Tải bản đầy đủ (.pdf) (75 trang)

Nghiên cứu đa dạng cây thuốc thuộc ngành Mộc lan (Magnoliophyta) ở vùng bãi bồi ven biển huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.87 MB, 75 trang )


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

VIỆN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ VIỆT NAM
VIỆN SINH THÁI VÀ TÀI NGUYÊN SINH VẬT
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

NGUYỄN THỊ MAI PHƢƠNG

NGHIÊN CỨU ĐA DẠNG CÂY THUỐC
THUỘC NGÀNH MỘC LAN (MAGNOLIOPHYTA)
Ở VÙNG BÃI BỒI VEN BIỂN HUYỆN KIM SƠN
TỈNH NINH BÌNH


LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC



HÀ NỘI – 2012
NGUYỄN THỊ MAI PHƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC HÀ NỘI – 2012


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành được luận văn này, tôi đã nhận được sự chỉ bảo, hướng dẫn tận tình
của các thầy cô, sự giúp đỡ của bạn bè và đồng nghiệp.
Với tất cả tấm lòng, tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn tới TS. Trần Thế Bách -


Phó trưởng phòng Thực Vật, Viện Sinh thái và Tài nguyên Sinh vật, đã tận tình hướng dẫn
tôi trong suốt quá trình làm việc cũng như trong suốt quá trình nghiên cứu đề tài và hoàn
thành luận văn.
Tôi xin gửi lời cảm ơn tới Ban lãnh đạo Viện, Phòng đào tạo sau đại học của Viện
Sinh thái và Tài nguyên sinh vật; Ban lãnh đạo Sở Khoa học và Công nghệ, Phòng Quản lý
Khoa học - Sở Khoa học và Công nghệ đã tạo cho tôi điều kiện được học tập và thực hiện
luận văn.
Tôi xin gửi lời cảm ơn tới gia đình, bạn bè đã luôn ủng hộ và giúp đỡ tôi trong thời
gian qua.
Do hạn chế nhất định về trình độ chuyên sâu và do thời gian có hạn nên luận văn
khó tránh khỏi những sai sót. Chúng tôi chân thành mong nhận được những ý kiến đóng
góp quý báu của các nhà quản lý, các chuyên gia và các bạn đồng nghiệp để giúp cho việc
hoàn thiện công trình nghiên cứu hiện tại và cho các bước nghiên cứu tiếp theo.
Xin Chân thành cảm ơn !


Hà Nội, ngày 30 tháng 10 năm 2012
Học viên




Nguyễn Thị Mai Phương


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong lịch sử phát triển của các dân tộc, các quốc gia trên toàn thế giới

gắn liền với việc sử dụng thảo mộc làm cây thuốc chữa bệnh. Những năm
gần đây thảo mộc không những đƣợc sử dụng trong y học mà còn là
nguyên liệu cho các ngành công nghiệp khác nhƣ: Mỹ phẩm, thực phẩm …
Vì vậy có thể khẳng định cây thuốc là những nhóm tài nguyên thực vật có
giá trị hàng đầu là tài sản vô cùng quý giá mà thiên nhiên ƣu đãi cho mỗi
dân tộc, mỗi quốc gia. Trong công nghệ y học hiện đại phát triển, có nhiều
loại thuốc có những tác dụng phụ không mong muốn. Nhƣng đối với các
loại thuốc sản xuất từ thảo mộc hầu nhƣ rất ít có tác dụng phụ. Vì vậy việc
sử dụng các loại thảo mộc làm thuốc của con ngƣời ngày càng nhiều. Tuy
nhiên nguồn tài nguyên cây thuốc đang bị đe dọa nghiêm trọng do thảm
thực vật bị tàn phá, bị khai thác quá mức và bị sử dụng lãng phí. Tri thức sử
dụng cây thuốc bị mai một do không đƣợc tƣ liệu hóa, thế hệ trẻ ở nhiều
cộng đồng ít quan tâm đến học tập kinh nghiệm sử dụng cây cỏ làm thuốc
của thế hệ trƣớc. Đặc biệt, ở các vùng rừng nhiệt đới và Á nhiệt đới là nơi
có mức độ đa dạng sinh học cao của thế giới nhƣng lại bị tàn phá nhiều
nhất. Ngày nay trong xu thế phát triển toàn cầu, các ngành công nghiệp
đƣợc phát triển mạnh mẽ dẫn tới môi trƣờng bị ô nhiễm nghiêm trọng, đời
sống kinh tế xã hội ngày càng cao do vậy việc sử dụng cây thuốc phục vụ
cho việc chăm sóc sức khỏe ngày một nhiều. Điều đó dẫn tới việc bảo tồn
và phát triển nguồn tài nguyên cây thuốc không theo kịp so với nhu cầu
phát triển, mà nó đã đem lại lợi nhuận cho ngành công nghiệp dƣợc vô
cùng lớn.
Tiềm năng chữa bệnh của nhiều loài thảo dƣợc đang ngày càng đƣợc
khám phá, vì thế vấn đề bảo tồn đa dạng sinh học nói chung và bảo tồn cây
thuốc nói riêng đang là mối quan tâm hàng đầu của nhiều quốc gia nhằm
phục vụ cho mục đích chăm sóc và bảo vệ sức khỏe của con ngƣời.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Bãi bồi ven biển huyện Kim Sơn dài khoảng 15 km tính từ cửa sông

Đáy ở phía Đông của huyện đến cửa sông Càn ở phía Tây Nam. Đây là
vùng bãi bồi có chiều rộng lớn nhất miền Bắc Việt Nam. Bãi bồi có vai trò
quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của huyện Kim Sơn và tỉnh
Ninh Bình. Ngày 2/12/2004 UNESCO đã công nhận Bãi bồi ven biển
huyện Kim Sơn là khu dự trữ sinh quyển thế giới. Hệ thực vật ở đây rất
phong phú, có vai trò to lớn trong việc hình thành thảm thực vật tham gia
vào việc cố định bãi lầy, mở rộng diện tích đất liền, bảo vệ đê, chống gió
bão, cung cấp nguyên liệu thực vật có giá trị cho đời sống nhân dân trong
vùng. Đặc biệt thực vật còn tham gia vào hình thành hệ sinh thái, trong đó
hệ sinh thái rừng ngập mặn với nhiều loại thực vật có giá trị.Vấn đề
nghiên cứu về tài nguyên thực vật nói chung và tài nguyên cây thuốc nói
riêng vẫn chƣa đƣợc chú trọng.
Để góp phần bảo tồn và phát triền nguồn tài nguyên về dƣợc liệu quý
tại vùng bãi bồi ven biển huyện Kim Sơn - Ninh Bình, tôi đã thực hiện đề
tài “ Nghiên cứu đa dạng cây thuốc thuộc ngành Mộc lan (Magnoliophyta) ở
vùng bãi bồi ven biển huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu tổng quát
Góp phần bảo tồn và phát triển nguồn tài nguyên cây thuốc vùng bãi
bồi ven biển huyện Kim Sơn - Ninh Bình
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Tập hợp đƣợc một cách có hệ thống các loài cây thuốc thuộc ngành
Mộc lan (Magnoliophyta) ở vùng bãi bồi ven biển huyện Kim Sơn.
- Đánh giá đƣợc mức độ đa dạng của nguồn tài nguyên cây thuốc
thuộc ngành Mộc lan (Magnoliophyta) về các mặt: thành phần loài, chi, họ
và các bệnh chữa trị.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn

3.1. Ý nghĩa khoa học
Cung cấp dữ liệu khoa học về đa dạng cây thuốc thuộc ngành Mộc lan
(Magnoliophyta) ở vùng bãi bồi ven biển huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình.
3.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Làm cơ sở khoa học để bảo tồn, phát triển các loài cây thuốc tại vùng bãi
bồi ven biển huyện Kim Sơn - Ninh Bình.
- Làm cơ sở cho việc xây dựng chiến lƣợc trong các chƣơng trình qui
hoạch, quản lý, bảo vệ, phát triển tài nguyên thực vật của vùng bãi bồi ven
biển huyện Kim Sơn - Ninh Bình.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU.
1.1.1 Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây thuốc trên thế giới.
Trên thế giới từ thời thƣợng cổ đến nay con ngƣời vẫn luôn coi trọng
cây cỏ nhƣ là một nguồn thuốc chính để chữa bệnh và bảo vệ sức khoẻ. Ở
Ai Cập, các văn bản về dƣợc thảo đƣợc viết bằng giấy cói vào năm 1950
Trƣớc công nguyên (TCN), tài liệu xƣa nhất còn tồn tại. Những văn bản
này liệt kê hàng chục loại cây thuốc, công dụng của chúng và các bùa chú
có liên quan. Các loài thảo dƣợc đƣợc nói đến bao gồm cả Thầu dầu
(Ricinus communis) và Tỏi (Allium sativum). Ở Ấn Độ, trong bộ sử thi
Vedas đƣợc viết vào năm 1500 TCN, chứa đựng những kiến thức phong
phú về dƣợc thảo thời kỳ đó. Cuốn “Charaka Samhita” đƣợc các thầy thuốc
Charatta viết tiếp theo bộ Vedas vào khoảng năm 400 TCN. Tài liệu y học
này trình bày chi tiết 350 loài dƣợc thảo. Trong số đó, có cây Cần ami
(Ammi visnaga) là loài thảo mộc có nguồn gốc từ Trung Đông, gần đây
đƣợc chứng minh là có hiệu quả trong điều trị bệnh hen suyễn, cây Rau má
(Centella asiatica) từ lâu đƣợc sử dụng để chữa bệnh phong.

Sử dụng cây thuốc đƣợc các quốc gia trên thế giới tiến hành ở các
mức độ khác nhau tùy thuộc vào sự phát triển của dân tộc đó. Trung Quốc
là một trong những quốc gia có nền y học cổ truyền rất phát triển. Trong
cuốn sách “Thần Nông bản thảo”, 365 vị thuốc có giá trị đã đƣợc Vua Thần
Nông (3320 – 3080 trƣớc Công nguyên) thống kê lại. Trong đó, nhiều bài
thuốc vẫn đƣợc sử dụng cho tới ngày nay nhƣ cây Gai mèo (Cannabis sp.)
để chống nôn, cây Đại Phong Tử (Hydnocarpus kurzii) làm thuốc chữa
bệnh phong. Vào thời Tam Quốc, danh y Hoa Đà, sử dụng Đàn hƣơng, Tử
đinh hƣơng để chế hƣơng nang (túi thơm) để phòng chống và chữa trị bệnh
lao phổi và bệnh lỵ. Ông còn dùng hoa Cúc, Kim ngân phơi khô cho vào

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

chiếc gối (hƣơng chẩm) để điều trị chứng đau đầu, mất ngủ, cao huyết áp.
Từ thời nhà Hán (năm 168 trƣớc Công nguyên) trong cuốn sách “Thủ hậu
bị cấp phƣơng” tác giả đã kê 52 đơn thuốc chữa bệnh từ các loại cây cỏ.
Vào giữa thế kỷ XVI, Lý Thời Trân đã thống kê đƣợc 12.000 vị thuốc
trong tập “Bản thảo cƣơng mục” đƣợc nhà xuất bản Y học trích dẫn 1963.
Ở Ấn Độ, nền y học cổ truyền đƣợc hình thành cách đây hơn 3000
năm. Chủ trƣơng của ngƣời Ấn là ngừa bệnh là chính, nếu phải điều trị
bệnh thì các liệu pháp tự nhiên chủ yếu thông qua thực phẩm và thảo mộc
sẽ giúp loại bỏ gốc rễ căn bệnh. Bộ sử thi Vedas đƣợc viết vào năm 1.500
TCN và cuốn Charaka samhita đƣợc các thầy thuốc Charaka bổ sung tiếp
vào bộ sử thi Vedas, trình bày cụ thể 350 loài thảo dƣợc. Ấn Độ là quốc gia
rất phát triển về nghiên cứu thảo dƣợc nhƣ tổng hợp chất hữu cơ, tách chiết
chứng minh cấu trúc, sàng lọc sinh học, thử nghiệm độc tính, và nghiên cứu
tác dụng hóa học của các chất tới cơ thể con ngƣời. Hiện nay, chính phủ
khuyến khích sử dụng công nghệ cao trong trồng cây thuốc. Hầu hết các
viện nghiên cứu dƣợc của Ấn Độ đã tham gia vào nghiên cứu chuyển hóa
các loại thuốc và hợp chất có hoạt tính từ thực vật.

Những hiểu biết về thảo mộc của ngƣời Hy Lạp và Roma gắn liền với
nền văn minh phát triển từ rất sớm của họ. Ngƣời Hy Lạp cổ xƣa chịu ảnh
hƣởng của ngƣời Babylon, Ai Cập, Ấn Độ. Hippocrat (460 – 377 TCN) là
thầy thuốc nổi tiếng ngƣời Hy Lạp đƣợc mệnh danh là cha đẻ của y học
hiện đại khi ông là ngƣời đƣa ra quan niệm “Hãy để thức ăn của bạn là
thuốc và thuốc chính là thức ăn của bạn”.
Ở Châu Âu, vào thời Trung cổ, các kiến thức về cây thuốc chủ yếu
đƣợc các thầy tu sƣu tầm và nghiên cứu. Họ trồng cây thuốc và dịch các tài
liệu về thảo mộc bằng tiếng Ả rập. Vào năm 1649, Nicolas Culpeper đã
viết cuốn sách “A Physical Directory”, sau đó vài năm, ông lại xuất bản
cuốn “The English Physician”. Đây là cuốn dƣợc điển có giá trị và là một

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

trong những cuốn sách hƣớng dẫn đầu tiên dành cho nhiều đối tƣợng sử
dụng, ngƣời không chuyên có thể sử dụng để làm cẩm nang chăm sóc sức
khỏe. Cho đến nay, cuốn sách này vẫn đƣợc tham khảo và trích dẫn rộng rãi.
Ngày nay theo thống kê của quỹ quốc tế và bảo vệ thiên nhiên
(WWF), trên thế giới có khoảng 250.000 - 270.000 loài thực vật bậc cao thì
có đến 35.000 - 70.000 loài đƣợc sử dụng vào mục đích làm thuốc chữa
bệnh. Trong đó Trung quốc có trên 10.000 loài, Ấn độ có khoảng 7.500 -
8.000 loài, Indonesia có khoảng 7.500 loài, Malaysia có khoảng 2.000 loài,
Nepal có hơn 700 loài, Srilanka có khoảng 550 - 700 loài và Hàn Quốc có
khoảng 1.000 loài có thể sử dụng đƣợc trong Y học truyền thống. Châu Mỹ
la tinh nơi có 1/3 số loài thực vật trên thế giới cũng có truyền thống sử
dụng cây cỏ làm thuốc, đặc biệt là ở ngƣời dân bản địa. Schule đã phát hiện
gần 2.000 loài cây thuốc đƣợc sử dụng ở vùng Amazon thuộc Colombia.
Các quốc gia Châu Phi thƣờng số loài cây thuốc ít hơn nhƣ Somalia có 200
loài, Botswana có 314 loài .
Cùng với phƣơng thức chữa bệnh theo kinh nghiệm dân gian, các nhà

khoa học trên thế giới tiến hành tìm hiểu, nghiên cứu cơ chế và các hợp
chất hóa học trong cây có tác dụng chữa bệnh, đúc rút thành những cuốn
sách có giá trị. Các nhà khoa học công nhận rằng hầu hết các cây cỏ đều có
tính kháng sinh, đó là khả năng miễn dịch tự nhiên của thực vật. Tác dụng
kháng khuẩn do các hợp chất tự nhiên có mặt phổ biến trong thực vật nhƣ
phenolic, antoxy, các dẫn xuất quino, ancaloid, flavonoid, saponin, … Cho
đến nay, nhiều hợp chất tự nhiên đã đƣợc giải mã về cấu trúc, những hợp
chất này đƣợc chiết xuất từ cây cỏ để làm thuốc. Dựa vào cấu trúc đƣợc
giải mã, ngƣời ta có thể tổng hợp nên các chất nhân tạo để chữa bệnh.
Gotthall (1950) đã phân lập đƣợc chất Glucosid barbaloid từ cây Lô hội
(Aloe vera), chất này có tác dụng với vi khuẩn lao ở ngƣời và vi khuẩn
Baccilus subtilis. Lucas và Lewis (1994) đã chiết xuất một hoạt chất có tác

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

dụng với các loài vi khuẩn gây bệnh tả, lị, mụn nhọt từ Kim ngân (Lonicera
sp.). Từ cây Hoàng Liên (Coptis teeta), ngƣời ta đã chiết xuất đƣợc
berberin. Trong lá và rễ cây Hẹ (Allium odorum) có các hợp chất sulfua,
saponin và chất đắng. Năm 1948, Shen-Chi-Shen phân lập đƣợc một hoạt
chất Odorin ít độc đối với động vật bậc cao nhƣng lại có tác dụng kháng
khuẩn. Hạt của cây Hẹ cũng có chứa chất Alcaloid có tác dụng kháng
khuẩn gram+ và gram-, nấm. Reserpin và Serpentin là chất hạ huyết áp
đƣợc chiết xuất từ cây Ba gạc (Rauvolfia spp.). Đặc biệt, Vinblastin và
Vincristin vừa có tác dụng hạ huyết áp vừa có tác dụng làm thuốc chống
ung thƣ, đƣợc chiết xuất từ cây Dừa cạn. Digitalin đƣợc chiết xuất từ cây
Dƣơng địa hoàng (Digitalis spp.), strophantin đƣợc chiết xuất từ cây Sừng
dê (Strophanthus spp.) để làm thuốc trợ tim. Từ những thành tựu nghiên
cứu cấu trúc, hoạt tính của các hợp chất tự nhiên, nhiều loại thuốc có tác
dụng chữa bệnh cao đã ra đời bằng tổng hợp hoặc bán tổng hợp.
Dƣợc lý hiện đại chủ yếu tập trung vào các hợp chất tự nhiên có hoạt

tính chữa bệnh trong khi các nhà nghiên cứu về thảo mộc cho rằng tác dụng
chữa bệnh của cây thuốc là do sự kết hợp của nhiều thành phần có trong
cây thuốc. Chẳng hạn nhƣ chất khoáng, vitamin, tinh dầu glycosid và nhiều
chất khác đóng vai trò quan trọng trong việc tăng cƣờng hoặc hỗ trợ các
đặc tính chữa bệnh của cây thuốc, bảo vệ cơ thể của các tác nhân gây độc.
Trong khi đó, các hợp chất đƣợc phân lập và tổng hợn có khả năng chữa
bệnh hiệu quả nhƣng vì thiếu đi các hợp chất tự nhiên khác nên chúng có
khả năng gây độc đối với cơ thể. Trƣớc đây, việc sử dụng thảo dƣợc để
chữa bệnh thƣờng bị hiểu lầm với phép thuật và mê tín dị đoan. Ngày nay,
khoa học hiện đại đã chứng minh đƣợc khả năng chữa bệnh của thảo mộc.
Vì vậy, thế giới ngày càng quan tâm tới cây thuốc cũng nhƣ phƣơng pháp
chữa bệnh bằng y học cổ truyền.
Theo thống kê của tổ chức Y tế thế giới (WHO), có trên 20.000 loài
thực vật bậc cao có mạch và ngành thực vật bậc thấp đƣợc sử dụng trực

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

tiếp làm thuốc hoặc cung cấp các hoạt chất tự nhiên để làm thuốc. Trong
đó, vùng nhiệt đới Châu Mỹ có hơn 1.900 loài, vùng nhiệt đới Châu Á có
khoảng 6.500 loài thực vật có hoa đƣợc dùng làm thuốc. Mức độ sử dụng
thuốc thảo dƣợc ngày càng cao.
Theo thống kê trên toàn thế giới, giá trị của công nghiệp dƣợc sử
dụng cây cỏ là 800 tỷ USD/năm. Ở Trung quốc tiêu thụ hàng năm hết
700.000 tấn dƣợc liệu, sản phẩm y học dân tộc đạt giá trị hơn 1,7 tỷ USD vào
năm 1986. Tại các nƣớc có nền công nghiệp phát triển thì mức độ sử dụng cây
thuốc ngày càng tăng. Ngày nay, có khoảng 40 % dân số các nƣớc công
nghiệp phát triển sử dụng các dạng thuốc bổ sung.
Tổng giá trị về thuốc có nguồn gốc thực vật trên thị trƣờng Âu - Mỹ
và Nhật Bản vào năm 1985 lá 43 tỷ USD. Doanh số bán thuốc từ cây cỏ ở
các nƣớc Tây Âu năm 1989 là 2,2 Tỷ USD so với tổng doanh số buôn bán

dƣợc phẩm là 65 tỷ USD. Theo ngân hàng thế giới (WB), nguồn tài nguyên
cây thuốc là một trong những nguồn tài nguyên giá trị nhất ở vùng nhiệt
đới. Dự đoán, nếu phát triển tối đa các thuốc thảo mộc từ các nƣớc nhiệt
đới, có thể làm ra 900 tỷ USD mỗi năm cho nền kinh tế các nƣớc thế giới
thứ 3.
Theo Raven (1987) và Ole Harmann (1988) cho rằng trong vòng
hơn trăm năm trở lại đây có khoảng 1.000 loài thực vật đã bị tuyệt chủng.
Có tới 60.000 loài, sự tồn tại của chúng là mong manh, nếu chiều hƣớng đe
dọa này vẫn tiếp diễn. Trong số những loài thực vật bị mất đi hoặc bị đe
dọa đƣơng nhiên có nhiều loài cây thuốc. Do vậy song song với việc
nghiên cứu và sử dụng cây thuốc, một vấn đề cấp bách khác đó là bảo tồn
tri thức sử dụng cây thuốc của dân gian.
Năm 1988, hội thảo quốc tế về bảo tồn cây thuốc đã đƣợc tổ chức tại
Chiang Mai Thái Lan với sự tham gia của nhiều chuyên gia đến từ 16 quốc
gia thuộc các khu vực khác nhau trên thế giới. Kết quả hội thảo ra văn bản

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

kết luận: đánh giá cao tầm quan trọng của cây thuốc trong chăm sóc sức
khỏe, giá trị kinh tế và tiềm năng của cây cỏ đối với việc tìm ra thuốc mới.
Đồng thời báo động về mất tính đa dạng sinh vật cây cỏ và các nền văn hóa
trên thế giới đã ảnh hƣởng đến việc tìm kiếm thuốc mới mang lại lợi ích
toàn cầu. Tuyên bố Chiang Mai cũng chỉ ra sự cấp thiết cần hợp tác ở mức
độ toàn cầu để thiết lập các chƣơng trình bảo tồn cây thuốc.
Tuy nhiên nguồn tài nguyên cây thuốc đang bị đe dọa nghiêm trọng do
thảm thực vật bị tàn phá, bị khai thác quá mức và bị sử dụng lãng phí. Tri
thức sử dụng cây thuốc bị mai một do không đƣợc tƣ liệu hóa, thế hệ trẻ ở
nhiều cộng đồng ít quan tâm đến học tập kinh nghiệm sử dụng cây cỏ làm
thuốc của thế hệ trƣớc. Đặc biệt, ở các vùng rừng nhiệt đới và Á nhiệt đới
là nơi có mức độ đa dạng sinh học cao của thế giới nhƣng lại bị tàn phá

nhiều nhất. Theo số liệu của tổ chức Nông lƣơng của Liên Hiệp Quốc
(FAO) của Liên hợp quốc, trong vòng 40 năm (1940 – 1980), diện tích của
các loại rừng kể trên đã bị thu hẹp tới 44%, ƣớc tình khoảng 75.000 hecta
rừng bị phá hủy.
Tiềm năng chữa bệnh của nhiều loài thảo dƣợc đang ngày càng đƣợc
khám phá, vì thế vấn đề bảo tồn đa dạng sinh học nói chung và bảo tồn cây
thuốc nói riêng đang là mối quan tâm hàng đầu của nhiều quốc gia nhằm
phục vụ cho mục đích chăm sóc và bảo vệ sức khỏe của con ngƣời.
1.1.2. Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây thuốc ở Việt Nam.
Việt Nam đƣợc đánh giá là nƣớc đứng thứ 16 trên thế giới về sự phong
phú và đa dạng sinh vật. Trong đó, hệ thực vật cũng rất phong phú và đa
dạng. Với lợi thế về khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng và ẩm, Việt Nam có
nguồn tài nguyên thực vật phong phú. Ƣớc tính, nƣớc ta có khoảng 12.000
loài thực vật bậc cao có mạch, 800 loài rêu, 600 loài nấm và hơn 2.000
loài tảo [9], [15], [16]. Có khoảng trên 4.000 loài thực vật bậc cao dùng
làm thuốc.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Trong cuốn sách “Nam Dƣợc Thần Hiệu” và “Hông Nghĩa Giác Tƣ Y
Thƣ” của Tuệ Tĩnh đã mô tả hơn 630 vị thuốc, 50 đơn thuốc chữa các loại
bệnh trong đó 37 đơn thuốc chữa bệnh thƣơng hàn. Hai cuốn sách này đƣợc
xem là những cuốn sách xuất hiện sớm nhất về cây thuốc Việt Nam. Đến
thế kỷ 18, Hải Thƣợng Lãn Ông Lê Hữu Trác đã xuất bản bộ sách lớn “Y
Tông Tâm Tĩnh” gồm 28 tập, 66 quyển đã mô tả khá chi tiết vệ thực vật,
các đặc tính chữa bệnh [46].
Thời Lê Dụ Tông xuất hiện Hải Thƣợng Lãn Ông, tên thực là Lê
Hữu Trác (1721-1792) Ông là ngƣời am hiểu nhiều về y học, sinh lý học,
đọc nhiều sách thuốc. Di sản để lại ngày nay cho con cháu là hàng chục
bộ sách y dƣợc quý. Ngoài kế thừa “Nam dƣợc thần hiệu của Tuệ Tĩnh,

Ông còn bổ sung thêm 329 vị thuốc mới. Mặt khác Ông còn mở trƣờng
đào tạo y sinh truyền bá tƣ tƣởng, hiểu biết của mình về y học vì vậy Ông
còn đƣợc mệnh danh là ông tổ sáng lập ra nghề thuốc Việt Nam.
Thời kỳ Pháp thuộc (1884 – 1945), nền y học cổ truyền của Việt Nam
chịu nhiều ảnh hƣởng của dƣợc học phƣơng Tây. Các phƣơng thức chữa
bệnh mới đƣợc mang đến qua quá trình khai thác thuộc địa, họ đã gián tiếp
thúc đẩy quá trình nghiên cứu thực vật của Việt Nam nói chung và nghiên
cứu cây thuốc nói riêng. Đặc biệt bộ sách “Thực vật chí đại cƣơng Đông
Dƣơng” của Lecomte xuất bản cuối thể kỷ XVIII đầu thể kỷ XIX đã mô tả
và phân loại hơn 7.000 loài thực vật [37]. Đến năm 1952 tác giả tái bản lại
cuốn sách, bổ sung và đặt tên mới là “Những cây thuốc của Campuchia,
Lào và Việt Nam” gồm 4 tập, 1.050 trang và thống kê khoảng 1.480 loài
thực vật. Tuy nhiên cuốn sách này chƣa hoàn thiện về mô tả, phân bố,
thành phần hóa học và dƣợc lý của các loại thảo mộc.
Ngay sau khi đất nƣớc đƣợc thống nhất, có rất nhiều công trình điều
tra nghiên cứu cây thuốc đƣợc thực hiện. Phạm Hoàng Hộ và Nguyễn
Văn Dƣơng đã xuất bản bộ sách “Cây cỏ Việt Nam” vào năm 1980 đã giới

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

thiệu đƣợc công dụng làm thuốc của nhiều loài thực vật [16]. Đỗ Tất Lợi
(1995) đã xuất bản bộ sách “Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam” và tái
bản vào năm 2000 [20]. Công trình này thống kê gần 800 loài cây, con và
vị thuốc, trong đó nhiều loài thực vật đã đƣợc mô tả về mặt cấu tạo, phân
bố, cách thu hái và chế biến, thành phần hóa học, công dụng và liều dùng.
Năm 1980 Đỗ Huy Bích, Bùi Xuân Chƣơng đã giới thiệu 519 loài
cây thuốc, trong đó có 150 loài mới phát hiện “Sổ tay cây thuốc Việt nam”.
Đề cập đến cây thuốc trong hệ thực vật Việt Nam,Võ Văn Chi là
ngƣời đầu tiên có tâm huyết, năm 1976 trong luận án khoa học của mình,
ông đã thống kê có 1360 loài cây thuốc thuộc 192 họ trong ngành hạt kín ở

miền Bắc Việt Nam. Năm 1991, trong một báo cáo tham gia hội thảo quốc
gia về cây thuốc lần thứ II ở thành phố Hồ Chí Minh, tác giả đã giới thiệu
một danh sách các loài cây thuốc ở Việt Nam có 2 280 loài cây thuốc bậc
cao có mạch, thuộc 254 họ trong 8 ngành. Năm 1997 tác giả giới thiệu “ Từ
điển cây thuốc Việt Nam” giới thiệu 3.200 loài cây thuốc, đây là một công
trình có ý nghĩa khoa học và thực tiễn rất lớn phục vụ cho ngành dƣợc và
các nhà thực vật học. Đặc biệt năm 2012, tác giả đã tái bản có bổ sung công
trình trên với 4.470 loài cây thuốc.
Các kết quả điều tra dƣợc liệu của Viện Dƣợc liệu từ năm 1961 đến
1985 đã phát hiện 1.863 loài cây thuốc, trong 1 033 chi, 236 họ, 101 bộ, 17
lớp, 11 ngành đƣợc xếp loại theo hệ thống của nhà thực vật học Takhtajan.
Đến năm 2000, số loài cây thuốc đã tăng lên tới 3.849 loài thuộc 307 họ
thực vật.
Theo Đỗ Huy Bích, Nguyễn Tập, Lê Tùng Châu hàng năm nƣớc ta
khai thác và sử dụng tới 300 loài cây thuốc ở các mức độ khác nhau. Khó
mà thống kê đƣợc một cách đầy đủ khối lƣợng dƣợc liệu tự nhiên đƣợc
khai thác bởi vì hàng năm ngoài cơ sở sản xuất của nhà nƣớc còn có những
cơ sở của tƣ nhân, của những ông Lang bà Mế và ngƣời dân từng địa

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

phƣơng tự thu hái về chữa bệnh theo kinh nghiệm dân gian.
Trần Đình Lý (1993) và cộng sự đã xuất bản cuốn sách “1900 loài cây
có ích” [19]. Trong số các loài thực vật bậc cao có mạch đã biết ở Việt
Nam có 76 loài cho nhựa thơm, 160 loài có tinh dầu, 260 loài cho dầu béo,
600 chứa tanin, 500 loài cây gỗ có giá trị cao, 400 loài tre nứa, 40 loài song
mây. Trong số các nhóm thực vật này, rất nhiều loài có công dụng làm
thuốc. Cũng trong năm này, Vƣơng Thừa Ân cho ra đời cuốn “Thuốc quý
quanh ta” [1].
Nhiều cuốn sách có giá trị về tài nguyên cây thuốc đƣợc các nhà khoa

học của Viện Sinh thái và Tài nguyên Sinh vật, Viện Khoa học và Công
nghệ Việt Nam biên soạn. Trong đó, đáng chú ý là những cuốn sách “Tài
nguyên thực vật có tinh dầu ở Việt Nam” của tác giả Lã Đình Mỡi và cộng
sự (2001 – 2002) các tác giả đã trình bày giá trị sử dụng làm thuốc của
nhiều loài thực vật có tinh dầu của Việt Nam [21]. Năm 2005, Lã Đình Mỡi
và cộng sự giới thiệu tiếp công trình “Những cây chứa các hợp chất có hoạt
tính sinh học” đây đƣợc coi là những ghi chép đầu tiên, có hệ thống và
tƣơng đối hoàn chỉnh về nguồn tài nguyên thực vật có chứa các chất có
hoạt tính sinh học đƣợc sử dụng làm thuốc ở nƣớc ta [22].
Nguyễn Tiến Bân và cộng sự (2003, 2005) đã công bố bộ sách “Danh
lục các loài thực vật Việt Nam”. Cuốn sách đã trình bày đầy đủ các thông
tin về tên khoa học, tên thƣờng gọi, nhận dạng, phân bố, dạng sống – sinh
thái và công dụng. Bộ sách này rất có ý nghĩa cho việc tra cứu danh pháp
các loài thực vật.
Năm 1990-1995 trong hội thảo quốc tế lần thứ 2 về Dân tộc sinh học
tại Côn Minh - Trung Quốc, Nguyễn Nghĩa Thìn đã giới thiệu lịch sử
nghiên cứu về vấn đề dân tộc dƣợc học, giới thiệu 2 300 loài thuộc 1136 chi,
234 họ thuộc 6 ngành thực vật có mạch bậc cao Việt Nam đƣợc sử dụng làm
thuốc và giới thiệu hơn 1000 bài thuốc đƣợc thu thập ở Việt Nam.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Trần Văn Ơn, trong luận án tiến sĩ của mình đã xác định ở Vƣờn
quốc gia Ba Vì có 503 loài cây thuốc đƣợc ngƣời Dao sử dụng để chữa 131
loại bệnh.
Cao Thị Hải Xuân nghiên cứu về cây thuốc vƣờn quốc gia Cát Bà thì
có 443 loài thuộc thuộc 335 chi, 118 họ chữa 15 nhóm bệnh khác nhau.
Nhƣ vậy, mặc dù chƣa thống kê đầy đủ song các dẫn liệu kể trên
cũng đã nói lên sự phong phú và tầm quan trọng của nguồn tài nguyên cây
thuốc của Việt Nam.

Tình trạng về nguồn tài nguyên thực vật nói chung và nguồn cây
thuốc nói riêng hiện nay không còn nguyên vẹn nhƣ sƣa. Do phá rừng, đốt
nƣơng làm rẫy, khai thác ồ ạt dẫn tới nguồn tài nguyên cây thuốc ngày càng
cạn kiệt, nhiều loài cây thuốc bị giảm về trữ lƣợng nhƣ Bình vôi
(Stephania brachyandra), Chùa dù (Elsholtzia penduliflora), Tục đoạn
(Dipsacus asper),… Đặc biệt đối với những cây quý hiếm thì tình trạng suy
kiệt càng trở nên gay gắt hơn nhiều: Sâm vũ diệp (Panax bipinnatifidus), Tam
thất hoang (Panax stipuleanatus), Ngũ gia bì gai (Acanthopanax trifoliatus)…
hiện lâm vào tình trạng bị đe dọa tuyệt chủng.
Trong những năm qua, nhà nƣớc Việt Nam đã có nhiều chính sách đầu
tƣ cho công tác điều tra, nghiên cứu về cây thuốc và kế thừa nền y học cổ
truyền, phục vụ cho nhu cầu chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe của nhân
dân. Các ngành Y tế, Lâm nghiệp và Sinh học đã tiến hành nhiều đợt điều
tra cơ bản, đặc biệt là chƣơng trình điều tra nghiên cứu cây thuốc của Viện
Dƣợc liệu – Bộ Y tế đã tiến hành trên phạm vi toàn quốc. Đến nay ở nƣớc
ta có khoảng 3.948 loài cây thuốc đƣợc ghi nhận, thuộc 307 họ của 9 ngành
thực vật bậc cao và bậc thấp, bao gồm cả nấm.
1.1.3. Tình hình nghiên cứu ở khu vực bãi bồi huyện kim Sơn
Vấn đề nghiên cứu về tài nguyên thực vật nói chung và tài nguyên
cây thuốc nói riêng vẫn chƣa đƣợc chú trọng. Theo thống kê sơ bộ, hệ thực

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

vật thuộc ngành Mộc lan ở vùng bãi bồi ven biển huyện Kim Sơn có
khoảng 460 loài. Tuy nhiên, chƣa có công trình nào nghiên cứu về đa dạng
cây thuốc vùng bãi bồi ven biển huyện Kim Sơn. Dƣới sự hƣớng dẫn của
các thầy cô tại Viện Sinh thái Tài nguyên và Sinh vật tôi đã mạnh dạn
nghiên cứu đề tài “ Nghiên cứu đa dạng cây thuốc thuộc ngành Mộc lan
(Magnoliophyta) ở vùng bãi bồi ven biển huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh
Bình”.






Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

CHƢƠNG 2
ĐỐI TƢỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu là các cây thuốc thuộc ngành Mộc lan
(Magnoliophyta) ở vùng bãi bồi ven biển huyện Kim Sơn.
Thời gian thực hiện: Từ tháng 12 năm 2011 đến tháng 8 năm 2012
2.2. Nội dung nghiên cứu
- Nghiên cứu đa dạng về các bậc phân loại (họ, chi, loài) các loài cây
thuốc thuộc ngành Mộc lan (Magnoliophyta).
- Thống kê các nhóm bệnh đƣợc chữa trị bằng cây thuốc.
2.3. Phƣơng pháp nghiên cứu
+ Quan trọng nhất là công tác điều tra để thu thập tự liệu và mẫu vật
tại thực địa theo tuyến và ô nghiên cứu định vị. Các tuyến điều tra đƣợc
vạch trên bản đồ, đi qua tất cả các vùng khác nhau về địa hình, hệ sinh thái,
các loại hình rừng, kiểu thảm thực vật, môi trƣờng sống, nhằm thu thập
đƣợc đầy đủ mẫu vật đại diện của vùng nghiên cứu.
+ Tƣ liệu cần thu thập đƣợc ghi theo phiếu điều tra thực vật với các
nội dung in sẵn và phiếu phỏng vấn mở. Tƣ liệu chủ yếu cần ghi về hình
thái là những đặc điểm không còn thể hiện đƣợc trên mẫu khi khô, những
thông tin về sinh học, sinh thái, mầu sắc và mùi vị các bộ phận của cây, giá
trị sử dụng của địa phƣơng, chiều cao, đƣờng kính thân, các đặc điểm khác
không có trên mẫu khô nhƣ đặc điểm bộ phận dƣới đất, vỏ cây, hình tán lá,
dạng sống, cách leo,

+ Mẫu vật (tiêu bản) gồm cành, lá, hoa, quả, và các bộ phận cần
thiết để nghiên cứu, phân tích, xác định tên loài theo tiêu chí thực vật (gồm
các bộ phận: cành mang lá và hoa hoặc quả, một số bộ phận đặc trƣng,…
Công tác điều tra, thu thập, xử lý, lƣu trữ, bảo quản mẫu thực vật phải tuân
thủ theo qui trình kỹ thuật làm tiêu bản thực vật của Viện Sinh thái & Tài
nguyên sinh vật.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

+ Trong phòng thí nghiệm, tiến hành nghiên cứu, phân tích, tổng hợp tƣ
liệu và mẫu vật để xác định tên khoa học các loài cây bằng phƣơng pháp
hình thái so sánh, trong đó có một số trƣờng hợp cần thiết có thể sử dụng
phƣơng pháp sinh học phân tử. Đồng thời ở thực địa cũng xác định tên cây
trên cơ sở mẫu tƣơi sống trong tự nhiên, nhất là những loài có thể chƣa thu
thập đƣợc mẫu vật. Trong công tác xác định tên cây, cần sử dụng các tài
liệu phân loại và các tài liệu khác gồm các bộ sách chuyên khảo về taxon,
các bộ sách Thực vật chí của một số nƣớc lân cận và Việt Nam, các công
trình về tài nguyên thực vật, Sau khi đã có tên khoa học, chúng tôi sử
dụng các trang Website chuyên ngành để kiểm tra về danh pháp nhƣ:
; ; .
+ Cuối cùng là sắp xếp để lập danh lục các loài theo các taxon lớp, họ,
chi, loài và dƣới loài. Các taxon xếp theo thứ tự vần ABC.
+ Phƣơng pháp đánh giá đa dạng các taxon thực vật trên phƣơng pháp
của Nguyễn Nghĩa Thìn (2007).
+ Thông tin làm thuốc: Các công trình đề cập đến các cây thuốc nhƣ Từ
điển cây thuốc Việt Nam (Võ Văn Chi, 1997, 2012),


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


CHƢƠNG 3
ĐẶC ĐIỂM ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN - KINH TẾ VÀ XÃ HỘI
KHU VỰC BÃI BỒI VEN BIỂN HUYỆN KIM SƠN
3.1. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÙNG BÃI BỒI KIM SƠN.
3.1.1. Vị trí địa lý
Vùng nghiên cứu nằm ở phía Nam của huyện Kim Sơn tính từ đê
Bình Minh I trở ra biển, có tọa độ địa lý từ 19
0
56
'
40
''
đến 20
0
00
'
vĩ độ Bắc
và từ 106
0
2
'
05
''
đến 106
0
05
'
20
''
kinh độ Đông. Ranh giới đƣợc xác định: Phía

Bắc giáp Thị trấn Bình Minh, phía Nam giáp Vịnh Bắc Bộ, phía Đông giáp
tỉnh Nam Định (sông Đáy) và phía Tây giáp tỉnh Thanh Hoá (sông Càn).
Trong vùng có 03 đơn vị hành chính đã thành lập (xã Kim Đông, xã Kim
Trung, xã Kim Hải), 01 đơn vị đã xác định nhƣng chƣa có bộ máy hành
chính (xã Kim Tiến) và một phần diện tích hiện nay do Ủy ban Nhân dân
huyện Kim Sơn quản lý với tổng diện tích đất đai là 6.601,7 ha.
Vùng bãi bồi Kim Sơn nằm ở điểm đỉnh phía Đông Nam của vùng
đồng bằng Bắc Bộ. Là nơi đón nhận lƣu lƣợng nƣớc chứa nhiều bùng cát
và trầm tích của sông Đáy, sông Càn để bồi đắp, mở rộng lấn ra biển.
- Bên cạnh đó sông Càn, sông Đáy và hệ thống sông nội địa còn
mang đến vùng bãi bồi nhiều động vật và thực vật phong phú, tạo điều kiện
cho nhiều loại thuỷ sản phát triển nhƣ: Thực vật nổi (tảo khuê, tảo lục, tảo
gấp), động vật nổi (tôm bột, cá bột, ), sinh vật đáy và nhuyễn thể (ngao,
vọp, sò huyết ….). Đặc điểm này tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển nuôi
trồng thuỷ, hải sản trong vùng.
- Sự giao hòa của nƣớc hai cửa sông Càn, sông Đáy với nƣớc
biển Đông tạo cho khu vực có những điều kiện sinh thái, tự nhiên rất
thuận lợi cho việc phát triển và mở rộng các hoạt động sản xuất nuôi
trồng thuỷ sản, phát triển du lịch…

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


Hình 1. Sơ đồ vị trí vùng bãi bồi Kim Sơn
Ngoài những thuận lợi trên, vùng nghiên cứu của đề tài cũng có
không ít khó khăn phức tạp, bởi vì vùng bãi bồi Kim Sơn là vùng trũng
phía Đông Nam của đồng bằng sông Hồng, nơi đón nƣớc của nhiều sông
trong nội vùng nhƣ sông Lạng, sông Bôi, sông Vạc… với một cửa thoát
duy nhất là cửa sông Đáy,
đồng thời sông Đáy cũng là sông phân nƣớc lũ của sông Hồng, đặc điểm

này tạo nên một chế độ thuỷ văn phức tạp nhiều biến động với cƣờng độ lớn.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Mặt khác, do nằm ở điểm đỉnh của vùng đồng bằng ven biển Bắc Bộ
nên vùng bãi bồi Kim Sơn trực tiếp bị ảnh hƣởng, tàn phá lớn của bão biển,
tác động của nƣớc biển dâng Đặc điểm này gây khó khăn cho việc hoạch
định các giải pháp, bƣớc đi để khai thác, sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên
ven biển của tỉnh Ninh Bình.
3.1.2. Đặc điểm địa chất, địa hình và địa mạo
Cách thành tạo địa chất trong vùng bãi bồi Kim Sơn có gắn
kết chủ yếu và bở rời, chống chịu môi trƣờng kém, có khả năng
tàng trữ độc tố.
Địa hình vùng thoải dần từ Bắc xuống Nam, từ Tây bắc xuống Đông Nam.
Vùng này nằm trong vùng bồi lắng, tích tụ, xu thế ngày càng phát
triển ra biển. Sự bồi tụ này do hai yếu tố biển và sông tạo nên và có xu
hƣớng phát triển về phía Nam (ảnh hƣởng của sông Đáy và sông Càn -
hƣớng chảy của hai sông này đều có hƣớng Bắc Nam).
3.1.3. Đặc điểm khí hậu
Khí hậu vùng bãi bồi Kim Sơn nằm trong hệ khí hậu nhiệt đới
gió mùa, có mùa động lạnh ít mƣa, mùa hè nắng nóng và mƣa nhiều.
(Các số liệu thống kê giai đoạn 1980 - 2010 của Trạm thuỷ văn Kim
Sơn thuộc Trung tâm Dự báo khí tƣợng, thuỷ văn Ninh Bình).
3.1.3.1. Nhiệt độ
- Nhiệt độ trung bình năm từ 23,5
0
C.
- Tháng nóng nhất có nhiệt độ trung bình 29,2
o
C.

- Tháng lạnh nhất có nhiệt độ trung bình 16,9
o
C.
- Tổng nhiệt độ năm trên 8.500
o
C.
- Những tháng có nhiệt độ trung bình trên 23
o
C bắt đầu từ tháng 4 đến
tháng 10.
Vùng bãi bồi có nhiệt độ trung bình tƣơng đối cao, chênh lệch nhiệt
độ giữa các mùa và ở các thời điểm khác nhau trong một mùa dao động từ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

10
o
C đến 25
o
C. Với đặc trƣng nhiệt độ nhƣ vậy là điều kiện rất tốt để hệ
sinh thái nhiệt đới phát triển, đồng nghĩa với khu vực có tiề năng rất lớn để
thâm canh các loại cây trồng nhiệt đới và nuôi trồng thuỷ sản.
3.1.3.2. Chế độ ẩm
Do vị trí địa lý nằm sát biển nên độ ẩm không khí trung bình năm
tại vùng bãi bồi tƣơng đối cao (83,0%). Với độ ẩm không khí cao tác
động đến môi trƣờng của khu vực tƣơng đối khắc nghiệt đối với sức
khoẻ của con ngƣời và hệ động vật trong khu vực. Bên cạnh đó độ ẩm
không khí cao luôn tiềm ẩn sự bùng phát và lan truyền dịch bệnh.
3.1.3.3. Bốc hơi
Do tác động của khí hậu nhiệt đới gió mùa, lƣợng bốc hơi trung

bình năm tƣơng đối lớn (871,6mm). Tuy vậy chênh lệch giữa lƣợng
bốc hơi vào các tháng mùa lạnh và mùa nóng chênh lệch nhau rất
nhiều (106,4mm so với 40,0mm).
3.1.3.4. Chế độ mưa
Nằm tại khu vực giáp ranh giữa Bắc bộ và Bắc Trung bộ nên tỉnh
Ninh Bình luôn chịu tác động của các cơn bão hoặc áp thấp nhiệt đới đổ bộ
vào hai khu vực này, do vậy lƣợng mƣa trên địa bàn tỉnh cao hơn các khu
vực khác của vùng Bắc bộ và Bắc Trung bộ. Khu vực bãi bồi Kim Sơn xảy
ra tình trạng thừa nƣớc vào những tháng mùa mƣa, thiếu hụt nƣớc vào các
tháng mùa khô.
3.1.3.5. Chế độ thuỷ văn
Vùng bãi bồi Kim Sơn có hệ thống sông ngòi khá dày nhƣ Sông
Đáy, sông Càn, sông Cà Mau…Với tổng chiều dài khoảng 37 km, phân bố
đều khắp trên vùng bãi bồi, mật độ sông suối là 5,93 km/km
2
, các sông
thƣờng chảy theo hƣớng Tây Bắc - Đông Nam để chảy ra biển.
Chế độ thuỷ văn vùng bãi bồi Kim Sơn là chế độ thủy triều biển Đông
và thuỷ văn cửa sông. Chế độ thuỷ văn cửa sông chịu ảnh hƣởng lớn nhất

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

là cửa sông Đáy, một trong những cửa sông quan trọng của hệ thống sông
Hồng, đóng vai trò quan trọng trong vận tải nƣớc và bùn cát từ đất liền ra
biển Đông (khoảng 23% lƣợng nƣớc lũ và bùn cát của sông Hồng).
3.1.4. Tài nguyên đất
Vùng bãi bồi ven biển Kim Sơn có diện tích tự nhiên 6601,7 ha (đất
nông nghiệp 2.958,1 ha, đất phi nông nghiệp 1.682,5 ha, đất chƣa sử dụng
1.961,2 ha). Theo nguồn gốc phát sinh, đất của vùng bãi bồi Kim Sơn đƣợc
hình thành do quá trình bồi đắp phù sa sông Đáy (30% lƣợng phù sa của

sông Hồng), sông Càn trên nền biển nông. Mức độ nhiễm mặn có xu thế
giảm dần từ đê Bình Minh 1 đến đê Bình Minh 3; pH của đất có xu thế
ngƣợc lại. Biến động độ mặn và pH trong đất vùng bãi bồi là sự biến đổi
theo mùa rõ ràng.
3.2. ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ XÃ HỘI VÙNG BÃI BỒI KIM SƠN.
3.2.1. Dân số, lao động
Theo số liệu của Phòng Thống kê huyện Kim Sơn, tính đến ngày
31/12/2009 thì tổng số dân 03 xã vùng bãi bồi (xã Kim Đông, xã Kim
Hải, xã Kim Trung) là 9.949 ngƣời, 2.436 hộ. Mật độ dân số toàn vùng
150 ngƣời/km
2
.
Bảng 1. Dân số vùng bãi bồi Kim Sơn
TT
Đơn vị
hành chính
Dân số
(ngƣời)
Mật độ dân số
(ngƣời/km
2
)
Tỷ lệ tăng dân số (%)
Tự nhiên
Cơ học
1
Xã Kim Đông
3.344
512
+1,02

+1,41
2
Xã Kim Trung
3.183
723
+1,28
+1,11
3
Xã Kim Hải
3.422
614
+1,10
+0,50


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Xã Kim Trung có mật độ dân số cao nhất (723 ngƣời/km
2
), Xã Kim
Đông có mật độ dân số thấp nhất (606 ngƣời/km
2
). Hàng năm vào khoảng
tháng 4, tháng 7, tháng 8, trùng với thời điểm thu hoạch thuỷ sản, cói… dân
đến tạm trú, làm thuê trong vùng tăng đột biến khá lớn, tuy nhiên lƣợng
tăng dân số này không tính là tăng cơ học. Trong vùng còn có khoảng 200
cán bộ, chiến sỹ quân đội làm kinh tế thuộc Đoàn 1080 - Quân đoàn 1; Lữ
đoàn 279 - Bộ Tƣ lệnh công binh.
Dân số trong độ tuổi lao động tại các xã trong vùng bãi bồi là 5.728
ngƣời bằng 57,6% dân số, lao động nông nghiệp chiếm trên 95% tổng số

lao động toàn vùng. Lực lƣợng lao động chủ yếu tập trung trong ngành
nông nghiệp, lực lƣợng lao động tham gia dịch vụ chƣa nhiều, phần lớn
theo mùa vụ thu hoạch thuỷ sản và cây cói. Lao động chƣa qua đào tạo là
chủ yếu, nhìn chung trình độ còn thấp, đa số là lực lƣợng lao động phổ thông.
Thu nhập của ngƣời dân trong vùng những năm gần đây đã đƣợc
nâng lên đáng kể do phát triển mạnh nuôi trồng, đánh bắt thuỷ, hải sản.
Bình quân thu nhập trên một đầu ngƣời năm 2009 đạt 6,3 triệu đồng/ngƣời/ năm.
3.2.2. Tình hình phát triển kinh tế
Huyện Kim Sơn đƣợc thành lập năm 1829, là kết quả quá trình khai
hoang lấn biển. Đến nay, công cuộc khai hoang lấn biển vẫn là một tiềm
năng, thế mạnh của huyện.
Trong những năm qua hoạt động sản xuất kinh doanh của các xã
trong vùng đã có chuyển biến tích cực. Năm 2009, giá trị sản xuất ngành
nông, lâm, thuỷ sản đạt 32.528 triệu đồng, trong đó nuôi trồng thuỷ sản
chiếm tỷ trọng lớn; giá trị sản xuất ngành công nghiệp, xây dựng 13.531
triệu đồng; giá trị sản xuất ngành thƣơng mại, dịch vụ 11.030 triệu đồng
(theo giá thực tế). Trong cơ cấu kinh tế vùng bãi bồi ven biển Kim Sơn,
ngành nông, lâm, thuỷ sản chiếm tỷ trọng lớn nhất (41,6%). Năm 2009
tỷ lệ hộ nghèo trong vùng đã giảm nhiều nhƣng nhìn chung vẫn còn ở

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

mức cao (theo tiêu chí mới của Bộ Lao động, Thƣơng binh và Xã hội) là
18,47%. Để đẩy nhanh tốc độ tăng trƣởng kinh tế, xoá đói, giảm
nghèo…vấn đề đặt ra cho các xã trong vùng là phải tiếp tục chuyển dịch
mạnh mẽ cơ cấu kinh tế, cơ cấu giống cây trồng, con nuôi theo hƣớng
sản xuất hàng hoá, tăng nhanh những sản phẩm, con nuôi có giá trị kinh
tế cao, quan tâm đến vấn đề kiểm soát ô nhiễm, bảo vệ môi trƣờng để
đảm bảo cho sản xuất phát triển bền vững, đồng thời đánh giá chính xác,
khoa học tiềm năng đất đai của vùng để có cơ chế, chính sách phù hợp

nâng cao chất lƣợng, hiệu quả trong việc sử dụng nguồn tài nguyên đất
đai vùng bãi bồi ven biển.

×