Tải bản đầy đủ (.doc) (63 trang)

Tìm hiểu một số làng nghề thủ công truyền thóng ở quỳnh lưu nghệ an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.87 MB, 63 trang )

Trờng đại học vinh
Khoa lịch sử

----------***---------

nguyễn công sơn

Khóa luận tốt nghiệp đại học

Tìm hiểu một số làng nghề thủ công truyền
thống
ở Quỳnh Lu - Nghệ An
Chuyên ngành lịch sử văn hóa
Lớp 46B (Khóa 2005 - 2009)

Giáo viên hớng dẫn: ThS. Nguyễn Thị Hà

Vinh - 2009


Lời cảm ơn

Để hoàn thành đề tài nghiên cứu này bản thân tôi luôn luôn nhận đợc
sự giúp đỡ tận tình của cô giáo hớng dẫn Th.S Nguyễn Thị Hà cùng các thầy
cô trong khoa lịch sử trờng Đại học Vinh. Với sự nỗ lực, cố gắng hết mình của
bản thân và sự động viên khích lệ của gia đình, bạn bè đà giúp tôi hoàn thành
khoá luận tốt nghiệp của mình.
Qua đây tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến cô giáo hớng dẫn cùng
các thầy cô giáo trong khoa lịch sử và xin gửi đến thầy cô lời cảm ơn chân
thành nhất.
Vì thời gian và nguồn t liệu có hạn, vả lại bản thân còn là một sinh viên


tập nghiên cứu khoa học, đây là công trình thử thách bớc đầu của mình nên
chắc chắn đề tài còn nhiều thiếu sót, tác giả mong nhận đợc các ý kiến đóng
góp của quý thầy, cô giáo và các bạn sinh viên.
Một lần nữa tôi xin chân thành cảm ơn!
Vinh, tháng 5 năm 2009
Tác giả
Nguyễn Công Sơn


Mục lục
Trang
A. Mở đầu

1

1. Lý do chọn đề tài

1

2. Lịch sử vấn đề

3

3. Đối tợng và phạm vi nghiên cứu đề tài

4

4. Nguồn tài liệu và phơng pháp nghiên cứu

5


5. Bố cục của đề tài

5

B. Nội dung

6

Chơng 1: Khái quát điều kiện phát triển, đặc điểm và những nhân
tố tác ®éng ®Õn nghỊ thđ c«ng trun thèng ë Qnh Lu

6

1.1. Vị trí địa lý và tài nguyên thiên nhiên của Quỳnh Lu

6

1.2. Đặc điểm của làng nghề thủ công truyền thống

9

1.2.1. Lịch sử hình thành và phát triển

9

1.2.2. Đặc điểm của làng nghề thủ công truyền thống

10


1.3. Những nhân tố tác động tới sự phát triển của làng nghề thủ công
truyền thống ở Quỳnh Lu

11

Chơng 2: Quá trình ra đời và phát triển của một số làng nghề thủ
công truyền thèng ë Qnh Lu

16

2.1. NghỊ chÕ biÕn níc m¾m trun thống ở làng Phú Lợi - xà Quỳnh
Dị

16

2.1.1. Nguồn gốc hình thành

16

2.1.2. Quá trình phát triển

17

2.1.3. Quy trình kỹ thuật chế biến nớc mắm truyền thống ở làng nghề
Phú Lợi

24

2.1.4. Giá trị sản xuất của nghề chế biến nớc mắm ở làng nghề Phú Lợi


28


2.2. Làng nghề mộc dân dụng và mỹ nghệ Phú Nghĩa - xà Quỳnh Nghĩa

33

2.2.1. Khái quát quá trình hình thµnh lµng nghỊ

33

4


2.2.2. Một số công trình do ngời thợ làng nghề tu tạo và xây dựng

35

2.2.3. Các sản phẩm mỹ nghệ - dân dụng

42

Chơng 3: Giá trị và công tác bảo tồn, phát triển làng nghề thủ
công truyền thống ở Quỳnh Lu

52

3.1. Những giá trị của làng nghề thủ công truyền thống

52


3.1.1. Giá trị kinh tế

52

3.1.2. Giá trị xà hội

54

3.1.3. Giá trị văn hoá

55

3.2. Thực trạng và công tác bảo tồn, phát triển làng nghề thủ công
truyền thống ở Quỳnh Lu

56

3.2.1. Thực trạng của làng nghề thủ công truyền thống ở Quỳnh Lu

56

3.2.2. Bảo tồn và phát triển làng nghề thủ công truyền thống: vấn đề thiết
thực của xà hội

59

Kết luận

63


Tài liƯu tham kh¶o

66

Phơ lơc


A. Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Có con ngời là có lao động. Nghề thủ công truyền thống gắn liền với quá
trình ra đời, phát triển của con ngời. Ngay từ xa xa, các thế hệ cha ông đà biết
đến nghề thủ công, trớc hết nhằm mục đích phục vụ cho nhu cầu của cuộc sống
đời thờng, gắn với quá trình lao động sản xuất của con ngời, dần dÇn do nhu cÇu
cđa cc sèng cịng nh sù tiÕn bộ của xà hội, các nghề thủ công truyền thống
của dân tộc, của mỗi miền quê trên dải đất Việt Nam.
Trải qua quá trình ra đời và phát triển, nghề thủ công đà đi vào tiềm thức
của mỗi ngời dân Việt Nam, nó trở nên gần gũi thân quen, là một phần không
thể thiếu trong cuộc sống đời thờng. Hơn nữa khi nghiên cứu sự phát triển kinh
tế - văn hoá - xà hội của một đất nớc, sự phát triển khoa học kỹ thuật chúng ta
không thể không nghiên cứu đến nghề thủ công truyền thống ở mỗi làng quê
Việt Nam.
Trong xu thế quốc tế hoá toàn cầu nh hiện nay, khi mà nền công nghiệp
nớc ta cha phát triển cao thì những sản phẩm của các làng nghề thủ công truyền
thống trở thành những mặt hàng có giá trị kinh tế cao. Mặt khác các sản phẩm
từ các làng nghề thủ công truyền thống còn là những mặt hàng đại diện cho
Việt Nam trong quá trình giao lu, hội nhập với các nớc trong khu vực và trên
thế giới. Để phát huy những thế mạnh và tận dụng những nguồn nguyên liệu sẵn
có trong tự nhiên nhằm đa nền kinh tế phát triển đòi hỏi chúng ta phải phát huy
những ngành nghề thủ công ở các làng nghề truyền thống trên đất nớc ta.

Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành trung ơng Đảng lần thứ 7 (khoá VII)
đà nêu: Phát triển các ngành nghề, làng nghề thủ công truyền thống của từng
vùng mở thêm những ngành nghề mới, phát triển công nghiệp nông thôn.
[24,63]
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (6/1996) cũng nêu lên: Cần
phải phát triển các ngành nghề, làng nghề thủ công và c¸c nghỊ míi bao

6


gồm: tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất
khẩu [25,87].
Quỳnh Lu vốn là mảnh đất có đầy đủ cả 3 yếu tố thiên thời, địa lợi,
nhân hoà nên đà nhanh chóng tiếp nhận và vận dụng một cách có hiệu quả
những ngành nghề và làng nghề thủ công truyền thống. Từ bao đời nay Quỳnh
Lu vẫn là một trong những trung tâm sản xuất các mặt hàng thủ công truyền
thống của tỉnh Nghệ An, do vậy mà Quỳnh Lu thực sự đóng vai trò quan trọng
trong việc phát triển kinh tế chung của toàn tỉnh.
Làng nghỊ thđ c«ng trun thèng ë Qnh Lu cịng cã những bớc thăng
trầm nhất định, tuy nhiên cho đến hiện nay các làng nghề thủ công truyền thống
ở Quỳnh Lu vẫn đợc duy trì và ngày càng phát triển, góp phần không nhỏ vào
sự phát triển của lịch sử Nghệ An nói riêng và lịch sử dân tộc nói chung. Một số
nghành nghề thủ công truyền thống ở Quỳnh Lu đà thực sự trở thành trọng
tâm trong quá trình phát triển kinh tế của huyện và đà đạt đợc những thành tựu
to lớn đó là: nghề chế biến nớc mắm ở làng Phú Lợi - xà Quỳnh Dị, làng nghề
mộc dân dụng và mỹ nghệ Phú Nghĩa - xà Quỳnh Nghĩa.
Cho đến ngày nay, việc duy trì và phát triển các làng nghề thủ công
truyền thống thực sự phù hợp víi ®iỊu kiƯn cđa ®Êt níc cịng nh xu thÕ phát
triển của thời đại. Điều này cũng nhằm mục đích để khẳng định giá trị đích thực
của các làng nghề thủ công truyền thống.

Với tấm lòng của một ngời con sinh ra và lớn lên trên mảnh đất Quỳnh
Lu, tôi mong muốn góp thêm một phần bé nhỏ vào việc tìm hiểu nghiên cứu
quá trình ra đời, phát triển và kỹ thuật sản xuất của một số làng nghề thủ công
truyền thống ở Quỳnh Lu cũng nh giá trị của nó đối với nền kinh tế - xà hội địa
phơng.
Từ những lí do trên tôi mạnh dạn chọn đề tài: Tìm hiểu một số làng
nghề thủ công truyền thống ở Quỳnh Lu - Nghệ An làm khoá luận tốt nghiƯp
cđa m×nh.

7


2. Lịch sử vấn đề
Nói về các làng nghề thủ công truyền thống ở nớc ta nói chung và ở
Quỳnh Lu nói riêng là một vấn đề khó khăn, phức tạp bởi những nghề thủ công
truyền thống cho đến nay có khi còn hoặc có khi đà mất đi, cộng thêm vào đó là
do sự biến động của lịch sử đà tác động mạnh mẽ đến sự tồn tại, phát triển của
các làng nghề thủ công truyền thống. Tuy nhiên cũng có một số công trình
nghiên cứu đề cập đến những ngành nghề thủ công truyền thống.
Trong tạp chí nghiên cứu lịch sử, số 5/1999 có bài viết của Lê Thị Tuyết
Vân Một số vấn đề về làng nghề thủ công ở nớc ta hiện nay, có nêu lên đôi
nét về lịch sử phát triển của làng nghề và sự đan xen giữa các làng nghề thủ
công truyền thống với sự hình thành các làng nghề mới.
Trong cuốn Làng nghề thủ công truyền thống Việt Nam (1998) của
Bùi Văn Vợng, Nhà xuất bản Văn hoá dân tộc - Hà Nội, đà giới thiệu nhiều
nhóm làng nghề trên mọi miền đất nớc trong đó có Nghệ An, đồng thời cũng
nêu lên những yếu tố ảnh hởng đến sự phát triển của các làng nghề. Qua đó,
chúng ta thấy đợc một cách khái quát về các ngành nghề thủ công ở các làng
nghề truyền thống.
Trong cuốn Kỷ yếu hội thảo về các nghề thủ công truyền thống, xuất

bản 1995 và đặc biệt là cuộc hội thảo Bảo tồn và phát triển làng nghề thủ
công truyền thống Việt Nam - tiến trình lịch sử và định hớng (1998). Đây là
tập kỷ yếu hội thảo Quốc tế do Bộ công nghiệp và tổ chức UNIDO (Tổ chức
phát triển công nghiệp Liên Hợp Quốc) phối hợp tổ chức. Hội thảo tập trung đi
sâu nghiên cứu lợi thế để phát triển làng nghề và đa ra mét sè nhËn xÐt mang
tÝnh dù b¸o vỊ nghỊ thđ công truyền thống.
Trong cuốn Tìm hiểu khoa học kỹ thuật trong lịch sử Việt Nam
(1979), nhà xuất bản Khoa học x· héi - Hµ Néi, cã bµi: “Vµi nÐt vỊ kỹ thuật thủ
công cổ truyền của dân tộc của Phạm Văn Kính, giới thiệu về kỹ thuật sản
xuất một số nghỊ thđ c«ng trun thèng cỉ xa cđa ngêi ViƯt bao gåm kü thuËt

8


chÕ biÕn l¬ng thùc thùc phÈm, kü tht dƯt, kü thuật sản xuất hàng tiêu dùng
Tuy nhiên, giữa các vùng miền vẫn có sự khác nhau đó chính là sự khác nhau về
tay nghề, trình độ và óc sáng tạo của nghệ nhân trong kỹ thuật sản xuất của làng
nghề thủ công truyền thống.
Trong cuốn: Nghề, làng nghề thủ công truyền thống Nghệ An của
Ninh Viết Giao (chủ biên), nhà xuất bản Nghệ An, đà giới thiệu quá trình ra
đời, phát triển nghề thủ công truyền thống ở Nghệ An và đề cập đến nhiều làng
nghề nổi tiếng ở Nghệ An, trong đó có nhiều làng nghề thuộc Quỳnh Lu.
Nhìn chung các cuốn sách và tài liệu nói trên mới nêu lên một cách khái
quát về các ngành nghề và kỹ thuật sản xuất một số ngành nghề thủ công truyền
thống ở nớc ta chứ cha đi sâu khai thác nét riêng, nét đặc sắc ở mỗi địa phơng
tạo thành bí quyết làng nghề.
3. Đối tợng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
Nghiên cứu của đề tài là Tìm hiểu một số làng nghề thủ công truyền
thống ở Quỳnh Lu - Nghệ An, để thấy đợc một số thành tựu vỊ kinh tÕ, khoa
häc kü tht cđa níc ta nãi chung, của Quỳnh Lu nói riêng trong điều kiện lịch

sử lúc bấy giờ. Từ đó nhằm rút ra những giá trị đích thực của nghề thủ công
truyền thống trên địa bàn huyện Quỳnh Lu.
Với mục đích đó khoá luận trớc tiên đề cập đến điều kiện phát triển và
những yếu tố tác động đến ngành nghề thủ công ở Quỳnh Lu. Trọng tâm
nghiên cứu của khoá luận là quá trình ra đời và phát triển của một số làng nghề
thủ công truyền thống ở Quỳnh Lu, từ đó thấy đợc quy trình kỹ thuật sản xuất
cũng nh giá trị của nó đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển sự nghiệp đất nớc. Qua đó một lần nữa khẳng định những thành tựu và kỹ thuật sản xuất hàng
hoá thủ công của nhân dân Quỳnh Lu là một bớc tiÕn bé trong xu thÕ ph¸t triĨn
kinh tÕ ë níc ta lúc bấy giờ.
4. Nguồn tài liệu và phơng pháp nghiªn cøu

9


Để thực hiện đề tài này chúng tôi đà dựa trên một số nguồn tài liệu sau
đây:
Tài liệu thành văn bao gồm: Là các Nghị quyết của Đảng Cộng sản Việt
Nam (tại các Đại hội VII, VIII), các Kỷ yếu hội thảo trong nớc và quốc tế, các
cuốn sách viết về các ngành nghề thủ công truyền thống của dân tộc, các kế
hoạch - báo cáo phát triển kinh tế và các nguồn tài liệu liên quan khác.
Tài liệu điền dÃ: Các cuộc trao đổi với những ngời cao niên, những nghệ
nhân của làng nghề hiện nay còn sống hoặc hậu duệ của những nghệ nhân xa
hiện đang tiếp tục làm nghề.
Để thực hiện đề tài này chúng tôi đà sử dụng các phơng pháp chủ yếu:
phơng pháp lịch sử, phơng pháp lôgic. Ngoài ra chúng tôi còn sử dụng các phơng pháp chuyên ngành nh khái quát, so sánh, đối chiếu, phân tích, tổng hợp
kết hợp tài liệu thành văn với t liệu điền dà để đảm bảo cơ sở khoa học trong đề
tài nghiên cứu của mình.
5. Bố cục của khoá luận
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, Phụ lục, Nội dung
của khoá luận đợc trình bày trong 3 chơng:

Chơng 1: Khái quát điều kiện phát triển, đặc điểm và những nhân tố tác
động đến làng nghề thủ công truyền thống ở Quỳnh Lu
Chơng 2: Quá trình ra đời và phát triển của một số làng nghề thủ công
truyền thống ở Quỳnh Lu
Chơng 3: Giá trị và công tác bảo tồn, phát triển làng nghề thủ công
truyền thống ở Quỳnh Lu
B- Nội dung
Chơng 1

10


Khái quát điều kiện phát triển, đặc điểm và những
nhân tố tác động đến nghề thủ công truyền thống ở
Quỳnh Lu
1.1. Vị trí địa lý và tài nguyên thiên nhiên cđa Qnh Lu
Qnh Lu n»m ë phÝa B¾c tØnh NghƯ An. Tuy là huyện đồng bằng nhng
có rừng núi, có biển. Diện tích đất tự nhiên là 60.706 ha, trong đó diện tích đất
dùng vào nông nghiệp là 15.427,64 ha. Dân số tính đến năm 2007 là 360.000
ngời. Quỳnh Lu là một huyện đồng bằng tơng đối rộng, có tọa độ địa lý: Cực
Bắc 19022'12" vĩ độ bắc, cực Nam: 1900'15" vĩ độ Bắc, cực Tây: 1605'15" đông
kinh tuyến, cực Đông: 105047'50" đông kinh tuyến. Quỳnh Lu có đờng biên
giới dài 122 km, trong đó đờng biên giới đất liền 88 km và 34 km đờng bờ biển.
Khoảng cách từ huyện lỵ là Thị trấn Cầu Giát đến Tỉnh lỵ là Thành phố Vinh
khoảng 60 km. Phía Bắc huyện Quỳnh Lu giáp huyện Tỉnh Gia (Thanh Hóa), có
chung địa giới khoảng 24 km với ranh giới tự nhiên là khe nớc lạnh. Phía nam
và tây nam Quỳnh Lu giáp với huyện Diễn Châu và huyện Yên Thành với ranh
giới khoảng 31 km. Vïng phÝa nam cđa hun Qnh Lu cã chung khu vực
đồng bằng với huyện Diễn Châu và Yên Thành. Phía tây huyện Quỳnh Lu giáp
huyện Nghĩa Đàn với ranh giới khoảng 33 km đợc hình thành một cách tự nhiên

bằng các dÃy núi kéo dài liên tục mà giữa chúng có những đèo thấp tạo ra
những con đờng nối liền 2 huyện với nhau. Phía đông huyện Quỳnh Lu giáp
biển đông.
Mặc dù không đợc u đÃi về mặt ®Êt ®ai, song thiªn nhiªn ®· phó cho
Qnh Lu cã sơn thủy hữu tình. Khách bộ hành đi trên đờng thiên lý bắc nam,
dù ngoài vào hay trong ra, qua đất Quỳnh Lu, sẽ thấy phía tây và phía bắc núi
non trùng điệp, hòn thấp hòn cao, khi ẩn khi hiện trong làn mây trắng. Ngắm
cảnh phía Đông sẽ thấy những ngọn núi đá nhỏ đứng chơ vơ giữa đồng ruộng,
điểm xuyết cho cảnh chí Quỳnh Lu thêm khối hình, màu sắc. Quỳnh Lu có

11


nhiều ngọn núi: Núi Trụ Hải, núi Bào Đột, núi Tùng Lĩnh ... bên cạnh đó thì
Quỳnh Lu còn có nhiều sông, cửa biển là điều kiện thuận lợi cho giao thông đờng thủy phát triển, với các sông nh: Sông Thai, sông Hoàng Mai ...
Đặc biệt Quỳnh Lu nằm ở khu vực nhiệt đới, nhng lại ở miền biển nên thờng nhận đợc 3 luồng gió: Gió mùa Đông Bắc nằm sâu trong lục địa lạnh lẽo
của vùng Sibia và Mông Cổ, từng đợt thổi qua Trung Quốc và vịnh Bắc Bộ tràn
về, bà con gọi là gió Bắc. Gió mùa Tây Nam ở tận vịnh Bănggan tràn qua lục
địa, luồn qua các dÃy Trờng Sơn, thổi sang mà nhân dân thờng gọi là gió Lào,
nhng chính là gió Tây khô nóng. Gió mùa Đông Nam mát mẻ từ biển đông thổi
vào nhân dân gọi là gió nồm.
Nhìn chung khÝ hËu Qnh Lu chia lµm 2 mïa râ rƯt, mùa nóng từ tháng
5 đến tháng 10 dơng lịch, mùa lạnh từ tháng 11 năm trớc đến tháng 4 dơng lịch
năm sau. Về mùa nóng, nhiệt độ trung bình 300c, có ngày lên tới 400c; về mùa
lạnh thờng có gió mùa Đông Bắc, ít ma. Với một điều kiện địa lý tự nhiên nh
vậy thì chúng ta có thể thấy rằng Quỳnh Lu là mảnh đất không đợc thiên nhiên
u ®·i nh c¸c hun kh¸c trong tØnh. ChÝnh ®iỊu ®ã đà tác động không nhỏ đến
quá trình phát triển của các làng nghề thủ công truyền thống trong huyện.
Vùng ven biển bao gồm các xà từ Quỳnh Lộc đến Quỳnh Thọ gồm có 13
xÃ. Phần lớn các xà đều nằm lọt giữa kênh Dâu với biển Đông. Kênh Dâu chảy

theo chiều Bắc Nam gần nh song song với bờ biển nối sông Hoàng Mai với
sông Ngọc Để. Các xà nằm bên kênh này và kề mép nớc, nhân dân Quỳnh Lu
gäi lµ vïng B·i Ngang. Vïng ven biĨn Qnh Lu nh vừa nói trên là do cát, đất
bồn và vỏ các loài nhuyễn thể, nói chung là trầm tích của biển bồi tụ, nên độ
màu mỡ có bị hạn chế. Tuy là vùng nhỏ hẹp, song địa hình cũng khá phức tạp,
thấp dần về phía đông, độ chênh từ tây xuống đông trung bình 4 m, có chỗ 6 m
so với mặt nớc biển. Với độ chênh ấy lại đất cát, nên đồng ruộng dễ bị xói mòn,
làm cho việc cải tạo đất và canh tác gặp nhiều khó khăn. Đất ở đây, thành phần
đạm lân, kali đều kém, lợng mùn nghèo. Tuy thế đất ở đây vẫn có 2 loại, đất cát

12


pha và đất sét. Đất cát pha phần lớn ở các xà BÃi Ngang, ở đây nhân dân trồng
lúa lốc vào mùa vụ, ngoài ra trồng khoai ngô, kê, đậu, lạc, vừng. Nơi đất sét
nhân dân trồng lúa.
Vùng đồng bằng bao gồm 18 xÃ, bắt đầu từ xà Mai Hùng kéo tới xÃ
Quỳnh Diễn. Đây là vùng đất bằng phẳng, khá màu mỡ do sự bồi tụ của các loại
trầm tích biển và do sự cải tạo thờng xuyên của con ngời. Chính vì thế mà vùng
này trở thành vựa thóc của cả huyện Quỳnh Lu. Ngoài lúa là chủ yếu, nhân dân
còn trồng khoai, ngô, đậu, lạc, vừng. Từ ngày có nớc sông Nông Giang từ Đô Lơng chảy về và các đập kênh tới tiêu, năng suất cây trồng ở vùng này đà nâng
cao trông thấy. Đây là vùng trung tâm kinh tế, văn hóa, chính trị của huyện.
Vùng đồi núi, vùng này không chỉ bao gồm các xà phía tây mà còn một
số xà phía bắc huyện Quỳnh Lu. Đây là vùng đất thuận lợi cho trồng các loại
cây công nghiệp nh chè, mía... ngoài ra còn trồng các loại cây có hạt nh Trẩu,
Sở. Do đồi núi và địa hình bị chia cắt mạnh, song vùng này có khả năng mở
rộng diện tích canh tác, phát triển mạnh chăn nuôi, điều hòa dân số và phát triển
cả về nông nghiệp.
Nh vậy với sự đa dạng của đặc điểm tự nhiên đà tạo cho Quỳnh Lu một
nền kinh tế đa dạng, phù hợp với tính chất của c dân phơng Đông. Trong đó

nông nghiệp trồng lúa nớc vẫn đóng vai trò chủ đạo. Tuy nhiên bên cạnh đó thì
còn có những làng nghề thủ công nghiệp đợc hình thành và ngày càng phát
triển, bổ sung vào nguồn thu nhập và nâng cao chất lợng cuộc sống cho ngời
dân. Bởi vậy cho nên, các làng nghề thủ công truyền thống ở Quỳnh Lu luôn đợc các cấp chính quyền quan tâm, đợc lu truyền và bảo tồn cũng nh phát huy từ
nơi này đến nơi khác, từ đời này sang đời khác.
1.2. Đặc điểm của các làng nghề thủ công truyền thống ở Quỳnh Lu
1.2.1. Lịch sử hình thành và phát triển
Các làng nghề thủ công truyền thống vốn xuất hiện sớm trong lịch sử dân
tộc ta nói chung và trong lịch sử Quỳnh Lu nói riêng. Trong số những làng nghề

13


thủ công đang hiện diện, nhiều làng nghề đà hình thành từ xa, đợc truyền từ thế
hệ này sang thế hệ khác và thờng đợc gọi là những làng nghề thủ công truyền
thống. Cùng với sự phát triển của nền văn minh nông nghiệp từ hàng ngàn năm
trớc đây, nhiều nghề thủ công đà ra đời tại các vùng nông thôn Việt Nam, việc
hình thành các làng nghề bắt đầu từ những nghề ban đầu đợc c dân tranh thủ
làm lúc nông nhàn, những lúc không phải là mùa vụ chính.
Bởi lẽ trớc đây kinh tế của ngời Việt Cổ chđ u sèng dùa vµo viƯc trång
lóa níc mµ nghỊ trồng lúa không phải lúc nào cũng có việc. Thông thờng chỉ
những ngày đầu vụ hay những ngày cuối vụ thì ngời nông dân mới có việc làm
nhiều, vất vả nh: Cày bừa, cấy, làm cỏ, cho đến gặt lúa, phơi khô ... còn những
ngày còn lại thì nhà nông rất nhàn hạ, rất ít việc để làm. Từ đó nhiều ngời đÃ
bắt đầu tìm kiếm thêm công việc phụ để làm nhằm mục đích ban đầu là cải
thiện bữa ăn và những nhu cầu thiết yếu hàng ngày, về sau là tăng thêm thu
nhập cho gia đình.
Theo thời gian, nhiều nghề phụ ban đầu đà thể hiện vai trò to lớn của nó,
mang lại lợi ích thiết thực cho c dân. Nh việc làm ra các đồ dùng bằng mây, tre
phục vụ sinh hoạt hay đồ đồng, đồ sắt phục vụ sản xuất. Nghề phụ từ chỗ chỉ

phục vụ nhu cầu riêng đà trở thành hàng hóa để trao đổi, đà mang lại lợi ích
kinh tế to lớn cho ngời dân vốn trớc đây chỉ trông chờ vào các vụ lúa. Từ chỗ
chỉ một vài nhà trong làng làm, nhiều gia đình khác cũng học làm theo, nghề từ
đó mà lan rộng ra phát triển trong cả làng, hay nhiều làng gần nhau. Và cũng
chính nhờ những lợi ích khác nhau do các nghề thủ công đem lại mà trong mỗi
làng bắt đầu có sự phân hóa. Nghề đem lại lợi ích nhiều thì phát triển mạnh dần,
ngợc lại những nghề mà hiệu quả thấp hay không phù hợp với làng thì dần bị
mai một. Từ đó bắt đầu hình thành nên những làng nghề chuyên sâu vào một
nghề duy nhất nào đó nh: Làng mây tre đan, làng mộc ...
ở Quỳnh Lu, các làng nghề truyền thống mặc dù có quá trình hình thành
và phát triển giống nhau, tuy nhiên do nhiều nguyên nhân khác nhau mà các

14


làng nghề truyền thống này có sự biến động theo thời gian, để rồi từ đó mà các
làng nghề ở Quỳnh Lu khẳng định đợc vị trí của mình trong đời sống cũng nh
trong xà hội.
1.2.2. Đặc điểm của làng nghề thủ công truyền thống
Quỳnh Lu là một huyện đồng bằng tơng đối rộng, trên địa bàn Quỳnh Lu
hiện nay có tới hơn mấy chục làng nghề thủ công truyền thống. Trong đó có
nhiều làng nghề nổi tiếng không chỉ ở trong vùng mà còn nổi tiếng ra các huyện
và các tỉnh lân cận: Nghề chế biến nớc mắm ở Quỳnh Dị, mộc dân dụng và mỹ
nghệ ở Phú Nghĩa... Chính nhờ những làng nghề này và sản phẩm của nó đà góp
phần tô thêm vẻ đẹp cũng nh nét riêng cho huyện Quỳnh Lu.
Trải qua những bớc thăng trầm của lịch sử, sự biến động của xà hội,
không ít làng nghề ở Quỳnh Lu đà dần dần mai một, rồi mất đi nhng hệ quả của
nó là sự ra đời của các làng nghề khác. ở Quỳnh Lu bên cạnh những làng nghề
có tuổi nghề mấy năm lại đây thì vẫn đang còn tồn tại nhiều làng nghề có tuổi
nghề hàng trăm năm nh nghề mộc dân dụng và mỹ nghệ Phú Nghĩa, nghề chế

biến nớc mắm Quỳnh Dị... Những làng nghề này trong quá trình tồn tại và phát
triển của mình đà tạo ra đợc những giá trị về kinh tế, xà hội, văn hóa vô cùng
quan trọng góp phần thúc đẩy kinh tế Quỳnh Lu ngày một phát triển đi lên.
Những sản phẩm tạo ra từ các làng nghề thủ công truyền thống ở Quỳnh Lu nó
đà chứng tỏ đợc khả năng sáng tạo trình độ kỹ thuật cao cũng nh là phản ánh
đời sống vật chất và tinh thần c dân Quỳnh Lu.
Một đặc điểm nữa của các làng nghề thủ công truyền thống ở Quỳnh Lu
nói riêng và cả nớc nói chung đó là tạo đợc việc làm ngay cho cả ngời lao động
có trình ®é thÊp, n©ng cao thu nhËp cho ngêi d©n, gãp phần quan trọng vào quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn thúc đẩy việc chuyển dịch cơ cấu
lao động theo xu hớng tích cực, giảm dần lao động trong nông nghiệp, tăng số
lao động tham gia làm việc trong các làng nghề tiểu thủ công nghiệp.

15


Hiện nay, đợc sự quan tâm chỉ đạo của các cấp chính quyền, các làng
nghề thủ công truyền thống ở Quỳnh Lu có điều kiện để phát triển hơn. Bên
cạnh đó thì một số làng nghề còn vấp phải những khó khăn trong quá trình sản
xuất cũng nh tiêu thụ sản phẩm. Tuy nhiên những khó khăn này sẽ dần dần đợc
khắc phục trong thời gian tới để đa quê hơng Quỳnh Lu phát triển sánh ngang
với các huyện khác trong tỉnh.
1.3. Những nhân tố tác động tới sự phát triển của các làng nghề thủ công
truyền thống ở Quỳnh Lu
Nghề thủ công truyền thống gắn liền với nhu cầu của con ngời, bởi vậy
còn sự tồn tại của con ngời là còn nghề thủ công hoạt động. Do đó nó chịu sự
tác động của những nhân tố sau đây:
Trớc hết đó là nhu cầu của con ngời về hàng thủ công truyền thống. Nhu
cầu này rất lớn và hết sức đa dạng, thời nào cũng có, không bao giờ chấm dứt
bởi vì nó gắn liền với cuộc sống của mỗi con ngời, không chỉ đó là đời sống

sinh hoạt nh ăn, mặc, ở ... mà đó cũng là nhu cầu tâm linh. Đây là nhu cầu thiết
yếu xuyên suốt chiều dài lịch sử.
Mặt khác, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật đà tác động sâu
sắc tới quá trình phục hồi và phát triển của những nghề thủ công truyền thống.
Tuy vậy các nghề thủ công truyền thống vừa phải tiếp cận với những tiến bộ
khoa học kỹ thuật vừa phải tạo ra sự tinh tế trong kỹ thuật và kinh nghiệm
truyền thống. Chính vì vậy mà các sản phẩm của các nghề thủ công truyền
thống luôn giữ đợc chỗ đứng trong lòng ngời tiêu dùng và ngày càng đợc sử
dụng rộng rÃi trong xà hội.
Nh vậy có nhu cầu về hàng thủ công, tất phải có sản xuất hàng thủ công
truyền thống. Nhu cầu càng lớn, càng bền vững thì việc sản xuất ở các
làng nghề càng ổn định, càng phát triển lâu dài. Ngợc lại một khi những
mặt hàng thủ công không còn ngời tiêu dïng a chuéng, mÕn mé nÕu

16


không kịp thời thay đổi sản phẩm thì nghề thủ công đó khó có thể tồn tại và
đứng vững trong xà hội đợc.
Trình độ của nghệ nhân và đội ngũ thợ lành nghề cũng là một trong
những nhân tố ảnh hởng tới nghề thủ công truyền thống. Cần phải thấy đợc
rằng, vai trò của nghệ nhân và những thợ lành nghề có vai trò rất quan trọng đối
với sự tồn tại và phát triển của các làng nghề thủ công truyền thống. Không có
nghệ nhân thì không có nghề, hoặc ít nhất là không có thơng hiệu lớn trong xÃ
hội. Chính tài năng của các nghệ nhân với đôi tay vàng của họ đà tạo nên
những sản phẩm quý giá và độc đáo, tạo ra những sản phẩm không chỉ có giá trị
về mặt vật chất mà còn có giá trị về mặt văn hóa, sống mÃi với thời gian góp
phần làm vẻ vang cho quê hơng đất nớc, tạo nên nét riêng, nét độc đáo và
truyền thống cho quê hơng. Chính nghệ nhân, ngời thợ cả là nhân tố hàng đầu
cho sự tồn tại của các nghề thủ công truyền thống, đà tạo ra những nhóm thợ

mà trớc hết là con cháu họ, những ngời trong gia đình, rồi những ngời trong
làng. Cứ nh vậy các nghệ nhân đà tạo ra một đội ngũ thợ lành nghề ngay tại
làng xóm của mình. Những nghệ nhân và đội ngũ thợ lành nghề họ có thể tiến
hành công việc của mình từ khâu mua nguyên vật liệu, chế biến nguyên liệu và
cuối cùng là tổ chức tiêu thụ các sản phẩm hàng hóa của mình. Bởi vậy mà họ
có vai trò hÕt søc quan träng, to lín ®èi víi nghỊ thđ công truyền thống trong
việc giữ gìn và phát huy những nghệ nhân và bí quyết nghề nghiệp. Đồng thời
chính họ còn là những ngời có kỹ thuật và kinh nghiệm lâu đời, đà tạo ra những
sản phẩm độc đáo có kỹ thuật cao. Vì thế cho nên nghệ nhân và đội ngũ thợ
lành nghề là nhân tố quan trọng để nghề thủ công truyền thống tồn tại và phát
triển. Ngợc lại một khi không có đội ngũ thợ lành nghề thì nghề nghiệp cũng
không còn nữa.
Đặc biệt yếu tố địa lý - môi trờng của làng nghề cũng có tác động rất lớn,
có ý nghĩa quyết định tới sự hình thành và đảm bảo sự tồn tại, phát triển lâu dài
đố với nghề thủ công truyền thống. Thông thờng những nơi có nghề thủ công

17


phát triển thờng tập trung ở các làng xÃ, chính vì thế mà nó rất thuận tiện về
giao thông thủy bộ, gần nguồn nguyên liệu. Quỳnh Lu là một huyện ®ång b»ng
ven biĨn, ®Êt ®ai b»ng ph¼ng, hƯ thèng giao thông đờng bộ và đờng thủy lại rất
phát triển. Chính điều đó đà tạo điều kiện thuận lợi cho các nghề thủ công
truyền thống trong quá trình vận chuyển nguyên liệu buôn bán với các vùng
khác. Đặc biệt đó là sự quy tụ của các nghành nghề thủ công truyền thống.
Ngoài những yếu tố trên thì một yếu tố khác nữa cũng có tác động đến
nghề thủ công truyền thống đó chính là chính sách của Đảng và Nhà nớc ta.
Đảng và Nhà nớc ta đà ban hành nhiều chính sách nhằm xây dựng và phát triển
các nghề thủ công truyền thống. Ngoài những chính sách của Đảng và Nhà nớc
ta đối với các làng nghề thủ công truyền thống trên phơng diện cả nớc thì do

tính đặc thù của mỗi địa phơng do đó mỗi địa phơng đều có những chính sách
riêng để nhằm xây dựng va phát triển làng nghề. Nghị quyết 06 - NQ/TƯ ngày
8/8/2001 của Ban chấp hành tỉnh Đảng bộ về việc phát triển ngành tiểu thủ
công nghiệp và xây dựng làng nghề tỉnh Nghệ An giai đoạn 2001 - 2005 có tính
đến năm 2010 và quyết định số 3465 QĐ - UB ngày 23/9/2002 của Uỷ ban
nhân dân tỉnh Nghệ An về việc phê duyệt đề án thực hiện nghị quyết 06/NQTƯ
của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh. Thực hiện nghị quyết số 07 cđa Ban chÊp
hµnh hun đy Qnh Lu khãa 24. Thùc hiện đề án của ủy ban nhân dân huyện
về phát triển công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp giai đoạn 2003 - 2005 có tính
đến 2010.
Riêng làng nghề mộc dân dơng vµ mü nghƯ Phó NghÜa - x· Qnh
NghÜa, nhê những chính sách hỗ trợ làng nghề của nhà nớc và địa phơng mà
làng nghề đà nhanh chóng đạt đợc những thành quả cao.
Các chính sách của Trung ơng
Nghị quyết số 134/NĐ - CP ngày 9-6-2004 của chính phủ về khuyến
khích phát triển công nghiệp nông thôn. Thông t liên tịch số 36/2005/TTLT BTC - BCN của Bộ tài chính và Bộ công nghiệp ngày 16/5/2005 hớng dẫn việc

18


quản lý và sử dụng kinh phí sự nghiệp kinh tế đối với hoạt động khuyến công.
Thông t 03/0502005/TT - BCN của Bộ công nghiệp ngày 23/6/2005 hớng dẫn
thực hiện một số nội dung của nghị định 134/2004 NĐ - CP ngày 9/6/2004 của
Chính phủ về khuyến khích phát triển công nghiệp nông thôn. Nghị định
66/2006/NĐ - CP của Chính phủ ngày 7/7/2006 về phát triển nghành nghề ở
nông thôn.
Chính sách của tỉnh Nghệ An
Quyết định số 82/2004/ QĐ - UBND ngày 2/8/2004 của Uỷ ban nhân dân
tỉnh về việc ban hành quy định về chính sách khuyến nông phát triển tiểu thủ
công nghiệp, nghề và làng nghề trên địa bàn tỉnh. Quyết định số 109/2004/QĐ UBND ngày 29/10/2004 của Uỷ ban nhân dân tỉnh về việc ban hành quy chế

quản lí, sử dụng quỹ khuyến nông.
Các chính sách của làng nghề đà đợc hởng
Hỗ trợ 20.000.000 đồng làm đờng cấp phối để xây dựng làng nghề, tặng
thởng 30.000.000 đồng đạt danh hiệu làng nghề tiểu thủ công nghiệp. Đợc hỗ
trợ đào tạo nghề cho 75 lao động tham gia, hỗ trợ kinh phí xây dựng đờng nhựa
làng nghề dài 2 km giá trị 1,2 tỷ đồng.
Từ đó thấy rằng các chính sách của Nhà nớc cũng nh của chính quyền địa
phơng đà tạo cho làng nghề có một bộ mặt khởi sắc và tiếp tục đa làng nghề
ngày càng phát triển cao hơn.
Nh vậy, điều kiện địa lý tự nhiên cũng nh môi trờng thể chế - chính sách và
pháp luật của Nhà nớc có ý nghĩa quyết định và trực tiếp tác động đến sự phát
triển bền vững đối với các làng nghề thủ công truyền thống. Sự tác động này đÃ
ảnh hớng lớn đến sự phát triển hng thịnh hay suy yếu của làng nghề thủ công
truyền thèng.

19


Chơng 2
Quá TRìNH RA ĐờI Và PHáT TRIểN CủA một số làng nghề
thủ công truyền thống ở quỳnh lu
2.1. Nghề chế biến nớc nắm truyền thống ở làng Phú Lợi - XÃ Quỳnh Dị
2.1.1. Nguồn gốc hình thành
Phú Lợi là một làng gồm hai xóm, xóm Phú Lợi 1 và xóm Phú Lợi 2, nằm
dọc theo bờ sông Hoàng Mai, một mảnh đất vốn chật hẹp, đầy khó khăn, trở
ngại mà điều kiện tự nhiên không mấy u đÃi cho vùng đất này. Thế nhng ở nơi
ấy từ thời Bắc Thuộc, cách đây khoảng 200 năm, ngời dân nơi đây đà tự lập cho
mình một nghề - nghề làm nớc mắm, mà đến nay nó trở thành nguồn thu nhập
chính cho đời sống của ngời dân làng Phú Lợi.
Trớc kia nơi đây vốn là một gò đất trống giáp biển, ngời dân ở khắp mọi

nơi từ Diễn Châu (Diễn Ngọc, Diễn Vạn, Diễn Kim), Nghi Lộc, Thanh Hoá, hội
tụ về đây định c sinh sống tạo nên làng Phú Lợi ngày nay, họ sống chủ yếu dựa
vào nghề đánh bắt hải sản gần bờ, với phơng tiện hết sức thô sơ.
Điều kiện tự nhiên đà ban tặng cho vùng đất này những thuận lợi to lớn,
vốn là vùng giáp biển, vùng biển lắm sinh vật phù du, nhiều loại hải sản có giá
trị kinh tế cao và giàu lợng đạm, nh cá hố, cá thu, cá ngừ, cá chim, đặc biệt là cá
cơm, là các loại cá phù hợp nhất cho ng dân trong làng làm nghề chế biến nớc
mắm. Bởi thế từ rất sớm ngời dân từ khắp mọi nơi đà hội tụ về đây lấy nghề
đánh bắt hải sản làm nghề chính, mà trớc đây ngời ta quen gọi là dân vạn
chài. Cuộc sống của họ gắn bó với biển cả, với những phơng tiện đánh bắt thô
sơ, đánh bắt gần bờ. Ban đầu hải sản đánh bắt đợc một phần đem về phục vụ
cho gia đình, một phần đem bán hoặc trao đổi trong làng trong xà lấy thực
phẩm và hàng tiêu dùng cho gia đình, dần dần hải sản đánh bắt đợc ngày càng
nhiều đem dùng trong gia đình và tiêu thụ trong làng, trong xà không hết, họ
đem phơi khô và muối phục vụ cho gia đình mình.

20


Ban đầu chỉ một, hai gia đình làm, với một vài vại nhỏ. Cuộc sống nay
đây mai đó trên sông, trên biển quần quật quanh năm nhng vẫn không đủ sống,
trong khi số hải sản mà họ đánh bắt đựơc lại d thừa, tiêu thụ không hết. Để
khắc phục những khó khăn đó nhiều ngời dân trong làng đà đi khắp nơi đến các
vùng ven biển học nghề làm nớc mắm, tiêu biểu nh cụ Hoàng Đức Phơn, cụ là
ngời đầu tiên trong làng ra Cát Hải - Hải Phòng học nghề làm nớc mắm, về
truyền lại cho con cháu và nhiều hộ gia đình trong làng.
Biển khơi đà tặng cho ngời dân nơi đây nguồn hải sản phong phú đa
dạng, cùng với cái khắt khe của gió tây nam, tởng chừng nh đó là sự khắt khe
của tự nhiên đối với làng quê Phú Lợi. Thế nhng những ngời dân nơi đây đà vợt
lên mọi khó khăn, lợi dụng cái nắng, cái gió khắt khe đó để sống bằng nghề làm

nớc mắm. Có lẽ cũng chính vì cái khắt khe đó tởng chừng nh đe doạ cuộc sống
của con ngời nơi đây lại rèn luyện con ngời nơi đây cứng cỏi hơn và đây cũng
chính là một trong những nguyên nhân quan trọng làm cho nớc mắm ở đây
thơm ngon thậm chí còn ngon hơn cả những nơi mà họ đà từng đến học nghề.
2.1.2. Quá trình phát triển
Lịch sử có những bớc thăng trầm và nghề làm nớc mắm ở làng Phú Lợi
cùng có những bớc thăng trầm nhất định:
Thời kỳ kháng chiến chống Pháp
Làng Phú Lợi là một gò đất nổi, nằm ven sông Hoàng Mai, ngay từ thời
kỳ này ngời dân ở khắp nơi hội tụ về đây sinh sống, chủ yếu dựa vào đánh bắt
hải sản gần bờ, cuộc sống gắn bó với sông, biển, mà trớc đây ngời ta thờng gọi
là những ngời dân vạn chài. Hải sản đánh bắt đợc tiêu thụ không hết, để tận
dụng sản phẩm d thừa, họ đà đem muối làm nớc mắm. Tuy nhiên thời kỳ này nớc mắm làm ra chủ yếu để phục vụ cho gia đình chỉ mới một số ít gia đình làm,
nớc mắm cha phải là nghề chính nuôi sống gia đình, vì thế có thể xem đây là
thời kỳ hình thành phôi thai của nghề làm nớc mắm ở làng Phú Lợi.

21


Sống trên mảnh đất hẹp, không có điều kiện để mở rộng sản xuất, ngời
dân nơi đây chủ yếu dựa vào đánh bắt hải sản ven bờ. Từ thời Pháp thuộc nghề
làm nớc mắm đà hình thành phôi thai, đến thời kỳ này nhiều ng dân làng Phú
Lợi đà đi khắp các nơi đến các vùng ven biển học nghề làm nớc mắm nh ở Cát
Hải - Hải Phòng, về làm nớc mắm, vì vậy đến thời kỳ này nghề làm nớc mắm
mới thực sự hình thành ở làng Phú Lợi, ở thời kỳ này sản phẩm nớc mắm làm ra
không chỉ để phục vụ cho gia đình mà còn đem trao đổi buôn bán trong làng xÃ,
các hộ gia đình trong làng gây dựng tu bổ đợc một số cơ sở vật chất.
Cuộc cách mạng tháng Tám giành đợc thắng lợi cha đợc bao lâu, thì Pháp
quay trở lại xâm lợc nớc ta. Chiến tranh đà tàn phá tất cả những cơ sở vật chất
ban đầu của ng dân Phú Lợi, lực lợng đánh bắt hải sản chủ yếu là thanh niên trai

tráng ra chiến trờng, bởi vậy nguồn nguyên liệu hải sản dùng để làm nớc mắm
thiếu trầm trọng, nghề làm nớc mắm ở đây không có điều kiện phát triển, mở
rộng sản xuất.
Thời kỳ kháng chiến chống Mỹ
Ngày 10/10/1954 quân Pháp rút lui hết khỏi Miền Bắc, cuộc kháng chiến
chống Pháp dành thắng lợi. Tuy nhiên Pháp vừa rút khỏi Miền Bắc thì đế quốc
Mỹ lại tiến hành xâm lợc nớc ta, bằng việc thiết lập chính quyền phản động ở
Miền Nam Việt Nam, đất nớc bị chia cắt thành hai miền với hai chế độ chính trị
khác nhau.
Trong hoàn cảnh đó Đảng, Nhà nớc ta đà đề ra nhiệm vụ cho cả hai miền.
Miền Bắc đà hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên xây dựng
xà hội chủ nghĩa và hậu phơng vững chắc cho tiền tuyến lớn Miền Nam. Còn ở
Miền Nam do cha hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, nên phải
tiếp tục thực hiện cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân hoàn thành sự
nghiệp thống nhất nớc nhà là tiền tuyến lớn.
Trong hoàn cảnh đó nhân dân Làng Phú Lợi cùng nhân dân cả nớc, vừa
khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thơng chiến tranh, vừa là hậu phơng vững chắc

22


cung cÊp søc ngêi cđa cho tiỊn tun ë MiỊn Nam. Nhờ vậy mà đánh bắt và chế
biến hải sản, nhất là nghề làm nớc mắm truyền thống, dần dần đợc khôi phục
trở lại.
Ngày 22/10/1958 mô hình Hợp tác xà khai thác hải sản thành lập ở làng
Phú Lợi. Đây là một mốc quan trọng, tạo điều kiện cho nghề làm nớc mắm ở
đây có điều kiện phát triển, mọi ngời trong làng cùng đánh bắt hải sản, cùng
chế biến trong Hợp Tác XÃ hăng hái, những tia hy vọng mới thể hiện rõ trên nét
mặt của mỗi ng dân làng Phú Lợi.
Dới sự lÃnh đạo của Đảng, các ngành các cấp, ng dân Phú Lợi vừa hăng

hái đánh bắt và chế biến hải sản, nhờ vậy mà năm 1962 -1963 Phú Lợi đợc công
nhận là lá cờ đầu trong phong trào đánh cá ở Miền Bắc.
Những ngời có tài có công nh: Cụ Lục, Cụ Hà, Cụ Tấn, Cụ Thờng... là
những ngời đi tiên phong trong nghề làm nớc mắm ở làng này. Bị thất bại trong
chiến lợc chiến tranh đơn phơng, Mỹ tiếp tục đa ra các chiến lợc chiến tranh
khác: Chiến tranh đặc biệt, chiến tranh cục bộ, chiến lựơc Việt Nam hoá chiến
tranh. Các chiến lợc chiến tranh đó, đặc biệt sự kiện ngày 5/8/1964 đế quốc Mỹ
leo thang đánh phá Miền Bắc, trọng điểm đánh phá là: Sông Gianh, Cầu Long
Biên, Cầu Hàm Rồng... trong đó có Cảng Cờn gần làng Phú Lợi cũng là trọng
điểm bị đánh phá ác liệt, bởi vậy làng Phú Lợi bị thiệt hại về ngời và tài sản
nghiêm trọng.
Trong hoàn cảnh khó khăn đó nhân dân làng Phú Lợi cùng nhân dân
Miền Bắc và nhân dân cả nớc vừa tiếp tục sản xuất khôi phục kinh tế hàn gắn
viết thơng chiến tranh, vừa chống chiến tranh phá hoại, vừa chi viện cho cách
mạng Miền Nam. Ng dân Phú Lợi tiếp tục bám trụ lấy làng để đánh bắt và chế
biến hải sản và nghề làm nớc mắm vẫn tiếp tục đợc duy trì, với tinh thần cơng
quyết một tấc không đi một li không rời, góp phần cùng cả nớc hoàn thành
cuộc kháng chiến chống Mỹ.
Từ năm 1975 đến nay

23


Sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ kết thúc cả nớc bớc vào thời kỳ
thống nhất đất nớc, chống thù trong giặc ngoài, khôi phục kinh tế, hàn gắn vết
thơng chiến tranh. Nghề làm nớc mắm truyền thống ở làng Phú Lợi lại có điều
kiện khôi phục và phát triển trở lại. Tuy nhiên sau khi chiếm toàn bộ những cơ
sở vật chất: tàu, thuyền, chum, vại... mà ng dân làng Phú Lợi gây dựng, khôi
phục đợc từ thời kỳ đầu sau cuộc kháng chiến chống Pháp thành công hầu nh
không còn gì, nhiều ngời trong làng hy sinh trong chiến trờng.

Lúc này quân Mỹ rút khỏi Miền Nam nhng hai miền Nam Bắc vẫn hai
chế độ chính trị khác nhau, bởi vậy nhiệm vụ lúc này là phải hoàn thành thống
nhất đất nớc, lại phải tiếp tục đơng đầu với các cuộc chiến tranh biên giới:
Chiến tranh biên giới Tây Nam, chiến tranh biên giới Phía Bắc và các thế lực
phản động trong, ngoài nớc. Vì thế ở thời kỳ đầu sau cuộc kháng chiến chống
Mỹ nghề làm nớc mắm ở làng Phú Lợi không có điều kiện để tập trung phát
triển. Từ năm 1986 sau khi hoàn thành thống nhất đất nớc, các cuộc chiến tranh
biên giới kết thúc thắng lợi, cả nớc đi lên Chủ nghĩa xà hội. Đảng, Nhà nớc đÃ
đề ra đờng lối đổi mới, kinh tế cá thể hộ gia đình đợc khuyến khích và u tiên
phát triển. Nếu nh trớc năm 1986 kinh tế cá thể không có điều kiện phát triển,
kinh tế phát triển theo cơ chế bao cấp, thì nay kinh tế cá thể đợc khuyến khích,
có điều kiện phát triển, phù hợp với tâm lý nguyện vọng của nhân dân, mọi ngời
phấn khởi tích cực lao động sản xuất.
Năm 1999 một bớc đột phá về nghề nghiệp ở làng Phú Lợi, đó là nhiều
Đảng viên đà nhanh chóng mạnh dạn thay đổi cơ chế cũ, theo đờng lối cơ chế
mới. Nhiều Đảng viên trong làng trớc kia họ vốn là những chiến sĩ bộ đội giỏi ở
chiến trờng, thì nay khi chiến tranh kết thúc, đất nớc bớc vào thời kỳ đổi mới,
họ lại hoà vào cuộc sống đời thờng xây dựng phát triển kinh tế, tiêu biểu nh ông
Trần Đức Nghĩa, ông Nguyễn Viết Xân, ông Trần Văn Tiến.
Từ năm 2001 căn cứ Quyết định của ủy Ban Nhân Dân huyện Quỳnh Lu
phê duyệt kế hoạch phát triển kinh tế xà hội giai đoạn năm 2001 -2010 trên địa

24


bàn xà Quỳnh Dị, căn cứ vào thực trạng khó khăn của làng Phú Lợi: Phơng tiện
đánh bắt hải sản thô sơ, lạc hậu, công suất nhỏ, cơ sở vật chất thiếu thốn, h
hỏng và tình trạng d thừa lao động, đặc biệt là lao động nữ. ủy Ban Nhân Dân
xÃ, cùng đại diện làng nghề là ông Trần Văn Tiến, chủ dự án đà soạn thảo bản
Đề nghị phê duỵêt dự án đầu t số 07/CN - UB (30/12/2002), gửi ủy Ban

Nhân Dân tỉnh Nghệ An, Hội đồng liên minh Hợp Tác XÃ và doanh nghiệp
ngoài quốc doanh, ủy Ban Nhân Dân huyện, Phòng công nghiệp và phát triển
nông thôn.
Ngày 15/02/2002 soạn tờ trình về việc phê duyệt dự án đầu t xây dựng và
phát triển làng nghề chế biến hải sản và bản đề án xây dựng làng nghề Phú Lợi,
gửi ủy Ban Nhân Dân tỉnh Nghệ An, hội đồng liên minh Hợp Tác XÃ và doanh
nghiệp ngoài quốc doanh, ủy Ban Nhân Dân huyện, Phòng công nghiệp và phát
triển nông thôn.
Nhờ những nổ lực của chính quyền các cấp và sự cần cù chịu khó của
toàn thể nhân dân làng Phú Lợi, mà năm 2002 làng có 20 tàu vơn khơi có công
suất từ 45/CV - 90/CV, sản lợng đánh bắt đạt từ 2500 đến 3000 tấn, trong đó cá
cơm chiếm tới 80% là nguồn nguyên liệu phù hợp nhất cho làm nớc mắm. Nhờ
vậy mà trong thời gian này nớc mắm ở đây ngày càng đợc mọi ngời a chuộng,
các hội dịch vụ phát triển mạnh, đà giải quyết đợc tình trạng lao động d thừa
trong làng, đem lại nguồn lớn cho ng dân Phú Lợi.
Năm 2002 làng có 349 hộ, trong đó hộ đang làm nghề là 97 hộ, có hai xởng sản xuất đá lạnh, còn lại là dụng cụ đựng nguyên liệu bằng thùng bê tông,
xi măng và chum vại bằng sành, mỗi hộ có bể chứa từ 5 tấn trở lên .
Năm 2004 tổng số lao động của làng là 582 lao động, giá trị sản xuất
24,487 triệu đồng, tổng thu nhập của làng nghề là 11.011 tỷ đồng, thu nhập
bình quân chế biến đạt 19,8 triệu/ngời, thu nhập bình quân lao động 15,1
triệu/ngời. Đặc biệt sản lợng nớc mắm đạt đợc rất cao: Nớc mắm loại 1 đạt 800

25


×