Tải bản đầy đủ (.docx) (75 trang)

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH TẠI CÔNG TY TNHH CƠ KHÍ CẦU TRỤC THÁNH KHỞI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (506.35 KB, 75 trang )

Trường ĐH Công nghiệp Hà Nội Khoa Quản lý kinh doanh
MỤC LỤC
Nguyễn Thị Huế - TCNH 3 – K5 1 Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Trường ĐH Công nghiệp Hà Nội Khoa Quản lý kinh doanh
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
STT Từ viết tắt Từ đầy đủ
1 TNHH Trách nhiệm hữu hạn
2 TSCĐ Tài sản cố định
3 TSLĐ Tài sản lưu động
4 HTK Hàng tồn kho
5 LNST Lợi nhuận sau thuế
6 DTT Doanh thu thuần
7 DTNH Đầu tư ngắn hạn
8 TSNH Tài sản ngắn hạn
9 TSDH Tài sản dài hạn
10 VCSH Vốn chủ sở hữu
11 NVNH Nguồn vốn ngắn hạn
12 NVDH Nguồn vốn dài hạn
13 TTS Tổng tài sản
Nguyễn Thị Huế - TCNH 3 – K5 2 Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Trường ĐH Công nghiệp Hà Nội Khoa Quản lý kinh doanh
DANH MỤC BẢNG
Nguyễn Thị Huế - TCNH 3 – K5 3 Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Trường ĐH Công nghiệp Hà Nội Khoa Quản lý kinh doanh
DANH MỤC SƠ ĐỒ, HÌNH VẼ
Nguyễn Thị Huế - TCNH 3 – K5 4 Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Trường ĐH Công nghiệp Hà Nội Khoa Quản lý kinh doanh
LỜI MỞ ĐẦU
Hoạt động phân tích tài chính đã được đề cập khá nhiều qua các công trình của
các nhà nghiên cứu kinh tế. Tuy nhiên việc ứng dụng từ lý luận vào thực tiễn là một
khoảng cách khá xa. Thực tế đã chứng minh rằng không thể đưa ra một khuôn mẫu


phân tích tài chính áp dụng với mọi loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế. Do vậy
các bài viết, nghiên cứu về phân tích tài chính cụ thể cho các loại hình doanh nghiệp,
các ngành nghề kinh doanh là rất cần thiết cho các doanh nghiệp vì đó là cơ sở nền
tảng để các doanh nghiệp có thể đưa ra các quyết định tài chính hiệu quả nhất.
Hiện nay, trước xu thế hội nhập và cạnh tranh khốc liệt, các doanh nghiệp Việt
Nam ngày càng chú trọng tới công tác phân tích tài chính và xem nó là một trong
những yếu tố quan trọng nhất tác động đến hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp.Qua thực tế thực tập tại Công ty cổ TNHH Cơ khí cầu trục Thánh
Khởi, em nhận thấy công tác phân tích tài chính tại Công ty chưa được quan tâm đúng
mức và còn nhiều hạn chế, các phương pháp phân tích tài chính tại công ty còn ít, đơn
giản và chưa thực sự hiệu quả, chính vì vậy em đã lựa chọn đề tài: “ Hoàn thiện
phương pháp phân tích tài chính tại công ty TNHH Cơ khí cầu trục Thánh Khởi”
làm chuyên đề tốt nghiệp cho mình. Ngoài phần mở đầu và kết luận, chuyên đề gồm 3
phần chính:
Phần 1: Những lý luận cơ bản về phương pháp phân tích tài chính doanh nghiệp
Phần 2: Thực trạng phương pháp phân tích tài chính tại công ty TNHH Cơ khí cầu
trục Thánh Khởi
Phần 3: Giải pháp hoàn thiện phương pháp phân tích tài chính tại công ty TNHH Cơ
khí cầu trục Thánh Khởi.
Để hoàn thành chuyên đề này, lời đầu tiên em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc
của mình đối với cô PGS,TS. Nguyễn Thị Thu Thảo,người trực tiếp hướng dẫn, chỉ
bảo và chữa lỗi giúp cho bài được hoàn thiện và khoa học.
Em xin chân thành cảm ơn quý công ty TNHHCơ khí cầu trục Thánh khởi, đặc
biệt là các anh chị ở phòng Tài chính – Kế toán của Công ty đã giúp đỡ em trong việc
tìm tài liệu để hoàn thành bản báo cáo này.
Tuy nhiên do thời gian thực tập và kiến thức của em còn hạn chế nên không tránh
khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của các thầycô,
các anh chị trong Công ty để em hoàn thiện hơn vốn kiến thức bản thân.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 17 tháng 02 năm 2014

Sinh viên
Nguyễn Thị Huế - TCNH 3 – K5 5 Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Trường ĐH Công nghiệp Hà Nội Khoa Quản lý kinh doanh
Nguyễn Thị HuếCHƯƠNG 1
NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH TÀI
CHÍNH DOANH NGHIỆP
1.1. Hoạt động tài chính doanh nghiệp và phân tích tài chính doanh nghiệp
1.1.1. Hoạt động tài chính của doanh nghiệp
Theo Luật doanh nghiệp Việt Nam năm 2005: Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế
có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy
định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh.
Hoạt động tài chính của doanh nghiệp là một một bộ phận của hoạt động sản
xuất kinh doanh và có mối quan hệ trực tiếp với mối quan hệ sản xuất kinh doanh. Tất
các các hoạt động sản xuất kinh doanh đều ảnh hưởng tới tình hình tài chính của doanh
nghiệp. Ngược lại, tình hình tài chính tốt hay xấu lại có tác động thúc đẩy hoặc kìm
hãm đối với quá trình sản xuất kinh doanh.
Hoạt động tài chính ở doanh nghiệp phải hướng tới các mục tiêu sau:
- Hoạt động tài chính phải giải quyết tốt các mối quan hệ kinh tế thể hiện qua
việc thanh toán với các đơn vị có liên quan như ngân hàng, các đơn vị kinh tế khác.
Mối quan hệ này được cụ thể hoá bằng các chỉ tiêu đánh giá về mặt lượng, mặt chất và
thời gian.
- Hoạt động tài chính phải đảm bảo nguyên tắc hiệu quả. Nguyên tắc này đòi
hỏi phải tối đa hoá việc sử dụng các nguốn vốn, nhưng vẫn đảm bả quá trình sản xuất
kinh doanh được hoạt động bình thường và mang lại hiệu quả.
- Hoạt động tài chính được thực hiện trên cơ sở tôn trọng pháp luật, chấp hành
và tuân thủ các chế độ về tài chính tín dụng, nghĩa vụ với Nhà nước, kỷ luật với các
đơn vị, tổ chức kinh tế có liên quan.
Trong các lĩnh vực kinh tế xã hội khác nhau, khi các chủ thể ở đó tiến hành các
hoạt động đã làm nảy sinh các quan hệ tài chính khác nhau. Các quan hệ tài chính đó
thể hiện dưới hình thức cụ thể của các nguồn vận động của các nguồn tài chính từ nơi

này sang nơi khác. Các luồng tài chính khi gặp nhau (hội tụ) tại một giao điểm nhất
định nào đó được gọi là quỹ tiền tệ. Ở mỗi hoạt động khác nhau có những quỹ tiền tệ
đặc thù hình thành một mắt khâu tài chính độc lập. Tính đa dạng phong phú đó của
hoạt động tài chính bắt nguồn từ tính đa dạng và phong phú của các hoạt động kinh tế
xã hội mà hoạt động tài chính là một bộ phận. Các khâu tài chính tuy khác nhau và đa
dạng song quan hệ chặt chẽ và phụ thuộc lẫn nhau.
Nguyễn Thị Huế - TCNH 3 – K5 6 Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Trường ĐH Công nghiệp Hà Nội Khoa Quản lý kinh doanh
Tài chính thể hiện ra là sự vận động của vốn tiền tệ diễn ra ở mọi chủ thể trong
xã hội, phản ánh quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ đáp ứng các
nhu cầu khác nhau của các chủ thể trong xã hội.
Tài chính doanh nghiệp là quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng các quỹ tiền
tệ, phát sinh trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp nhằm đạt tới mục tiêu của
doanh nghiệp.
Tài chính doanh nghiệp là một khâu trong hệ thống tài chính của nền kinh tế. Tài
chính doanh nghiệp được biểu hiện là những quan hệ giá trị giữa doanh nghiệp và các
chủ thẻ khác trong nền kinh tế. Các quan hệ tài chính doanh nghiệp bao gồm:
- Quan hệ giữa Nhà nước với doanh nghiệp: phát sinh khi doanh nghiệp thực hiện nghĩa
vụ nộp thuế với Nhà nước, khi nhà nước góp vốn vào doanh nghiệp.
- Quan hệ giữa doanh nghiệp với thị trường tài chính: thể hiện khi doanh nghiệp tìm
kiếm các nguồn tài trợ (vay ngắn hạn, dài hạn; phát hành cổ phiêu, trái phiếu, ),
doanh nghiệp trả lãi vay, trả lợi tức; doanh nghiệp gửi tiền vào ngân hàng, đầu tư
chứng khoán,
- Quan hệ giữa doanh nghiệp và các thị trường khác: thị trường hàng hóa, dịch vụ, sức
lao động,
- Quan hệ trong nội bộ doạnh nghiệp: giữa các bộ phận, phòng ban, giữa cổ đông với
người quản lý, giữa cổ đông và chủ nợ, giữa quyền sử dụng vốn và quyền sở hữu vốn.
1.1.2. Phân tích tài chính trong doanh nghiệp
- Khái niệm phân tích tài chính doanh nghiệp
Phân tích tài chính là sử dụng một tập hợp các khái niệm,phương pháp và các

công cụ cho phép xử lý các thông tin kế toán và các thông tin khác về quản lý nhằm
đánh giá tình hình tài chính của một doanh nghiệp, đánh giá rủi ro, mức độ và chất
lượng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp đó.
Mối quan tâm hàng đầu của phân tích tài chính doanh nghiệp là phân tích các
báo cáo tài chính và các chỉ tiêu đặc trưng tài chính từ đó đưa ra các thông tin về khả
năng thanh toán, khả năng cân đối vốn, khả năng hoạt động và khả năng sinh lời của
doanh nghiệp. Chính các thông tin đưa ra sẽ giúp cho người sử dụng thông tin xem xét
một cách chi tiết hoạt động tài chính doanh nghiệp trong quá khứ và hiện tại, để từ đó
nhận biết, phán đoán, dự báo và đưa ra các quyết định tài chính, quyết định đầu tư và
tài trợ phù hợp. Từ đó góp phần giúp doanh nghiệp có thể tồn tại và phát triển trong
thời buổi nền kinh tế thị trường cạnh tranh khốc liệt như hiện nay.
- Mục tiêu của phân tích tài chính doanh nghiệp
Nguyễn Thị Huế - TCNH 3 – K5 7 Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Trường ĐH Công nghiệp Hà Nội Khoa Quản lý kinh doanh
Có rất nhiều đối tượng quan tâm và sử dụng thông tin kinh tế, tài chính của
doanh nghiệp. Mỗi đối tượng quan tâm theo một góc độ và mục đích khác nhau. Do
nhu cầu về thông tin tài chính rất đa dạng, đòi hỏi phân tích tài chính phải thực hiện
bằng nhiều phương pháp khác nhau để đáp ứng các nhu cầu khác nhau của các đối
tượng quan tâm. Các đối tượng quan tâm tới tình hình tài chính của doanh nghiệp có
thể tập hợp thành các đối tượng chính sau đây:
- Các nhà quản trị
- Nhà đầu tư: là các cổ đông hiện tại và cổ đông tiềm năng
- Những người cho doanh nghiệp vay tiền như ngân hàng, các tổ chức tài
chính, người mua trái phiếu của doanh nghiệp, các doanh nghiệp khác,
- Những người tham gia vào “ đời sống” của doanh nghiệp
- Nhà nước
- Nhà phân tích tài chính

Các đối tượng sử dụng thông tin tài chính khác nhau sẽ đưa ra các quyết định
với mục đích khác nhau:

Đối với các nhà quản trị
Các hoạt động nghiên cứu tài chính trong doanh nghiệp được gọi là phân tích
tài chính nội bộ, khác với phân tích tài chính bên ngoài do các nhà phân tích ngoài
doanh nghiệp tiến hành. Do có thông tin đầy đủ và hiểu rõ về doanh nghiệp, các nhà
phân tích tài chính trong doanh nghiệp có nhiều lợi thế để có thể phân tích tốt nhất.
Nhà quản trị phân tích tài chính nhằm những mục tiêu sau đây:
- Tạo thành các chu kỳ đánh giá đều đặn về các hoạt động kinh doanh quá khứ,
tiến hành cân đối tài chính, khả năng sinh lời, khả năng thanh toán, trả nợ, rủi ro tài
chính của doanh nghiệp.
- Định hướng các quyết định của Ban Tổng giám đốc còng nh của giám đốc tài
chính: quyết định đầu tư, tài trợ, phân chia lợi tức cổ phần,…
- Là cơ sở cho dù báo tài chính: kế hoạch đầu tư,
- Cuối cùng, phân tích tài chính là công cụ để kiểm soát các hoạt động quản lý.
Phân tích tài chính làm nổi bật tầm quan trọng của dự báo tài chính và là cơ sở
cho các nhà quản trị, làm sáng tỏ không chỉ chính sách tài chính mà còn làm rõ các
chính sách chung.
Đối với nhà đầu tư
Các nhà đầu tư là cá nhân hoặc doanh nghiệp quan tâm trực tiếp đến tính toán
các giá trị của doanh nghiệp vì họ đã giao vốn cho doanh nghiệp và có thể phải chịu
Nguyễn Thị Huế - TCNH 3 – K5 8 Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Trường ĐH Công nghiệp Hà Nội Khoa Quản lý kinh doanh
rủi ro. Thu nhập của họ là tiền chia lợi tức cổ phần và giá trị tăng thêm của vốn đầu tư.
Hai yếu tố này chịu ảnh hưởng của lợi nhuận kỳ vọng của doanh nghiệp. Trong thực
tế, các nhà đầu tư thường tiến hành đánh giá khả năng sinh lời của doanh nghiệp. Câu
hỏi trọng tâm là: lợi nhuận bình quân cổ phiếu của Công ty là bao nhiêu? Chúng ta
cũng sẽ thấy rằng họ không hài lòng trước lợi nhuận tính toán theo sổ sách kế toán và
cho rằng phần lợi nhuận này có quan hệ rất xa so với lợi nhuận thực tế. Dù kiến trước
lợi nhuận sẽ được nghiên cứu đầy đủ trong chính sách phân chia lợi tức cổ phần và
trong nghiên cứu rủi ro hướng các lùa chọn vào những cổ phiếu phù hợp nhất.
Các cổ đông cá nhân của các Công ty lớn nói chung phải dùa vào các nhà

chuyên môn. Họ là những người chuyên nghiên cứu các thông tin kinh tế tài chính, có
những cuộc tiếp xúc trực tiếp với ban giám đốc tài chính của Công ty làm rõ triển
vọng phát triển doanh nghiệp và đánh giá các cổ phiếu trên thị trường tài chính.
Đối với người cho vay
Nếu phân tích tài chính được phát triển trong các ngân hàng khi ngân hàng
muốn đảm bảo về khả năng hoàn trả nợ của khách hàng, thì phân tích tài chính cũng
được các doanh nghiệp cho vay, ứng trước, bán chịu sử dụng.
Phân tích tài chính đối với các khoản nợ dài hạn khác với những khoản cho vay
ngắn hạn.
- Nếu là những khoản cho vay ngắn hạn, người cho vay đặc biệt quan tâm đến
khả năng thanh toán nhanh của doanh nghiệp. Nghĩa là khả năng ứng phó của doanh
nghiệp đối với các món nợ khi đến hạn trả.
- Nếu là những khoản cho vay dài hạn, người cho vay phải tin chắc khả năng
hoàn trả và khả năng sinh lời của doanh nghiệp mà việc hoàn trả vốn và lãi sẽ tuỳ
thuộc vào khả năng sinh lời này.
Chi phí cho vay thay đổi theo số tiền cho vay và theo thời hạn của khoản vay,
nhưng dù cho nó là cho vay dài hạn hay ngắn hạn thì người cho vay đều quan tâm đến
cơ cấu tài chính biểu hiện mức độ mạo hiểm của doanh nghiệp đi vay.
Đối với những người hưởng lương trong doanh nghiệp
Khoản tiền lương nhận được từ doanh nghiệp luôn là nguồn thu nhập lớn của
người hưởng lương. Như vậy lợi ích của họ gắn liền với tình hình tài chính của doanh
nghiệp. Sự quan tâm của người hưởng lương trong doanh nghiệp đến tình hình tài
chính của công ty còng là một cách phân tích tài chính. Họ cũng quan tâm đến những
thông tin và số liệu đánh giá, xem xét tình hình tài chính, thực trạng hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Từ những vấn đề trên, cho thấy: phân tích tài chính doanh nghiệp là công cụ
hữu ích được dùng để xác định giá trị kinh tế, để đánh giá các mặt mạnh, mặt yếu của
Nguyễn Thị Huế - TCNH 3 – K5 9 Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Trường ĐH Công nghiệp Hà Nội Khoa Quản lý kinh doanh
một doanh nghiệp, tìm ra nguyên nhân khách quan và chủ quan, giúp cho từng đối

tượng lựa chọn và đưa ra quyết định phù hợp với mục đích mà họ quan tâm.
• Chức năng của phân tích tài chính doanh nghiệp
Phân tích tài chính doanh nghiệp với vị trí là công cụ nhận thức các vấn đề liên
quan tới tài chính doanh nghiệp, trong quá trình tiến hành, phân tích sẽ thể hiện chức
năng: đánh giá, dự đoán và điều chỉnh tài chính doanh nghiệp.
Chức năng đánh giá: tài chính doanh nghiệp là một hệ thống các luồng chuyển
dịch giá trị, các nguồn vận động của những nguồn lực tài chính trong quá trình tạo lập,
phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ hoặc vốn hoạt động của doanh nghiệp nhằm đạt
được mục tiêu kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật. Các luồng chuyển dịch giá trị,
sự vận động của các nguồn tài chính nảy sinh và diễn ra như thế nào, nó tác động ra
sao đến quá trình kinh doanh, chịu ảnh hường bởi nhiều yếu tố khác nhau, có yếu tố
mang tính môi trường, có yếu tố bên trong, có yếu tố bên ngoài nhưng cụ thể là yếu tố
nào tác động đến sự vận động và chuyển dịch ra sao, gần với mục tiêu hay ngày càng
xa rời với mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp, có phù hợp với cơ chế chính sách và
pháp luật hay không là những vấn đề mà phân tích tài chính doanh nghiệp phải đưa ra
câu trả lời. Quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng vốn hoạt động và các quỹ tiền tệ ở
doanh nghiệp diễn ra như thế nào, tác động ra sao tới kết quả hoạt động, là những vấn
đề mà phân tích tài chính doanh nghiệp phải làm rõ. Thực hiện trả lời và làm rõ những
vấn đề trên là thực hiện chức năng đánh giá tài chính doanh nghiệp.
Chức năng dự đoán: mọi quyết định của con người đều hướng vào thực hiện
những mục tiêu nhất định. Những mục tiêu này có thể là ngắn hạn, có thể là dài hạn.
Nhưng nếu liên quan tới đời sống kinh tế của doanh nghiệp thì cần nhận thấy tiềm lực
tài chính, diễn biến nguồn chuyển dịch giá trị, sự vận động của vốn hoạt động trong
tương lai của doanh nghiệp. Những quyết định và hành động trong tương lai phụ thuộc
vào diền biến kinh tế xã hội và hoạt động của doanh nghiệp sẽ diễn ra trong tương lai.
Bản thân doanh nghiệp cho dù đang ở giai đoạn nào trong chu kỳ phát triển thì các
hoạt động cũng đều hướng tới những mục tiêu nhất định. Những mục tiêu này được
hình thành từ nhận thức về điều kiện, năng lực của bản thân cùng những diễn biến về
tình hình kinh tế thế giới, trong nước, ngành nghề và các doanh nghiệp khác cùng
ngành, sự tác động của các yếu tố kinh tế xã hội trong tương lai. Vì vậy, để có các

quyết định phù hợp và tổ chức thực hiện hợp lý, đáp ứng được mục tiêu mong muốn
của các đối tượng quan tâm cần thấy tình hình của doanh nghiệp trong tương lai. Đó
chính là chức năng dự đoán của tài chính doanh nghiệp.
Nguyễn Thị Huế - TCNH 3 – K5 10 Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Trường ĐH Công nghiệp Hà Nội Khoa Quản lý kinh doanh
Chức năng điều chỉnh:tài chính doanh nghiệp là hệ thống các quan hệ tài chính
dưới hình thái giá trị phát sinh trong quá trình tiến hành các hoạt động. Hệ thống các
quan hệ đó bao gồm nhiều loại khác nhau, rất đa dạng, phong phú và phức tạp, chịu sự
ảnh hưởng của nhiều nhân tố cả bên trong và bên ngoài doanh nghiệp. Hệ thống các
quan hệ tài chính đó là bình thường nếu tất cả các mắt xích trong hệ thống đó đều diễn
ra bình thường và đó là sự kết hợp hài hòa các mối quan hệ. Tuy nhiên, các mối quan
hệ kinh tế ngoại sinh, bản thân doanh nghiệp cũng như các đối tượng quan tâm không
thể kiểm soát và chi phối toàn bộ. Vì thế, để kết hợp hài hòa các mối quan hệ, doanh
nghiệp, các đối tượng có liên quan phải điều chỉnh các mối quan hệ và điều chỉnh các
nghiệp vụ kinh tế nội sinh. Muốn vậy, cần nhận thức rõ nội dung, tính chất, hình thức
và xu thế phát triển của các mối quan hệ kinh tế tài chính có liên quan. Phân tích tài
chính doanh nghiệp giúp doanh nghiệp và các đối tượng quan tâm nhận thức được điều
này. Đó là chức năng điều chỉnh của phân tích tài chính doanh nghiệp.
1.2. Phương pháp phân tích tài chính doanh nghiệp
1.2.1. Tổ chức và quy trình thực hiện phân tích tài chính
1.2.1.1. Tổ chức thực hiện phân tích tài chính
Quá trình tổ chức phân tích tài chính được tiến hành tuỳ theo loại hình tổ chức
kinh doanh ở các doanh nghiệp nhằn mục đích cung cấp, đáp ứng nhu cầu thông tin
cho quá trình lập kế hoạch, kiểm tra và ra quyết định. Tổ chức phân tích phải làm sao
thoả mãn cao nhất nhu cầu thông tin của từng loại hình quản trị khác nhau. Thông
thường phân tích tài chính được tổ chức dưới một số hình thức sau:
• Phân tích tài chính có thể được bố trí nằm ở trong một bộ phận riêng biệt đặt dưới quyền
kiểm soát trực tiếp của ban giám đốc và làm tham mưu cho giám đốc. Theo hình thức
này quá trình phân tích thể hiện được toàn bộ nội dung của hoạt động kinh doanh. Nó
được tiến hành một cách thường xuyên, liên tục. Kết quả phân tích sẽ cung cấp thông

tin thường xuyên cho lãnh đạo trong doanh nghiệp. Trên cơ sở này các thông tin qua
phân tích được truyền từ trên xuống theo hình chức năng quản lý và quá trình giám sát,
kiểm tra, kiểm soát, điều chỉnh, chấn chỉnh đối với từng bộ phận của doanh nghiệp
theo cơ cấu từ ban giám đốc đến các phòng ban trong công ty.
• Phân tích tài chính cũng có thể được thực hiện ở nhiều bộ phận riêng biệt theo các chức
năng quản lý nhằm cung cấp thông tin và thoả mãn thông tin cho các bộ phận của quản
lý được phân quyền:
- Đối với bộ phận được phân quyền kiểm soát và ra quyết định về chi phí, bộ
phận này sẽ tổ chức thực hiện thu thập thông tin và tiến hành phân tích tình hình biến
động chi phí, giữa thực tế so với định mức nhằm phát hiện chênh lệch chi phí để từ đó
Nguyễn Thị Huế - TCNH 3 – K5 11 Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Trường ĐH Công nghiệp Hà Nội Khoa Quản lý kinh doanh
tìm ra nguyên nhân và đề ra giải pháp. Đối với bộ phận này khi tiến hành tổ chức
phương pháp phân tích tài chính phải chú ý thu thập nguồn thông tin sát thực tế để
phục vụ cho phương pháp phân tích đạt hiệu quả tối ưu. Bên cạnh những nguồn thông
tin từ các báo cáo tài chính của doanh nghiệp cần chú ý đến những thông tin bên ngoài
như thông tin về giá cả thị trường, tình hình biến động của những mặt hàng mà công ty
đang sử dụng làm yếu tố đầu vào.
- Đối với bộ phận được phân quyền kiểm soát và ra quyết định về doanh thu, là bộ
phận kinh doanh riêng biệt theo địa điểm hoặc một số sản phẩm nhóm hàng riêng biệt,
do đó họ có quyền với bộ phận cấp dưới là bộ phận chi phí. ứng với với bộ phận này
thường là trưởng phòng kinh doanh hoặc giám đốc kinh doanh tuỳ theo doanh nghiệp.
Bộ phận này sẽ tiến hành thu thập thông tin, tiến hành phân tích báo cáo thu nhập,
đánh giá mối quan hệ chi phí-lợi nhuận, lập và tính toán các chỉ tiêu tài chính. Như
vậy phân tích tài chính tại bộ phận này là hết sức quan trọng. Việc tổ chức phương
pháp phân tích tài chính tại bộ phận này đòi hỏi phải công phu tỉ mỉ và có quy trình
khoa học rõ ràng bởi đây là công việc làm cơ sở để đánh giá khả năng hoàn vốn trong
kinh doanh, kết quả mà doanh nghiệp thu được trong quá trình sản xuất kinh doanh,
tình hình thực hiện kế hoạch và giúp nhà quản trị đưa ra được chiến lược phát triển,
định hướng kinh doanh trong thời gian tới.

1.2.1.2. Quy trình thực hiện phân tích tài chính
Cho dù phương pháp phân tích tài chính được tổ chức dưới hình thức nào đi
chăng nữa thì công việc này phải được thực hiện theo một quy trình nhất định và hợp
lý. Quy trình đó sẽ được trình bày ở mục dưới đây:
1. Xác định mục tiêu phân tích
Đối với mỗi doanh nghiệp ở từng thời kỳ nhất định, mục tiêu phân tích tài chính
doanh nghiệp được xác định một cách khác nhau và trong mỗi vấn đề của hoạt động
tài chính như khả năng cân đối vốn, quản lý hàng tồn kho, kiểm soát chi phí và lợi
nhuận, thì mỗi vấn đề có một mục tiêu riêng như:
- Về khả năng cân đối vốn sẽ có mục tiêu phân tích cơ cấu vốn, khả năng thanh
toán và lưu chuyển vốn.
- Về quản lý hàng tồn kho sẽ có mục tiêu phân tích về doanh số, giá cả và cấu trúc
tài sản.
- Về kiểm soát chi phí và lợi nhuận có mục tiêu phân tích là khả năng sinh lời,
doanh thu,
Xác định mục tiêu phân tích là bước rất quan trọng quyết định đến việc sử dụng các
phương pháp phân tích sao cho phù hợp.
2. Lập kế hoạch phân tích
Nguyễn Thị Huế - TCNH 3 – K5 12 Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Trường ĐH Công nghiệp Hà Nội Khoa Quản lý kinh doanh
Trên cơ sở tuân thủ mục tiêu phân tích đã đề ra, bộ phận phân tích phải xác định
rõ phạm vi phân tích, thời gian tiến hành, phân công trách nhiệm và bố trí nhân sự.
Về phạm vi phân tích có thể chia ra thành phân tích theo chuyên đề hay phân
tích toàn diện.
Về thời gian phân tích thì phải xác định rõ việc phân tích là phân tích trước,
phân tích hiện hành hay phân tích sau.
3. Thu thập và xử lý thông tin
Trong phân tích, nhà phân tích phải thu thập, sử dụng mọi nguồn thông tin: từ
thông tin nội bộ doanh nghiệp đến thông tin bên ngoài doanh nghiệp, từ thông tin số
lượng đến thông tin giá trị.

a. Thu thập thông tin.
Đây là bước có ý nghĩa xuyên suốt quá trình phân tích tài chính doanh nghiệp
trong nền kinh tế. Cũng trong bước này, mục đích phân tích phải dược xác định rõ
ràng; mà dựa vào đó, những nhà phân tích sẽ lựa chọn thông tin phù hợp.
Các thông tin bên ngoài doanh nghiệp
- Các thông tin kinh tế nói chung
Là các thông tin về tình hình kinh tế có ảnh hưởng đến tình hình sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Sự suy thoái hoặc tăng trưởng kinh tế có ảnh hưởng mạnh
mẽ đến cơ hội kinh doanh, đến sự biến động giá cả của các yếu tố đầu vào và thị
trường tiêu thụ sản phẩm đầu ra, từ đó tác động đến kết quả kinh doanh của doanh
nghiệp. Khi các tác động diễn ra theo chiều hướng có lợi, hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp được mở rộng, lợi nhuận tăng và ngược lại. Vì vậy, để đánh giá chính
xác về tình hình tài chính của doanh nghiệp chúng ta phải đi từ tổng quan của nền kinh
tế nói chung, sau đó, chúng ta xét đến các thông tin liên quan tới ngành.
- Các thông tin liên quan tới ngành
Nội dung nghiên cứu trong phạm vi ngành là đặt sự phát triển của doanh nghiệp
trong mối liên hệ với các hoạt động chung của ngành. Đặc điểm của ngành liên quan
đến tính chất của sản phẩm, quy trình kỹ thuật áp dụng, cơ cấu sản xuất, nhịp độ phát
triển của các chu kỳ kinh tế, sự thay đổi công nghệ, chiến lược cạnh tranh, khuynh
hướng tiêu dùng tương lai,
Thông tin theo ngành đặc biệt là hệ thống chỉ tiêu trung bình ngành là cơ sở tham
chiếu để người phân tích có thể đánh giá, kết luận chính xác về tình hình tài chính
doanh nghiệp.
Có rất nhiều nguồn khác nhau để thực hiện "thu thập thông tin" từ thông tin nội
bộ đến thông tin bên ngoài doanh nghiệp, từ thôn tin kế toán đén các thông tin quản lý
Nguyễn Thị Huế - TCNH 3 – K5 13 Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Trường ĐH Công nghiệp Hà Nội Khoa Quản lý kinh doanh
khác, những thông tin về số lượng và giá trị , trong đó, thông tin kế toán được coi là
nguồn quan trọng nhất được phản ánh trong các báo cáo tài chính của doanh nghiệp.
Do vậy, có thể hiểu một cách đơn giản, thực chất của phân tích tài chính doanh nghiệp

là phân tích các báo cáo tài chính của doanh nghiệp.
Các thông tin nội bộ doanh nghiệp
- Bảng cân đối kế toán: là bảng tổng hợp- cân đối tổng thể phản ánh tình hình
vốn kinh doanh của đơn vị cả về tài sản và nguồn vốn ở một thời điểm nhất định
thường là ngày cuối cùng của năm tài chính. Đây là tài liệu quan trọng nghiên cứu,
đánh giá một cách tổng quát tình hình và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, trình
độ sử dụng vốn ở một thời điểm xác định và triển vọng của doanh nghiệp. Thực chất
bảng cân đối kế toán là bảng cân đối giữa tài sản và nguồn hình thành tài sản của
doanh nghiệp được thể hiện qua các chỉ tiêu nội bảng và ngoại bảng.
- Báo cáo kết quả kinh doanh: nếu như bảng cân đối kế toán cho ta biết toàn
cảnh tình hình tài sản và nguồn vốn của doanh nghiệp tại một thời điểm thì báo cáo kết
quả kinh doanh lại cho ta biết tình hình thu nhập, chi phí, kết quả kinh doanh từ các
hoạt động trong cả một thời kỳ. Tài liệu này được lập trên cơ sở các báo cáo kết quả
kinh doanh trước đó và số dư cuối kỳ trên các sổ chi tiết theo dõi các tài khoản phản
ánh thu nhập, phản ánh chi phí và tài khoản phản ánh kết quả. Thông qua báo cáo này,
các nhà phân tích tài chính có thể đánh giá hiệu quả trong các hoạt động của doanh
nghiệp (hoạt động sản xuất kinh doanh, hoạt động tài chính, hoạt động đầu tư) băng
cách sử dụng các chỉ tiêu có tính chất định lượng về tương đối và tuyệt đối. Đây là
phương pháp thường được sử dụng nhất trong phân tích tài chính doanh nghiệp có tác
dụng nhận biết xu hướng vận động của các đối tượng tài chính.
- Báo cáo lưu chuyển tiền tệ: ta đã biết rằng hoạt động tài chính là sự khái
quát các dòng và các dự trữ tài chính. Một nhiệm vụ quan trọng của nhà phân tích là
phải kiểm soát được sự thường xuyên vận động của các luông tiền tệ thực nhập quỹ và
thực xuất quỹ, tình hình đầu tư, tài trợ bằng tiền của doanh nghiệp. Báo cáo trên được
sử dụng để cung cấp thông tin về các luồng tiền ra, vào, các khoản đầu tư ngắn hạn có
tính lưu động cao, có thể nhanh chóng chuyển đổi thành một khoản tiền biết trước ít
chịu rủi ro như lỗ về mặt giá trị do sự biến động của lãi suất hay tỷ giá Những luồng
tiền này được tổng hợp và xếp thành 3 nhóm:luồng tiền có nguồn gốc từ hoạt động
kinh doanh, từ hoạt động tài chính, từ hoạt động đầu tư.Như vậy ta thấy, báo cáo này
không phản ánh về tài sản, nguồn vôn, kết quả kinh doanh hay tinh hình thực hiện

nghĩa vụ đối với ngân sách nhà nước mà phản ánh về sự biến động quỹ tiền mặt của
doanh nghiệp trong kỳ, tạo cơ sở để phân tích khả năng thanh toán, sự đảm bảo chắc
Nguyễn Thị Huế - TCNH 3 – K5 14 Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Trường ĐH Công nghiệp Hà Nội Khoa Quản lý kinh doanh
chắn sẽ duy trì một mức độ rủi ro mất khả năng thanh toán thấp nhấtcó thê trong hiện
tại trước những khoản nợ tới hạn, những khoản nợ mới và mới được gia hạn trong
tương lai.
- Bản thuyết minh các báo cáo tài chính: đây là một báo cáo quan trọng của
bất kỳ một doanh nghiệp nào trong nền kinh tế, có tính chất bổ sung, hoàn thiện thông
tin cho ba báo cáo tài chính trên. Đó là những thông tin về đặc điểm hoạt động kinh
doanh (hình thức sở hữu vốn, hình thức hoạt động, lĩnh vực kinh doanh ), chế độ kế
toán áp dụng tại doanh nghiệp, chi tiết một số chỉ tiêu trong các báo cáo tài chính (chi
phí sản xuất kinh doanh, tình hình tăng giảm tài chính cố định, tình hình thu nhập của
công nhân viên, tình hình tăng giảm nguồn vốn chủ sở hữu, các khoản phải thu và nợ
phải trả )
Có thể nói, các báo cáo tài chính tuy có nội dung khác nhau, song chúng có một mối
liên hệ mật thiết tác động qua lại lẫn nhau. Một sự thay đổi của chỉ tiêu này sẽ dẫn tới
sự thay đổi của một, thậm trí một nhóm chỉ tiêu khác một cách trực tiếp hay gián tiếp.
b. Xử lý thông tin.
Đây là bước tiếp sau quá trình thu thập thông tin. Trong giai đoạn này, người sử
dụng thông tin phải thực hiện công đoạn phân loại thông tin theo những tiêu thức nhất
định phù hợp với mục tiêu phân tích đã xác định ở bước 1, tiến hành nghiên cứu và xử
lý chúng bằng những công cụ và phương pháp nhất định nhằm tính toán, so sánh, giải
thích, đánh giá, xác định các nguyên nhân của các kết quả đạt được và xu hướng vận
động của các đối tượng phục vụ cho quá trình tiếp theo.
Nhưng phân tích tài chính sẽ không có ý nghĩa khi chỉ đơn thuần là công việc
tổng hợp và sắp xếp số liệu trong khi các đối tượng tài chính cần nghiên cứu lại luôn
luôn biến động về số lượng và trạng thái tồn tại. Cho nên ở giai đoạn này, các chuyên
gia phân tích tài chính phải biết đặt một đối tượng tài chính này trong mối quan hệ
biện chứng với các đối tượng khác trong các báo cáo tài chính và trong mối liên hệ với

các tiêu chuẩn, các định mức tài chính và kinh tế được đặt ra bởi các đối tác tài chính
của doanh nghiệp. Ví dụ như để hợp đồng tín dụng của doanh nghiệp được chấp nhận
thì một chủ nhà băng phải không thấy được những dấu hiệu bất ổn về khả năng thanh
toán của doanh nghiệp trong quá khứ và hiện tại, cũng như về khả năg sinh lời cần
thiết trong tương lai từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó, các tiêu chuẩn
mà doanh nghiệp cần phải đáp ứng chính là duy trì một lượng ngân sách bằng tiền mặt
kết hợp với các loại chứng khoán thanh khoản; lên kế hoạch sử dụng nguồn vốn, quản
lý tài sản, kế hoạch về thu nhập, chi phí
Nguyễn Thị Huế - TCNH 3 – K5 15 Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Trường ĐH Công nghiệp Hà Nội Khoa Quản lý kinh doanh
Mỗi đối tượng đều đưa ra cho doanh nghiệp những tiêu chuẩn khác nhau song
nhìn chung, đều nhằm vào 4 mục tiêu: khả năng sinh lợi, khả năng thanh toán, khả
năng cân đối tài chính và mức độ rủi ro.
4. Tiến hành phân tích
Phân tích tài chính dựa trên cơ sở các nội dung, phương pháp phân tích đã đề ra,
dựa trên thông tin và số liệu đã thu thập và xử lý, sau đó được tiến hành như sau:
Một là đánh giá chung tình hình tài chính: sử dụng các phương pháp và chỉ tiêu
đã lựa chọn để tính toán, đánh giá, từ đó đưa đến kết luận khái quát toàn bộ xu hướng
phát triển và mối quan hệ qua lại giữa các hoạt động của doanh nghiệp.
Hai là xác định các nhân tố ảnh hưởng và mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố
tới đối tượng phân tích. Tùy thei yêu cầu quản lý và điều kiện cung cấp thông tin để
xác định phương pháp sử dụng trong phân tích sao cho phù hợp nhất.
Ba là tổng hợp kết quả phân tích rút ra kết luận nguyên nhân tác động và đề
xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
5. Lập báo cáo phân tích
Đây là bước cuối cùng trong quá trình phân tích. Kết quả phân tích phải được
viết thành báo cáo gửi cho ban giám đốc doanh nghiệp, những đối tượng có nhu cầu đề
phục vụ công tác quản lý doanh nghiệp.
1.2.2. Nội dung phân tích tài chính
Nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp tuỳ thuộc vào dữ kiện mà ban giám

đốc đòi hỏi và thông tin ngưòi phân tích muốn có. Tuy nhiên, phân tích tài chính
doanh nghiệp bao gồm những nội dung sau:
1.2.2.1. Đánh giá khái quát tình hình tài chính.
Khi tiến hành công việc phân tích tài chính của doanh nghiệp, mặc dù có nhiều
tài liệu đã đưa ra các quy trình phân tích theo trình tự cụ thể, tuy vậy, với bất kỳ một
khuyến cáo nào thì việc có được cái nhìn tổng quan ban đầu để hiểu và nắm bắt được
các con số trong bộ tài liệu được cung cấp là vấn đề quan trọng đầu tiên, giúp chúng ta
có những phán đoán, ước lượng và đánh giá ban đầu về các thông tin sau các số liệu kế
toán thông qua việc đánh giá khái quát tình hình tài chính.
Tình hình tài chính được hiểu theo nghĩa rộng ở đây là bao gồm tình hình về tài
sản, nguồn vốn và việc sử dụng tài sản, nguồn vốn như thế nào. Như vậy sẽ có nhiều
phương pháp phân tích khác nhau nhằm để miêu tả các quan hệ từ những dữ liệu ban
đầu nhằm đưa ra một số cơ sở hợp lý cho việc dự đoán trong tương lai.
Nguyễn Thị Huế - TCNH 3 – K5 16 Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Trường ĐH Công nghiệp Hà Nội Khoa Quản lý kinh doanh
Trong nhiều trường hợp người ta nhận thấy rằng hầu hết công việc phân tích tài
chính bao gồm việc sắp xếp, phân nhóm lại các số liệu, đọc các chú thích liên quan tới
con số và trình bày lại các số liệu có sẵn nhằm đáp ứng các nhu cầu phân tích hơn là đi
ngay trực tiếp vào xử lý số liệu hay phân tích trên cơ sở hệ thống dữ liệu đã được tính
toán trước.
Đánh giá khái khái quát tình hình tài chính sẽ cung cấp một cách tổng quát nhất
tình hình tài chính trong kỳ kinh doanh của doanh nghiệp là khả quan hay không. Điều
đó cho phép chủ doanh nghiệp thấy rõ thực chất của quá trình phát triển hay chiều
hướng suy thoái của doanh nghiệp. Qua đó có những giải pháp hữu hiệu để quản lý.
Đánh giá khái quát tình hình tài chính trước hết căn cứ vào số liệu đã phản ánh
trên bảng cân đối kế toán rồi so sánh tổng tài sản và tổng nguồn vốn giữa cuối kỳ và
đầu năm để thấy được quy mô vốn mà đơn vị sử dụng trong kỳ cũng như khả năng huy
động vốn từ các nguồn khác nhau của doanh nghiệp. Tuy nhiên, nếu chỉ dựa vào sự
tăng hay giảm của tổng tài sản hay nguồn vốn thì chưa đủ thấy rõ tình hình tài chính
của doanh nghiệp được, vì vậy cần phải phân tích mối quan hệ giữa các khoản mục

trong bảng cân đối kế toán.
1.2.2.2. Phân tích quy mô, diễn biến tài sản và nguồn vốn
 Phân tích biến động tài sản
Phân tích biến động tài sản nhằm giúp ta tìm hiểu sự thay đổi về giá trị, tỷ trọng
cảu các tài sản qua các thời kỳ thay đổi như thế nào, sự thay đổi này bắt nguồn từ
những dấu hiệu tích cực hay thụ động trong quá trình sản xuất kinh doanh, có phù hợp
với việc nâng cao năng lực kinh tế phục vụ cho chiến lược, kế hoạch sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp hay không?ể biết được chính xác tình hình sử dụng vốn, nắm
được các nhân tố ảnh hưởng và mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến sự biến động
về cơ cấu tài sản, ta sẽ so sánh sự biến động giữa kỳ phân tích với kỳ gốc về số tuyệt
đối và số tương đối trên tổng số tài sản cũng như theo từng loại tài sản như: tiền và các
khoản tương đương tiền, khoản phải thu, hàng tồn kho, tài sản cố định…
Bên cạnh đó khi phân tích chúng ta cần xem xét tỷ trọng từng loại tài sản chiếm
trong tổng số và xu hướng biến động cảu chúng theo thời gian để thấy được mức độ
hợp lý của việc phân bổ. Việc đánh giá phải dựa trên tính chất kinh doanh và tình hình
biến động của từng bộ phận. Trong điều kiện cho phép, có thể xem xét và so sánh sự
biến động về tỷ trọng của từng bộ phận tài sản chiếm trong tổng tài sản của doanh
nghiệp qua nhiều năm và so với cơ cấu chung của ngành để đánh giá.
Xác định chênh lệch của các khoản mục tài sản giữa các kỳ phân tích và kỳ gốc
được xác định:
Chênh lệch tuyệt đối từng bộ = Giá trị từng bộ phận tài - Giá trị từng bộ
Nguyễn Thị Huế - TCNH 3 – K5 17 Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Trường ĐH Công nghiệp Hà Nội Khoa Quản lý kinh doanh
phận tài sản sản kỳ phân tích phận tài sản kỳ gốc
- Tỷ trọng của từng bộ phận tài sản chiếm trong tổng số tài sản được xác định:
Tỷ trọng của từng bộ
phận tài sản
=
Giá trị từng bộ phận tài sản
x 100%

Giá trị tổng tài sản
 Phân tích tình hình biến động nguồn vốn
Tương tự như phân tích tình hình biến động của tài sản, phân tích biến động các
khoản mục nguồn vốn cũng giúp ta tìm hiểu sự thay đổi về giá trị, tỷ trọng của nguồn
vốn, sự thay đổi đó có phù hợp với việc nâng cao năng lực tài chính, tính tự chủ tài
chính, khả năng vận dụng, khai thác nguồn vốn trên thị trường cho hoạt động sản xuất
kinh doanh hay không và có phù hợp với chiến lược, kế hoạch sản xuất kinh doanh của
công ty mình hay không.
Trước hết, các nhà phân tích cần tính ra và so sánh tình hình biến động giữa kỳ
phân tích với kỳ gốc về tỷ trọng của từng bộ phận nguồn vốn chiếm trong tổng số
nguồn vốn: như nợ phải trả, vay dài hạn…
- Xác định chênh lệch của các khoản mục nguồn vốn giữa kỳ phân tích và kỳ gốc được
xác định:
Chênh lệch tuyệt đối
từng bộ phận nguồn vốn
=
Giá trị từng bộ phận
nguồn vốn kỳ phân tích
-
Giá trị từng bộ phận
nguồn vốn kỳ gốc
Chênh lệch
tương đối từng
bộ phận NV
=
Chênh lệch
tuyệt đối từng
bộ phận NV
x 100%
Giá trị từng bộ

phận NV kỳ
gốc
- Tỷ trọng của từng bộ phận nguồn vốn chiếm trong tổng số nguồn vốn được xác định:
Tỷ trọng
của từng bộ phận NV
=
Giá trị từng bộ phận NV
x 100%
Giá trị tổng NV
 Phân tích mối quan hệ cân đối giữa tài sản và nguồn vốn
Mối quan hệ giữa tài sản và nguồn vốn thể hiện sự tương quan về giá trị tài sản
và cơ cấu vốn của doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Mối quan hệ
cân đối này giúp nhà phân tích nhận thức được sự hợp lý giữa nguồn vốn doanh
Nguyễn Thị Huế - TCNH 3 – K5 18 Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Trường ĐH Công nghiệp Hà Nội Khoa Quản lý kinh doanh
nghiệp huy động và việc sử dụng chúng trong đầu tư, mua sắm, dự trữ, sử dụng có hợp
lý, hiệu quả hay không? Điều này được thể hiện:
Nếu tài sản ngắn hạn lớn hơn nợ ngắn hạn là điều hợp lý vì dấu hiệu này thể
hiện doanh nghiệp giữ vững quan hệ cân đối giữa tài sản ngắn hạn và nợ ngắn hạn, sử
dụng đúng mục đích nợ ngắn hạn. Ngược lại, nếu tài sản ngắn hạn nhỏ hơn nợ ngắn
hạn điều này chứng tỏ doanh nghiệp không giữ vững quan hệ cân đối này vì đã sử
dụng một phần nguồn vốn ngắn hạn đầu tư vào tài sản dài hạn.
- Vốn bằng tiền
Nợ ngắn hạn + Vốn CSH
- Đầu tư tài chính ngắn hạn
- Nợ phải thu
- Hàng tồn kho
- Tài sản lưu động khác
- Tài sản cố định
Nợ dài hạn + Vốn CSH

- Đầu tư tài chính dài hạn
- Xây dựng cơ bản dở dang
- Ký quỹ, ký cược dài hạn
Nếu TSDH lớn hơn nợ dài hạn và phần thiếu hụt được bù đắp từ vốn chủ sở
hữu ( SCH) thì đó là điều hợp lý vì nó thể hiện doanh nghiệp sử dụng đúng mục đích
nợ dài hạn và cả vốn CSH, nhưng nếu phần thiếu hụt được bù đắp từ nợ ngắn hạn lại là
dấu hiệu không tốt vì nợ ngắn hạn được sử dụng đầu tư cho TSDH, tương tự như ý
trên đã trình bày.
Nếu phần TSDH nhỏ hơn nợ dài hạn điều này chứng tỏ một phần nợ dài hạn
chuyển vào tài trợ TSNH. Hiện tượng này vừa làm lãng phí chi phí lãi vay nợ dài hạn
vừa sử dụng sai mục đích của nợ dài hạn. Điều này có thể dẫn đến lợi nhuận kinh
doanh giảm và những rối loạn tài chính doanh nghiệp.
Ngoài ra, khi phân tích mối quan hệ cân đối giữa tài sản và nguồn vốn chúng ta
chú trọng đến nguồn vốn lưu động thường xuyên. Nguồn vốn lưu động thường xuyên
không những biểu hiện quan hệ cân đối giữa tìa sản và nguồn vốn mà nó còn có thể
cho chúng ta nhận thức được những dấu hiệu tình chính trong sử dụng tài sản và
nguồn vốn của doanh nghiệp.
Quá trình luân chuyển vốn của doanh nghiệp phải hình thành nên phần dư ra
giữa tìa sản ngắn hạn so với nguồn vốn ngắn hạn và nguồn vốn dài hạn phải lớn hơn
tài sản dài hạn mới đảm bảo cho hoạt động thường xuyên, phù hợp với sự hình thnahf,
phát triển và mục đích sử dụng vốn. Phần chênh lệch này gọi là vốn lưu động thường
Nguyễn Thị Huế - TCNH 3 – K5 19 Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Trường ĐH Công nghiệp Hà Nội Khoa Quản lý kinh doanh
xuyên. Căn cứ vào mối quan hệ cân đối giữa tài sản và nguồn vốn, ta có các mối quan
hệ cân đối sau:
TSNH + TSDH = NVNH + NVDH
TSNH – NVNH = NVDH – TSDH
Vốn lưu động thường xuyên = TSNH – NVNH = NVDH – TSDH
Như vậy, nếu vốn lưu động thường xuyên lớn hơn không và lớn hơn nhu cầu
vốn lưu động thiết yếu, thì đây là một dấu hiệu tài chính lành mạnh và đảm bảo cân

đối giữa tìa sản và nguồn vốn trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Ngược lại, Vốn lưu động thường xuyên nhỏ hơn nhu cầu TSNH thiết yếu hoặc
âm thì đây là dấu hiệu tài chính bất bình thường và mất cân đối giữa tài sản với nguồn
vốn, nếu tình trạng này kéo dài thì có thể dẫn đến tình trạng tài chính của doanh
nghiệp rối loạn nghiêm trọng hơn, doanh nghiệp mất dần đến toàn bộ vốn CSH và đến
bờ vực phá sản.
 Phân tích tình hình bố trí cơ cấu tài sản và nguồn vốn
• Bố trí cơ cấu tài sản
- Tỷ trọng tài sản ngắn hạn trên tổng tài sản
Tỷ trọng của
TSNH trên TTS
=
Tài sản ngắn hạn
x 100 %
Tổng tài sản
- Tỷ suất đầu tư
Tỷ suất đầu tư nói lên kết cấu tài sản( kết cấu nguồn vốn), phản ánh tình hình
trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật, trang bị TSCĐ hiện tại của doanh nghiệp, cho thấy tỷ
trọng TSCĐ đơn vị đang quản lý sử dụng so với toàn bộ tài sản. Tỷ số đầu tư TSCĐ
được xác định bằng công thức:
Tỷ suất đầu tư
TSCĐ
=
Tài sản cố định
x 100%
Tổng tài sản
Chỉ tiêu này càng cao, phản ánh quy mô cơ sở vật chất kỹ thuật của doanh
nghiệp ngày càng được tăng cường. Năng lực sản xuất của doanh nghiệp ngày càng
được mở rộng, đầu tư tài chính của doanh nghiệp ngày càng cao.
Giá trị của tỷ suất đầu tư TSCĐ được coi là hợp lý còn tùy thuộc vào từng

ngành nghề kinh doanh.
• Phân tích bố trí nguồn vốn
- Phân tích tỷ suất nợ
Tỷ suất nợ phản ánh mức độ sử dụng vốn vay của doanh nghiệp, đồng thời nó
còn cho biết mức độ rủi ro tài chính mà doanh nghiệp đang phải đối diện cũng như
Nguyễn Thị Huế - TCNH 3 – K5 20 Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Trường ĐH Công nghiệp Hà Nội Khoa Quản lý kinh doanh
mức độ đòn bẩy tài chính mà doanh nghiệp đang dược hưởng. Để tính tỷ suất nợ ta
dựa vào công thức sau:
Tỷ suất nợ =
Nợ phải trả
x 100%
Tổng nguồn vốn
- Phân tích tỷ số tự tài trợ
Chỉ tiêu này thể hiện mức độ tự chủ của doanh nghiệp về mặt tài chính, là tỷ lệ
giữa vốn CSH so với tổng vốn. Để tính tỷ suất tự tài trợ ta dựa vào công thức sau:
Tỷ suất tự tài trợ =
Vốn chủ sở hữu
x 100%
Tổng nguồn vốn
= 1 – Tỷ số nợ
Tỷ số này càng cao càng thể hiện khả năng độc lập cao về mặt tài chính hay
mức độ tự tài trợ của doanh nghiệp càng tốt. Theo tổng kết, tùy theo quy mô của doanh
nghiệp lớn hơn 55% nhỏ hơn 75% là hợp lý.
1.2.2.3. Phân tích tình hình Doanh thu – Chi phí – Lợi nhuận
 Phân tích tình hình biến động của giá vốn hàng bán, chi phí bán hàng và chi phí quản
lí doanh nghiệp
- Giá vốn hàng bán: là một chỉ tiêu tổng hợp phản ánh tổng gái trị mua hàng hóa, giá thành
sản xuất sản phẩm, dịch vụ đã bán. Giá trị là yếu tố lớn quyết định khả năng cạnh
tranh và mức kết quả của doanh nghiệp. Trong trường hợp doanh nghiệp có vấn đề đối

với giá vốn hàng bán thì phải theo dõi và phân tích từng bộ phận cấu thành của nó:
nhân công trực tiếp, nguyên vật liệu trực tiếp…
- Chi phí bán hàng: là toàn bộ các chi phí phát sinh liên quan đến quá trình bán sản phẩm,
hàng hóa và cung cấp dịch vụ.
- Chi phí quản lí doanh nghiệp: là toàn bộ chi phí liên quan đến hoạt động quản lý sản xuất
kinh doanh, quản lý hành chính và một số khoản khác có tính chất chung toàn doanh
nghiệp.
Nguyễn Thị Huế - TCNH 3 – K5 21 Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Trường ĐH Công nghiệp Hà Nội Khoa Quản lý kinh doanh
 Kết quả hoạt động kinh doanh
Kết quả hoạt động kinh doanh là kết quả cuối cùng mà bất kỳ doanh nghiệp nào
cũng hướng tới và mong muốn đạt kết quả cao. Phân tích kết qảu kinh daonh cho ta cái
nhìn về cơ cấu và hiệu quả của từng hoạt động mang đến lợi nhuận cho doanh nghiệp
từ đó có những quyết định đến hoạt động và cơ cấu hoạt động của doanh nghiệp. Ta sẽ
đi phân tích một số khoản mục sau:
- Danh thu : là thu nhập mà doanh nghiệp nhận được qua hoạt động sản xuất kinh doanh.
Doanh thu thuần là doanh thu đã trừ các khoản giảm trừ. Đây là một trong những chỉ
tiêu có ý nghĩa nhất với tình trạng của một doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường.
- Doanh thu từ hoạt động tài chính: là thu nhập từ tiền lãi, tiền bản quyền, lợi nhuận được
chia và các hoạt động tài chính khác.
- Lợi nhuận trước thuế và sau thuế: là chỉ tiêu tổng hợp, tóm tắt bẳng báo cáo kết quả kinh
doanh. Đây là một trong những chỉ tiêu quan trọng nhất cảu doanh nghiệp. Vì lợi
nhuận là mục đích của các daonh nghiệp trong nền kinh tế thị trường, nên chỉ tiêu này
dùng để đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
1.2.2.4. Phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp qua các hệ số tài chính đặc
trưng
Phân tích tình hình tài chính qua hệ thống các chỉ tiêu tài chính đặc trưng là một
trong những phương pháp thường được các đối tượng quan tâm sử dụng để đánh giá
nhận định khái quát tình hình hoạt động tài chính của một doanh nghiệp. Theo đó, có
thể phục vụ những thông tin tài chính cần thiết về doanh nghiệp cho từng đối tượng

khác nhau, cụ thể qua 5 nhóm hệ số tài chính đặc trưng dưới đây:
1. Nhóm hệ số khả năng thanh toán
 Hệ số thanh toán hiện hành
Hệ số thanh toán
hiện hành
=
Tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn
Nợ ngắn hạn
Hệ số này đo lường khả năng thanh toán nợ ngắn hạn của một doanh nghiệp khi
đến hạn trả. Cho biết, doanh nghiệp có bao nhiêu đồng tài sản lưu động và đầu tư ngắn
hạn để đảm bảo cho một đồng nợ ngắn hạn.
 Hệ số thanh toán nhanh
Hệ số thanh toán
Nhanh
=
Tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn- hàng tồn kho
Nợ ngắn hạn
Hệ số này đánh giá khả năng sẵn sàng thanh toán nợ ngắn hạn của doanh
nghiệp cao hơn so với hệ số thanh toán ngắn hạn. Do đó, hệ số thanh toán nhanh có thể
Nguyễn Thị Huế - TCNH 3 – K5 22 Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Trường ĐH Công nghiệp Hà Nội Khoa Quản lý kinh doanh
giúp kiểm tra tình trạng tài sản một cách chặt chẽ hơn với hệ số thanh toán ngắn hạn,
khắc phục được hạn chế ở chỗ : đã loại bỏ được khoản mục hàng tồn kho khả năng
thanh toán thấp, nên hệ số này càng cao thì độ an toàn trong hoạt động doanh nghiệp
càng lớn.
Hệ số thanh toán nhanh cho biết doanh nghiệp có bao nhiêu đồng vốn bằng tiền
hoặc các khoản tương đương tiền để thanh toán ngay cho một đồng nợ ngắn hạn.
Thông thường hệ số này lớn hơn 1 được coi là dấu hiệu tốt về khả năng thanh toán của
doanh nghiệp.
 Hệ số thanh toán lãi vay

Hệ số thanh toán
lãi vay
=
Lợi nhuận trước thuế và lãi vay
Lãi vay
Chỉ tiêu tài chính này chỉ ra khả năng tài chính mà doanh nghiệp tạo ra để trang
trải cho chi phí vay vốn trong sản xuất kinh doanh. Hệ số thanh toán lãi vay càng lớn,
thông thường lớn hơn 2 thì khả năng thanh toán lãi vay của doanh nghiệp đang ở mức
an toàn và ngược lại thì khả năng thanh toán lãi vay của doanh nghiệp thấp, có tiềm ẩn
rủi ro.
2. Nhóm hệ số khả năng hoạt động
 Luân chuyển vốn lưu động
Số vòng quay
=
Doanh thu thuần
Vốn lưu động Vốn lưu động bình quân
Số ngày
=
Số ngày trong kỳ( 360)
một vòng quay Số vong quay vốn lưu động
Số vòng quay vốn lưu động là một trong những chỉ tiêu tổng hợp để đánh giá
chất lượng công tác sản xuất kinh doanh trong từng giai đoạn và trong cả quá trình
sản xuất kinh doanh. Số vòng quay vốn lưu động càng lớn hay số ngày của một vòng
quay càng nhỏ sẽ góp phần tiết kiệm tương đối vốn cho sản xuất.
 Luân chuyển vốn cố định
Số vòng quay
=
Doanh thu thuần
Vốn cố định Vốn cố định bình quân
Số ngày một vòng

=
Số ngày trong kỳ ( 360)
Quay Số vòng quay vốn cố định
Chỉ tiêu này phản ảnh hiệu quả sử dụng vốn cố định, được tính bằng quan hệ so
sánh giữa doanh thu thuần và vốn cố định bình quân trong kỳ. Chỉ tiêu này thể hiện,
trong kỳ sản xuất kinh doanh vốn cố định bỏ ra sẽ quay được bao nhiêu vòng, số vòng
càng nhiều càng hiệu quả hay số ngày càng ngắn càng tốt cho doanh nghiệp.
Nguyễn Thị Huế - TCNH 3 – K5 23 Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Trường ĐH Công nghiệp Hà Nội Khoa Quản lý kinh doanh
 Luân chuyển toàn bộ vốn
Số vòng quay toàn bộ vốn =
Doanh thu thuần
Tổng vốn bình quân
Số ngày một vòng quay =
Số ngày trong kỳ ( 360)
Số vòng quay toàn bộ vốn
Chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả sử dụng toàn bộ tài sản, tiền vốn hiện có của
đơn vị, nó được tính bằng tỷ lệ so sánh giữa doanh thu thuần và toàn bộ tài sản, thể
hiện toàn bộ số vốn mà doanh nghiệp bỏ ra sẽ quay được bao nhiêu vòng, càng nhiều
vòng càng hiệu quả, số ngày được rút ngắn càng có lợi cho doanh nghiệp.
 Luân chuyển hàng tồn kho
Hàng tồn kho là một bộ phận tài sản dự trữ ngắn hạn để dảm bảo cho quá trình
sản xuất kinh doanh diễn ra một cách liên tục. Tốc độ luân chuyển hàng tồn kho được
thể hiện qua 2 chỉ tiêu sau:
Số vòng quay
=
Giá vốn hàng bán
hàng tồn kho
Giá trị hàng tồn kho
bình quân

Thời gian tồn kho
bình quân
=
Số ngày trong kỳ(360)
Số vòng quay hàng tồn kho
Số vòng quay hàng tồn kho thể hiện số lần mà hàng tồn kho bình quân được
bán trong kỳ.
Thời gian tồn kho bình quân đo lường số ngày hàng hóa nằm trong kho trước
khi bán ra.
 Luân chuyển khoản phải thu
Số vòng quay
=
Doanh thu thuần
Khoản phải thu
Khoản phải thu
bình quân
Kỳ thu tiền
bình quân
=
Số ngày trong kỳ(360)
Số vòng quay khoản phải thu
Tốc độ luân chuyển khoản phải thu vừa thể hiện khả năng luân chuyển khoản
phải thu, khả năng thu hồi nợ và dòng tiền thanh toán.
Số vòng quay khoản phải thu càng lớn thì kỳ thu tiền bình quân càng nhỏ thể
hiện tốc độ luân chuyển nợ phải thu càng nhanh, khả năng thu hồi nợ được cải thiện,
hạn chế bớt lượng vốn bị chiếm dụng để đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh và
doanh nghiệp thuận lợi hơn về nguồn tiền thanh toán. Ngược lại số vòng quay nợ phải
thu càng nhỏ hay kỳ thu tiền kéo dài hơn dẫn đến khả năng thu hồi vốn chậm gây khó
Nguyễn Thị Huế - TCNH 3 – K5 24 Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Trường ĐH Công nghiệp Hà Nội Khoa Quản lý kinh doanh

khăn trong thanh toán của doanh nghiệp thậm chí có thể gặp phải rủi ro từ những
khoản thu khó đòi.
3. Nhóm hệ số khả năng sinh lời
 Tỷ suất sinh lợi trên doanh thu( ROS)
Tỷ suất sinh lợi trên
doanh thu( ROS)
=
Lợi nhuận sau thuế
Doanh thu thuần
Chỉ tiêu này thể hiện hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, chỉ ra mối
quan hệ giữa doanh thu và lợi nhuận, cho biết với một đồng doanh thu sẽ nhận được
bao nhiêu đồng lợi nhuận.
 Tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản( ROA)
Tỷ suất lợi nhuận trên
tổng tài sản( ROA)
=
Lợi nhuận sau thuế
Tổng tài sản bình quân
Tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản cho biết: một đồng tài sản doanh nghiệp tạo
ra bao nhiêu đồng lợi nhuận, thể hiện qua sử dụng tài sản chung toàn doanh nghiệp.
Tỷ suất này càng cao thì trình độ sử dụng tài sản của doanh nghiệp càng cao và
ngược lại. Chỉ số này được xem là hợp lý khi ít nhất phải lớn hơn hoặc bằng lãi suất
cho vay dài hạn trên thị trường trong kỳ hoặc đạt được tiêu chuẩn mà chủ sở hữu đặt
ra.
 Tỷ suất lợi nhuận trên vốn CSH( ROE)
Tỷ suất lợi nhuận trên
Vốn chủ sở hữu( ROE)
=
Lợi nhuận sau thuế
Vốn chủ sở hữu bình quân

Đứng trên góc độ là chủ sở hữu doanh nghiệp, tỷ số này được cho là quan trọng
nhất. tỷ số này đo lường khả năng sinh lời trên một đồng vốn cổ phần phổ thông. Tỷ số
này càng cao thì lợi ích cuối cùng thuộc về các cổ đông càng lớn, tạo sức hấp dẫn với
nhiều nhà đầu tư trên thị trường.
 Khả năng sinh lời qua phương trình Dupont
Phân tích khả năng sinh lời qua phương trình Dupont thực chất chính là phân
tích khả năng sinh lời trên vốn cổ phần, đây là tiêu chuẩn phổ biến nhất người ta dùng
để đánh giá tình hình hoạt động tài chính của doanh nghiệp. Việc phân tích dựa trên
phương trình Dupont có thể đưa ra những đánh giá tổng hợp khả năng sinh lời của
Nguyễn Thị Huế - TCNH 3 – K5 25 Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

×