Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

TIỂU LUẬN TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP ĐỀ TÀI CHI PHÍ ĐẠI DIỆN THỰC TIỄN VÀ GIẢI PHÁP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (261.59 KB, 24 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP HCM
KHOA SAU ĐẠI HỌC

TIỂU LUẬN TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
ĐỀ TÀI:
CHI PHÍ ĐẠI DIỆN
THỰC TIỄN VÀ GIẢI PHÁP
+ Nhóm thực hiện : Nhóm 1
1/ Trần Viết Lâm
2/ Nguyễn Chí Trung
3/ Nguyễn Tấn Trung
4/ Phạm Nguyên Anh
5/ Võ Thị Mỹ Hạnh
6/ Võ Nguyễn Huỳnh Nam
7/ Nguyễn Chí Thành
8/ Phan Kim Tuyến
+ Lớp : TCDN NGÀY 1 – K20
TP HCM năm 2012
Nhóm 1 – Chi phí đại diện Trang 1/24
MỤC LỤC
oOo
LỜI MỞ ĐẦU
Trang 3
PHẦN I –
TỔNG QUAN VỀ CHI PHÍ ĐẠI DIỆN
1- Khái niệm về người chủ và người đại diện
2- Sự phân định về quyền sỡ hữu và quyền quản lý
3- Chi phí đại diện
Trang 4- 13
PHẦN II –
THỰC TIỂN VỀ CHI PHÍ ĐẠI DIỆN Ở MỘT SỐ CÔNG TY


1- Công ty CoCa Cola
2- Công ty MADOFF
3- Công ty cổ phần Bông Bạch Tuyết
4- Công ty cổ phần Dược Phẩm Viễn Đông
Trang 14- 19
PHẦN III –
GIẢI PHÁP GIẢM THIỂU CHI PHÍ ĐẠI DIỆN
1- Đối với công ty cổ phần (CTCP)
2- Đối với doanh nghiệp nhà nước (DNNN)
Trang 20- 23
PHỤ LỤC THAM KHẢO
Trang 24
Nhóm 1 – Chi phí đại diện Trang 2/24
LỜI MỞ ĐẦU
Trong một nền kinh tế đang phát triển ở trình độ cao đồng thời có nhiều biến động và
phức tạp, quy mô của các doanh nghiệp càng lớn và sự cạnh tranh ngày càng gay gắt, khiến
cho việc điều hành trực tiếp của các chủ doanh nghiệp trở nên không khả thi và thiếu hiệu quả.
Do đó đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải luôn tìm tòi và phát triển một cơ cấu tổ chức hoàn thiện
và hợp lý. Ở đó vai trò của người quản trị là cực kỳ quan trọng và quyết định mức độ tồn tại và
phát triển của doanh nghiệp. Không phải ngẫu nhiên mà trong các doanh nghiệp lớn, sự phân
định giữa quyền sở hữu và quyền quản lý là điều hết sức cần thiết. Có một số nguyên nhân dẫn
tới điều này và tất cả cũng đều nhằm mục đích giúp cho doanh nghiệp phát triển tốt hơn và
nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Việc tối đa hóa lợi nhuận, tối thiểu hóa chi phí, tối thiểu hóa rủi ro là mục tiêu của bất
cứ doanh nghiệp nào cũng hướng tới. Nói về tối thiểu hóa chi phí, có nhiều loại chi phí khác
nhau, bài viết này muốn đề cập đến vấn đề chi phí đại diện - một loại chi phí không nhìn thấy
được nhưng làm cho doanh nghiệp cũng gặp phải nhiều khó khăn. Trong điều kiện kinh tế như
hiện nay thì các doanh nghiệp phải gánh chịu chi phí đại diện ở mức độ cao, việc khắc phục
hay làm giảm chi phí đại diện đòi hỏi sự nghiên cứu kĩ lưỡng.
Chi phí đại diện là một tồn tại khách quan mà các nhà đầu tư không dễ để kiểm soát

được, bởi trên thực tế luôn tồn tại mâu thuẫn trong mục tiêu giữa người chủ sỡ hữu và người
quản lý cùng với những thông tin bất cân xứng. Chính những điều này mà nhà quản lý có cơ
hội để thực hiện các hành vi gây ảnh hưởng đến lợi ích của nhà đầu tư.
Do đó, trong phạm vi bài tiểu luận này phác họa những vấn đề cơ bản về chi phí đại
diện: khái niệm, đo lường, nguyên nhân phát sinh và ảnh hưởng của nó đến các doanh nghiệp
như thế nào. Từ đó, đưa ra các giải pháp nhằm giảm thiểu chi phí ấy đến mức thấp nhất.
Trong điều kiện hạn chế về thời gian và rút gọn trong phạm vi một tiểu luận, bài viết
chắc rằng có nhiều chỗ còn hạn chế, rất mong được sự góp ý của giáo viên hướng dẫn và các
bạn đề bài viết được hoàn chỉnh hơn, xin chân thành cảm ơn.
Nhóm 1 – Chi phí đại diện Trang 3/24
PHẦN I
TỔNG QUAN VỀ CHI PHÍ ĐẠI DIỆN
1. KHÁI NIỆM VỀ NGƯỜI CHỦ VÀ NGƯỜI ĐẠI DIỆN:
1.1 Người chủ: Là chủ sở hữu các giá trị tài sản của doanh nghiệp có quyền sử dụng và sở hữu
tài sản.
Đối với doanh nghiệp cổ phần, người chủ là các cổ đông. Các cổ đông sẽ yêu cầu các
nhà quản lý làm sao để gia tăng giá trị doanh nghiệp. Khi các cổ đông khuyến khích các nhà
quản lý nổ lực làm việc vì quyền lợi của cổ đông và như vậy các nhà quản lý cấp cao lại phải
tiếp tục suy nghĩ cần những biện pháp gì để động viên khuyến khích mọi người khác trong
doanh nghiệp cùng nổ lực làm việc. Trong trường hợp này, nhà quản trị cấp cao sẽ là người chủ
và các nhà quản trị cấp thấp hơn và tất cả những nhân viên khác sẽ là người đại diện. Khi các
nhà đầu tư tiến hành đầu tư vào doanh nghiệp, họ sẽ trở thành người chủ của doanh nghiệp.
Đối với doanh nghiệp nhà nước, có thể xem chính phủ chính là đại diện chủ sở hữu toàn
dân. Do đó, người dân sẽ là chủ sở hữu.
1.2 Người đại diện: Là người điều hành quản lý doanh nghiệp của mình theo hướng hiệu quả
nhất nhưng vẫn đảm bảo mục tiêu ban đầu của các chủ sở hữu. Nhà quản lý không những điều
hành công việc ở tầm vĩ mô mà còn phải thường xuyên tiếp nhận những thông tin phản hồi từ
phía nhân viên. Nhà quản lý phải làm sao thể hiện được năng lực quản lý và điều hành nhân
viên.
Nhà quản lý là người đại diện cho các cổ đông (người chủ) trong các doanh nghiệp cổ

phần. Còn trong các doanh nghiệp nhà nước, Chính phủ là đại diện chủ sở hữu toàn dân, mà
chính phủ lại là một thể chế có những cá nhân, tập thể được chính phủ giao nhiệm vụ thực hiện
việc quản lý vốn nhà nước trong các doanh nghiệp.
* Trong thực tế quản lý các doanh nghiệp có thể xảy ra 2 trường hợp sau:
Người chủ là người quản lý: Người chủ sẽ là người trực tiếp điều hành mọi hoạt động
của doanh nghiệp và đưa doanh nghiệp thu được lợi nhuận tối đa vì mục tiêu lợi nhuận đã
được đồng nhất giữa người chủ và người đại diện.
Nhóm 1 – Chi phí đại diện Trang 4/24
Người chủ không là người quản lý: Người chủ sở hữu là các cổ đông nắm giữ các tài
sản thụ động (cổ phiếu), không nắm rõ hoạt động kinh doanh, không có đủ động lực và thời
gian để theo dõi hoạt động của doanh nghiệp và khó có thể can thiệp được vào hoạt động của
doanh nghiệp. Lúc này, người chủ có thể thuê người quản lý, như vậy trong doanh nghiệp cổ
phần Ban giám đốc có thể không phải là cổ đông của doanh nghiệp. Những người chủ là những
cổ đông ủy thác giao phó trách nhiệm, quyền điều hành của doanh nghiệp cho Hội Đồng Quản
Trị được bầu ra, là những nhà quản lý cấp cao sẽ bổ nhiệm những nhà quản lý cấp dưới và
nhân viên.
2. SỰ PHÂN ĐỊNH QUYỀN SỠ HỮU VÀ QUYỀN QUẢN LÝ:
2.1 Sự cần thiết của việc phân định quyền sở hữu và quyền quản lý:
+ Thứ nhất, các doanh nghiệp lớn thường có thể có hàng trăm cổ đông, do vậy không
cách nào thoả mãn việc tất cả các cổ đông cùng tham gia quản lý.
+ Thứ hai, đôi khi việc điều hành trực tiếp của các chủ doanh nghiệp trở nên thiếu khả thi
và không hiệu quả. Việc điều hành những doanh nghiệp có quy mô lớn và phức tạp đòi hỏi
những kỹ năng phẩm chất mà không phải nhà đầu tư nào cũng có được. Thực tế đó dẫn tới sự
phân định giữa quyền sỡ hữu và quyền quản lý. Những người có vốn nhưng không có khả năng
quản lý đầu tư vào các doanh nghiệp - trở thành ông chủ. Các ông chủ này sẽ thuê những
chuyên gia có đủ năng lực đến điều hành doanh nghiệp của mình. Những người này có chuyên
môn (và thường có kinh nghiệm về lĩnh vực mà họ đảm nhận) nên sẽ được người chủ giao
quyền quản lý và trở thành người đại diện. Từ đây, phát sinh quan hệ giữa người chủ và người
đại diện.
+ Thứ ba, việc phân định giữa quyền sở hữu và quyền quản lý cho phép chia nhỏ quyền

sở hữu theo những phần vốn góp bằng nhau và từ đó sự thay đổi chuyển nhượng quyền sở hữu
sẽ không gây phiền phức đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Chính vì thế, việc
doanh nghiệp thuê những người quản lý chuyên nghiệp để điều hành doanh nghiệp của mình
theo hướng hiệu quả nhất nhưng vẫn đảm bảo mục tiêu ban đầu của các chủ sở hữu.
2.2 Hậu quả của sự phân định quyền sở hữu và quyền quản lý:
Sự phân định giữa quyền sở hữu và quyền quản lý cũng làm nảy sinh những nguy cơ
khiến cho hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp không ở mức tối ưu, gây thiệt hại cho các nhà
đầu tư; đó là khi mục tiêu của các chủ sở hữu và người quản lý (hay người đại diện) không
Nhóm 1 – Chi phí đại diện Trang 5/24
giống nhau. Trong mối quan hệ giữa nhà đầu tư và nhà quản lý, cả hai đều muốn tối đa hóa lợi
nhuận của mình, nhhà đầu tư muốn tối đa hóa lợi ích của mình thông qua việc tăng giá trị
doanh nghiệp, còn lợi ích của nhà quản lý thường gắn với mức thu nhập nhận được.
3. CHI PHÍ ĐẠI DIỆN :
3.1 Khái niệm và đo lường:
3.1.1 Khái niệm:
Chi phí đại diện (agency cost): là loại chi phí phát sinh khi một tổ chức gặp phải vấn đề
về sự thiếu đồng thuận giữa mục tiêu của người sở hữu và người quản lý và vấn đề thông tin
bất cân xứng. Ngoài ra, cũng có thể nói chi phí đại diện là thiệt hại khi nhà quản lý không làm
cố gắng tối đa hóa giá trị doanh nghiệp.
Vậy chi phí đại diện xuất hiện khi:
(1) Các nhà quản lý không cố gắng thực hiện nhiệm vụ tối đa hoá giá trị doanh nghiệp.
(2) Các cổ đông sẽ gánh chịu phí tổn để kiểm soát ban quản lý và do đó ảnh hưởng đến
công việc của họ.
3.1.2 Đo lường chi phí đại diện:
• Chi phí theo dõi bởi chủ sở hữu (M): Chi phí giám sát là những chi phí do người chủ trả
để đo lường, giám sát và kiểm tra hoạt động của người đại diện. Có thể gồm các chi phí cho
hoạt động kiểm tra giám sát, chi phí ký kết hợp đồng bồi hoàn và cuối cùng là chi phí sa thải
đối với người đại diện
• Chi phí ràng buộc bởi người đại diện (B): là những chi phí để đảm bảo rằng người quản
lý không thực hiện một số hành động nhất định mà làm tổn hại đến người chủ sở hữu hoặc để

chắc chắn rằng người chủ sở hữu sẽ được bồi thường nếu người quản lý hành động như vậy.
• Chi phí mất mát phụ trội (R): Bất chấp việc giám sát và sự ràng buộc, lợi ích của người
đại diện và cổ đông vẫn không chắc chắn hoàn toàn đồng nhất. Vì vậy, vẫn có thiệt hại do vấn
đề người đại diện phát sinh từ những mâu thuẫn lợi ích. Những thiệt hại đó được gọi là mất
mát phụ trội.
 Vậy chi phí đại diện sẽ = (M) + (B) + (R)
Tức: Tổng chi phí theo dõi, ràng buộc, và mất mát phụ trội được gọi là chi phí đại diện
vì chúng xuất phát từ các mối quan hệ giữa người chủ và người quản lý.
Nhóm 1 – Chi phí đại diện Trang 6/24
3.2 Nguyên nhân làm phát sinh chi phí đại diện:
Chi phí đại diện xuất phát từ nhiều nguyên nhân nhưng nhìn chung có hai nguyên nhân
chính là:
3.2.1 Mâu thuẫn về lợi ích:
• Mâu thuẫn giữa các cổ đông và người quản lý:
Đây được xem là loại mâu thuẫn cơ bản nhất do sự phân định giữa quyền sở hữu và
quyền quản lý trong mô hình doanh nghiệp hiện đại.
Đứng trên phương diện bản năng mà nói, con người luôn có xu hướng tối đa hóa lợi ích
của bản thân. Chủ sở hữu và người quản lý doanh nghiệp cũng không phải là ngoại lệ; tuy
nhiên, cách thức mà họ thực hiện để đạt được lợi ích kỳ vọng của mình lại hoàn toàn khác
nhau. Nếu như lợi ích của chủ sở hữu có thể đạt được thông qua việc tối đa hóa giá trị doanh
nghiệp, thì lợi ích của người quản lý có mối liên hệ chặt chẽ với thu nhập nhận được. Vấn đề ở
đây là tối đa hóa giá trị doanh nghiệp thường mang tính tầm nhìn trung và dài hạn, trong khi
thu nhập mà nhà quản lý nhận được lại mang tính ngắn hạn, và trong nhiều trường hợp, hai
điều này mâu thuẫn với nhau. Điều này đã dẫn đến việc nhà quản lý hành động dựa trên lợi ích
cá nhân và gây tổn hại đến lợi ích của chủ sở hữu. Ví dụ như họ có thể trực tiếp quyết định hay
ngụy tạo ra các lý do khiến cho các ông chủ không thực hiện đầu tư vào những dự án có tỷ suất
sinh lợi cao vì tâm lý e ngại rủi ro, hoặc quyết định đầu tư vào những dự án không đem lại lợi
nhuận tối ưu cho doanh nghiệp nhưng lại đem lại lợi nhuận cho họ, hay thậm chí với những
thông tin và quyền lực có được từ việc điều hành doanh nghiệp, họ có thể giúp ví tiền của thân
nhân họ nhiều thêm mà không cần quan tâm đến lợi nhuận hay những hậu quả mà doanh

nghiệp sẽ phải gánh chịu.
Ngoài ra cũng còn nhiều yếu tố khác từ người quản lý tác động đến công việc của họ
như các mối quan hệ làm ăn riêng, quan hệ bạn bè… ví dụ nhà quản lý có thể chọn đối tác là
doanh nghiệp của bạn học cung cấp hàng hóa cho doanh nghiệp mình thay vì một đối tác khác
có năng lực cao hơn. Cũng có thể người quản lý đang nhắm đến vị trí làm việc tốt hơn ở đối
thủ của doanh nghiệp hiện tại họ có thể hành động gây thiệt hại cho doanh nghiệp.
Một nhân tố khác cũng gây ảnh hưởng lớn đến người quản lý của doanh nghiệp đó là
cuộc sống riêng tư, anh ta không thể làm việc như mong muốn của chủ doanh nghiệp nếu phải
lo lắng nhiều về các mâu thuẫn trong gia đình…
Nhóm 1 – Chi phí đại diện Trang 7/24
• Mâu thuẫn giữa các chủ nợ và các cổ đông:
Bên cạnh mâu thuẫn đại diện giữa các cổ đông và người quản lý, mâu thuẫn đại diện thứ
hai liên quan đến doanh nghiệp cổ phần là giữa các chủ nợ và các cổ đông. Lúc này, các cổ
đông lại đóng vai trò người đại diện đối với các chủ nợ. Những chủ nợ cho doanh nghiệp vay
với mục đích là để chủ sở hữu doanh nghiệp (cổ đông) đại diện họ đầu tư và đem lại lợi ích
cho cả hai. Quyết định cho vay này dựa trên cơ sở việc đáp ứng được một số yêu cầu từ phía
doanh nghiệp, đại diện là các cổ đông như: mức độ hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp, tỷ suất sinh lợi của dự án đầu tư, khả năng gia tăng lợi nhuận từ hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong tương lai, khả năng trả nợ,… Ngược lại, các
cổ đông vay tiền để có thể thực hiện đầu tư vào các dự án nhằm mang lại lợi ích tối đa cho
doanh nghiệp mình. Khi quyết định cho vay, các chủ nợ của doanh nghiệp quan tâm đến phần
thu nhập của họ dưới dạng lãi suất cho vay cũng như tài sản của doanh nghiệp trong trường
hợp phá sản. Trong khi đó, các cổ đông lại nắm quyền kiểm soát những quyết định điều hành
ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lợi của dòng tiền và những rủi ro liên quan (thông qua người điều
hành doanh nghiệp). Các chủ nợ cho doanh nghiệp vay tiền với lãi suất cho vay phụ thuộc vào
mức độ rủi ro của tài sản, tỷ lệ nợ trên vốn cổ phần trong cấu trúc vốn của doanh nghiệp, cũng
như những kì vọng về những thay đổi trong mức độ rủi ro của 2 biến này. Còn các cổ đông,
thông qua các nhà điều hành, mong muốn doanh nghiệp mình thực hiện các dự án có độ rủi ro
cao hơn nhằm đạt tỉ suất sinh lợi cao hơn. Nếu dự án đầu tư vốn đầy rủi ro này thành công, tất
cả lợi nhuận sẽ thuộc về các cổ đông của doanh nghiệp, bởi vì lợi nhuận của người cho vay là

cố định ở mức lãi suất tương ứng rủi ro thấp ban đầu. Tuy nhiên, nếu dự án thất bại, các chủ nợ
buộc phải chia sẻ những thiệt hại, bị trì hoãn việc chi trả nợ gốc và lãi suất, hoặc thậm chí mất
cả số tiền đã cho vay.
• Mâu thuẫn giữa người quản lý và nhân viên:
Ở đây bao gồm cả mối quan hệ giữa quản lý cấp cao và quản lý dưới quyền, giữa các
nhà quản lý cùng cấp. Bao gồm các hành động chứng tỏ quyền lực, tranh giành lợi ích giữa các
nhà quản lý, các nhóm nhà quản lý mà chúng ta có thể thấy ở bất cứ một doanh nghiệp nào, đặt
biệt là khối doanh nghiệp nhà nước thường xảy ra tình trạng chia bè phái tạo mâu thuẫn trong
nội bộ doanh nghiệp và đương nhiên sự tranh giành như thế tất yếu sẽ gây thiệt hại không
Nhóm 1 – Chi phí đại diện Trang 8/24
mong muốn cho chủ doanh nghiệp.
• Mâu thuẫn giữa các nhóm cổ đông:
Cũng tương tự như nhân tố phát sinh trong mối quan hệ giữa nhà quản lý và nhân viên.
Giữa các nhóm cổ đông đôi khi cũng xảy ra mâu thuẫn trong việc chọn lựa dự án đầu tư,
phương án tài trợ, phương thức chia cổ tức, bổ nhiệm người quản lý… mà việc thu xếp những
xung đột như thế có thể gây những tốn kém lớn.
3.2.2 Thông tin bất cân xứng:
• Khái niệm:
Thông tin bất cân xứng xảy ra khi một bên giao dịch có ít thông tin hơn bên đối tác hoặc
có thông tin nhưng thông tin không chính xác. Điều này khiến cho bên có ít thông tin hơn có
những quyết định không chính xác khi thực hiện giao dịch đồng thời bên có nhiều thông tin
hơn cũng sẽ có nhiều hành vi gây bất lợi cho bên kia khi thực hiện nghĩa vụ giao dịch. Hai
hành vi phổ biến nhất do thông tin bất cân xứng gây ra là lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo
đức. Lựa chọn đối nghịch là kết quả của thông tin bị che đậy, nó xảy ra trước khi thực hiện
giao dịch mà bên có nhiều thông tin có thể gây ra tổn hại cho bên có ít thông tin hơn. Rủi ro
đạo đức hay còn gọi là tâm lý ý lại là kết quả của hành vi bị che đậy và xuất hiện sau khi ký kết
hợp đồng, nó nảy sinh khi bên có ưu thế thông tin hiểu được thông tin bất đối xứng giữa các
bên giao dịch và hình thành động cơ hành động theo hướng làm lợi cho bản thân bất kể hành
động đó có thể làm hại cho bên kém ưu thế thông tin.
• Ảnh hưởng của vấn đề thông tin bất cân xứng:

Chính sự phân định giữa quyền sở hữu và quyền quản lý đã gây nên một vấn đề bất cân
xứng thông tin giữa các nhà quản lý và chủ sở hữu doanh nghiệp. Các cổ đông không nắm rõ
cấu trúc vốn của doanh nghiệp, các chiến lược kinh doanh hay các cơ hội kinh doanh như nhà
quản lý. Chính vì vậy, các nhà quản lý có thể lựa chọn những dự án không vì mục đích tối đa
hoá lợi nhuận. Họ sẽ lựa chọn những dự án có tỉ suất sinh lợi thấp và mức độ an toàn cao để
giữ vững chức vị của mình. Họ sẽ không đầu tư nguồn lực vào những dự án có khả năng sinh
lợi cao trong tương lai vì làm như vậy sẽ ảnh hưởng đến lợi nhuận trong ngắn hạn làm ảnh
hưởng đến uy tín cũng như thu nhập thực tế của họ. Họ sẵn sàng làm điều đó mà không sợ bị
trừng phạt vì họ là những người trực tiếp điều hành doanh nghiệp nên có những thông tin mà
nhà đầu tư không được biết hoặc biết nhưng không hiểu đầy đủ. Các cổ đông chỉ biết được kết
Nhóm 1 – Chi phí đại diện Trang 9/24
quả hoạt động kinh doanh dựa trên những báo cáo kế toán như: bảng cân đối kế toán, báo cáo
kết quả hoạt động kinh doanh…Những báo cáo này dễ dàng được thay đổi bằng các bút toán
kế toán để chuyển lỗ thành lãi, dòng tiền âm thành dòng tiền dương….nhằm đạt được mức lợi
nhuận kế hoạch. Sự bất cân xứng thông tin không chỉ khiến cho các nhà quản trị che giấu kết
quả hoạt động kinh doanh thật sự, không vì mục đích tối đa hoá giá trị doanh nghiệp mà đôi
khi vì rủi ro đạo đức mà các nhà quản trị có thể chiếm dụng tài sản của doanh nghiệp vì mục
đích làm giàu cá nhân. Họ có thể dùng danh nghĩa của doanh nghiệp để vay nợ và dùng số tiền
này vào việc tiêu xài của cá nhân…. Và hậu quả là doanh nghiệp không được tối đa hoá giá trị,
các nhà đầu tư phải gánh chịu tổn thất này do ban giám đốc gây ra.
Ngoài ra thông tin bất cân xứng còn thể hiện ở chổ một doanh nghiệp thì có nhiều cấp
quản lý, thông tin từ cấp trên truyền đạt đến cấp dưới nhiều khi không chính xác, do đó mục
tiêu của quản lý cấp thấp không còn đúng với mục tiêu của quản lý cấp cao đề ra. Trường hợp
khác, nhà quản lý cố tình đi sai mục tiêu nhằm chèn ép các chủ thể có liên quan còn lại bằng
cách che giấu hay sai lệch thông tin, và vì điều này bên thứ hai đã không nhận ra đã phải chịu
một tổn thất nặng nề.
4. CÁC TÁC ĐỘNG CỦA CHI PHÍ ĐẠI DIỆN:
Vấn đề đại diện tồn tại trong tất cả các tổ chức, ở các trường đại học, ở các doanh
nghiệp, các hợp tác xã, các tổ chức cơ quan thuộc chính phủ, trong các hiệp hội, và trong các
mối quan hệ đại diện thông thường như là mối quan hệ trong nghệ thuật hay trong lĩnh vực địa

ốc. Sự tồn tại của vấn đề đại diện sẽ dẫn đến việc phát sinh và gánh chịu chi phí đại diện của cả
người chủ lẫn người đại diện, hay nói chính xác hơn là của cả hai bên chủ thể của mối quan hệ
đại diện. Ở mức độ quản lý trong doanh nghiệp cổ phần hay doanh nghiệp nhà nước, tác động
của loại chi phí này là rất rõ rệt và gây ảnh hưởng cả tích cực cũng như tiêu cực đến các mặt
hoạt động của doanh nghiệp.
4.1 Các tác động tích cực:
• Thứ nhất, sự tồn tại chi phí đại diện trong quản trị doanh nghiệp cho thấy một cách trực
quan sự phát triển của doanh nghiệp ở mức độ quy mô cũng như sự chuyên nghiệp trong quản
lý điều hành. Một doanh nghiệp với quy mô lớn, số lượng cổ đông từ 2 người trở lên sẽ cần có
một giám đốc điều hành, người này (dù là cổ đông hay không là cổ đông của doanh nghiệp)
với kiến thức chuyên môn về quản lý doanh nghiệp và khả năng của mình thay mặt cho các cổ
Nhóm 1 – Chi phí đại diện Trang 10/24
đông còn lại ra các quyết định điều hành nhằm mang lại lợi nhuận tối đa cho doanh nghiệp.
Đại hội cổ đông và Hội đồng quản trị khi đó sẽ giám sát những hoạt động và những quyết định
của người giám đốc này để đảm bảo những gì anh ta làm là vì lợi ích của các cổ đông.
• Thứ hai, chi phí đại diện là loại chi phí để duy trì một mối quan hệ đại diện hiệu quả, vì
vậy chi phí này cũng được xem như là chi phí quản lý doanh nghiệp. Mặt khác, sự tồn tại của
chi phí đại diện trong quản trị doanh nghiệp cho thấy một thị trường lao động hoạt động hiệu
quả và chuyên nghiệp, trong đó có bộ phận lao động đặc biệt là các nhà quản lý mang tính
chuyên nghiệp cao. Nếu chọn được một quản lý giỏi, doanh nghiệp sẽ phát triển tốt, thu được
lợi nhuận cao, mở rộng thị trường Người quản lý giỏi như một thuyền trưởng giàu kinh
nghiệm sẽ biết cách lèo lái “con tàu doanh nghiệp” trên biển cả thương trường đầy biến động.
Nhờ thuê được quản lý giỏi, người chủ doanh nghiệp sẽ cất được gánh nặng lo âu do mình
không có điều kiện thời gian, tâm trí, sức lực dành cho doanh nghiệp. Việc thuê được giám đốc
điều hành doanh nghiệp giỏi cho phép nhà đầu tư tập trung thời gian, tâm trí và năng lực cho
các vấn đề dài hạn, lớn lao mà họ ưa thích, cũng như tạo điều kiện cho họ trở nên xông xáo, đa
dạng hóa và vươn bàn tay kinh doanh của mình dài, rộng, mạnh mẽ hơn trên thị trường trong
nước và quốc tế.
• Thứ ba, nếu chi phí đại diện được quản lý tốt, một đồng chi phí đại diện bỏ ra mang lại
ít nhất một đồng lợi nhuận từ mối quan hệ đại diện cho doanh nghiệp, thì điều này có nghĩa là

chi phí đại diện cũng như các loại chi phí quản lý điều hành doanh nghiệp khác sẽ giúp doanh
nghiệp hoạt động có hiệu quả, sản xuất kinh doanh có lợi nhuận cao, đem lại lợi ích tối đa cho
các cổ đông. Điều này thoạt nghe có vẻ vô lý, vì nguồn gốc phát sinh chi phí đại diện chính là
sự mâu thuẫn lợi ích với các cổ đông của người đại diện, tuy nhiên, nếu phân tích kỹ hơn ta có
thể thấy điều này hoàn toàn hợp lý và phù hợp với mục đích ra đời của loại chi phí này.
Để hạn chế vấn đề đại diện, các cổ đông chấp nhận trả chi phí. Như đã phân tích ở mục
3, các chi phí mà cổ đông phải trả bao gồm chi phí giám sát hoạt động của nhà quản lý, chi phí
ràng buộc trách nhiệm và quyền lợi của người đại diện với mục tiêu tối đa lợi nhuận cho doanh
nghiệp và kể cả các mất mát phụ trội. Việc chấp nhận chi phí đại diện nếu làm gia tăng hiệu
quả hoạt động của doanh nghiệp so với khi không có hợp đồng đại diện thì có nghĩa là doanh
nghiệp đã hưởng lợi nhiều hơn khi chấp nhận sự tồn tại của chi phí đại diện.
Nhóm 1 – Chi phí đại diện Trang 11/24
4.2 Các tác động tiêu cực:
Bên cạnh các mặt tích cực, chi phí đại diện cũng gây ra các tác động ngược chiều.
• Tác động ngược chiều thứ nhất và rõ ràng nhất là làm gia tăng chi phí quản lý
trong doanh nghiệp. Các loại chi phí giám sát, chi phí ràng buộc để đảm bảo tính hiệu quả của
hợp đồng đại diện và các mất mát phụ trội phát sinh do vấn đề đại diện được xem như chi phí
quản lý, và nếu những lợi ích đem lại từ hợp đồng đại diện không đủ để bù đắp những chi phí
này thì xem như doanh nghiệp đã hoạt động không hiệu quả trong vấn đề đại diện. Trong
trường hợp này người quản lý điều hành doanh nghiệp được thuê không những không giúp
doanh nghiệp gia tăng hiệu quả hoạt động mà còn làm ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh
chung của toàn doanh nghiệp.
• Thứ hai, sự tồn tại của bộ phận kiểm tra, giám sát và đưa ra các ràng buộc đối
với hoạt động của người đại diện khiến cho bộ máy hoạt động của doanh nghiệp thêm cồng
kềnh, nhiều tầng nhiều lớp hơn, hạn chế sự sáng tạo và tính quyết đoán, những yếu tố rất cần
thiết mang lại hiệu quả cho công việc của một người điều hành.
• Thứ ba, là sự xuất hiện của tình trạng lạm dụng quyền lực quản lý của ban điều
hành doanh nghiệp. Tính trách nhiệm của các giám đốc, tổng giám đốc điều hành là cực kỳ hạn
chế và không được thực hiện kịp thời, bên cạnh đó, những người trực tiếp giữ cổ phiếu – các
cổ đông - xét về góc độ cá nhân không có vai trò quyết định vì hầu như họ không có quyền

hành gì và cũng không có khả năng kiểm soát ban điều hành doanh nghiệp. Kết quả là sự phân
định ngày càng lớn giữa các cổ đông - người chủ doanh nghiệp và ban quản lý doanh nghiệp –
người đại diện, kéo theo là tình trạng lạm dụng quyền lực trong doanh nghiệp làm xói mòn cấu
trúc của doanh nghiệp. Chỉ khi cổ đông có thể đoàn kết một cách thực sự để đưa ra những
chính sách ràng buộc hiệu quả thì ban điều hành doanh nghiệp mới bị buộc phải có trách
nhiệm. Điều này hiếm khi xảy ra trừ khi có khủng hoảng trong doanh nghiệp, khi mà thiệt hại
đã xảy ra.
5. NÊN GIẢI QUYẾT CHI PHÍ ĐẠI DIỆN NHƯ THẾ NÀO?
Sẽ không có phát sinh chi phí đại diện nếu như các cổ đông đồng thời cũng là nhà quản
lý. Đây cũng chính là thuận lợi của loại hình của doanh nghiệp tư nhân: người chủ và người
quản lý không có mâu thuẫn về lợi ích.
Nhóm 1 – Chi phí đại diện Trang 12/24
Tuy nhiên đối với các doanh nghiệp mà có sự phân định giữa quyền sỡ hữu và quyền
quản lý và thông tin bất cân xứng thì chi phí đại diện tất yếu sẽ tồn tại. Vấn đề người chủ -
người đại diện sẽ dễ dàng được giải quyết nếu mọi người đều nhận được những thông tin
ngang bằng nhau. Nhưng đây là điều hiếm có trong lĩnh vực tài chính. Các nhà quản lý, các cổ
đông và các chủ nợ có thể có những thông tin rất khác nhau về giá trị của các tài sản thực hoặc
các tài sản chính của doanh nghiệp và điều này có thể tồn tại trong nhiều năm trước khi được
phát hiện ra. Do đó chi phí đại diện vẫn luôn tồn tại và chúng ta không thể triệt tiêu nó hoàn
toàn mà chỉ hướng tới mục tiêu giảm thiểu và kiểm soát nó ở một mức độ cho phép, sao cho
việc kiểm soát ấy xóa bỏ được những nguy cơ xấu cho doanh nghiệp.
Nhóm 1 – Chi phí đại diện Trang 13/24
PHẦN II
THỰC TIỂN VỀ CHI PHÍ ĐẠI DIỆN Ở MỘT SỐ CÔNG TY
1- CÔNG TY

COCA – COLA
Vào khoảng những năm 1994-1996, công ty Coca Cola khi mới thâm nhập thị
trường Việt Nam công ty phải tồn tại dưới hình thức là công ty liên doanh, do thời kì đó
chính phủ nước ta chưa cho phép thành lập công ty có 100% vốn nước ngòai nên có 30% là

vốn của doanh nghiệp Việt Nam, 70% là của tập đoàn công ty mẹ bên Mỹ. Trong trường hợp
này ta có thể xem công ty Việt Nam đóng vai trò là chủ nợ đầu tư vào công ty liên doanh,
công ty coca cola mỹ là chủ sở hữu.
Với mục tiêu biến công ty liên doanh trên thành công ty 100% vốn nước ngòai,
công ty Coca Cola Mỹ đã cố tình điều hành công ty liên doanh làm ăn thua lỗ trong thời
gian dài, vì tiềm lực tài chính hạn hẹp công ty Việt Nam không thể tiếp tục đầu tư. Mặt khác
với tình hình làm ăn thua lỗ kéo dài đã làm giá trị công ty liên doanh sụt giàm nghiêm trọng,
trong tình hình đó công ty Việt Nam phải chấp nhận bán lại cổ phần của mình cho công ty
coca cola mỹ với giá rất thấp so với khỏan đầu tư ban đầu mà công ty Việt Nam đã bỏ ra
đầu tư. Bằng chiến lược kinh doanh như vậy, công ty coca cola mỹ đã chiếm đoạt tài sản
của chủ nợ là công ty Việt Nam. Công ty Việt Nam phải gánh chịu thiệt hại. Đây cũng là
một hình thức của chi phí đại diện. Nguyên nhân xuất hiện chi phí đại diện ở đây là do mâu
thuẫn mục tiêu giữa công ty Coca Cola Mỹ và phíaViệt Nam.
Khi xâm nhập thị trường Việt Nam, Coca Cola mong muốn tối đa hóa lợi nhuận cho
chính mình nên muốn một mình tự chủ kinh doanh, thành lập công ty 100% vốn hoàn toàn
của Mỹ tại Việt Nam trong khi phía Việt Nam luật pháp tại thời điểm đó chưa cho phép
thành lập công ty 100% vốn nước ngoài. Do không muốn từ bỏ một thị trường đầy tiềm năng
như Việt Nam nên Mỹ đành đồng ý thành lập công ty liên doanh với Việt Nam rồi sau đó âm
thầm thực hiện chiến lược (âm mưu) biến liên doanh thành công ty 100% vốn của Mỹ như kế
hoạch đã nói ở trên.
2 - CÔNG TY MADOFF
Madoff sáng lập công ty đầu tư chứng khoán Bernard L. Madoff năm 1960. Công ty
Nhóm 1 – Chi phí đại diện Trang 14/24
của ông ta hoạt động theo hình thức tư vấn đầu tư, và điều hành các quỹ đầu tư với tổng số
tài sản quản lý lên tới 17 tỉ USD. Ông là một trong những sáng lập viên của sàn Nasdaq và
là chủ tịch sàn này từ những năm 1990.
Cho đến năm 2001, công ty của ông vẫn là một trong 3 nhà tạo lập thị trường lớn nhất
trên sàn Nasdaq, và là doanh nghiệp môi giới lớn thứ ba tại Sở Giao dịch chứng khoán New
York (NYSE).
Tên tuổi của ông Bernard Madoff đã trở thành huyền thoại trên thị trường phố Wall.

Chính vì vậy mà nhiều doanh nghiệp, quỹ đầu tư danh tiếng, thậm chí cả quỹ từ thiện và các
trường đại học đã tin tưởng gửi gắm tiền cho ông. Họ cũng hoa mắt trước khoản lãi suất
11% mà ông Madoff cam kết trả hàng năm, với chi phí thấp.
Quỹ Fairfield Sentry có tài sản 7,3 tỉ USD xác nhận, tới tháng 10 vừa qua, họ vẫn nhận
được khoản lãi 11%, đều đặn trong suốt 15 năm qua. Nhiều nhà quản lý quỹ không hiểu làm
thế nào mà ông Madoff có thể trả lãi cao như vậy trong bối cảnh thị trường hiện nay. Girish
Reddy - một nhà quản lý quỹ của Công ty Prisma - cho biết, ông không dám đầu tư vào
Madoff chỉ vì khoản lãi mà công ty này trả quá ấn tượng và không thể hiểu nổi. Đúng như
lo lắng của Reddy, chiêu bài của ông Madoff thật đơn giản: Lấy tiền của nhà đầu tư đến
trước để trả cho nhà đầu tư đến sau. Đó là hình thức lừa đảo xuất hiện từ đầu thế kỷ 20. Do
vốn không tự sinh lời, do khoản tiền đến sau không thể gánh nổi khoản đến trước, và do một
số nhà đầu tư rút vốn, khoản lỗ đã lên tới 50 tỉ USD và ông Madoff buộc phải nói ra sự thật.
Vụ việc vỡ lở đầu tuần trước, khi ông Madoff nói với một nhân viên điều hành cấp cao của
công ty rằng ông muốn trả thưởng năm cho các nhân viên sớm hơn 2 tháng. Trước đó, ông
cũng thừa nhận đang không biết kiếm đâu ra 7 tỉ USD tiền mặt để đáp ứng yêu cầu rút tiền
của một khách hàng. Các lãnh đạo công ty đã đến gặp ông để tìm hiểu vụ việc. Madoff mời
hai người về nhà riêng của mình. Tại đây, ông thú nhận: "Tất cả đều là dối trá". Madoff
tuyên bố, mọi việc đã kết thúc. Ông sẽ tự ra trình diện, nhưng trước hết, ông muốn phân phát
từ 200 triệu đến 300 triệu USD cho một số nhân viên. Sáng sớm thứ năm (11.12), Madoff tra
tay vào còng. Ông thừa nhận rằng không có lời giải thích nào cho hành động của mình.
Madoff có khả năng lĩnh tối đa 20 năm tù giam và nộp phạt 5 triệu USD.
Vụ lừa đảo trên khiến nhiều người đặt câu hỏi, các cơ quan giám sát thực thi pháp luật
của Uỷ ban Chứng khoán và Hối đoái Mỹ ở đâu, khi những sai phạm của Công ty Madoff
Nhóm 1 – Chi phí đại diện Trang 15/24
diễn ra trong một thời gian dài mà không ai hay biết.
Đây cũng là một hình thức của chi phí đại diện, ở đây Công ty Madoff đứng đầu là
Ông Bernard L. Madoff là người quản lý còn các nhà đầu tư, gửi tiền vào Công ty Madoff là
những người chủ sở hữu. Do thiếu thông tin (âm mưu lừa đảo của Madoff như đã nêu phần
trên) nên các nhà đầu tư đã tin tưởng mù quáng vào các khoản lợi nhuận khổng lồ khi đầu tư
vào các quỹ của Công ty Madoff trong một thời gian dài. Cuối cùng thì các Nhà đầu tư đã bị

thiệt hại nặng nề, Madoff thì bị tù. Đây là trường hợp xuất hiện chi phí đại diện do thông tin
bất cân xứng, nhà đầu tư không hề biết chút gì về âm mưu của Madoff nên đã bị lừa.
3 - CÔNG TY CỔ PHẦN BÔNG BẠCH TUYẾT
“Quá trình hoạt động đã phát sinh mâu thuẫn trong nội bộ, có nhiều thiếu sót, sai phạm
trong quản lý khiến hoạt động của Công ty cổ phần Bông Bạch Tuyết bị trì trệ, kém hiệu quả
dẫn đến thua lỗ liên tục trong nhiều năm” – Thanh tra TPHCM đã kết luận như trên sau khi
thanh tra toàn diện giai đoạn hoạt động từ năm 2005 đến năm 2008 tại đơn vị này.
• Tìm mọi cách giấu lỗ
Trong 4 năm 2005 – 2008, nội bộ Công ty cổ phần Bông Bạch Tuyết (viết tắt Công ty
CP BBT, trụ sở tại 550 Âu Cơ phường 10 quận Tân Bình) thường xuyên xảy ra xung đột, mâu
thuẫn trong công tác quản lý, điều hành khiến hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty
không hiệu quả.
Dù các công ty kiểm toán đã chỉ ra các yếu tố loại trừ mang tính trọng yếu nhưng lãnh
đạo công ty không thực hiện điều chỉnh và tiếp tục để những sai phạm này (hạch toán chi phí
không đúng, ghi nhận doanh thu khống, công nợ khống…) diễn ra vào các năm tiếp theo.
Không chỉ vậy, lãnh đạo công ty còn chỉ đạo chỉnh sửa hồ sơ, sổ sách để chứng minh rằng hoạt
động kinh doanh của công ty có lãi.
Chẳng hạn, máy bông vệ sinh TIMTEX mua đã lâu nhưng giữa năm 2007, nguyên Tổng
Giám đốc Tạ Xuân Thọ vẫn chỉ đạo giám đốc sản xuất, kế toán trưởng ghi nhận chi phí lắp đặt,
chạy thử máy vào nguyên giá tài sản cố định nhằm hạ giá thành sản phẩm, tạo khoản lãi giả
cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
Tương tự, ông Thọ chỉ đạo điều chỉnh hồ sơ, chứng từ để ghi nhận thu nhập từ thanh lý
tài sản nhà xưởng 16/2 Âu Cơ từ thời điểm tháng 1-2008 sang niên độ kế toán năm 2007 để
hạch toán thu nhập vào năm 2007, đảm bảo hoạt động kinh doanh năm 2007 có lãi.
Nhóm 1 – Chi phí đại diện Trang 16/24
Ngoài ra, công ty còn cố ý cung cấp không đúng số liệu thực tế, thể hiện qua các bản
xác nhận công nợ giữa công ty với khách hàng có những số liệu khác nhau trong cùng thời
điểm. Theo nhận xét của một đơn vị kiểm toán báo cáo tài chính công ty, điều này cho thấy có
sự gian lận với sự đồng thuận giữa Công ty CP BBT và khách hàng. Làm việc với đoàn thanh
tra, các nguyên tổng giám đốc, nguyên kế toán trưởng công ty qua các thời kỳ thừa nhận đã chỉ

đạo và thực hiện điều chỉnh các bút toán với mục đích báo cáo tài chính có lãi để có thể phát
hành thêm cổ phiếu.
• Tài chính thiếu minh bạch
Quá trình thanh tra cũng phát hiện Công ty CP BBT có nhiều sai phạm nghiêm trọng về
tài chính, kế toán. Cụ thể, công ty xuất bán phế liệu trong các năm 2006 – 2008 với tổng giá trị
490 triệu đồng nhưng không xuất hóa đơn tài chính; năm 2008 công ty chi nhiều khoản không
có hóa đơn chứng từ tổng cộng 217 triệu đồng. Cũng trong năm 2008, các khoản chi tiếp
khách, hội họp, quảng cáo, tiếp thị, khuyến mãi lên đến 6,09% so với tổng chi phí trong năm,
trong khi theo Quy chế tài chính của công ty là không quá 5%.
Ngoài ra, việc chi trả lương cho tổng giám đốc cũng vượt quá hạn mức trong lúc công ty
đang thua lỗ; kết quả kiểm tra từ năm 2006 – 2008 cho thấy, mức lương công ty trả lương từ 18
đến 24 triệu đồng/tháng, dù theo quy định chỉ 10 triệu đồng/tháng.
Các dự án đầu tư xây dựng cơ bản của Công ty CP BBT trở thành “bầu sữa ngọt” cho sự
lãng phí và hưởng lợi của cá nhân. Chẳng hạn như dự án Bệnh viện Bạch Tuyết, sau 8 tháng
triển khai, tuy chưa thực hiện được công tác cơ bản nào nhưng Ban quản lý dự án đã chi 464
triệu đồng. Trong đó có đến hơn 355 triệu đồng chi tiếp khách và chi phí cho Ban quản lý dự
án! Hay trong việc thanh lý tài sản nhà xưởng 16/2 Âu Cơ, sau khi thu 1,85 tỷ đồng tiền bán tài
sản thanh lý, nguyên giám đốc hành chính Đào Đức Diễn chỉ nộp vào công ty 1,1 tỷ đồng.
Phần còn lại ông Diễn tự ý sử dụng mua mảnh đất diện tích 216m2 tại phường Bình Hưng Hòa
quận Bình Tân. Chỉ đến khi sự việc bị phát hiện, ông mới nộp lại 750 triệu đồng cho công ty.
Bên cạnh đó, Công ty CP BBT không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với ngân sách Nhà
nước tại thời điểm cổ phần hóa. Trong các năm 1998 – 2003, công ty kinh doanh có lãi, đã
thanh toán cổ tức đầy đủ cho các cổ đông khác nhưng lại không thanh toán dứt điểm khoản cổ
tức phát sinh của cổ đông Nhà nước. Đến thời điểm 31-12-2008, công ty nợ tồn đọng tiền bán
Nhóm 1 – Chi phí đại diện Trang 17/24
phần vốn Nhà nước, nợ cổ tức giai đoạn 2000 – 2003, nợ lãi phạt tổng cộng hơn 5,2 tỷ đồng.
Theo nhận định tại kết luận thanh tra, đây là biểu hiện sự chiếm dụng vốn Nhà nước.
Qua phát sinh thực tế tại Công ty CP Bông Bạch Tuyết, do người quản lý và người dại
diện công ty cố tình che dấu tình hình hoạt động kinh doanh của công ty mình, làm sai lệch
thông tin giữa người quản lý và người chủ (cổ đông) từ đó xuất hiện chi phí đại diện trong

công ty.
4 - CÔNG TY CỔ PHẦN DƯỢC PHẨM VIỄN ĐỘNG
Tháng 4/2010, Công ty CP Dược phẩm Viễn Đông (Mã chứng khoán: DVD) nộp hồ sơ
chào bán 7 triệu cổ phiếu ra công chúng, Ủy ban chứng khoán (UBCK) phát hiện một số sai
phạm và yêu cầu công ty giải trình. Sau đó một ngày, việc phát hành thêm cổ phiếu vẫn được
UBCK chấp thuận do không phát hiện sai phạm. Sau khi phát hành, UBCK phát hiện ra việc
DVD giả mạo hồ sơ và yêu cầu hủy đợt chào bán, trả lại tiền cho nhà đầu tư. Sau đó, lãnh đạo
DVD là ông Lê Văn Dũng bị bắt vì hành vi làm giá chứng khoán khiến hoạt động của công ty
bị đình trệ. Đầu tháng 5/2011, chủ nợ của DVD là ngân hàng ANZ yêu cầu tòa án mở thủ tục
phá sản đối với DVD và được chấp thuận. Gần một tháng sau nhà đầu tư mới được thông báo
về thông tin này. Đầu tháng 9/2011, cổ phiếu DVD bị hủy niêm yết.
Chi phí đại diện xuất hiện trong trường hợp này là: người quản lý công ty là ông Lê Văn
Dũng làm lợi riêng cho mình khiến chứng khoán Công ty CP Dược Hà Tây bị làm giá. Chính
những hành động này của ông Dũng khiến cho tình hình hoạt động kinh doanh của công ty trở
nên bế tắc sau khi ông Dũng bị bắt. Tháng 3/2011, hai cổ đông lớn của công ty là Deutsche
Bank và BI Private Equity New Market II K/S bán tháo gần 30% cổ phiếu của DVD, cổ đông
nước ngoài bán ra thì cổ đông trong nước mua vào, động thái của hai cổ đông lớn này chỉ ra sự
bất ổn trong hoạt động kinh doanh của công ty, nhưng lúc này công ty không có báo cáo gì.
Sau đó, Ngân hàng ANZ, một trong những chủ nợ của DVD, đẫ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục
phá sản đối với DVD. ANZ không cho biết thời điểm nộp đơn, nhưng Tòa án Nhân dân
TPHCM đã thụ lý đơn vào ngày 10/05/2011, sau đó ban hành quyết định vào ngày 5/8/2011
cho phép mở thủ tục phá sản. Cho đến khi đó không có bất kỳ một thông tin chính thức nào về
tình hình hoạt động của DVD. Công ty đã không nộp các báo cáo tài chính hợp nhất có kiểm
toán năm 2010, quý 1 và quý 2 năm 2011. Sở Giao dịch chứng khoán đã nhắc nhở, DVD
không hồi âm. Đến ngày 30/8/2011, HOSE đã có quyết định hủy niêm yết cổ phiếu DVD kể
Nhóm 1 – Chi phí đại diện Trang 18/24
từ ngày 5/9, những cổ đông đang sở hữu cổ phiếu chỉ biết chờ đợi thủ tục phá sản ra sao và liệu
họ có cơ hội nhận lại được chút nào phần tiền đã bỏ ra mua cổ phiếu.
Qua tình huống trên ta thấy được chi phí đại diện xuất hiện khi có sự tách riêng người
quản lý và người sở hữu công ty, và người quản lý cố tình che đậy tình hình hoạt động kinh

doanh của doanh nghiệp gây tổn hại cho người sở hữu. Đặc biệt trong tình huống này là công
ty vẫn bán cổ phiếu cho các cổ đông trong khi tình hình kinh doanh đang đi xuống mà không
công bố báo cáo tài chính cho các cổ đông được biết.

Nhóm 1 – Chi phí đại diện Trang 19/24
PHẦN III
GIẢI PHÁP GIẢM THIỂU CHI PHÍ ĐẠI DIỆN
Từ những phân tích ở trên chúng ta thấy rằng: nếu có sở hữu tách biệt với quyền quản
lý thì sự tồn tại của chi phí đại diện là một điều tất yếu, không thể xoá bỏ. Vì thế chúng ta
chỉ có thể cố gắng tìm hiểu rõ bản chất của chúng để từ đó tìm cách hạn chế tối đa sự gia tăng
chi phí đại diện trong quá trình điều hành doanh nghiệp. .Sau đây chúng tôi xin kiến nghị một
số biện pháp để hạn chế chi phí đại diện như sau:
1- ĐỐI VỚI CÔNG TY CỔ PHẦN (CTCP) :
Cần phải có những biện pháp nhằm hạn chế tối đa tình trạng bất cân xứng thông tin giữa
chủ sở hữu và người đại diện bằng một số cách sau:
+ Tăng cường năng lực hoạt động của ban kiểm soát để giám sát hoạt động của ban
quản lí.
+ Minh bạch hóa tình hình kinh doanh của cộng ty bằng cách tiến hành kiểm toán tình
hình của doanh nghiệp định kì hàng năm, niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán, điều
này sẽ tạo điều kiện cho các cổ đông nắm rõ hơn tình hình công ty.
+ Nâng cao đạo đức nghề nghiệp, giáo dục tinh thần làm việc vì lợi ích chung của công
ty cho bộ máy quản lí từ người quản lí cấp cao đến nhân viên.
Tiến hành bán cổ phần của công ty cho người quản lí công ty, làm cho người quản lí trở
thành chủ sở hữu, từ đó giúp hạn chế mâu thuẩn giữa chủ sở hữu và người đại diện, do đó sẽ
nâng cao, ràng buộc người quản lí phải làm việc tốt hơn.
a. Thiết lập một cơ chế thù lao hợp lý cho người làm công tác quản lý:
Có chính sách động viên, khuyến khích, khen thưởng đối với người quản lí, nhân viên
để gia tăng thái độ tích cực trong quá trình làm việc. Đặc biệt đối với các giám đốc cần phải có
một cơ chế thù lao hợp lí, đảm bảo được tối thiểu ba yêu cầu sau:
Thứ nhất, Cơ c h ế t h ù l a o đ ó p h ả i c ó t á c d ụ n g khuyến khích nhà quản lý

làm việc với nỗ lực cao nhất. Muốn vậy mức thù lao phải tỷ lệ thuận với mức độ nỗ lực
của nhà quản lý. Nhà đầu tư có thể quan sát được kết quả công việc, mức độ nỗ lực
Nhóm 1 – Chi phí đại diện Trang 20/24
của nhà quản lý thông qua một số tiêu chí như lợi nhuận, dòng tiền, giá trị thị trường của
doanh nghiệp. Xuất phát từ thực tế đó, một trong những cơ sở để xác định mức thù
lao cho các nhà quản lý là lợi nhuận hằng n ăm của doanh nghiệp.Tuy nhiên,
sử dụng lợi nhuận để đánh giá hiệu quả công việc của các nhà quản lý có hai nhược
điểm: (1) lợi nhuận chịu ảnh hưởng của phương pháp kế toán áp dụng (phương phápkế toán
khác nhau dẫn tới mức lợi nhuận khác nhau) và thường phản ánh không đầyđủ nỗ lực của các
nhà quản lý (do nguyên tắc thận trọng trong kế toán nên lợi nhuận thường không được ghi
nhận kịp thời); (2) trong nhiều trường hợp quyết định củanhà quản lý có thể không
mang lại lợi nhuận trong ngắn hạn nhưng sẽ mang lại lợi nhuận trong dài hạn. Lợi
nhuận kế toán không phản ánh được yếu tố tiềm năng này. Tiêu chí thứ hai thường được
sử dụng để xác định mức thù lao của các nhàquản lý là dựa trên mức độ tăng giá trị
doanh nghiệp, thể hiện ở mức tăng giá cổ phiếu. Mục tiêu của nhà đầu tư là tối đa hoá giá
trị doanh nghiệp, vì vậy gắn thù laocủa nhà quản lý với mức tăng giá cổ phiếu sẽ giúp
đồng nhất hoá mục tiêu của nhàquản lý và nhà đầu tư, do đó hạn chế chi phí đại diện. Tuy
nhiên, cũng như lợi nhuận kế toán, cơ chế thù lao gắn với giá cổ phiếu cũng có những hạn chế.
Thứ hai, Biện pháp khác là,một phần thù lao của nhà quản lý sẽ được xác định theo kết
quả hoạt động của doanh nghiệp trong một số năm (ví dụ: 3 năm liên tiếp) thay vì
một năm hiện tại. Cần lưu ý là cả lợi nhuận kế toán và giá trị cổ phiếu đều có thể
bị phản ánh sai lệch trong ngắn hạn nếu nhà quản lý cố tình lợi dụng tình trạng
thông tin không cân xứng để bóp méo thông tin về kết quả hoạt động của doanh nghiệp. Kết
quả hoạt động của doanh nghiệp có thể được thực hiện bằng cách thay đổi các chính sách kế
toán áp dụng nhằm làm thay đổi bức tranh tài chính của doanh nghiệp, “đánh lừa” các nhà
đầu tư, hoặc cũng có thể được thực hiện bằng cách cố tình dàn xếp cácgiao dịch
nhằm thay đổi kết quả hoạt động của doanh nghiệp trong năm. Ví dụ, để đạt kế hoạch
doanh thu, các công ty sản xuất ôtô có thể công bố kế hoạch tăng giá bán xe đầu
năm sau nhằm tăng số lượng xe bán ra cuối năm hiện tại. Kết quả là, số xe
bán ra tăng thêm trong tháng cuối năm nay sẽ làm giảm số xe bán ra năm sau,làm cho

lợi ích của nhà đầu tư trong dài hạn bị tổn hại. Do đó, để ngăn chặn nguy cơ này,
thông thường một phần thù lao của nhàquản lý sẽ được xác định theo kết
quả hoạt động của doanh nghiệp trong một số năm, mà không phải là một năm.
Nhóm 1 – Chi phí đại diện Trang 21/24
Thứ ba, Phải bảo đảm kiểm soát được mức độ rủi ro đối với doanh nghiệp. Thù lao của
nhà quản lý thường phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó, nhà quản
lý có xu hướng hạn chế rủi ro cho mình bằng cách từ bỏ những dự án có lợi
nhuận tiềm năng cao nhưng mức rủi ro cũng cao để tập trung vào những dự án có mức lợi
nhuận vừa phải nhưng ít rủi ro hơn. Điều này đi ngược lại mong muốn của nhà đầu tư
(thường có xu hướng chấp nhận rủi ro cao hơn với mong muốn thu được lợi nhuận cao).
Nguy cơ này có thể được hạn chế bằng cách trả cho nhà quản lý một mức lương tối
thiểu không phụ thuộc vào kết quả hoạt động của doanh nghiệp. Tức là nhà quản lý
sẽ được hưởng một mức thu nhập cố định nếu kết quả hoạt động trong năm đạt dưới
mức tối thiểu nào đó. Nếu kết quả hoạt động vượt trên mức tối thiểu thì thu nhập sẽ tăng tỷ lệ
thuận với kết quả hoạt động. Tuy nhiên, các doanh nghiệp cũng nên xác định một mức thù lao
tối đa,vì việc áp dụng lương cơ bản như vậy có thể khiến cho nhà đầu tư phải đối mặt với
nguy cơ rủi ro quá cao so với mức rủi ro mà nhà đầu tư sẳn sàng chấp nhận.
b. Giải pháp phi chính trị hóa hoạt động kinh doanh:
Giải pháp đầu tiên cho vấn đề phi chính trị hóa các hoạt độn g kinh
doanh là đoạn tuyệt hoàn toàn với cơ chế “bổ nhiệm” các quan chức trong hội đồng quản trị,
ban giám đốc và các nhà quản lý. Điều này đòi hỏi trong số những thànhviên cấp cao
trong DNNN - ngoài những viên chức Chính phủ đại diện cho phần vốn của nhà nước - phải có
sự tham gia của các nhà đầu tư bên ngoài, các chuyên gia và đại diện các định chế tài chính. Ví
dụ: Ngay từ khi bắt tay vào công cuộc kh ôi phục nền kinh tế sau chiến
tranh, Nhật Bản đã từng thành công với mô hình các Keiretsu, là mô hình mà
cácngân hàng trụ cột tiến hành tham gia vào các hoạt động quản lý của doanh nghiệp. Ở những
nền kinh tế mà thị trường chứng khoán vẫn còn kém phát triển như Việt Nam,vai trò của các
ngân hàng thương mại vẫn có một tầm quan trọng về lâu dài trong huy động vốn cho các
DNNN. Chính vì thế, việc tạo ra những chính sách và cơ chế để cho các ngân hàng
thương mại tham gia vào hội đồng quản trị trong các DNNN hiện nay là điều cần

được Chính phủ quan tâm nghiên cứu. Các ngân hàng thươngmại quốc doanh
hiện l à những nhà tài trợ “các khoản nợ xấu” l ớn nhất cho các DNNN ở nước
ta nhưng chẳng thấy ai là thành viên trong hội đồng quản trị thực hiện chức năng giám sát.
Nhóm 1 – Chi phí đại diện Trang 22/24
c. Hoàn thiện cấu trúc bên ngoài doanh nghiệp:
Nếu chỉ cải cách cấu trúc bên trong của doanh nghiệp không thôi cũng chưa đủ. Còn
phải có những cấu trúc kiểm soát bên ngoài, đó là một thị trường hàng hóa,
thịtrường vốn cạnh tranh và năng động, một hệ thống các thể chế pháp lý thật
minh bạch, những quy định về trách nhiệm giải trình của các thành viên trong hội
đồngquản trị và vấn đề phá sản DNNN. Ngoài ra, phải đoạn tuyệt hoàn toàn với việc cấp vốn
ngân sách cho các DNNN, cải tổ toàn diện hệ thống ngân hàng thương mại quốc doanh
và phát triển một thịtrường chứng khoán năng động.
2- ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC (DNNN):
Nhằm hạn chế được các quan hệ phức tạp trong DNNN cần thay đổi cơ cấu bộ phận
quản lí theo hướng tinh giản hóa, không thể duy trì một bộ máy quản lí cũ quá cồng kềnh, trì
trệ; đây là khởi nguồn cho những khoản chi phí đại diện phát sinh rất lớn mà người chủ sở hữu
phải gánh chịu.
Phải chấm dứt cơ chế bổ nhiệm các quan chức trong hội đồng quản trị, trong ban lãnh
đạo. Điều này đòi hỏi trong số những thành viên cấp cao trong DNNN – ngoài những viên
chức Chính phủ đại diện cho phần vốn của nhà nước - phải có sự tham gia của các nhà đầu tư
bên ngoài, các chuyên gia và đại diện các định chế tài chính. Cần đoạn tuyệt với việc cấp vốn
ngân sách cho các DNNN, cải tổ toàn diện hệ thống ngân hàng thương mại quốc doanh và phát
triển một thị trường chứng khoán năng động.
Cải thiện nâng cao mức sống của người quản lí bằng cách nâng cao tiền lương, tiền
thưởng để kích thích người quản lí cố gắng làm việc vì lợi ích chung, không tạo điều kiện để
họ lợi dụng quyền hạn chiếm đoạt của công.
Ngoài vấn đề minh bạch hóa thông tin trong các DNNN cũng như tạo ra những áp lực
kiểm soát của thị trường lên các doanh nghiệp, Chính phủ cần phải buộc các DNNN tiến hành
thực hiện cổ phần hóa và niêm yết trên TTCK trong nước và quốc tế. Đây chính là việc đặt các
áp lực kiểm soát của thị trường lên các DNNN và cũng để thu hút thêm các nhà đầu tư chiến

lược vào trong Hội đồng quản trị. Các nhà đầu tư chiến lược này cùng với các NHTM và các
thành viên đại diện vốn của Nhà nước tiến hành
Nhóm 1 – Chi phí đại diện Trang 23/24
TÀI LIỆU THAM KHẢO
01 Giáo trình Tài chính Doanh nghiệp, Trần Ngọc Thơ, NXB Thống kê – 2007
02 Hà Thị Thu Hằng, Luận văn thạc sĩ “ Kiểm soát và quản lý hiệu quả chi phí đại diện
trong công ty cổ phần” 2007
03 Các website tham khảo


http:// vnexpress.net
www. thesaigontimes . vn

04 Tài chính Doanh nghiệp Căn Bản, Nguyễn Minh Kiều, NXB Lao Động – 2011
05 Một số tiểu luận môn học Tài Chính Doanh Nghiệp về chi phí đại diện của các Khóa
19 / Khóa 18 / Khóa 17 – ĐHKT Tp Hồ Chí Minh
Nhóm 1 – Chi phí đại diện Trang 24/24

×