều mặt như “Huế nghề và làng nghề thủ công truyền thống, Thuận Hóa,
Huế” của tác giả Nguyễn Hữu Thông, “Tết Huế và những sản phẩm thủ công truyền
thống” Huế xưa và nay, số 43 trang 35-41 của tác giả Hoàng Bảo.
Đề tài “Đánh giá hiện trạng môi trường làng nghề truyền thống Thừa Thiên Huế”
thuộc đề tài cấp nhà nước: “Nghiên cứu cơ sở khoa học và thực tiễn cho việc xây dựng
các chính sách và biện pháp giải quyết vấn đề môi trường ở các làng nghề Việt Nam”.
Chủ trì: TS. Lê Văn Thăng, thuộc khoa Môi trường, Đại học Khoa học Huế.
- Các đề tài nghiên cứu các làng nghề truyền thống ở các tỉnh, thành khác:
+ Đề tài: “Vốn cho phát triển làng nghề ở Hà Tây”, Nguyễn Văn Công.
+ Đề tài: “ Giải pháp tín dụng ngân hàng nhằm thúc đẩy phát triển làng nghề
ngoại thành Hà Nội”, Nguyễn Thị Mùi.
+ Đề tài: “Mối quan hệ giữa văn hóa và du lịch trong thời kỳ đổi mới ở nước ta
hiện nay”, Đoàn Thị Thanh Thúy.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu đã có nhiều cách tiếp cận và giải quyết các
vấn đề dưới nhiều góc độ khác nhau, tuy nhiên nghiên cứu các làng nghề truyền thống

nhất là nhằm du lịch thì dưới góc độ kinh tế chính trị chưa có công trình nào nghiên
cứu về các làng nghề ở Phú Vang.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Du lịch làng nghề, đặc biệt là các làng nghề thủ công truyền thống đang
dần trở thành một xu hướng mới của thế giới. Bên cạnh những lợi ích nhất định
về kinh tế, loại hình du lịch này còn mang lại những lợi ích to lớn về mặt văn
3
hóa-xã hội, góp phần gìn giữ, bảo tồn những giá trị văn hóa đặc trưng của các
vùng, miền khác nhau.
Du lịch làng nghề phát triển sẽ giúp các làng nghề khôi phục và phát triển
được các giá trị văn hóa dân gian, tạo dựng môi trương du lịch văn hóa đồng thời
cải thiện tốt hơn cơ sở hạ tầng đi kèm với việc bảo vệ môi trường tại làng nghề.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục tiêu trên,đề tài có ba nhiệm vụ chủ yếu là:
-Làm rõ cơ sở lý luận về lý thuyết về làng nghề thủ công truyền thống.
-Phân tích thực trạng của các làng nghề thủ công truyền thống ở huyện phú
vang,tỉnh Thừa Thiên Huế.
-Hình thành cơ sở khoa học để đề xuất những giải pháp cơ bản để khôi phục và
phát triển các làng nghề thủ công truyền thống nhằm đạt sự mong đợi về dịch vụ du
lịch trong những năm tới.
4. Đối tượng và Phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Tập trung nghiên cứu các làng nghề thủ công truyền thống ở huyện Phú Vang,
tỉnh Thừa Thiên Huế, từ đó có những đề xuất nhằm khôi phục và phát triển các làng
nghề thủ công truyền thống này.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ giới hạn về thời gian, nguồn lực và các điều kiện khác, đề tài
chỉ tập trung nghiên cứu trong phạm vi sau đây:
-Phạm vi nội dung: Tập trung nghiên cứu về du lịch làng nghề thủ công truyền

thống ở huyện Phú Vang, Tỉnh Thừa Thiên Huế.
-Phạm vi địa điểm: Nghiên cứu tiến hành tại các làng nghề truyền thống (bao
gồm các làng nghề thủ công truyền thống) trên địa bàn huyện Phú Vang, tỉnh Thừa
Thiên Huế.
-Phạm vi thời gian: Nghiên cứu tìm hiểu các vấn đề làng nghề truyền thống
trong khoảng thời gian năm 2000 cho đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
-Phương pháp điền dã.
-Phương pháp thu thập số liệu.
-Phương pháp phân tích tổng hợp và thống kê.
4
-Phương pháp lịch sử, phương pháp logic.
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung đề tài được chia thành ba chương
Chương 1: Tổng quan về lý thuyết và địa bàn nghiên cứu.
Chương 2: Tiềm năng du lịch các làng nghề thủ công truyền thống ở huyện
Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế.
Chương 3: Thực trạng, và giải pháp phát triển các làng nghề truyền thống
5
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ LÝ THUYẾT VÀ ĐỊA BÀN
NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan về huyện Phú Vang
Phú Vang là huyện đồng bằng ven biển và đầm phá của tỉnh Thừa Thiên Huế.
Phía Bắc giáp biển Đông, phía Tây giáp huyện Hương Trà và thành phố Huế, phía
Nam giáp huyện Hương Thủy, phía Đông giáp huyện Phú Lộc.
Toàn huyện có 19 xã và 1 thị trấn, trong đó có 13 xã, thị trấn ven biển, đầm
phá và 7 xã trọng điểm nông nghiệp. Diện tích tự nhiên 28.031 ha, trong đó đất
nông nghiệp 10.829,44 ha, đất phi nông nghiệp 13.932,94 ha, đất chưa sử dụng
3.269,42 ha. Địa hình của huyện khá phức tạp, đất rộng, người đông, với 182.336
dân, trong đó có 85.830 lao động, mật độ dân số bình quân 647 người/km

2
(theo
niên giám thống kê 2013).
Phú Vang có tiềm năng lớn về đánh bắt và nuôi trồng thủy sản. Có bờ biển dài
trên 35km, có cửa biển Thuận An và nhiều đầm phá như đầm Sam, đầm Chuồn,
đầm Thanh Lam, đầm Hà Trung, đầm Thủy Tú nằm trong hệ thống đầm phá Tam
Giang - Cầu Hai với diện tích trên 6.800 ha mặt nước, là tiềm năng lớn để phát triển
đánh bắt và nuôi trồng thủy sản. Đây là ngành kinh tế mũi nhọn, là thế mạnh, lợi thế
so sánh để phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn. Huyện có cảng biển Thuận An là
vị trí chiến lược quan trọng của tỉnh Thừa Thiên Huế, có tiềm năng lớn về kinh tế
đang được khai thác và sử dụng. Bãi tắm Thuận An xinh đẹp nổi tiếng, là nơi nghỉ
mát lý tưởng đối với khách du lịch trong nước và ngoài nước khi đến tham quan cố
đô Huế.
Trên địa bàn huyện có quốc lộ 49, tỉnh lộ 10A, 10B, 10C và các tuyến trục
ngang nối các tỉnh lộ với quốc lộ tạo thành một hệ thống đường giao thông hợp lý,
thuận lợi cho giao lưu trong nội bộ huyện và với bên ngoài.
- Khí hậu, thời tiết: Phú Vang nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa
nóng, ẩm của vùng ven biển, có hai mùa mưa, nắng rõ rệt. Mùa mưa từ tháng 8 năm
trước đến tháng giêng năm sau, lượng mưa hàng năm khá lớn, trung bình khoảng
3.000mm. Mưa phân bố không đều trong năm, tập trung chủ yếu vào các tháng
9,10,11 và 12 chiếm 75-80% lượng mưa cả năm, gây úng lụt ảnh hưởng đến sản
xuất nông nghiệp, nuôi trồng, khai thác thủy sản, cũng như đời sống của nhân dân.
6
Mùa nắng gió Tây - Nam khô nóng oi bức, bắt đầu từ tháng 3 đến tháng 8, lượng
bốc hơi cao nhất là từ tháng 2 đến tháng 4 (lúc nước thủy triều thấp) làm độ mặn
trong các ao hồ nuôi thủy sản tăng, gây trở ngại cho ngành nuôi trồng thủy sản.
Thủy triều có hai chế độ, từ bán nhật triều đều đến bán nhật triều không đều, biên
độ thủy triều dưới 0,5-2 m. Tại Thuận An, độ cao thủy triều trung bình khoảng 0,4-
0,5m. Vùng Bắc Thuận An có độ cao thủy triều trung bình 0,6-1,2m. Độ cao triều
trong đầm phá thường nhỏ hơn ở vùng biển. Nhìn chung chế độ thủy triều vùng ven

biển, đầm phá của Phú Vang thuận lợi cho nghề nuôi trồng thủy hải sản.
- Địa hình, đất đai: Phú Vang thuộc vùng đất trũng, có diện tích đầm phá
lớn, đất đai bị chia cắt bởi hệ thống sông ngòi, doi cát không thuận lợi cho phát
triển hệ thống đường bộ và đường thủy. Diện tích tự nhiên 28.031,80 ha, trong
đó đất nông nghiệp 10.829,44 ha, đất phi nông nghiệp 13.932,94 ha, đất chưa sử
dụng 3.269,42 ha.
Đất đai của huyện Phú Vang chủ yếu là đất nông nghiệp và mặt nước nuôi
trồng thủy sản. Tiềm năng đất chưa khai thác còn lớn, chiếm 42,3% tổng diện tích
đất tự nhiên. Tuy nhiên, tỷ lệ đất chưa sử dụng có thể chuyển sang gieo trồng không
lớn, chủ yếu là các cồn cát, đất bãi cát. Đất mặt nước chưa sử dụng chủ yếu là đất
ao hồ, đầm phá.
- Khoáng sản: Phú Vang là nơi có nhiều khoáng sản Ti tan, tập trung ở các xã
Phú Diên, Vinh Xuân, Vinh Thanh và Vinh An, có chất lượng tốt với quy mô khá
lớn đang được khai thác.
1.2. Tổng quan về du lịch và du lịch làng nghề truyền thống
1.2.1. Khái niệm du lịch
Ngày nay, du lịch đã trở thành một hiện tượng kinh tế xã hội phổ biến không
chỉ ở các nước phát triển mà còn ở các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam.
Tuy nhiên, cho đến nay không chỉ ở nước ta, nhận thức về nội dung du lịch vẫn
chưa thống nhất.
Do hoàn cảnh khác nhau, dưới mỗi góc độ nghiên cứu khác nhau, mỗi người
có một cách hiểu về du lịch khác nhau. Do vậy có bao nhiêu tác giả nghiên cứu về
du lịch thì có bấy nhiêu định nghĩa.
Dưới con mắt của Guer Freuler thì “du lịch với ý nghĩa hiện đại của từ này là
một hiện tượng của thời đại chúng ta, dựa trên sự tăng trưởng về nhu cầu khôi phục
7
sức khoẻ và sự thay đổi của môi trường xung quanh, dựa vào sự phát sinh, phát
triển tình cảm đối với vẻ đẹp thiên nhiên”.
Kaspar cho rằng du lịch không chỉ là hiện tượng di chuyển của cư dân mà phải
là tất cả những gì có liên quan đến sự di chuyển đó. Chúng ta cũng thấy ý tưởng này

trong quan điểm của Hienziker và Kraff “du lịch là tổng hợp các mối quan hệ và
hiện tượng bắt nguồn từ các cuộc hành trình và lưu trú tạm thời của các cá nhân tại
những nơi không phải là nơi ở và nơi làm việc thường xuyên của họ”. (Về sau định
nghĩa này được hiệp hội các chuyên gia khoa học về du lịch thừa nhận)
Theo các nhà kinh tế, du lịch không chỉ là một hiện tượng xã hội đơn thuần mà
nó phải gắn chặt với hoạt động kinh tế. Nhà kinh tế học Picara- Edmod đưa ra định
nghĩa: “du lịch là việc tổng hoà việc tổ chức và chức năng của nó không chỉ về
phương diện khách vãng lai mà chính về phương diện giá trị do khách chỉ ra và của
những khách vãng lai mang đến với một túi tiền đầy, tiêu dùng trực tiếp hoặc gián
tiếp cho các chi phí của họ nhằm thoả mãn nhu cầu hiểu biết và giải trí.”
Khác với quan điểm trên, các học giả biên soạn bách khoa toàn thư Việt Nam
đã tách hai nội dung cơ bản của du lịch thành hai phần riêng biệt. Theo các chuyên
gia này, nghĩa thứ nhất của từ này là “một dạng nghỉ dưỡng sức tham quan tích cực
của con người ngoài nơi cư trú với mục đích: nghỉ ngơi, giải trí, xem danh lam
thắng cảnh…”. Theo định nghĩa thứ hai, du lịch được coi là “một ngành kinh doanh
tổng hợp có hiệu quả cao về nhiều mặt nâng cao hiểu biết về thiên nhiên, truyền
thông lịch sử và văn hoá dân tộc, từ đó góp phần làm tăng thêm tình yêu đất nước,
đối với người nước ngoài là tình hữu nghị với dân tộc mình, về mặt kinh tế, du lịch
là lĩnh vực kinh doanh mang lại hiệu quả rất lớn; có thể coi là hình thức xuất khẩu
hàng hoá và dịch vụ tại chỗ.
Để tránh sự hiểu lầm và không đầy đủ về du lịch, chúng ta tách du lịch thành
hai phần để định nghĩa nó. Du lịch có thể được hiểu là:
Sự di chuyển và lưu trú qua đêm tạm thời trong thời gian rảnh rỗi của cá nhân
hay tập thể ngoài nơi cư trú nhằm mục đích phục hồi sức khoẻ, nâng cao tại chỗ
nhận thức về thế giới xung quanh, có hoặc không kèm theo việc tiêu thụ một số giá
trị tự nhiên, kinh tế, văn hoá và dịch vụ của các cơ sở chuyên cung ứng.
Một lĩnh vực kinh doanh các dịch vụ nhằm thoả mãn nhu cầu nảy sinh trong
quá trình di chuyển và lưu trú qua đêm tạm thời trong thời gian rảnh rỗi của cá nhân
hay tập thể ngoài nơi cư trú với mục đích phục hồi sức khoẻ, nâng cao nhận thức tại
chỗ về thế giới xung quanh.

8
Luật Du lịch của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành ngày 01
tháng 01 năm 2006, tại chương 1, điều 10 định nghĩa:" Du lịch là hoạt động của
con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của họ nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan,
tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong thời gian nhất định ".
1.2.2. Khái niệm làng nghề thủ công truyền thống
Theo tiến sỹ Phạm Côn Sơn trong cuốn “ Làng nghề truyền thống Việt Nam”
làng nghề được định nghĩa như sau" Làng là một đơn vị hành chính cổ xưa mà cũng
có nghĩa là một đơn vị quần cư đông người, sinh hoạt có tổ chức, có kỷ cương tập
quán riêng theo nghĩa rộng. Làng nghề không những là một làng sống chuyên nghề
mà cũng hàm ý là những người cùng nghề sống hợp quần để phát triển công ăn việc
làm. Cơ sở vững chắc của các làng nghề là sự vừa làm ăn tập thể vừa phát triển kinh
tế, vừa giữ gìn bản sắc dân tộc và cá biệt của địa phương".
Xem xét định nghĩa ở dưới góc độ kinh tế theo Dương Bá Phượng trong: "Bảo
tồn và phát triển các làng nghề trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa” thì "
làng nghề là làng ở nông thôn có một hoặc một số nghề thủ công tách ra khỏi thủ
công nghiệp và kinh doanh độc lập". Thu nhập từ các nghề đó chiếm tỷ trọng cao
trong tổng giá trị của toàn làng” Làng nghề theo cách phân loại về thời gian gồm có:
Làng nghề truyền thống và làng nghề mới. Niên luận đi sâu vào tìm hiểu làng nghề
truyền thống ( Phú Vang ) vì có ý nghĩa quan trọng trong việc phát triển du lịch hiện
nay. Theo tiến sỹ Phạm Côn Sơn trong cuốn "Làng nghề truyền thống Việt Nam"
thì làng nghề được định nghĩa như sau: Làng nghề truyền thống là làng nghề cổ
truyền làm nghề thủ công truyền thống. Ở đây không nhất thiết dân làng đều sản
xuất thủ công. Người thợ thủ công nhiều trường hợp cũng là nông dân. Nhưng yêu
cầu chuyên môn hóa cao đã tạo ra những người thợ chuyên sản xuất hàng truyền
thống ngay tại làng quê của mình.
1.2.3. Đặc điểm du lịch làng nghề thủ công truyền thống
Làng nghề truyền thống tồn tại ở nông thôn, gắn bó chặt chẽ với nông nghiệp:
Các làng nghề xuất hiện và tồn tại trong từng làng xã ở nông thôn. Các ngành
nghề thủ công nghiệp tách dần khỏi nông nghiệp. Sản xuất nông nghiệp và sản xuất

kinh doanh thủ công nghiệp trong các làng nghề đan xen nhau. Người thợ thủ công
trước hết và đồng thời là người nông dân. Các gia đình nông dân trước hết vừa làm
ruộng vùa làm thủ công nghiệp. Sự ra đời của các làng nghề đầu tiên là do nhu cầu
giải quyết lao động phụ, lao động dư thừa lúc nhàn rỗi giữa các mùa vụ và đáp ứng
9
nhu cầu tiêu dùng của từng gia đình và của từng làng xã. Trong các làng nghề,
người nông dân thường tự sản xuất, tự sửa chữa đáp ứng nhu cầu ít ỏi hàng tiêu
dùng thường ngày của chính mình. Công nghệ, kỹ thuật sản xuất mang tính truyền
thống: Nghĩa là có bước tiếp nối, truyền tải, kết tinh giá trị từ thế hệ này sang thế hệ
khác. Chất lượng sản phẩm của làng nghề không phụ thuộc vào công cụ sản xuất
hiện đại, có năng xuất cao, theo dây truyền mà chủ yếu dựa vào kinh nghiêm, bí
quyết, tài hoa của người thợ chế tác đồ thủ công. Hầu hết các làng nghề truyền
thống được hình thành xuất phát từ các nguồn nguyên liệu tại chỗ, trên địa bàn địa
phương, đặc biệt các nghề truyền thống sản xuất những sản phẩm tiêu dùng như:
đan lát mây, tre ( mũ, rổ, rá, sọt, cót ) sản xuất vật liệu xây dựng nguyên liệu
thường có tại chỗ, trên địa bàn địa phương.
Một số ngành nghề còn dùng cả những phế phẩm, phế thải trong công nghiệp,
nông nghiệp và sinh hoạt để làm nguyên liệu sản xuất, nên chúng lại càng có sẵn
trên địa bàn. Phần đông lao động trong các làng nghề truyền thống là lao động thủ
công: Nhờ vào kỹ thuật khéo léo, tinh sảo của đôi bàn tay, đầu óc tẩm mỹ và đầy
tính sáng tạo của người thợ, của các nghệ nhân, phương pháp dạy nghề chủ yếu lao
động nhờ vào kỹ thuật khéo léo, tinh sảo. Trước kia, do trình độ kỹ thuật và công
nghệ chưa phát triển thì hầu hết các công đoạn trong quy trình sản xuất đều là lao
động thủ công đơn giản. Tuy nhiên, một số loại sản phẩm còn có một số công đoạn
quy trình sản xuất vẫn phải duy trì kĩ thuật lao động thủ công tinh sảo. Hầu hết các
làng nghề truyền thống dù hình thành bằng con đường nào đi nữa thì chúng đều có
các nghệ nhân làm cốt lõi và là người hướng dẫn để phát triển làng nghề. Vai trò
của các nghệ nhân là rất quan trọng đối với các làng nghề, truyền nghề, đem bí
quyết nghề nghiệp ở nơi khác về truyền cho làng mình.
1.2.4. Lợi ích du lịch làng nghề thủ công truyền thống

Du lịch làng nghề truyền thống là một chiến lược quan trọng trong việc phát
triển làng nghề bền vững. Có thể thấy rằng du lịch làng đã mang lại lợi ích to lớn về
mặt kinh tế xã hội cho nhiều đối tượng. Việc phát triển du lịch làng nghề đã mang
lại hiệu quả kinh tế cho làng nghề như nâng cao thu nhập của các hộ dân, góp phần
làm hiện đại hóa cơ sở hạ tầng ở làng nghề Đồng thời việc phát triển du lịch làng
nghề còn giúp nâng cao tầm hiểu biết của người dân trong nước về văn hóa lịch sử
dân tộc, tăng thêm tình yêu đối với quê hương đất nước; du lịch làng nghề truyền
thống còn là một công cụ hữu hiệu để quảng bá hình ảnh văn hóa dân tộc tới du
khách nước ngoài.
10
1.2.5. Vai trò làng nghề truyền thống Phú Vang đối với hoạt động du lịch
Giữa hoạt động du lịch và làng nghề có mối quan hệ chặt chẽ hữu cơ tác động
qua lại lẫn nhau. Phát triển du lịch tại các làng nghề truyền thống là một giải pháp
hữu hiệu để phát triển kinh tế xã hội làng nghề truyền thống nói chung theo hướng
tích cực và bền vững. Ngược lại làng nghề truyền thống cũng là trung tâm thu hút
khách du lịch và có tác động mạnh mẽ trở lại khách du lịch trong mục tiêu phát
triển chung. Làng nghề truyền thống là một không gian văn hóa – kinh tế - xã hội
lâu đời, nó bảo lưu tinh hoa văn hóa từ đời này sang đời khác đúc kết bởi nghệ nhân
tài hoa. Môi trường văn hóa làng quê với cây đa bến nước sân đình, các hoạt động
lễ hội và phường hội, phong tục tập quán nếp sống đậm nét văn hoá truyền thống.
Tất cả những điều đó luôn luôn gắn kết với sự hình thành và phát triển của làng
nghề truyền thống. Và tạo ra nét văn hóa rất riêng của mỗi làng nghề truyền thống.
Phong cảnh làng nghề cùng với những giá trị chứa đựng bên trong làng nghề truyền
thống sẽ là điểm du lịch lý tưởng cho du khách, đặc biệt là khách quốc tế đến tham
quan, tìm hiểu, mua sắm tại các làng nghề. Làng nghề truyền thống còn là nơi sản
xuất ra những hàng thủ công mỹ nghệ có giá trị nghệ thuật cao, tiêu biểu độc đáo
cho mỗi vùng miền, địa phương. Vì vậy du khách đến với các điểm du lịch làng
nghề truyền thống còn mong muốn chiêm ngưỡng, mua sắm các sản phẩm thủ công
làm vật kỷ niệm trong chuyến đi của mình. Thực tế nhu cầu mua sắm của du khách
là rất lớn, làng nghề truyền thống sẽ đảm bảo đáp ứng đầy đủ nhu cầu tinh tế và đa

dạng của du khách. Nước ta có hàng nghìn, hàng vạn làng nghề thủ công truyền
thống thuộc các nhóm ngành nghề như mây tre, sơn mài, gốm sứ, thêu ren, đúc
đồng,…Với sự đa dạng các làng nghề đã góp phần quan trọng trong việc giữ gìn các
giá trị truyền thống văn hóa, đồng thời là cơ sở để phát triển ngành du lịch vốn thừa
hưởng những thế mạnh về văn hóa.
Những địa phương có nhiều làng nghề truyền thống phải kể đến Hà Nội, Bắc
Ninh, Hưng Yên, Ninh Bình, Nam Định, Thanh Hóa, Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng…
Chừng đó cái tên cũng đủ để nói lên sự đa dạng phong phú đầy tiềm năng để phát
triển du lịch làng nghề.
Vùng đất Thừa Thiên Huế như nhiều miền quê khác trong cả nước, trải qua
nhiều thế hệ dựng nước và giữ nước, thông qua quá trình lao động sản xuất phục
vụ cho đời sống hàng ngày của người dân, làm nảy sinh nhu cầu tiêu dùng về các
sản phẩm thủ công. Làng nghề ra đời nhằm đáp ứng những nhu cầu trước đó của
con người.
11
Các sản phẩm thủ công truyền thống của mỗi làng nghề luôn tạo ra sự hấp dẫn
đối với du khách khi họ tới thăm mỗi làng nghề truyền thống của Phú Vang. Đến
với làng nghề, du khách có thể cảm nhận một cách thực thụ về các sản phẩm truyền
thống. Có thể tận mắt chứng kiến quá trình tạo ra mỗi sản phẩm. Từ đó du khách sẽ
tìm thấy cảm giác thích thú, thích khám phá sự mới mẻ và có thể trực tiếp trải
nghiệm, tham gia vào hoạt động sản xuất cùng với mỗi người dân, người thợ thủ
công. Và có thể mua về những sản phẩm đặc trưng làm quà tặng cho mỗi người
thân trong gia đình. Chính vì vậy, du lịch thăm quan làng nghề truyền thống là một
trong những loại hình du lịch mới đang được đưa vào khai thác cho các tour du lịch.
Bởi vậy làng nghề truyền thống có một ý nghĩa và vai trò hết sức quan trọng đối với
hoạt động du lịch của Thừa Thiên Huế.
du lịch làng nghề truyền thống đã góp phần phát triển loại hình du lịch “Du
khảo đồng quê”. Đây là một loại hình du lịch có thể giúp cho du khách có được sự
khám phá mới mẻ, sự trải nghiệm và sự gần gũi với thiên nhiên hoang sơ. Đặc biệt
trong loại hình du lịch “ du khảo đồng quê” thì làng nghề truyền thống cũng góp

phần quan trọng trong việc giúp cho du khách trải nghiệm, tham gia vào hoạt động
sản xuất. Mỗi làng nghề truyền thống đều chứa đựng trong đó những yếu tố văn hoá
của mỗi làng nghề. Và chỉ khi tham gia vào những tour du lịch như vậy thì du khách
mới có thể cảm nhận được những yếu tố văn hoá của mỗi vùng miền .
Làng nghề truyền thống Phú Vang còn góp phần làm tăng doanh thu không chỉ
cho nhân dân mỗi làng nghề thông qua tiêu thụ sản phẩm mà nó còn góp phần làm
tăng doanh thu cho ngành du lịch Thừa Thiên Huế khi mà khách du lịch mua tour,
tham gia vào hoạt động du lịch tại các làng nghề truyền thống Phát triển làng nghề
truyền thống không chỉ mang lại lợi ích kinh tế góp phần phát triển hoạt động du
lịch mà còn là cơ hội để quảng bá hình ảnh con người và đất nước Việt Nam trong
đó có Thừa Thiên Huế.
12
CHƯƠNG 2: TIỀM NĂNG DU LỊCH CÁC LÀNG NGHỀ
THỦ CÔNG TRUYỀN THỐNG Ở HUYỆN PHÚ VANG,
TỈNH THỪA THIÊN HUẾ
2.1. Các làng nghề truyền thống
2.1.1. Đặc điểm địa lý, nguồn gốc dân cư làng nghề hoa giấy Thanh Tiên
♦ Đặc điểm địa lý:
Thanh Tiên là một trong những làng được thành lập sớm ở xứ Thuận Hóa.
Cùng với một số địa phương khác, làng Thanh Tiên là một trong mười chín xã
thuộc tổng Mậu Tài, huyện Tư Vinh, phủ Triệu Phong. Nay là xã Phú Mậu, huyện
Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế.
Nằm bên bờ nam hạ lưu sông hương, phía bắc giáp thôn Mậu Tài, phía Nam
giáp Thế Vinh, Đông Tây giáp dòng sông Hương bởi cồn Triều Sơn nằm giữa. Đến
nay, người dân trong vùng vẫn thuộc câu ca lưu truyền nói về địa thế và sự trù phú
của làng quê mình từ xa xưa:
“Thanh Tiên cao bợc hẩng bờ
Gọi ghe ghé lại mẹ nhờ duyên con”
Câu ca dao gơi cho ta cảnh một ngôi làng ven sông thanh bình với tiếng hũ giã
gạo của các cô thôn nữ, đó là nơi dừng chân nghỉ ngơi của các thương nhân, của

những ghe thuyền phương xa sau những chuyến hàng lên cảng thị Thanh Hà, phố cổ
Bao Vinh
Là một làng nông nghiệp nhưng Thanh Tiên có diện tích khá nhỏ: một mẫu
(đất thổ cư), dân số chỉ khoảng 600 người với hơn 120 hộ gia đình.
♦ Nguồn gốc dân cư:
Nguồn gốc dân cư của làng phần lớn là dân từ các tỉnh phía bắc (Thanh-Nghệ-
Tĩnh) vào từ giữa thế kỷ XV. Người có công khai làng là ngài Võ Đình Tiên. Theo
gia phả của dòng họ này còn lưu lại ta có thể biết rằng: “Ngài Võ Đình Tiên từ tỉnh
Sơn Tây phủ chúa Nguyễn đến đóng đô ở Phú Xuân đó có công khai canh tám mươi
ba mẫu ruộng tại làng Thanh Tiên. Vì vậy làng vốn có truyền thống làm nghề nông,
tuy nhiên, vào tháng Chạp, Thanh Tiên lại rộn rã với nghề làm hoa giấy. Nghề làm
hoa giấy ở Thanh Tiên được ghi trong danh mục thống kê các nghề thủ công từ thế
13
kỷ 16 - 19 của sách “Đại Nam nhất thống chí”. Ngài phụng duyên với bà Trần Thị
Lê (tự là Lót) người làng Nam Phự, xã Quảng Phú, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa
Thiên. Hai ông bà có với nhau ba người con, sau khi mất cả hai được an táng tại
làng cùng với năm người con.
2.1.2 Đặc điểm địa lý, nguồn gốc gốc dân cư làng Sình
♦ Đặc điểm địa lý:
Trong quyển 3 “Ô châu cận lục” của Dương Văn An, ở chương bản đồ của xã
Thuận Hóa có ghi: “Lại Ân thuộc huyện Tư Vinh, Phủ Triệu Phong” và Sình là tên
nôm của làng Lại Ân. Ngày nay, từ trung tâm thành phố Huế, theo dòng sông
Hương 7km về phía Đông Bắc, qua chợ Bao Vinh dừng lại ở bến đò Triều Sơn
chúng ta sẽ đến ngã ba Sình nơi gặp gỡ của hai nhóm sông Hương và sông Bồ như
câu hò: “Đò về Vĩ Dạ thẳng ngã ba Sình”. Làng Sình trở thành một địa danh quen
thuộc của người dân xứ Huế.
Làng Sình hiện nay có diện tích khoảng 2,5 km² với khoảng 200 mẫu công
điền, dân số hơn 1000 người bao gồm 200 hộ gia đình chia làm 13 xóm và 3 giáp.
Làng Sình là một trong bảy làng thuộc xã Phú Mậu, huyện Phú Vang (Mậu Tài,
Tiên Nộn, Võng Trì, Thế Vinh, Thiên Ân) ở vào thế đắc địa bởi hướng thủy, tạo

thành một bán đảo trù phú, phía Đông và phía Bắc tựa lưng vào làng Phổ Lợi (Phú
Dương) làng Vĩnh Lại (xã Phú Thanh) phía Tây và Nam quay mặt ra sông Hương.
Từ thành phố Huế qua Đập Đá, qua cầu chợ dinh chạy thẳng 7km làng Sình
nằm khiêm tốn, thanh bình trong những rặng cây xanh, những ngôi nhà nhỏ, bao
bọc xung quanh làng Sình là phong cảnh thiên nhiên tươi đẹp. Chính những con
sông, những cánh đồng lúa, đồng bắp tươi tốt giữa trời-mây-sông nước đã nuôi
dưỡng một nền văn hóa dân gian đa dạng và đặc sắc cho dân tộc, khơi dậy niềm tự
hào và yêu nước của nhân dân địa phương nói riêng và những người đã từng biết
đến làng Sình nói chung.
♦ Nguồn gốc dân cư:
Làng Sình là một vùng đất hình thành cùng lịch sử ra đời xứ Huế. Huế vào đầu
công nguyên thược lãnh thổ người Chăm. Trong thời kỳ Bắc thuôc, dưới thời nhà
Hán, Huế thuộc huyện Lô Dung, quận Nhật Nam. Năm 192 Khu Liên khởi nghĩa
thắng lợi lập nên nước Lâm Ấp tức là nước Champa. Dưới thời nhà Đường, Huế
thuộc Lâm Châu là một vùng đất tranh chấp giữa các triều đình Trung Quốc và
nước Lâm Ấp. Đến thời nhà Lý thì Huế thuộc về châu Lý của nước Lâm Ấp. Năm
14
1306 vua Chế Mân của nước Lâm Ấp lấy Huyền Trân Công Chúa con vua Trần
Nhân Tông, nhường châu Ô và châu Lý cho nước ta, được đổi tên là châu Thuận và
châu Hóa.
Từ giữa thế kỷ XVI Huế trở thành đầu cầu cho phong trào Nam Tiến lúc nhà
nước Đàng Trong thành lập Huế trở thành trung tâm thứ hai của nước ta bên cạnh
trung tâm Thăng Long. Văn hóa Huế không chỉ là đặc trưng của Huế mà Huế trở
thành trung tâm văn hóa ảnh hưởng đến cả đàng trong, nửa nước phía nam. Văn hóa
Huế có lẽ đã bắt nguồn từ vùng có nhiều di cư nhất vào đây là Thanh Hóa-Nghệ An
và đã được bổ sung bằng các yếu tố địa phương.
Công cuộc Nam tiến của nước ta bắt đầu từ thế kỷ X sau khi nước ta thoát khỏi
ách đô hộ của Trung Quốc. Thời kỳ đầu việc tranh giành đất đai vùng Bình Trị
Thiên và Quảng Nam đến Bình Định được thực hiện bằng chiến tranh và hòa hảo.
Đến thế kỷ XVI Nguyễn Hoàng được chúa Trịnh cử vào trấn thủ vùng Thuận

Quảng. Nguyễn Hoàng đã dùng vùng này để xây dựng nhà nước đàng trong mang
tính chất quân sự, làm đầu cầu để mở mang bờ cõi về phía nam, chinh phục vùng
Nam Trung Bộ và Nam Bộ. Thuận Quảng là nơi mở đầu cho sự phát triển kinh tế
thị trường của nước ta với mục đích sản xuất thêm lương thực và làm giàu nhà nước
đàng trong khi thi hành một chính sách mở cửa và buôn bán với nước ngoài như
Hội An (Quảng Nam), Thanh Hà (Thừa Thiên). Việc di dân của người Trung Hoa
theo nhà Minh sang lập các làng Minh Hương ở Huế, Hội An, Đồng Nai đã giúp
thêm cho hướng phát triển này. Công cuộc phát triển đó có ảnh hưởng rất lớn đến
lối sống cũng như sinh hoạt văn hóa dân gian của dân Huế.
Cuộc chiến tranh Trịnh-Nguyễn đã ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế đương
thời, sự chia cắt đất nước đã làm ngăn trở sự phát triển của nền kinh tế chung,
không những đã làm tổn thương đến tình cảm dân tộc mà còn ảnh hưởng đến quá
trình hình thành dân tộc.
Mặc dù chịu cảnh chia cắt, sử biến phức tạp nhưng những người dân Thuận
Hóa đã nhanh chóng tập hợp lại lập thành những xóm làng ngày càng đông đúc:
“Kịp đến lúc trời mở mang, vận đất ngày càng đổi mới, tục phúc dạ trở nên hoa văn,
chốn hương mãng trở thành đô hội”.
Trên một vùng “Ô châu ác địa” mà con người dễ cảm thấy bất an, nơi mà “Con
chim kêu cũng sợ, cá vẫy vùng cũng lo” có sức mạnh và nghị lực để vươn lên vẫn
15
luôn là khát vọng mãnh liệt của cả cộng đồng. Làng Sình đã đáp ứng, đảm đương
được đồng thời hai nhiệm vụ đó với nghề tranh dân gian và hội vật võ truyền thống,
hai nhiệm vụ này có quan hệ rất mật thiết với nhau.
Trung tâm của cả làng Lại Ân là đình làng, đình làng ở Lại Ân với tư cách là
bộ mặt kiến trúc của một làng, được xây dựng ở ngay đầu làng như một người chủ
hiếu khách niềm nở chào đón những ai đến thăm làng. Đây là nơi thờ các vị thành
hoàng, ngài khai canh, các phúc thần Tiên Hiền liệt tổ, các vị thần nghề nghiệp của
làng như Thần Nông, tổ nghề tranh Nội đình được trưng bày nhiều kí tự, lọng che,
bài vị sắc phong những bức đại tự và nhiều hoàng phi câu đối Xung quanh là
những thửa ruộng màu. Đình là nơi thờ Thành hoàng-vị thần có công khai khẩn đất

đai, theo lời những người đi trước thì người đầu tiên có công lập làng là một người
đàn bà họ Lê, quê Thanh Hóa không chồng không con. Về sau bà bỏ đây đi nơi
khác không để lại một dấu vết. Ban đầu miếu thờ ngài khai canh làng Sình nằm ở
ngã ba Hương Lộ. Năm 1985 do sai lầm trong việc “bài trừ mê tín dị đoan” miếu bà
bị đập. Dân làng Sình phải đưa ngài khai canh về thờ ở đình làng.
Theo cuốn “Lệ làng” cho biết, từ khi thành lập cho đến đời vua Tự Đức, làng
Lại Ân có 18 dòng họ được sắp xếp theo thời gian.
Đứng đầu là tộc Phan rồi đến tộc Võ, tộc Hà, tộc Lê, tộc Đặng, tộc Đinh, tộc
Trần, tộc Phạm, tộc Huỳnh, tộc Nguyễn, tộc Đào, tộc Ngô
Hiện nay làng Lại Ân có đến 34 dòng họ nhưng các họ như họ Lê, Đặng, Đào,
Ngô (nguyên gốc) không còn nữa. Cư dân có sự biến động rất lớn. Dân làng Lại Ân
đã phiêu tán đi nhiều nơi và cũng do nhiều nơi tụ tập về.
2.1.3. Đặc điểm địa lý, nguồn gốc dân cư làng nghề nước mắm Làng Trài-
Phú Hải
♦ Đặc điểm địa lý:
Làng Cự Lại, xã Phú Hải, huyện Phú Vang là một xã vùng biển và đầm phá
cách trung tâm huyện lỵ khoảng 25 km nằm về phía Tây Bắc, có tọa độ địa lý
107,658° đến 107,681° kinh độ Đông và từ 16,526° đến 16,557° vĩ độ Bắc, cách
thành phố Huế khoảng 23 km về hướng Đông; có chiều dài 2 km, bình quân chiều
rộng có 900m; diện tích tự nhiên có 333,2 ha, trong đó diện tích đất thổ cư: 57,16
ha, diện tích đất nông nghiệp 15,7 ha, đất Lâm nghiệp có 27 ha, đất nuôi trồng thủy
sản có 11,34 ha, diện tích mặt nước có 129 ha, đất mồ mã bạch sa có 93 ha.
16
Xã Phú Hải có vị trí:
- Phía Đông giáp: Biển Đông.
- Phía Tây giáp: Phá Tam Giang.
- Phía Nam giáp: Xã Phú Diên.
- Phía Bắc giáp ; Xã Phú Thuận.
Xã có tuyến Quốc lộ 49B đi ngang qua là điều kiện thuận lợi trong việc lưu
thông và trao đổi hàng hóa giữa địa phương với các vùng lân cận. Bên cạnh đó, xã

Phú Hải vừa giáp Biển Đông, vừa giáp phá Tam Giang, nên có tiềm năng lớn, là
điều kiện thuận lợi để phát triển ngư nghiệp, dịch vụ, du lịch, chế biến và nuôi trồng
thủy sản, góp phần phát triển nền kinh tế của xã nhà.
Toàn xã hiện có: 1.615 hộ với 8.129 khẩu được chia thành 4 thôn: thôn Cự Lại
Bắc, thôn Cự Lại Trung, thôn Cự Lại Đông và thôn Cự Lại Nam. Tỷ lệ hộ nghèo:
6,19%. Cơ cấu kinh tế của xã tại Đại hội Đảng bộ xã lần thứ VII nhiệm kỳ 2010-
2015 xác định là “Dịch vụ - Tiểu thủ công nghiệp và đánh bắt thủy hải sản”, do đó,
Đảng bộ, chính quyền địa phương cùng toàn dân, toàn quân trên địa bàn xã đang ra
sức thi đua lập nhiều thành tích nhằm đạt được thắng lợi mục tiêu mà Đại hội đề ra.
- Địa hình:
Là một xã ven Biển và phá Tam Giang của huyện Phú Vang, xã Phú Hải có
địa hình tương đối bằng phẳng, nằm trải dọc ven biển và phá Tam Giang, thấp dần
từ Đông sang Tây và từ Bắc xuống Nam, phía Tây là vùng trũng gồm ruộng lúa, các
ao đầm nuôi trồng thủy sản, phía Đông Bắc là vùng đất cát ven biển, nhìn chung địa
hình địa mạo cũng khá thuận lợi cho việc phát triển hạ tầng khu dân cư cũng như
sản xuất nông, lâm ngư nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản
- Khí hậu:
Xã Phú Hải nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, ẩm của vùng ven biển,
có hai mùa mưa, nắng rõ rệt.
- Nhiệt độ trung bình hàng năm 25
0
C, nhiệt độ cao nhất khoảng 38 - 40
0
C, thấp
nhất 10,2
0
C.
- Lượng mưa:
+ Từ tháng 8 đến tháng 1 năm sau lượng mưa chiếm 78% cả năm.
+ Mưa lớn nhất là tháng 10,11 trung bình 580 - 759 mm/tháng, đây cũng là

mùa lụt chính ở Thừa Thiên Huế.
+ Mùa khô nóng ẩm, từ tháng 2 đến tháng 8 chiếm 22% lượng mưa cả năm, ít
mưa nhất là tháng 4, 5.
17
+ Nắng trung bình có từ 1800 - 2000 giờ nắng/năm cao nhất tháng 5 - 7.
- Độ ẩm trung bình: 80%
- Gió: Chịu ảnh hưởng của 02 loại gió chính
+ Gió mùa Đông Bắc: Từ tháng 9 đến tháng 2 năm sau. Trong thời gian từ
tháng 9 đến tháng 11 thường xuất hiện những cơn bão kèm theo mưa lớn gây lũ lụt.
+ Gió Tây Nam xuất hiện từ tháng 3 đến tháng 8 hàng năm.
- Thuỷ văn:
Xã Phú Hải là một xã đồng bằng ven biển và đầm phá của khu vực miền
Trung, nằm trong hệ thủy văn của đầm phá Tam Giang - Cầu Hai với đặc điểm Hệ
đầm phá Tam Giang - Cầu Hai có chiều dài 68 km, tổng diện tích mặt nước 216 km
2
và do ba đầm, phá hợp thành: Phá Tam Giang, đầm Thủy Tú và đầm Cầu Hai.
- Tài nguyên
Tài nguyên đất:
Trong số 333,23ha diện tích tự nhiên có những loại đất chính sau:
+ Đất trồng lúa: Diện tích 16,23 ha chiếm 4,87% diện tích đất tự nhiên. Được
bồi đắp một lượng đất phù sa khá lớn từ thượng nguồn sông Hương đổ về vào mùa
lũ lụt, là loại đất được hình thành do phong hóa đá mẹ khác nhau, được nhân dân
địa phương cải tạo để sản xuất nông nghiệp. Loại đất này được phân bố chủ yếu ở
Thôn Cự Lại Trung và Cự Lại Bắc.
+ Đất trồng cây hằng năm khác: Diện tích 6,27 ha, chiếm 1,88 % diện tích đất
tự nhiên. Phân bố tập trung và hình thành các dải đất hẹp tập trung ở khu dân cư.
Loại đất này đang được khai thác một cách khá triệt để vào sản xuất nông nghiệp
như trồng cây rau màu, đậu đỗ
+ Đất trồng cây lâu năm: Không có.
+ Đất nuôi trồng thuỷ sản: Diện tích 20,68 ha chiếm 6,21% diện tích đất tự nhiên.

+ Đất ở: Diện tích 29,67 ha chiếm 8,90% diện tích đất tự nhiên.
+ Đất mặt nước chuyên dùng: Diện tích 152,63 ha chiếm 45,81% diện tích đất
tự nhiên.
+ Đất tôn giáo tín ngưỡng: Diện tích 2,42 chiếm 0,73% diện tích đất tự nhiên.
+ Đất Nghĩa trang, nghĩa địa: diện tích 29,56 ha chiếm 3,9% diện tích đất tự nhiên.
+ Đất chưa sử dụng: Diện tích 28,28 ha chiếm diện tích 8,49% diện tích
đất tự nhiên.
- Tài nguyên nước:
18
Khu vực xã có đường bờ biển kha dài phía Đông, phía Tây là Đầm phá Tam
Giang, thuận lợi cho phát triển nuôi trồng thủy hải sản. Nguồn nước chủ yếu được
cung cấp từ 02 nguồn chính đó là: Nước đầm phá Tam Giang và nước ngầm. Nước
của đầm Phá Tam Giang trực tiếp cung cấp nhiều nhất trên bề mặt được tích tụ trên
hệ thống khe và ô trũng. Mạch nước ngầm khá lớn khai thác đơn giản, thuận lợi
đảm bảo phục vụ cho sinh hoạt và phát triển sản xuất nông nghiệp.
- Tài nguyên rừng:
Trên địa bàn xã có 21,93 ha đất lâm nghiệp với chủ yếu là diện tích rừng trồng
sản xuất, không có đất rừng tự nhiên. Diện tích này là khá lớn so với các xã khác
trong huyện. Tuy nhiên, việc trồng rừng trên địa bàn của xã vẫn còn nhiều khó khăn
đó là thiếu nước và thiếu hệ thống giao thông để phục vụ cho vận chuyển, chăm sóc
và bón phân, cây giống ngoài ra do địa hình dốc nên đất bị xói mòn, bạc màu và
không tích tụ nước để phục vụ cho cây xanh tốt.
- Tài nguyên biển:
Xã Phú Hải có bờ biển trải dài và tương đối rộng với nguồn tài nguyên sinh
vật biển dồi dào và có tính đa dạng sinh học cao. Vì vậy sẽ thuận lợi cho phát triển
nuôi trồng và đánh bắt hải sản. Trong tương lai xã sẽ chú trọng phát triển đánh bắt
xa bờ để tận dụng nguồn tài nguyên dồi dào hiện có của biển.
- Tài nguyên khoáng sản:
Xã Phú Hải có tài nguyên khoáng sản với trữ lượng lớn, chủ yếu phân bố dọc
bờ biển, gồm có: các mỏ cát có hàm lượng SiO

2
cao trên 90% và các mỏ khoáng sản
Titan trữ lượng lớn, phân bố dọc biển.
- Tài nguyên nhân văn:
Toàn xã Phú Hải hiện có 1.724 hộ, tương ứng 8.129 nhân khẩu. Số lượng
trong độ tuổi lao động chiếm tỷ lệ trung bình, khoảng 50%, trình độ văn hóa 12/12
khoảng 40%. Tuy nhiên đây là một xã tập trung vào đánh bắt xa bờ và chưa phát
triển ngành nghề, dịch vụ nên số lao động trong độ tuổi đa số là lao động già, số lao
động trẻ còn lại rất ít, đa phần đi làm ăn xa như vào TP. HCM và các khu đô thị lớn
trong và ngoài tỉnh.
♦ Nguồn gốc dân cư:
Làng Cự Lại, xã Phú Hải (tục còn gọi là “Làng Trài”) do Ngài bổn Thổ Tiền
khai canh Phan Qúy Công, cùng các vị Tiền bối khai canh, khai khẩn đã lập nên
19
cách đây khoảng 463 năm và các vị Thủy tổ các họ (tục còn gọi là phụ tộc, phụ
phái) cùng nhau xây dựng qua nhiều thế hệ cho đến nay.
2.1.4 Đặc điểm địa lý, nguồn gốc dân cư làng nghề rượu gạo làng Chuồn
♦ Đặc điểm địa lý:
“Đầm phá Tam Giang” - hệ thống đầm phá rộng nhất Đông Nam Á - là nguồn
sinh sống của bao lớp người dân Việt. Ven theo bờ phá Tam Giang có những ngôi
làng được hình thành cách đây 500-600 năm và cho đến nay vẫn còn giữ được
những nét cổ kính cũng như một đời sống văn hóa tinh thần mang đậm chất làng
quê Việt. Làng Chuồn (là cách nói tiếng Nôm của Làng An Truyền ngày nay, thuộc
xã Phú An- huyện Phú Vang – tỉnh Thừa Thiên Huế) là một ngôi làng cổ như thế.
Làng Chuồn là 1 làng quê bên chân sóng nằm khuất nẻo bên ao đầm ruộng lúa
cách TP Huế gần 10 km về hướng Đông Bắc.
Phú An là một trong 21 xã và thị trấn của huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên
Huế, xã nằm bên phá Tam Giang một trong những đầm phá lớn nhất Đông Nam Á
với diện tích khoảng 22.000 hecta, trải dài từ huyện Phong Điền đến huyện Phú Lộc
với khoảng 70km (sở thủy sản tỉnh Thừa Thiên Huế năm 2009). Tổng diện tích tự

nhiên của xã Phú An là 1.128 hecta trong đó có khoảng 648 hecta là mặt nước đầm
phá được sử dụng cho mục đích nguồn lợi thủy hải sản, nuôi trồng và giao thông
đường thủy. Diện tích đất nông nghiệp 269 hecta trong đó 220 hecta dùng cho vụ
Đông Xuân và 49 hecta dùng cho vụ Hè Thu. Xã Phú An được chia ra làm bốn
thôn.Tổng dân số là 8.749 người với 1.583 hộ.
♦ Nguồn gốc dân cư:
Theo gia phả các họ khai canh của làng, thì làng Chuồn có lịch sử hình thành
cách đây hơn 600 năm. Về với làng Chuồn là về với một làng quê còn mang đậm vẻ
nguyên sơ của một ngôi làng cổ bên chân sóng của đầm phá Tam Giang. Những câu
chuyện truyền thuyết dân gian gắn liền với quá trình lập làng, những thiết chế văn
hóa làng xã cùng với tên tuổi của những người con xuất sắc của làng đã góp phần
làm rạng danh làng An Truyền trong lịch sử làng cổ ở Thừa Thiên Huế.
Theo văn tế làng An Truyền, ba họ tộc đầu tiên có công khai canh làng, được
tôn làm Thành hoàng là họ Hồ, Nguyễn, Ðoàn. Ngài Hồ Quảng Lãnh, được dân
làng trọng vọng gọi là Hồ Quý Công, sắc phong Nhật báo Trung Hưng Linh Phò
Ðoan Quốc Công tôn thần. Một truyền thuyết khác liên hệ đến Thành hoàng làng:
trong một buổi sấm sét, có hai vị thiên thần, giáp trụ sáng loáng, mang gươm giáo
20
từ trời bay xuống, cùng nhau đấu chiến trên nò, sáo, dân làng thấy vậy hoảng sợ
nhưng chưa dám ra. Một lúc sau, cả hai đều biến mất. Dân làng lập miếu thờ và tin
rằng họ đã được hai vị thần bảo trợ.
2.2. Khái quát về các làng nghề
Là địa phương lấy nông nghiệp làm kinh tế, người dân quanh năm bận rộn lo
việc đồng án, song họ chính là chủ nhân của các sản phẩm mang dấu ấn riêng, rất
đặc sắc. Ai cũng biết rằng hoa giấy Thanh Tiên và tranh làng Sình cũng như rượu
gạo làng Chuồn hay nước mắm làng Trài-Phú Hải không chỉ là sản phẩm tiêu biểu
của địa phương mà nó còn tạo nên những dấu ấn và đặc sắc riêng biệt. Chẳng hạn,
Hoa giấy Thanh Tiên và tranh làng Sình không phải là những cành hoa, những bức
tranh dùng trong trang trí hàng ngày mà chúng được dùng vào mục đích khác cao
cả, thiêng liêng hơn: Thờ cúng của người dân xứ Huế. Vào những ngày giáp tết

không khí sản xuất ở đây nhộn nhịp tấp nập hẳn lên, mọi người, mọi nhà hăng hái
sản xuất mong kiếm thêm phần thu nhập phục vụ cuộc sống. Bên cạnh cùng với
Hoa giấy Thanh Tiên và tranh làng Sình, rượu gạo làng Chuồn và nước mắm làng
Trài là những sản phẩm truyền thống nó gắn liền từ xưa tạo nên đời sống tâm linh
luôn gắn liền với người dân bởi việc sản xuất, chế biến sản phẩm dựa vào tiềm lực
sông, biển mà thiên nhiên ban tặng. Các thành viên trong làng ai cũng có việc để
làm tùy theo khả năng của từng người và tùy vào công đoạn dễ hay khó của sản
phẩm. Sản phẩm Hoa giấy Thanh Tiên và tranh làng Sình điều được sản xuất cao
điểm vào những ngày cuối năm và chúng chỉ thật sự ý nghĩa trong những ngày tết
cổ truyền của dân tộc. Chủ nhân của chúng không phải là những nghệ nhân chuyên
nghiệp mà họ là những người nông dân bình dị, chân chất ở chốn làng quê vốn
thanh bình, yên ả nhưng sự đóng góp cho đời của họ quả thật đáng để cho chúng ta
trân trọng, nể phục.
2.3. Tiềm năng du lịch các làng nghề thủ công truyền thống
2.3.1. Tình hình phát triển du lịch
Trong những năm vừa qua, Đảng ủy huyện Phú Vang cùng với nhân dân huyện
Phú Vang đang ra sức nổ lực xây dựng và thực hiện các chính sách, kế hoạch của
tỉnh Thiên Huế nhằm đưa du lịch trở thành nền kinh tế mũi nhọn.
Với tiềm năng về tài nguyên tự nhiên và tài nguyên nhân văn phong phú, dồi
dào. Ủy ban nhân dân huyện Phú Vang đang tập trung khai thác, thúc đẩy nền kinh
21
tế của huyện chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước, tăng
tỉ trọng dịch vụ và công nghiệp giảm nông nghiệp.
+ Tài nguyên tự nhiên: Với nhiều danh lam thắng cảnh nổi tiếng về biển, đầm
phá, suối nước khoáng, …
+ Tài nguyên nhân văn: các di tích lịch sử văn hóa, lễ hội, ẩm thực, làng
nghề Các tài nguyên đó đã tạo cho huyện có tiềm năng to lớn để trở thành trung
tâm du lịch của tỉnh.
Năm 2013, tuy gặp nhiều khó khăn do kinh tế bị lạm phát và những yếu tố về
ngoại cảnh như khí hậu, thời tiết, đặc biệt việc sân bay Phú Bài phải đóng cửa nghỉ

đón khách để xây dựng trở thành sân bay quốc tế đã tác động không nhỏ đến du lịch
tỉnh Thừa Thiên Huế nói chung và huyện Phú Vang nói riêng. Với những cố gắng
của huyện, năm 2013 ngành du lịch huyện có bước chuyển biến tích cưc nhưng tốc
độ tăng trưởng không cao, tổng số lượng khách du lịch đến huyện đạt 97.870 lượt
cao hơn so với năm 2012, tổng doanh thu du lịch năm 2013 đạt 6,3 tỷ đồng cao hơn
so với năm 2012.
Tuy nhiên, hoạt động du lịch của huyện vẫn chưa tương xứng với tiềm năng du lịch:
Các dịch vụ du lịch còn ít và nhỏ lẻ, chưa có sự chuyên sâu, và chưa được
chú trọng đầu tư xây dựng để phục vụ khách du lịch, chưa có các dịch vụ du lịch
đặc sắc nhằm thu hút và giữ chân khách lưu trú lại. Các trò chơi, giải trí còn
nghèo nàn, chưa xây dựng được các sản phẩm đặc trưng của huyện. Cơ sở vật chất
hạ tầng, giao thông của huyện còn nhiều khó khăn. Việc huy động vốn đầu tư cho
du lịch còn ít.
Dịch vụ du lịch biển ở các bãi tắm của Phú Vang đã có những chuyển biến tích
cực trong việc phục vụ nhu cầu nghỉ ngơi, tắm biển của du khách, nhưng vẫn còn
tồn tại. Các hoạt động dịch vụ chủ yếu là ăn uống, giải khát, tắm biển Các dịch vụ
vui chơi, giải trí, nghỉ dưỡng chưa được chú trọng. Các bãi tắm chưa tổ chức được
các quầy bán hàng lưu niệm, sản phẩm truyền thống ở địa phương. Tình trạng người
bán hàng rong đeo bám khách, tranh giành khách vẫn tiếp tục xảy ra mà chưa có
biện pháp giải quyết triệt để. Một số quầy dịch vụ chưa thực hiện việc niêm yết giá
công khai, còn xảy ra tình trạng tự động nâng giá gây bức xúc cho du khách. Còn
nhớ mấy năm trước, du khách khi đến bãi tắm Thuận An đã phàn nàn rất nhiều về
chuyện bị hàng quán bán với giá “cắt cổ”. Ngoài ra, tình trạng các hàng quán tự
động nâng giá vào những ngày cao điểm vẫn còn xảy ra khiến du khách khó chịu.
22
Các ngành nghề truyền thống, ngành nghề nông thôn phát triển chậm và
không gắn với phát triển kinh tế du lịch của địa phương. Chưa đưa được các làng
nghề truyền thống để giới thiệu cho du khách và tạo điều kiện nghề truyền thống
phát triển.
Các ngành tiểu thủ công nghiệp, ngành nghề nông thôn, sản xuất phân tán nhỏ lẻ,

thiếu liên kết, hợp tác trong sản xuất, tiêu thụ sản phẩm. Sự phối hợp giữa các
ngành công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp, xuất nhập khẩu, du lịch, thương mại,
dịch vụ, các thương nhân, nghệ nhân với các cơ sở sản xuất còn hạn chế. Trình độ
của các chủ cơ sở sản xuất chưa đáp ứng yêu cầu, chủ yếu dựa vào kinh nghiệm.
Các cơ sở chưa mạnh dạn bỏ vốn, vay vốn mở rộng sản xuất, phần lớn là các cơ sở
nhỏ, nguồn vốn ít, lao động phổ thông.
Do vậy, để khai thác tối đa tiềm năng du lịch của huyện, thì Ủy ban nhân dân
huyện cùng với nhân dân phải nổ lực hơn nữa để xây dựng các hoạt động du lịch
đặc trưng, và có các biện pháp tích cực để khắc phục những khó khăn hiện tại mà
huyện đang mắc phải.
Huyện Phú Vang có đường bờ biển dài gần 40 km. Dọc theo dải ven biển là
các bãi tắm đẹp, và những làng quê yên ả với nhiều thắng cảnh đẹp cùng với nền
văn hóa giàu bản sắc. Cuộc sống gắn liền với biển đã tạo cho vùng này những nét
đặc sắc riêng không thể lẫn lộn. Huyện Phú Vang là một bộ phận để cấu thành nên
văn hóa Huế nói riêng và văn hóa lớn của miền Trung nói chung, nơi đây đã chứng
kiến biết bao biến cố đổi thay của lịch sử dân tộc. Cho đến nay, nhiều làng xã miền
biển vẫn lưu giữ được nhiều di tích lịch sử, giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể.
Ngoài các tài nguyên tự nhiên và tài nguyên nhân văn, trên địa bàn Phú Vang ở
các xã vùng biển còn có các tài nguyên du lịch khác như Thành Phố Lăng ở An
Bằng, chợ chiều Vinh Thanh, rượu gạo Vinh Thanh, sản phẩm của các làng nghề…
Tuy chưa được xếp hạng là di tích lịch sử văn hóa hay các làng nghề truyền thống
nhưng những địa điểm này đã được du khách biết đến rất nhiều và khá nổi tiếng.
2.3.2. Hệ thống các làng nghề truyền thống tiêu biểu
Theo Sở Công Thương Thừa Thiên-Huế, toàn tỉnh hiện có 88 làng nghề
truyền thống, với đông đảo đội ngũ thợ thủ công lành nghề, tài hoa. Nhiều nghề
trong số đó đi liền với việc xây dựng các công trình di tích Huế như nghề mộc,
chạm khắc gỗ, đúc đồng, gốm sứ, luyện sắt, rèn Nếu biết kết hợp khai thác
23
tiềm năng du lịch làng nghề, đây cũng là thế mạnh thu hút khách du lịch hiện nay
của Thừa Thiên-Huế.

2.3.2.1. Nghề làm hoa giấy Thanh Tiên
Vào những ngày giáp tết, trên các nẻo đường phố chợ người ta dễ dàng nhận
thấy những cánh hoa bằng giấy nhuộm đủ sắc màu. Loại hoa này hầu như không có
ý nghĩa gì trong cuộc sống hằng ngày, không được người dân sử dụng trong trang
trí làm đẹp cho ngôi nhà mà chủ yếu được người Huế trang trí nơi thờ tự: Trang bổn
mạng(trang Ông, trang Bà). Do vậy hoa giấy Thanh Tiên mang giá trị tâm linh vô
cùng to lớn,được người dân nâng niu, trân trọng đặt ở nơi trang nghiêm trong ngôi
nhà. Màu sắc rực rỡ của hoa góp phần mang lại không khí vui tươi trong những
ngày đầu năm.
♦ Nguồn gốc của nghề làm hoa giấy Thanh Tiên
Hiện tại,mặc dù không có nhiều tài liệu thành văn hay tư liệu hồi ức sớm nói
về thời điểm chính xác hình thành nghề làm hoa giấy ở làng Thanh Tiên nhưng có
thể khẳng định rằng,đây là một làng nghề hình thành khá sớm cùng với các làng
nghề khác trên địa bàn Thừa Thiên Huế.
Như đã nói, sự ra đời của các trung tâm buôn bán,các chợ làng,chợ huyện và
đặc biệt là với sự xuất hiện của cảng thị Thanh Hà, Bao Vinh đã làm khai sinh các
ngành nghề thủ công truyền thống nhắm phục vụ cho nhu cầu cuộc sống.
Cha ông ta xưa quan niệm, người ta sống ở trên đời phải có nghề có nghiệp
“nhân sinh thế thượng thùy vô nghệ” Nghề xuất hiện là do nhu cầu cuộc sống, nhu
cầu thẩm mỹ và nhu cầu chiến đấu của con người có được nghề tinh xảo, người
thợ thủ công có cơ hội để “vinh thân phì gia”, người xưa cũng thường nói “nhất
nghệ tinh nhất thân vinh” phải chăng là để khích lệ mọi người trau dồi nghề nghiệp
cho tinh xảo. Thực tế cũng như trong tâm thức của người thợ, bất cứ nghề nào cũng
phải bắt đầu bằng sự phát minh, sáng tạo, bằng bàn tay và khối óc của một hay một
nhóm người, trải qua nhiều đời tích tụ mà thành. Người ta quen gọi các vị ấy với cái
tên tổ sư hay tổ nghề. Nếu tổ nghề bằng xương bằng thịt thật nhưng không có sự
tích rõ ràng hoặc sự phát minh ra một nghề là do nhiều người, nhiều đời góp lại mà
không tìm được nguồn gốc thì người ta sẵn sàng tìm sự viện trợ của kho tàng thần
thoại hay ở biện pháp huyền thoại hóa. Tưởng tượng, hư cấu ra hành trạng của các
vị tổ nghề này, công tích của vị tổ nghề kia không phải là việc là tùy tiện mà là biểu

hiện của lòng biết ơn, của sự tôn vinh. Đây là vốn truyền thống đạo lý của người
24
dân Việt Nam, truyền thống “uống nước nhớ nguồn”. Đó là đặc điểm của các nghề
thủ công truyền thống hiện nay. Nhưng nghề làm hoa giấy ở Thanh Tiên lại không
có được niềm hạnh phúc ấy, họ không có cơ hội để tổ chức lễ hội bày tỏ lòng thành
kính của mình với người đã có công đem lại cho họ một nghề mà sản phẩm của nó
đem lại nguồn thu nhập đáng kể cho người dân.
Như vậy, trong số các ngành nghề thủ công ra đời sớm, hoa giấy Thanh Tiên
cũng đã có mặt để đáp ứng cho đời sống tinh thần. Tuy nhiên, có nhiều nguyên
nhân và khía cạnh ra đời thì nghề làm hoa giấy ở làng Thanh Tiên lại mang những
đặc điểm riêng biệt.
Trước hết, sự ra đời của làng hoa và sản phẩm của nó nhằm phục vụ những
nhu cầu tín ngưỡng dân gian của người dân. Những nhu cầu này vốn có từ rất lâu
đời trên đất Thừa Thiên Huế. Bởi vì trong quá trình di cư vào Nam thì những tín
ngưỡng dân gian mà người dân phía Bắc mang theo “luôn tâm khảm như một thứ
hành trang vụ hình mà bền chặt trong cuộc sống”. Thêm vào đó tàn dư tín ngưỡng
của các cư dân Chăm, cư dân Inđônêxia và sự giao hòa với tín ngưỡng của người
Hoa trên nền chi phối của các tôn giáo truyền thống: Phật, Lão, Nho Tất cả đã tạo
nên một tập tục tín ngưỡng bền chặt và tồn tại hết sức lâu dài trên mảnh đất này.
Chính những điều đó đã làm nảy sinh một sản phẩm thủ công bằng giấy để phục vụ
cho tín ngưỡng dân gian của người dân như hoa giấy Thanh Tiên.
Đối với người dân Việt Nam nói chung và người dân Thừa Thiên Huế nói
riêng thì hoa luôn là yếu tố trang trí không thể thiếu trong các ngày lễ, cúng, tế, kị
giỗ, đám cưới kể cả đám ma. Nó đã trở thành một yếu tố tạo niềm vui trong các lễ
hội cũng như thể hiện tính thiêng liêng trong đời sống tâm linh của con người.
Cũng mang tính chất linh thiêng phục vụ cho thờ cúng, thế nhưng hoa giấy
Thanh Tiên có thể thấy là sự thay thế độc đáo nhất nơi thờ không có khả năng thay
hoa tươi thường xuyên.
Sản phẩm hoa giấy thường trang trí ở những nơi thờ tự trong nhà chẳng hạn
như các miếu, am, trang bà, bàn thờ ông địa, táo quân thần bếp Chính sự phong

phú về màu sắc và có nhiều loại hoa khác nhau,để lại được lâu hơn lại thể hiện được
tính trang nghiêm, một năm chỉ cần thay một lần vào dịp tết âm lịch nên hoa giấy
Thanh Tiên khi vừa ra đời đã được chấp nhận ngay trong cuộc sống thường nhật và
cứ thế tồn tại mãi cho đến ngày nay. Cũng chính với đặc điểm riêng đó mà thời gian
sản xuất của nghề thủ công này chỉ diễn ra trong một khoảng thời gian trước tết âm
lịch (chủ yếu là vào tháng Chạp).
25

×