Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

văn hóa và con người tây nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (117.59 KB, 22 trang )

MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Hiện nay, khoảng cách không gian giữa các vùng miền khác nhau đã trở nên
gần gũi hơn nhờ sự phát triển của giao thông và khoa học công nghệ. Nhưng đối với
nhiều người, Tây Nguyên vẫn xa lạ, hoang dã, “rừng rú”. Để Tây Nguyên gần gũi,
thân thương hơn trong mắt mọi người, nhiều nhà văn đã khai phá mảnh đất này bằng
thái độ trân trọng và tình cảm yêu thương. Là người sống và làm việc tại Tây
Nguyên, chúng tôi muốn khái quát toàn bộ sáng tác văn xuôi tiêu biểu nhất về Tây
Nguyên dưới góc độ văn hóa và con người để có thể xác đònh vò thế cũng như sắc
thái độc đáo của văn hóa, văn học Tây Nguyên trong bức tranh chung của văn hóa
dân tộc. Qua đó có thể giúp cho mọi người hiểu và yêu mến hơn một vùng đất kỳ ảo
Tây Nguyên.
Nghiên cứu văn hóa và con người trong văn xuôi nghệ thuật viết về Tây
Nguyên không chỉ giúp hiểu thêm về một mảng sáng tác trong văn chương dân tộc,
thấy được vẻ đẹp về cuộc sống con người và văn hóa nơi đây, mà còn phục vụ cho
việc giảng dạy, học tập môn văn trong nhà trường được đúng hướng hơn.
Những chính sách về kinh tế của nhà nước nhằm phát triển Tây Nguyên cũng
có hai mặt của nó. Việc khai thác rừng một cách tàn nhẫn, sự phát triển ồ ạt của các
công trình thủy điện, ưu tiên mở rộng diện tích các loại cây công nghiệp v.v…đã dẫn
đến sự rối loạn trong nhòp điệu của tự nhiên, xã hội ở Tây Nguyên. Trong sự rối
loạn của cuộc sống đó, các tôn giáo ở nước ngoài đã nhanh chóng dành lấy một vò
trí quan trọng trong đời sống tinh thần của người Tây Nguyên. Hệ quả là rất nhiều
giá trò văn hóa truyền thống tốt đẹp đã bò biến mất. Nghiên cứu vấn đề văn hóa và
con người trong văn học cũng là góp phần nhỏ vào việc giữ gìn và phát huy bản sắc
văn hóa độc đáo của các dân tộc Tây Nguyên đang có nguy cơ mai một trước sức
tấn công ồ ạt của các dòng chảy văn hóa khác.
1
Thời gian gần qua đã xuất hiện nhiều cách ứng xử chưa thật đúng với văn hóa
Tây Nguyên. Những người làm công tác văn hóa (phần lớn là người Kinh) đã không
tìm hiểu thấu đáo về đời sống Tây Nguyên nên vô tình họ đã làm “dò hóa” văn hóa
Tây Nguyên. Trước thực tế đó, chọn đề tài này chúng tôi cũng mong góp một tiếng


nói của mình để có thể hiểu đúng hơn về Tây Nguyên và có những cách ứng xử phù
hợp hơn.
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Không như văn học dân gian, không như văn học viết về Tây Bắc, văn học
viết ở Tây Nguyên vẫn còn khá khiêm tốn về số lượng tác giả, tác phẩm. Ngoài số
ít nhà văn với những tác phẩm gây được tiếng vang, còn lại các nhà văn đòa phương
cũng viết khá nhiều nhưng chưa đủ sức vươn ra khỏi “biên giới” Tây Nguyên. Nhìn
chung, văn học viết về Tây Nguyên ít gây được sự chú ý của giới học thuật. Theo
đó, việc nghiên cứu về nó cũng chưa thật sự được quan tâm, mặc dù ít nhiều nó cũng
đã tạo ra một diện mạo riêng.
Theo sự tìm hiểu của chúng tôi thì đến nay, ở Việt Nam chưa có công trình
nào nghiên cứu một cách tổng thể về mảng văn học viết về Tây Nguyên. Vấn đề
nghiên cứu văn hóa và con người Tây Nguyên trong văn học cũng đang còn bỏ ngỏ.
Tuy nhiên, do có một số tác phẩm đã gây được tiếng vang nên cũng có nhiều công
trình nghiên cứu về nó ở cấp độ tác giả, tác phẩm. Trong số đó, nghiên cứu về
Nguyên Ngọc là nhiều nhất. Những nhà văn như Y Điêng, Trung Trung Đỉnh, Khuất
Quang Thụy, Thu Loan, H’Linh Niê thì chỉ có một số bài giới thiệu, bình luận tổng
quát in rải rác trên các báo và tạp chí.
Trong khoảng ba mươi bài nghiên cứu về Nguyên Ngọc, chỉ có một số ít bài
viết tìm hiểu một cách tổng quát, còn phần lớn các tác giả tập trung phân tích tiểu
thuyết Đất nước đứng lên và truyện ngắn Rừng xà nu, qua đó khái quát đặc điểm
văn chương Nguyên Ngọc.
2
Sau Nguyên Ngọc, Trung Trung Đỉnh cũng có nhiều tác phẩm hay về Tây
Nguyên nên có một số bài viết có tính chất khái quát về chất Tây Nguyên trong văn
của Trung Trung Đỉnh chứ chưa có bài viết nào tìm hiểu sâu về văn hóa Tây
Nguyên trong tác phẩm của ông.
Là nhà văn người Ê đê, Y Điêng có khoảng mười tác phẩm văn xuôi về Tây
Nguyên, nhưng nghiên cứu về ông thì chỉ có vài bài, trong đó các tác giả đã nhìn
thấy những giá trò văn hóa làm nền tảng cho văn Y Điêng.

Khuất Quang Thụy có một thời gian dài sống ở Tây Nguyên, nhưng với tư
cách là một người lính, anh chủ yếu viết về những chặng đường của cuộc chiến
tranh chống Mỹ ở Tây Nguyên. Về đề tài văn hóa, con người Tây Nguyên, anh chỉ
có một số truyện ngắn, vì vậy nghiên cứu về Khuất Quang Thụy cũng chưa được
chú ý.
Vốn là một nhạc só, nhưng H’Linh Niê cũng khá thành công trong lónh vực
văn chương, chò có khoảng hai mươi truyện ngắn về các dân tộc Êđê, M’Nông, Jrai,
Bana…Tuy nhiên chưa có cồng trình nào nghiên cứu về văn của chò.
Thu Loan là nhà văn sống ở Tây Nguyên khá lâu, chò có nhiều truyện ngắn
viết về cuộc sống của người bản đòa Tây Nguyên. Tuy nhiên, nghiên cứu về văn
xuôi của chò chưa nhiều.
Một số nhà văn đòa phương khác như Phạm Kim Anh, Phạm Minh Mẫn,
Nguyễn Ngọc Hòa…cũng có những tác phẩm hay về Tây Nguyên nhưng chưa tạo
được ấn tượng mạnh nên cũng chưa thu hút sự chú ý của giới nghiên cứu.
Như vậy tình hình nghiên cứu văn học viết về Tây Nguyên chỉ “xôn xao” với
tác phẩm của Nguyên Ngọc, còn với các tác giả khác thì khá lặng lẽ và thưa thớt.
Tuy nhiên những gì có được cũng rất q và đáng trân trọng .
3
3. ĐỐI TƯNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1 Đối tượng
Trước năm 1945, ở Tây Nguyên hầu như chỉ có văn học dân gian. Văn học
viết về Tây Nguyên chỉ thật sự được đònh hình từ năm 1945 với sự xuất hiện của
Nguyên Ngọc. Vì vậy, đối tượng khảo sát của luận án là những tác phẩm văn xuôi
nghệ thuật đặc sắc viết về Tây Nguyên từ năm 1945 đến 2000, phần lớn là tác phẩm
của Ngun Ngọc. Sau đó là sáng tác của Vũ Hạnh, Trung Trung Đỉnh, Khuất Quang
Thụy, Đỗ Tiến Thụy, Thu Loan và một số nhà văn khác. Về tác giả là người dân tộc
Tây Nguyên, người viết tìm hiểu các sáng tác của Y Điêng, H’Linh Niê (Linh Nga
Niê Kđăm), Kim Nhất.
Người viết chỉ tập trung khảo sát các tác phẩm phản ánh văn hóa và con
người bản đòa Tây Nguyên (trong không gian năm tỉnh: Kon Tum, Gia Lai, Đăk Lăk,

Đăk Nông, Lâm Đồng). Các tác phẩm viết về người Kinh ở Tây Nguyên không
thuộc phạm vi khảo sát của luận án.
3.2 Phạm vi nghiên cứu
Thế giới nghệ thuật của một tác phẩm văn học khá đa dạng. Đề tài chỉ tập
trung tìm hiểu những vấn đề văn hóa và con người Tây Nguyên trong tác phẩm văn
xuôi nghệ thuật (tiểu thuyết, truyện ngắn và một số tác phẩm ký giàu tính nghệ
thuật) từ năm 1945 đến năm 2000.
Ngoài ra người viết còn tham khảo văn học dân gian Tây Nguyên, nhất là sử
thi để có được một cái nhìn hệ thống và biện chứng các giá trò văn hóa trong văn
học. Và người viết cũng sẽ xem xét những tác phẩm văn xuôi viết về Tây Nguyên
sau năm 2000 để cảm nhận đầy đủ hơn một diện mạo văn học. Đồng thời cũng sẽ
tìm hiểu tất cả những công trình nghiên cứu về văn học, văn hóa Tây Nguyên từ xưa
đến nay nhằm xác đònh hướng đi mới của mình, tránh sự trùng lặp. Để tiện so sánh,
người viết cũng tham khảo những tác phẩm viết về miền núi phía Bắc và các vùng
miền khác.
4
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Trên nền tảng của phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lòch sử,
để thực hiện đề tài này, người viết sử dụng các phương pháp sau:
4.1 Phương pháp xã hội học
Được vận dụng để nhìn nhận cơ sở xã hội của sáng tác và tiếp nhận, từ đó
phân tích hiệu quả nghệ thuật của mối quan hệ tương tác giữa xã hội và văn học. Cơ
sở xã hội của văn học viết về Tây Nguyên chính là xã hội Tây Nguyên trong một
khung thời gian nhất đònh làm nền cho những giá trò văn hóa và con người trong văn
học.
4.2 Phương pháp hệ thống
Để có được cái nhìn cụ thể và lôgíc về vấn đề văn hóa và con người Tây
Nguyên, người viết sẽ đặt các nội dung một cách hệ thống theo trục dọc trong các
tác phẩm, từ đó mà phân tích khái quát nhằm làm nổi rõ vấn đề.
4.3 Phương pháp liên ngành

Để vấn đề được nhìn nhận, đánh giá một cách thấu đáo, người viết vận dụng
những kiến thức về xã hội học, dân tộc học, lòch sử, tôn giáo, chính trò…để giải mã,
cắt nghóa các hiện tượng văn học. Trong quá trình tìm hiểu, phân tích những giá trò
văn hóa và đặc điểm con người, người viết không tách rời tác phẩm văn chương với
môi trường, thời đại và đặc trưng thẩm mỹ của văn học.
4.4 Phương pháp so sánh, đối chiếu
So sánh tác phẩm viết về Tây Nguyên với tác phẩm viết về các vùng đất
khác. So sánh sáng tác của các tác giả với các tác phẩm văn học dân gian tiêu biểu.
Đối chiếu với đời sống văn hóa và con người trong thực tế để thấy được giá trò hiện
thực cũng như giá trò biểu hiện của hình tượng.
4.5 Thao tác phân tích, tổng hợp
Người viết chủ yếu đi vào phân tích những biểu hiện văn hóa cũng như tính
cách con người Tây Nguyên để làm hiện lên một cách rõ ràng các giá trò về văn hóa
5
và con người trong văn học. Từ đó khái quát đặc trưng văn hóa con người Tây
Nguyên trong hệ thống văn hóa con người Việt Nam.
5. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN
Như đã nói ở trên, nghiên cứu đề tài này, người viết muốn đem đến một cái
nhìn tổng thể toàn bộ sáng tác văn xuôi về Tây Nguyên. Và nó có tính chất mở
đường cho nghiên cứu về văn học viết về Tây Nguyên một cách có hệ thống.
Luận án góp phần làm nổi lên bức tranh văn hóa Tây Nguyên từ nhiều đường
nét, màu sắc độc đáo để có thể khẳng đònh giá trò của một nền văn hóa có thể sẽ
một đi không trở lại nếu không được hiểu đúng và ứng xử đúng về nó.
Luận án cũng góp phần vào việc phân tích tính cách và đặc điểm hình tượng
con người Tây Nguyên thông qua cuộc sống sinh hoạt, lao động và chiến đấu của họ
để từ đó có thể rút ra được những ý nghóa sâu xa về sự tồn sinh, về nhân sinh quan
tốt đẹp mà con người càng văn minh càng dễ bò đánh mất.
6. CẤU TRÚC CỦA LUẬN ÁN
Ngoài phần mở đầu (15 trang) và phần kết luận (6 trang), phần nội dung
chính được triển khai như sau:

Chương 1: Văn hóa Tây Nguyên trong văn xuôi nghệ thuật 1945-2000 (75
trang)
Chương 2: Con người Tây Nguyên trong xuôi nghệ thuật 1945-2000 (55 trang)
Chương 3: Nghệ thuật thể hiện văn hóa con người Tây Nguyên trong văn
xuôi nghệ thuật 1945-2000 (49 trang)
6
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
VĂN HÓA TÂY NGUYÊN
TRONG VĂN XUÔI NGHỆ THUẬT 1945 - 2000
1.1 Mối quan hệ giữa văn hóa và văn học
Văn hóa, theo cách hiểu thông thường nhất, chính là bộ mặt tinh thần và vật
chất của xã hội. Văn hóa làm nên diện mạo của dân tộc này so với dân tộc khác.
Văn hóa phản ánh mọi mặt đời sống của một dân tộc. Muốn tìm hiểu bản sắc của
một dân tộc thì không có cách nào khác hơn là phải đi khảo sát văn hóa của dân tộc
đó. Là nhân tố quan trọng bậc nhất, văn học của một dân tộc góp phần làm nên bản
sắc văn hóa của dân tộc đó. Về phần mình, văn học lại góp phần quan trọng trong
việc tôn tạo, bổ sung những giá trò văn hóa làm cho đời sống văn hóa ngày càng
phong phú hơn. Văn học luôn có những tác động tích cực đến văn hóa. Văn học như
một tấm gương phản chiếu đời sống xã hội và văn hóa dân tộc. Các tác phẩm văn
học có thể giúp người ta nhận thức rõ hơn về hiện thực cuộc sống, ý thức sâu sắc
hơn về cộng đồng, về dân tộc, về truyền thống lòch sử…Sự đặc sắc của văn hóa Tây
Nguyên được thể hiện khá đầy đủ trong các tác phẩm văn xuôi nghệ thuật. Ở đó
chúng ta sẽ được tiếp xúc với một nền văn hóa vô cùng phong phú: sự hiền minh
của rừng, niềm kiêu hãnh của làng, sự huyền hoặc của cồng chiêng, sự linh thiêng
của lửa, sự “ngọt ngào” của nước, tính đa chức năng của nhà rông, cái độc đáo của
rượu cần, sự đa dạng của lễ hội, sự kỳ lạ của những đêm kể khan v.v…
1.2 Rừng, bản nguyên của sự sống Tây Nguyên
Mỗi cộng đồng người đều gắn bó với những không gian sống cụ thể. . Đối với người
Tây Nguyên, môi trường sống của họ là rừng. Rừng là bản nguyên của sự sống nên

rừng cũng là cội nguồn của văn hóa nơi đây.
Đời sống của người Tây Nguyên gắn bó mật thiết với rừng. Họ yêu rừng như
ngư dân yêu biển. Họ trở về rừng như đứa con đi xa về với mẹ. Rừng là người mẹ
7
chở che, rừng là người bạn tâm tình, rừng là người yêu chung thủy Trong chiến
đấu, người dân Tây Nguyên luôn dựa vào rừng để chống lại kẻ thù.
Trong cuộc sống hòa bình, thế ứng xử của con người Tây Nguyên trước rừng
luôn uyển chuyển, họ luôn tôn trọng rừng không phải chỉ do quan niệm rừng là vò
thần toàn năng mà còn do chính giá trò của rừng trong đời sống con người. Con người
Tây Nguyên từ ngàn đời nay đã xây dựng một nền văn hóa trong mối tương tác với
rừng.
1.3 Làng, môi trường văn hóa chính yếu của người Tây Nguyên.
Tây Nguyên là khu vực cư trú của nhiều tộc người. Mỗi tộc người quần tụ
thành những làng riêng biệt. Làng là những khoảnh đất được cắt ra từ rừng. toàn bộ
đời sống của người Tây Nguyên gói gọn trong không gian buôn làng. Làng là một
khối cộng đồng thống nhất bền chặt, chính sự bền chặt ấy là yếu tố quan trọng nhất
để người Tây Nguyên tồn tại trước sự dữ dội của tự nhiên, trước sự xâm chiếm lại
của rừng. Làng có một vò trí đặc biệt trong đời sống và trong ý thức của người dân
Tây Nguyên.
Cuộc sống sinh hoạt làng buôn Tây Nguyên trong những trang văn luôn để lại
những cảm xúc ngọt ngào của tình làng nghóa xóm và thường làm dấy lên những
tình cảm yêu thương. Yêu thương vì ta được tiếp xúc với một cuộc sống thật đầm
ấm, yên vui, thắm đợm tình người. Và đôi khi cũng xen nỗi buồn hủ tục.
Có thể thấy bao điều kỳ thú trong những buôn làng bé nhỏ của người Tây
Nguyên. Ở đó có tình yêu thương mộc mạc, chân thành. Ở đó có sự tương trợ nhau
một cách vô tư trong cuộc sống. Ở đó có sự thăng hoa của tình làng trong mùa lễ
hội. Ở đó có bao nhiêu phong tục độc đáo. Cũng không thiếu những câu chuyện đau
lòng từ hủ tục. Nhưng bao trùm nhất vẫn là những mối quan hệ tốt đẹp chan hoà
giữa người với người. Tính cộng đồng đã trở thành nếp sống truyền thống, chi phối
hành vi ứng xử của mọi người, mọi gia đình. Nó cũng trở thành chuẩn mực đạo đức,

nhân cách mà mọi thành viên trong cộng đồng tuân theo và hướng tới.
8
1.4 Nhà Rông, hồn của làng
Tây Nguyên hùng vó và thơ mộng là rừng, duyên dáng và trữ tình là làng, uy
nghi và kiêu hãnh là nhà rông. Nếu làng ở vùng đồng bằng có Đình thì làng ở vùng
Tây Nguyên có nhà Rông. Nhà Rông là ngôi nhà chung hay ngôi nhà làng của các
dân tộc ở phía bắc Tây Nguyên.
Nhà rông xuất hiện rất nhiều trong tác phẩm văn xuôi viết về Tây Nguyên,
và là nơi diễn ra những sự kiện trọng đại của buôn làng, của đời người.
Nhà rông là nơi hội tụ diện mạo văn hóa Tây Nguyên. Linh thiêng trong việc
dựng nhà và lưu giữ báu vật, nhà rông là nơi thực hành tín ngưỡng. Biểu tượng cho
sự trường tồn của cộng đồng, nhà rông là nơi giữ gìn luật tục. Hội tụ sức mạnh của
làng, nhà rông là nơi truyền khí anh hùng cho trai làng chiến đấu. Trung gian giữa
quá khứ và hiện tại, nhà rông là nơi truyền bá giá trò văn hóa truyền thống. Nhòp
cầu nối giữa hiện tại và tương lai, nhà rông là nơi tiếp nhận những giá trò văn hóa
mới…
1.5 Cồng chiêng- hồn thiêng của núi rừng
Nếu nói nhà rông là hồn của làng thì cồng chiêng là hồn thiêng của núi rừng
Tây Nguyên. Không thể hình dung được con người Tây Nguyên, văn hóa Tây
Nguyên sẽ như thế nào nếu thiếu cồng chiêng. Làm sao có thể tái hiện được “không
khí” Tây Nguyên nếu không nói đến cồng chiêng? Nó là diện mạo văn hóa nổi bật
của từng tộc người và của cả Tây Nguyên.
Người Tây Nguyên thiếu cồng chiêng như cá thiếu nước, cây thiếu rừng, như
sự vui mừng thiếu ché rượu…Có thể nói, âm thanh cồng chiêng đã ăn vào máu thòt
của người Tây Nguyên. Dẫu sự biến đổi văn hóa có mạnh mẽ đến thế nào đi chăng
nữa thì trong tiềm thức của họ, cồng chiêng vẫn như ngọn lửa nhà rông cứ âm ỉ
cháy.
9
1.6 Lửa trong đời sống Tây Nguyên
Làng, nhà rông, cồng chiêng sẽ không có sự sống và sức sống nếu thiếu lửa.

Sự cộng hưởng kỳ diệu giữa ngọn lửa và cồng chiêng giống như sự cộng hưởng kỳ
diệu giữa hùng vó thác nước và oai linh rừng già, giữa đàn và bà và rượu cần Tây
Nguyên trường tồn cùng ngọn lửa, bất khuất với ngọn lửa, thắm tình bên ngọn lửa.
Thiếu lửa và rừng già con người Tây Nguyên sẽ nhạt nhòa sức sống. Ngọn lửa âm ỉ
cháy mãi trong bếp của từng nhà là sự sống hiện diện, bập bùng khi sáng khi tối là
thần linh khi ẩn khi hiện trong những đêm kể chuyện ở nhà rông. Ngọn lửa bập
bùng trên sân nhà rông là trung tâm của những vòng xoan mê đắm và những chế
rượu sóng sánh niềm yêu…
Lửa cháy là sự sống vónh hằng của người Tây Nguyên.
1.7 Bến nước, báu vật của buôn làng
Ở một phương diện nào đó, bến nước đồng nghóa với làng. Người Tây
Nguyên nói làng là những người cùng uống chung một nguồn nước. Xa làng là xa
bến nước, nhớ làng là nhớ bến nước, về làng là về với bến nước, làm lễ Pơthi là để
người ta vónh biệt bến nước…Con suối chảy qua làng hay giọt nước đầu làng là tặng
phẩm của rừng già cho con người, nó được chắt ra từ sự tinh túy của rừng để đem
đến sự sống tốt đẹp cho con người. Từ bến nước, con người Tây Nguyên đã tạo dựng
trong làng một cuộc sống “mát rượi” tình người. Đó là tình yêu lứa đôi nảy nở trên
bến nước mỗi lúc chiều về hay những đêm trăng sáng; đó là những câu hát giao
duyên có tiếng nước làm nhạc đệm. Đó là tình làng được bến nước vỗ về từ thû ấu
thơ và được rửa sạch bụi ẩn của thời gian trong suốt một đời người; đó là những đêm
kể khan mênh mang đêm tối được tiếng suối lanh tanh hòa điệu. Bến nước lặn vào
sâu thẳm tình người.
1.8 Rượu can, chất men của nghóa tình
Đối với người Tây Nguyên, không có gì thú vò hơn là ngồi uống rượu cần bên
đống lửa. Lửa và rượu cần đã trở thành người bạn song hành trong mọi cuộc vui,
10
buồn. Rượu cần là dấu hiệu của sự sống. Trong ngôi nhà rông mà thiếu cảnh thanh
niên tụ họp để uống rượu cần và hát những bài hát cổ xưa thì đấy là nhà rông chết.
Mùi rượu cần đã trở thành một thứ mùi vò đặc trưng làm nên không khí của nhà rông
hay lễ hội. Chất men rượu cần là yếu tố quan trọng trong việc khẳng đònh nét đẹp

văn hóa Tây Nguyên, trong việc làm nên bản sắc Tây Nguyên của các tác phẩm
văn học.
Như dòng suối quanh năm róc rách chảy, rượu cần vẫn mãi mãi nuôi dưỡng
đời sống tinh thần, kết nối tình cảm cộng đồng, làm nồng thêm mối quan hệ của con
người. Rượu cần làm nên vẻ đẹp của cuộc sống núi rừng tưởng chừng như đơn giản
nhưng phía sau nó là cả một nền minh triết kỳ lạ và sâu sắc. Ví như cái giàu sang
của chúng ta là lắm tiền nhiều của, cái giàu sang của người Tây Nguyên là lắm
chiêng nhiều ché. Mà chiêng, ché chỉ phục vụ đời sống tinh thần, còn tiền của của
chúng ta hoàn toàn là vật chất.
1.9 Lễ hội, những sắc màu độc đáo
Có thể nói, không ở đâu, không có dân tộc nào trên đất nước Việt Nam có
được đời sống lễ hội phong phú như các dân tộc ở Tây Nguyên. Lễ hội ở Tây
Nguyên diễn ra quanh năm nhưng tập trung nhất là vào thời gian nghỉ ngơi giữa hai
mùa vụ, người Tây Nguyên gọi là mùa “ăn năm uống tháng”. Các lễ hội được chia
thành hai mảng lớn: lễ hội vòng đời và lễ hội nông nghiệp. Lễ hội vòng đời gồm có
lễ thổi tai, lễ đặt tên, lễ trưởng thành, lễ mừng sức khoẻ, lễ hỏi, lễ cưới, lễ cúng đau
ốm, lễ tang, lễ bỏ mả Lễ hội nông nghiệp gồm có lễ chọn đất làm rẫy, lễ đốt rẫy, lễ
tỉa lúa bắp, lễ mừng cơm mới, lễ mở cửa kho lúa, lễ cầu mưa, lễ cúng tạ ơn Giàng
Không như lễ hội ở vùng núi phía Bắc trong tác phẩm của Tô Hoài in rất đậm
tính giai cấp, lễ hội Tây Nguyên còn mang tính hồn nhiên, giao hòa với trời đất,
thần linh, chưa phải nếm trải mùi cay đắng của sự sang- hèn, giàu- nghèo. Hệ thống
lễ hội ở Tây Nguyên không được phản ánh một cách chi tiết nhất do đặc điểm của
một tác phẩm nghệ thuật. Tuy nhiên, cũng từ những chi tiết có tính điển hình ấy mà
11
người đọc có thể hình dung được đời sống lễ hội và cảm nhận được vẻ đẹp của nó.
Qua một số lễ hội có được, chúng ta thấy hiện lên một lẽ sống cao đẹp, một cuộc
sống hồn nhiên đậm tính nhân văn, một ý thức cộng đồng ngây thơ của những con
người sống vào “thời thơ ấu của nhân loại”.
1.10 Kể khan, đời sống thứ hai của người Tây Nguyên
Người Tây Nguyên tôn vinh anh hùng sử thi vì đó là những người tiêu biểu

cho tất cả những gì đẹp đẽ nhất. Họ bao giờ cũng tự đồng nhất mình với người anh
hùng. Họ tôn vinh anh hùng huyền thoại là để đưa mình lên một tầm cao mới mà
trong thế giới hiện thực không sao có được. Đến với những đêm kể khan bên nhà dài
hay nhà rông là đến với một thế giới lý tưởng, là được tái sáng tạo ra chính mình
trong một vũ trụ thần tiên. Kể khan không hề chỉ là một thứ sinh hoạt văn hóa, mà
còn là một cái gì hơn thế nhiều. Người Tây Nguyên không phải “kể” sử thi. Đơn
giản và sâu xa nhiều, họ “sống” sử thi. Sử thi là đời sống của họ, một đời sống khác,
một đời sống thứ hai, thậm chí nhiều hơn nữa, xa hơn nữa, sâu hơn nữa…lạ lùng và
kỳ diệu. Có thể nói, kể khan là một đời sống kỳ diệu của con người, của rừng già và
màn đêm Tây Nguyên.
12
CHƯƠNG 2
CON NGƯỜI TÂY NGUYÊN
TRONG VĂN XUÔI NGHỆ THUẬT 1945-2000
2. 1 Con người với văn hóa, văn học
Trên bình diện chung, văn hóa và con người khá thống nhất với nhau. Nếu
nói văn hóa là toàn bộ những sáng tạo có giá trò của con người, thì ở đây con người
và văn hóa dường như là một. Con người xuất hiện lúc nào thì văn hóa xuất hiện lúc
ấy. Trong quá trình sống của mình, con người luôn sáng tạo các giá trò văn hóa, và
theo thời gian, văn hóa đã bao trùm lên đời sống con người đến độ khó có thể tách
rời nhau.
Không như văn hóa với con người, con người với văn học có phần dễ nhận
diện hơn. Văn hóa, văn học đều là sản phẩm có ý thức của con người. Cũng như văn
hóa, văn học ra đời nhằm đưa con người lên một bước tiến mới trên hành trình làm
người, để con người được là “người” hơn. Con người vừa là chủ thể sáng tạo thẩm
mỹ vừa là đối tượng khám phá của nghệ thuật. Toàn bộ sự sáng tạo đều hướng tới
mục đích vì con người.
2.2 Vẻ đẹp hình thức của người Tây Nguyên
Con người Tây Nguyên là con người của những thảo nguyên mênh mông, của
những cánh rừng bát ngát, của những ngọn núi vòi vọi, của những thác nước hùng

vó, của những dòng sông con suối trữ tình…Vẻ đẹp thiên nhiên làm nên chất thơ cho
cuộc sống, vẻ đẹp của người phụ nữ làm nên chất men cho cuộc đời. Núi rừng Tây
Nguyên là bài ca bất tận của sự sống. Cô gái Tây Nguyên là âm thanh réo rắt, dìu
dặt trong bài ca ấy. Các cô gái Tây Nguyên là bóng cây Kơnia mát rượi giữa nắng
gió cao nguyên, là những đóa Pơlang tươi thắm giữa buôn làng.
Nếu phụ nữ Tây Nguyên là cây Kơnia, cây Pơ lang thì đàn ông Tây Nguyên
cây Lim, cây Trắc, dù hơi thô mộc nhưng càng chạm vào ta càng thấy sáng. Nhìn
vào người đàn ông Tây Nguyên ta thường hình dung đến những người dũng só Hy
13
Lạp. Các chàng trai Tây Nguyên như ngọn núi, tảng đá rắn chắc và vũng chãi. Họ
mang theo vẻ đẹp của núi rừng Tây Nguyên.
2.3 Con người nhân ái, nghóa tình
Các tác phẩm văn xuôi viết về Tây Nguyên đã đem đến cho người đọc những
cảm nhận về vẻ đẹp hình thức của người Tây Nguyên, đó là một điều cần thiết.
Song, cái quan trọng là thông qua vẻ đẹp hình thức đó, các nhà văn đã khẳng đònh
phẩm chất cao q của con người Tây Nguyên. Do tính cộng đồng cao và sự phân
biệt giàu nghèo, sang hèn chưa lớn lắm nên người Tây Nguyên sẵn sàng đặt quyền
lợi cộng đồng lên trên quyền lợi cá nhân.
Chính tình cảm buôn làng nhân ái là cơ sở để hình thành bản chất tốt đẹp của
con người Tây Nguyên. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ,
những người Cộng sản đã biết khơi dậy bản chất ấy, phát triển thành tình cảm cách
mạng cao đẹp và họ đã góp phần không nhỏ vào thắng lợi chung của dân tộc. Tình
cảm mặn mà, thắm thiết giữa con người với nhau là một nét đẹp nổi bật của buôn
làng Tây Nguyên. Chúng ta ít thấy chuyện hiềm khích nhau, mâu thuẫn nhau của
các thành viên trong làng. Điều này không phải chỉ trong văn học mà ngay cả trong
thực tế đời sống cũng vậy.
2.4 Con người cộng đồng
Con người Tây Nguyên tồn tại không phải với tư cách con người cá nhân mà với tư
cách con người cộng đồng. Họ bò ràng buộc trong mối liên hệ sinh tử với cộng đồng.
Những người có tội, bò loại ra khỏi cộng đồng, tức là bò loại khỏi đời sống. Tính

cộng đồng thể hiện trước hết ở tinh thần vì cộng đồng. Trong chiến đấu, tinh thần ấy
được phát huy cao độ, và đó là một trong những yếu tố quan trọng nhất để họ đứng
vững trước sức mạnh của kẻ thù. Hình ảnh con người cộng đồng không chỉ nổi bật
trong cuộc chiến đấu chống kẻ thù, nó cũng nổi bật trong cuộc sống đời thường
thông qua lao động, đặc biệt là thông qua mùa “ăn năm uống tháng”. Tính cộng
đồng ấy là biểu hiện rõ nhất của sự cộng cảm, cộng mệnh, cộng cư…; tạo nên cho
14
con người Tây Nguyên một sức mạnh lớn lao để vươn tới những điều tốt đẹp mà các
xã hội càng văn minh càng khao khát.
2.5 Con người “im lặng như núi rừng”
Điểm dễ nhận thấy nhất khi tiếp xúc với người Tây Nguyên là họ rất ít nói.
Trước những sự kiện quan trọng họ thường im lặng. Im lặng do đó đã trở thành một
đặc tính nổi bật mà các nhà văn không thể không đề cập đến khi khắc hoạ tính cách
con người Tây Nguyên. .
Núi rừng ngàn đời im lặng, nhưng chỉ cần lắng nghe một chút sẽ thấy được
âm thanh của nó là không bao giờ dứt. Núi rừng chất chứa bao nhiêu điều kỳ diệu
trong một thứ ngôn ngữ đặc biệt, chỉ có những người được sinh ra từ nó mới thấu
hiểu và ứng xử đúng. Người Tây Nguyên im lặng như núi rừng, nhưng chỉ cần lắng
nghe một chút sẽ thấy được những tiếng sóng của tình cảm. Chỉ có những người thật
sự yêu họ mới hiểu. Hiểu để rồi ứng xử đúng với núi rừng tức là ứng xử đúng với
người Tây Nguyên.
2.6 Con người có tư chất nghệ só
Thiên nhiên hoang dã với bao nhiêu bí ẩn kỳ thú như màn sương mỏng phủ
trong tâm hồn con người Tây Nguyên. Con người luôn đứng trong thế chênh vênh
giữa thực và hư, giữa “cô gái rừng” và “cô gái làng”. Sự giằng co, níu kéo giữa hai
thế giới ấy khiến con người không thể chỉ sống với hiện thực mà phải dành thời gian
cho một cuộc sống phi hiện thực, tràn đầy sự lãng mạn. Sự lãng mạn đã làm nên
chất nghệ só. Chất nghệ só ấy thể hiện trước hết ở khả năng âm nhạc. Người Tây
Nguyên có một chất giọng rất khỏe, đặc biệt có một tình yêu âm nhạc mãnh liệt.
Ngoài khả năng âm nhạc, người Tây Nguyên còn có tài điêu khắc. Đến Tây

Nguyên, người ta sẽ ngỡ ngàng trước những bức tượng nhà mồ và tượng ở nhà rông
có hầu khắp các buôn làng.
15
2.7 Con người anh hùng
Từ văn chương cũng như từ thực tế đời sống đã chứng minh dân tộc Tây
Nguyên là dân tộc nghệ só. Từ kho tàng sử thi đồ sộ và từ những tác phẩm văn
chương phản ánh công cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cũng đã chứng
minh rằng, dân tộc Tây Nguyên là một dân tộc anh hùng.
Những nhà văn như Nguyên Ngọc, Vũ Hạnh, Y Điêng, Trung Trung Đỉnh…
không thể đi theo một lối khác. Và cũng nhờ vậy mà các tác phẩm văn xuôi viết về
Tây Nguyên đã khắc họa được không khí của một thời hào hùng. Nó cũng làm nên
một diện mạo Tây Nguyên trong chiến đấu.

16
CHƯƠNG 3
NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN VĂN HÓA VÀ CON NGƯỜI TÂY
NGUYÊN TRONG VĂN XUÔI NGHỆ THUẬT 1945 - 2000
3.1 Không gian nghệ thuật
Không gian nghệ thuật trong tác phẩm văn xuôi viết về Tây Nguyên khá
phong phú, đa dạng. Đó là không gian hiện thực hầu như chiếm lónh: có không gian
rộng lớn của núi rừng, có không gian ấm áp của bếp lửa, có không gian mát lành
của dòng sông con suối, có không gian thắm tình của nhà rông, có không gian nương
rẫy với cuộc sống lao động, không gian chiến trường của cuộc sống chiến đấu…Đó
không gian tâm tưởng xuất hiện với tần số thấp do đặc trưng của tác phẩm hiện
thựcv.v…Dẫu ở khía cạnh nào thì không gian nghệ thuật luôn toát lên đặc trưng văn
hóa, con người Tây Nguyên.
3.2 Thời gian nghệ thuật
Kết hợp với không gian, thời gian nghệ thuật trong văn xuôi viết về Tây
Nguyên giai đoạn 1945-2000 được tổ chức một cách uyển chuyển, được tái hiện một
cách đa dạng: có thời gian tuyến tính, thời gian đảo chiều, có thời gian hiện tại, quá

khứ, tương lai; có thời gian đồng hiện, thời gian nhiều tầng; có thời gian trôi đi chậm
chạp của sự chờ đợi; có thời gian căng thẳng của giây phút hệ trọng v.v…Không gian
và thời gian nghệ thuật trong các tác phẩm văn xuôi viết về Tây Nguyên mang
nhiều giá trò biểu hiện và ý nghóa khác nhau, trong đó yếu tố thể hiện giá trò văn
hóa hóa và tính cách con người Tây Nguyên đã chi phối mạnh mẽ cách tạo dựng
của nhà văn.
3.3 Nghệ thuật xây dựng nhân vật
Văn xuôi Tây Nguyên so với các vùng miền khác đã có được một diện mạo
riêng nhưng chưa phải là một gương mặt nổi bật. Tuy nhiên, các tác giả, đặc biệt là
Nguyên Ngọc, đã xây dựng được những nhân vật có sức sống mạnh mẽ trong lòng
người đọc như Núp, cụ Mết, Tnú, Kpa Kơ Lơng Sự thành công của đời văn Nguyên
17
Ngọc không thể không gắn với những nhân vật này. Những nhân vật của Y Điêng,
Trung Trung Đỉnh, Khuất Quang Thụy…tuy không để lại nhiều ấn tượng trên văn
đàn, nhưng cũng đóng góp không nhỏ trong việc tạo nên diện mạo, bản sắc của con
người và văn hóa Tây Nguyên.
Từ nhân vật có tên đến nhân vật không tên, từ nhân vật chức năng đến nhân
vật tư tưởng, từ miêu tả trực tiếp bằng chuỗi hành động đến gián tiếp bằng lời của
nhân vật người kể chuyện hay nhân vật khác trong truyện, từ những nét cơ bản nhất
đến tính cách đa diện; dù đậm nhạt khác nhau nhưng văn xuôi Tây Nguyên đã để
lại nhiều nhân vật gây ấn tượng mạnh mẽ trong lòng người đọc, bởi họ mang đặc
trưng độc đáo của con người được sinh ra từ núi rừng. Dù chưa phải là một bức tranh
nổi bật, nhưng với nghệ thuật xây dựng nhân vật, văn xuôi Tây Nguyên đã có được
mảng màu riêng, làm nên những thành công nhất đònh.
3.4 Ngôn từ nghệ thuật
3.4.1 Ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp
Để làm nên một “không khí” Tây Nguyên trong tác phẩm của mình, ngoài
không gian, thời gian, nhân vật; ngôn từ nghệ thuật là vấn đề mà các nhà văn quan
tâm hàng đầu. Khó có thể sử dụng cách nói của người Kinh để làm nổi bật đặc điểm
văn hóa và con người các dân tộc Tây Nguyên, vì vậy nhà văn phải dùng chính cách

nói, cách phát âm của người bản đòa.
3.4.2 Các biện pháp tu từ
Trong tác phẩm văn xuôi viết về Tây Nguyên, các biện pháp tu từ được sử
dụng khá phong phú như so sánh, nhân hóa, hoán dụ, ẩn dụ, ngoa dụ Trong có hai
biện pháp tu từ được sử dụng nhiều nhất là so sánh và nhân hóa vì nó phù hợp với
cảm quan của người Tây Nguyên. Con người Tây Nguyên thường nhìn sự vật hiện
tượng theo lối so sánh, nhìn tự nhiên như có hồn vía như con người (quan niệm vạn
vật hữu linh). Do vậy, so sánh và nhân hóa là những phương thức tu từ quen thuộc
được các nhà văn vận dụng khá nhiều trong các tác phẩm.
18
3.4.3 Câu văn
Trong các trang viết của Nguyên Ngọc, Trung trung Đỉnh, kiểu câu ngắn, nhòp điệu
mạnh, dồn dập được sử dụng khá phổ biến. Đây là kiểu câu cần thiết và phù hợp với
trình độ tư duy của người Tây Nguyên. Bên cạnh câu văn ngắn, các nhà văn còn sử
dụng câu văn dài, nhiều tầng bậc. Kiểu câu này phù hợp để miêu tả mạch cảm xúc
mãnh liệt và dồi dào của người Tây Nguyên trước những điều lớn lao kỳ diệu, mang
tầm vóc lòch sử.
3.4.4 Giọng điệu
Văn xuôi Tây Nguyên chia thành hai mảng: mảng viết về chiến tranh và
mảng viết về sinh hoạt đời thường. Các tác phẩm chiến tranh (chủ yếu là của
Nguyên Ngọc) có âm hưởng chung là hào hùng. Trong khi đó, giọng điệu trữ tình là
cơ bản ở các tác phẩm sinh hoạt đời thường.
Cảm hứng ngợi ca đã tạo nên giọng điệu trang trọng, hào hùng, bừng bừng khí thế
tiến công. Chất giọng ấy có khi được biểu hiện ở từng câu từng chữ, có khi được toát
lên từ âm hưởng chung của tác phẩm, của một cuộc đời, một chiến công hay một
khung cảnh thiên nhiên Con người Tây Nguyên rắn rỏi, can trường bao nhiêu trước
kẻ thù thì lại dòu dàng, tha thiết bấy nhiêu trước đồng bào, trước sông núi quê hương
mình. Sự rắn rỏi can trường ấy đã viết nên những khúc ca hào hùng. Sự lãng mạn lại
ngân lên những giai điệu trữ tình sâu lắng. Có thể nói nếu giọng điệu hào hùng là
ngọn lửa đốt cháy tâm can thì giọng trữ tình là dòng suối tưới mát tâm hồn.

KẾT LUẬN
1. Dù là ở phương diện văn học với tính hư cấu rất rõ, dù chưa phản ánh được
toàn bộ đời sống vật chất và tinh thần của người Tây Nguyên, dù số lượng tác giả và
tác phẩm còn khiêm tốn; nhưng những gì mà các tác phẩm đã khái quát, cùng với
thực tế văn hóa ở đây đã chứng minh rằng: đời sống kinh tế không phải lúc nào
cũng tỷ lệ thuận với đời sống văn hóa. Đời sống kinh tế của các dân tộc ở Tây
Nguyên được xếp vào loại nghèo nhất nước; nhưng đời sống văn hóa lại hết sức
19
giàu có, không hề thua kém bất cứ một dân tộc nào trên đất nước Việt Nam. Những
phát hiện khảo cổ học gần đây đã cho thấy rằng Tây Nguyên có một bề dày văn
hóa hàng nghìn năm. Bề dày văn hóa ấy thể hiện trước hết ở kho tàng văn học
truyền miệng với nhiều thể loại, thể hiện ở các loại hình nghệ thuật vật thể và phi
vật thể. Văn học viết Tây Nguyên nói chung, văn xuôi nói riêng được nuôi dưỡng
trong bầu sữa văn hóa dồi dào ấy.
2. Tác phẩm văn xuôi viết về Tây Nguyên dẫu không nhiều về số lượng
nhưng cũng đã phản ánh tương đối đầy đủ diện mạo văn hóa Tây Nguyên. Bằng sự
gắn bó sâu sắc của mình với Tây Nguyên, các tác giả đã vẽ nên một bức tranh văn
hóa đầy màu sắc mới lạ, độc đáo. Nói chung, văn hóa Tây Nguyên không chỉ làm
người đọc ngạc nhiên mà còn giật mình. Giật mình vì nó giúp ta khám phá ra chính
mình, giật mình vì nhận ra nhiều giá trò nhân văn cao đẹp từ nền văn hóa núi rừng,
nhận ra biết bao nhiêu điều tốt đẹp ẩn sâu trong tâm hồn của những con người mộc
mạc như cây rừng… Giật mình để thấy mình vẫn còn nhiều điều khiếm khuyết mà sự
văn minh vật chất đã tạo ra, để thấy rằng những giá trò đích thực mà con người vươn
tới không phải là sự giàu sang vật chất, của lắm tiền nhiều, hạnh phúc không chỉ có
vậy. Văn minh mà chi khi sự văn minh ấy làm thoái hóa lương tri con người. Văn
hóa Tây Nguyên có giá trò thức tỉnh.
3. Tư tưởng chủ đạo của các tác phẩm văn xuôi viết về Tây Nguyên chính là
sự ca ngợi nền văn hóa nhiều sắc màu, ca ngợi con người trung dũng kiên cường
trong chiến đấu, ân tình chủng thủy trong đời thường. Để hiểu rõ hơn vẻ đẹp con
người Tây Nguyên, ngoài việc phản ánh những sinh hoạt văn hóa, các nhà văn đặc

biệt chú ý đến việc khắc họa tính cách con người. Trong hai cuộc kháng chiến
chống Pháp và chống Mỹ, người Tây Nguyên đã cho dân tộc Việt Nam và thế giới
thấy rằng, họ- những con người của rừng- có khả năng chiến đấu để bảo vệ dân tộc
và bảo vệ nền văn hóa đặc sắc ngàn đời của mình. Và cũng thông qua công cuộc
đấu tranh giữ ray, giữ làng, giữ bến nước, giữ mái nhà rông; thông qua cuộc sống lao
20
động và sinh hoạt buôn làng, mọi phẩm chất của người Tây Nguyên được thể hiện
một cách sinh động, cụ thể. Là một sản phẩm đặc biệt của văn hóa, con người Tây
Nguyên hiện lên như là sự kết tinh của núi rừng hùng vó và trữ tình. Những con
người có thân hình chắc nòch như đá núi, có đôi mắt trong veo như nước suối, có tính
cách mộc mạc như cây rừng và hiền như đất bazan…Vẻ đẹp của con người Tây
Nguyên là vẻ đẹp của chất gỗ lim gỗ trắc không cần “nước sơn” mà vẫn luôn lung
linh rạng ngời như gương để mỗi một chúng ta có thể soi vào mà nhận diện mình
một cách đầy đủ hơn.
4. Nội dung của một tác phẩm không thể là nội dung hoàn chỉnh nếu nó thiếu
một hình thức phù hợp. Xem xét giá trò nội dung phải luôn trong mối tương quan tất
yếu của các giá trò nghệ thuật. Để làm nổi bật các giá trò văn hóa và tình cách con
người, để làm sống dậy không khí Tây Nguyên trong những trang viết của mình, các
nhà văn luôn chú ý đến các phương tiện nghệ thuật phù hợp nhất, có vai trò như
những chiếc “đòn bẫy” tích cực cho nội dung.
5. Văn học là thế giới của tình yêu, nỗi buồn và cái đẹp. Sự lắng đọng về
những giá trò thẩm mỹ là điều mà mọi nhà văn hướng đến. Muốn vậy, nhà văn phải
có những xúc cảm mãnh liệt. Ngoài các nhà văn là người bản đòa, các nhà văn khác
đã yêu Tây Nguyên như chính quê hương mình, đã yêu con người Tây Nguyên như
chính những người ruột thòt của mình, đặc biệt là Nguyên Ngọc và Trung Trung
Đỉnh. Chính tình yêu đó mà họ đã làm nên những tác phẩm có sức sống dài lâu
trong lòng độc giả. Những tác phẩm đã góp phần quảng bá và lưu giữ các giá trò văn
hóa cũng như phẩm chất tốt đẹp của con người Tây Nguyên đang có nguy cơ suy
thoái dần trước công cuộc tiến hóa đang diễn ra rầm rộ chưa từng có ở đây. Những
tác phẩm có tính chất nền móng và có giá trò tạo đà cho những bước phát triển của

văn xuôi Tây Nguyên giai đoạn sau. Những tác phẩm đã góp vào dòng sông văn
hóa, văn học Việt Nam một dòng chảy đầy phù sa và giàu sức lắng đọng, để rồi làm
đẹp thêm cho tâm hồn Việt Nam.
21
6. Văn học viết về Tây Nguyên hiện nay đang phát triển mạnh cả văn xuôi
lẫn thơ. Trong những năm gần đây đã xuất hiện nhiều tác phẩm văn chương phản
ánh đời sống Tây Nguyên đương đại rất đáng chú ý. Tìm hiểu toàn bộ văn chương
của Tây Nguyên và văn chương viết về Tây Nguyên là hướng đi tiếp theo của người
nghiên cứu trong thời gian tới.

22

×