BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
CÔNG TRÌNH DỰ THI
GIẢI THƯỞNG
ĐỀ TÀI MÔN HỌC XUẤT SẮC
UEH500 - NĂM 2014
TÊN CÔNG TRÌNH:
THUỘC NHÓM NGÀNH:
2
TÓM TẮT ĐỀ TÀI
1. Lý do chọn đề tài
Ngân hàng là một lĩnh vực kinh doanh đặc biệt, đóng vai trò trung gian tài chính,
đi vay để cho vay, góp phần vào quá trình luân chuyển nguồn vốn. Chính vì tính chất
đặc thù này mà sự tồn tại hay phát triển của bất kì một ngân hàng nào cũng ảnh hưởng
đến sự tồn tại hay phát triển của nền kinh tế, trong phạm vi và mức độ phụ thuộc vào
nguồn tiền mà nó đóng góp vào nền kinh tế. Ngay từ những ngày đầu tiên khi nền công
nghiệp ngân hàng ra đời và phát triển, tín dụng đã là một phần không thể thiếu, một
chức năng đặc trưng, tiêu biểu trong hoạt động của nó. Ngày nay, cùng với sự phát triển
chung của ngành Ngân hàng, hoạt động tín dụng cũng có những tiến bộ đáng kể, ngày
càng có nhiều cách thức cho vay với quy mô và hình thức không hạn chế. Tuy ngày
càng có nhiều sản phẩm dịch vụ ra đời và từng bước được nâng cao, nhưng cho vay vẫn
chiếm từ 1/2 đến 2/3 tổng tài sản của một ngân hàng, và vẫn là một nguồn thu vô cùng
quan trọng trong mỗi hệ thống ngân hàng. Không những thế, đứng trước xu thế phát
triển của thời đại, sự bùng nổ của khoa học kĩ thuật, công nghệ thông tin và sự phát
triển chung của nền kinh tế toàn cầu theo hướng hội nhập, việc quản lý hoạt động tín
dụng, phát hiện và phòng chống rủi ro tín dụng là một nhiệm vụ cấp thiết, quan trọng
và mang tính sống còn đối với công tác quản lý cũng như sự phát triển chung của ngân
hàng thương mại. Từ những tác động nặng nề của rủi ro tín dụng đến hệ thống ngân
hàng thương mại nói riêng và đến toàn nền kinh tế nói chung, nghiên cứu sự tác động
của các yếu tố quyết định hiệu quả cho vay ở những ngân hàng nhằm đưa ra một nhận
định tổng quan về sự tác động của các yếu tố đến rủi ro tín dụng là một vấn đề cấp thiết
và có giá trị thực tiễn.
Trong thời gian qua, vấn đề rủi ro và quản trị rủi ro trong hoạt động cấp tín dụng
của các tổ chức tín dụng Việt Nam đã trở nên bức thiết khi có các con số về nợ xấu
được công bố. Cho dù được đề cập hay biện luận bằng cách thức nào, thì quản trị rủi ro
là cách thức tốt nhất mà tất cả các chủ thể kinh doanh cần thực hiện để không bị mất
vốn đầu tư.Vấn đề quản trị rủi ro đã được các chuyên gia trong nước và quốc tế cảnh
3
báo từ rất lâu, thậm chí, có nhiều dự án hỗ trợ kỹ thuật để cải thiện hệ thống quản trị rủi
ro tại các ngân hàng, nhưng kết quả chưa cao.Sau cuộc khủng hoảng tài chính 2008,
hầu hết các ngân hàng đã ý thức được vấn đề nâng cấp hệ thống quản trị rủi ro nhưng
hầu hết các kế hoạch xây dựng tập trung vào những rủi ro từ trong hoạt động tín dụng,
chiếm hơn 70% tổng thu nhập của ngân hàng Việt Nam.Một trong những nguyên nhân
là do đặc thù của hoạt động ngân hàng Việt Nam là trên 70% thu nhập đến từ tín dụng,
có ngân hàng có tỷ lệ này tới hơn 90%, nên hầu hết các ngân hàng chỉ chủ yếu chú
trọng rủi ro tín dụng.
Ý thức được vấn đề cấp thiết trên, bài nghiên cứu này được thực hiện nhằm khái
quát những vấn đề cơ bản về các yếu tố tác động đến rủi ro tín dụng đối với hệ thống
ngân hàng thương mại ở hai quốc gia Việt Nam và Trung Quốc trong khoảng thời gian
từ năm 2005 đến năm 2013, bên cạnh đó đánh giá thực trạng và khả năng thực hiện ở
Việt Nam.Bài nghiên cứu này là thực sự cần thiết trong bối cảnh hiện tại nhằm đưa ra
cái nhìn tổng quát và mở đường cho những nghiên cứu chuyên sâu tiếp theo để hướng
đến những giải pháp đề xuất mang tính thực nghiệm trong tình hình tái cơ cấu các tổ
chức tín dụng mà Chính phủ ban hành hồi đầu năm 2012.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Bài nghiên cứu hướng đến trả lời hai câu hỏi: (i) Yếu tố nào sẽ ảnh hưởng đến rủi
ro tín dụng ở các nước đang phát triển có nền kinh tế thị trường? , (ii) Các yếu tố tác
động đến rủi ro tín dụng có giống nhau giữa các nước phát triển và đang phát triển hay
không?
Bài viếthướng đếnkiểm tra tác động của các nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng
và đưa ra một cái nhìn tổng quát về rủi ro tín dụng của nền kinh tế thị trường ở các
nước đang phát triển, cụ thể là Việt Nam và Trung Quốc trong giai đoạn 2005-2013,
trên cơ sở đó nhận dạng các yếu tố tác động đến hiệu quả cho vay của các ngân hàng tại
Việt Nam. Cuối cùng, dựa theo các số liệu đã phân tích, đề xuất một số kiến nghị liên
quan đến các nhà làm chính sách khi hướng đến việc hỗ trợ hoạt động kinh doanh của
một số ngân hàng thương mại trong việc phòng tránh rủi ro tín dụng.
3. Phương pháp nghiên cứu
4
Bài nghiên cứu sử dụng cách tiếp cận dữ liệu bảng điều khiển động trong giai
đoạn 2005-2013 để kiểm tra những yếu tố quyết định việc cho vay không hiệu quả
trong cả hai hệ thống ngân hàng; ngân hàng Việt Nam và ngân hàng Trung Quốc.
Phương pháp nghiên cứu định lượng trong đó mô hình GMM đóng vai trò chủ
đạo để kiểm định tác động của các nhân tố vi mô và vĩ mô đến rủi ro tín dụng trong hai
hệ thống ngân hàng Trung Quốc và Việt Nam.
4. Nội dung nghiên cứu
Bài nghiên cứu gồm cóba phần.Phần đầu tiên sẽ trình bày những cơ sở lí thuyết về
vấn đề rủi ro tín dụng, đồng thời sơ lược về những nghiên cứu, học thuyết trước đây
trong việc quản lý rủi ro tín dụng của hệ thống ngân hàng. Phần thứ hai sẽnêu lên thực
trạn về rủi ro tín dụng trong hệ thống ngân hàng ở Việt Nam và Trung Quốc sau đó tiến
hành xây dựng mô hình thực nghiệm cho các nhân tốảnh hưởng đến rủi ro tín dụng ở
hai nước Trung Quốc và Việt Nam, từ mô hình thực nghiệm trên chúng tôi sẽ tổng hợp
và phân tích kết quả của mô hình nhằm đưa ra những kết luận để trả lời những câu hỏi
về vấn đề rủi ro tín dụng ở hai quốc gia. Bên cạnh đó, dựa vào những kết quả có được,
phần cuối cùng sẽ là một số kiến nghị và đề xuất các biện pháp nhằm hoàn thiện mô
hình quản trị rủi ro tín dụng trong hệ thống ngân hàng hiện nay.
5. Đóng góp của đề tài
Bài nghiên cứu này cung cấp một sự so sánh có chiều sẩu về hệ thống tín dụng
ngân hàng ở Việt Nam và Trung Quốc.Cả hai quốc gia thường được nghiên cứu như là
một phần của khu vực Đông Á và hiếm khi được so sánh với nhau.Bên cạnh đó, bài viết
này so sánh tất cả các nhân tố tác động đến rủi ro tín dụng trong hệ thống ngân
hàng.Ngoài ra bài nghiên cứu còn hệ thống hóa các cơ sở lý thuyết về hiệu quả sử dụng
vốn, các giả thuyết về rủi ro cùng với việc tổng hợp các nghiên cứu trước đây về vấn đề
liên quan ở các quốc gia khác nhau trên thế giới.Các kết quả nghiên cứu được rút ra từ
mô hình có thể hỗ trợ phần nào cho các nhà làm chính sách trong việchướng đến việc
hỗ trợ hoạt động kinh doanh của một số ngân hàng thương mại trong việc phòng tránh
rủi ro tín dụng. Thêm vào đó, bài nghiên cứu sử dụng các dữ liệu, số liệu đáng tin cậy
từ các ngân hàng thương mại ở Việt Nam và Trung Quốc và kết quả hồi qui được trình
5
bày rõ ràng đầy đủ sẽ là nguồn tài liệu tham khảo quan trọng cho những nghiên cứu tiếp
theo.
6. Hướng phát triển của đề tài
Rủi ro tín dụng thật sự là một phạm trù quan trọng trong công tác quản lý, nâng
cao hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại nóichung. Đề tài đã cho thấy những
kết quả cụ thể về mặt thực nghiệm đối với các yếu tố tác động đến rủi ro tín dụng trong
hệ thống ngân hàng Việt Nam và Trung Quốc. Tuy nhiên do những thiếu sót về mặt dữ
liệu vi mô trong hệ thống các ngân hàng nên đề tài vẫn còn những hạn chế nhất định.
Dựa trên mô hình và kết quả thực nghiệm được đề cập trong bài nghiên cứu này, đề tài
có thể được phát triển theo một quy mô rộng lớn hơn nhằm hoàn thiện vấn đề trên cả
phương diện lý thuyết và thực hành, từđó có thể tránh được những sai lầm nhất định,
phát hiện ra quy luật và cách vận dụng quy luật đó để có thể thực hiện công tác phòng
chống rủi ro tín dụng một cách hiệu quả hơn.
6
MỤC LỤC
7
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
8
DANH SÁCH CÁC BẢNG BIỂU
9
DANH SÁCH HÌNH ẢNH
1 CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ CÁC NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
1.1. Cơ sở lý thuyết
1.1.1. Biến vi mô
1.1.1.1. Tác động của dự phòng rủi ro tín dụng đến rủi ro tín dụng
Đây được xem là một cách kiểm soát rủi ro cho vay dự kiến, cho phép phát hiện
ra và bảo đảm mức độ cao về tổn thất tín dụng của các khoản cho vay. Theo Hasan và
Wall (2003), những ngân hàng dự đoán mức độ cao về mất mát vốn thì nên xây dựng
những khoản dự phòng cao hơn để làm giảm biến động thu nhập. Bên cạnh đó, theo
Halling (2006), tỉ lệ chi phí dự phòng rủi ro trên thu nhập từ hoạt động kinh doanh kì
vọng đồng biến với rủi ro, nhưng do bị biến đổi trong quá trình hồi quy nên không có ý
nghĩa.
1.1.1.2. Tác động của hiệu quả sử dụng vốn đến rủi ro tín dụng
Hiệu quả sử dụng vốn được định nghĩa là thước đo đánh giá trình độ quản lý, điều
hành trong việc xếp hạng tín dụng, thẩm định tài sản thế chấp và giám sát khách hàng.
Có nhiều cách để đo lường biến này:
INEF = Chi phí hoạt động/Tổng tài sản
Hoặc INEF = Chi phí hoạt động/Thu nhập hoạt động
Berger và Deyoung (1997) đã phân tích nhiều tình huống trong đó rủi ro tín dụng
liên quan đến hiệu quả sử dụng vốn, và thấy rằng có mối quan hệ nghịch biến giữa hiệu
quả sử dụng vốn và rủi ro trong những ngân hàng phá sản. Trên thực tế, mức độ hiệu
quả thấp sẽ buộc các ngân hàng đẩy mạnh lợi nhuận của mình bằng cách tham gia vào
các hợp đồng tín dụng có rủi ro cao để hưởng được tỷ suất sinh lợi cao hơn; ngược lại,
sự tăng lên trong rủi ro tín dụng sẽ khiến cho các ngân hàng gánh chịu thêm nhiều
khoản chi phí phát sinh cũng như nỗ lực để giám sát các khoản nợ xấu, từ đó đưa đến
10
mức độ hiệu quả thấp. Do đó, mối quan hệ giữa việc hiệu quả sử dụng và tỷ lệ nợ xấu
có thể đồng biến hoặc nghịch biến.
1.1.1.3. Tác động của chỉ số khả năng thanh toán đến rủi ro tín dụng
Được đo lường bằng tỉ lệ hiệu số giữa tài sản thanh khoản và vay mượn ngắn hạn
từ tổ chức tín dụng trên tổng tiền gửi. Theo nghiên cứu của Montgomery (2004), tỷ lệ
này có quan hệ đồng biến với rủi ro tín dụng nhưng không có ý nghĩa thống kê.Bên
cạnh đó.theo giả thuyết rủi ro đạo đức (Berger và Deyoung, 1997), các ngân hàng vốn
hóa thấp thường mang những khoản vay rủi ro hơn, trong đó có khả năng dẫn đến tỷ lệ
nợ xấu cao hơn.
1.1.1.4. Tác động của quy mô ngân hàng đến rủi ro tín dụng
Có nhiều phương pháp để đo lường quy mô ngân hàng:
Quy mô NH = Tài sản ngân hàng i/Tổng tài sản các ngân hàng
Hoặc Quy mô NH = log (tài sản ngân hàng)
Stern và Feldman (2004) đã lập luận rằng các ngân hàng lớn có xu hướng chấp
nhận rủi ro quá mức hơn do sự mong đợi vào sự bảo vệ của chính phủ khi những ngân
hàng này gặp nạn. Do đó các ngân hàng này đẩy mạnh đòn bẩy của họ, tăng các khoản
vay có rủi ro cao, từ đó dẫn đến nhiều khoản nợ xấu.
1.1.1.5. Tác động của lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) đến rủi ro
tín dụng
ROE phản ánh năng lực sử dụng đồng vốn để sinh lời. Kết quả kinh doanh có liên
quan nghịch biến với sự gia tăng các khoản nợ xấu trong tương lai, hay nói cách khác là
rủi ro tín dụng. Theo Louzis et al. (2012), kết quả kinh doanh trong quá khứ có thể phản
ánh chất lượng quản lý, dẫn đến tỷ lệ nợ xấu thấp.
11
1.1.1.6. Tác động của đòn bẩy – LEV – Tỉ lệ vốn CSH trên tổng vốn
huy động đến rủi ro tín dụng
Trong bài nghiên cứu của Logan (2001), đòn bẩy là tổng dư nợ huy động trên
VCSH nghịch biến với rủi ro phá sản ngân hàng Anh quốc tại thời điểm trước khi ngân
hàng phá sản 1 quí. Đòn bẩy càng cao do huy động nhiều thì rủi ro càng cao.
Đối với hệ thống tài chính có trình độ kĩ luật thị trường cao, những ngân hàng yếu
kém bị phá sản sau thời gian rất ngắn bị thị trường cảm nhận nên buộc phải tăng VCSH
để các thành viên tham gia thị trường tiếp tục cho vay
Còn theo Montgomery (2004), đòn bẩy là VCSH trên dư nợ tiền gửi đồng biến
với rủi ro ngân hàng, tuy nhiên không có ý nghĩa thống kê. Trong khi đó tỉ lệ vốn điều
lệ trên dư nợ tiền gửi đồng biến với rủi ro ngân hàng
Nhưng trong nghiên cứu của Jordan (2011), đòn bẩy bằng tỉ lệ vốn cấp 1 trên tổng
tài sản có quan hệ nghịch biến với rủi ro, có nghĩa là đòn bẩy càng cao thì rủi ro phá sản
giảm.
1.1.1.7. Tác động của tỉ lệ thu nhập ngoài lãi – Thu nhập ngoài lãi trên
tổng thu nhập đến rủi ro tín dụng
Theo Louzis và cộng sự (2012), tỉ lệ này phản ánh thực các ngân hàng phụ thuộc
vào các loại thu nhập thay thế khác hơn là thu nhập lãi, và do đó, dựa vào các nguồn đa
dạng của doanh thu, mối quan hệ nghịch biến giữa nợ xấu và thu nhập ngoài lãi được
kỳ vọng.
Cũng từ nghiên cứu của Logan (2001), tỉ lệ thu nhập lãi thuần trên tổng thu nhập
quan hệ đồng biến với rủi ro phá sản. Sự phụ thuộc vào thu nhập lãi thuần làm tăng rủi
ro ngân hàng tại năm đang xét, tuy nhiên những năm trước đó thì không có ý nghĩa
thống kê. Theo Halling (2006), tỉ lệ lợi nhuận từ hoạt động chính trên tổng tài sản cũng
đồng biến với rủi ro ngân hàng. Trong khi đó kết quả của Jordan (2011) thì tỉ lệ thu
nhập ngoài lãi trên thu nhập từ lãi của năm trước quan hệ đồng biến với rủi ro ngân
12
hàng, có nghĩa là việc đa dạng hóa thu nhập mà giảm thu nhập từ lãi có thể tăng nguy
cơ phá sản ngân hàng do không giữ được thị phần và khách hàng truyền thống
1.1.2. Biến vĩ mô
1.1.2.1. Tác động của lạm phát đến rủi ro tín dụng
Lạm phát có thể có tác động hỗn hợp đến nợ xấu. Fofack (2005) cho thấy tỷ lệ
lạm phát góp phần làm tăng số nợ xấu ở những nước Châu Phi cận Sahara. Tỷ lệ lạm
phát cao dẫn tới sự suy giảm nhanh chóng vốn sở hữu của các ngân hàng thương mại và
mức độ nợ xấu lớn hơn.Chase et al. (2005) cũng tìm thấy mối tương quan đáng kể giữa
lạm phát và nợ xấu.Tuy nhiên, Dash và Kabra (2010) đã không tìm thấy bằng chứng về
mối quan hệ này.
Lạm phát cao có thể làm cho nợ xấu tăng dễ dàng hơn vì : thứ nhất, có thể giảm
giá trị thực của các khoản vay nợ, và thứ hai, có mối quan hệ nghịch với tỉ lệ thất
nghiệp – theo nghiên cứu của Castro, 2013 về đường cong Phillips . Bên cạnh đó, nợ
xấu làm giảm khả năng trả nợ của người đi vay bằng cách giảm thu nhập thực tế của họ.
Ở những nước mà lãi suất cho vay thay đổi, lạm phát có tác động bất lợi đến khả năng
trả nợ của người đi vay vì sự điều chỉnh chính sách tiền tệ chống lạm phát, hoặc sự điều
chỉnh lãi suất cho người cho vay để duy trì mức lời thực của họ (Nkusu, 2011). Do đó,
mối quan hệ giữa lạm phát và nợ xấu có thể là đồng biến hoặc nghịch biến.
1.1.2.2. Tác động của tỉ lệ tăng trưởng GDP đến rủi ro tín dụng
Trong giai đoạn suy thoái kinh tế, khả năng trả nợ của người đi vay giảm sút dẫn
đến sự tăng đáng kể về nợ xấu trong hệ thống ngân hàng thương mại.Lis et al. (2009)
giải thích rằng trong suốt cuộc khủng hoảng, nợ xấu mở rộng nguyên nhân là do sự khó
khăn về tài chính của các hộ gia đình và các công ty. Khi nền kinh tế phát triển một
cách mạnh mẽ, thu nhập của các công ty và hộ gia đình được tăng lên có thể cải thiện
khả năng trả nợ dễ dàng hơn, nợ xấu thấp hơn Thêm vào đó, nhiều bài nghiên cứu trước
như Salas và Suarina (2002); Rajan & Dhal (2003); Jimenez và Saurina(2005);
13
Fofack(2005); và Quagliarello(2007) cũng cho thấy có mối quan hệ ngược chiều giữa
tăng trưởng GDP và nợ xấu.
1.1.2.3. Tác động của lãi suất thực hiệu chỉnh đến rủi ro tín dụng
Lãi suất có tác động trực tiếp đến việc duy trì các khoản vay. Một sự gia tăng về
lãi suất sẽ làm cho các doanh nghiệp sản xuất cần vốn khó tiếp cận được khoản vay, các
doanh nghiệp đang đi vay sẽ giảm lợi nhuận dẫn đến sự gia tăng trong gánh nặng nợ,
làm suy yếu khả năng trả nợ của người đi vay, dẫn đến nợ xấu tăng (Castro, 2013;
Louzis et al., 2012; Nkusu, 2011). Vì vậy, có mối quan hệ đồng biến giữa lãi suất thực
hiệu chỉnh và nợ xấu.
1.1.2.4. Tác động của tỉ lệ thất nghiệp đến rủi ro tín dụng
Trong thời kì khủng hoảng kinh tế, một sự gia tăng trong tỉ lệ thất nghiệp sẽ làm
suy giảm khả năng trả nợ của người đi vay. Về phía các công ty, thất nghiệp tăng làm
thu nhập quốc dân giảm dẫn đến các khoản chi cho tiêu dùng sản phẩm và dịch vụ giảm
sút, và vì vậy làm giảm lợi nhuận của công ty kéo theo sự suy yếu trong vị thế trả nợ
(Castro, 2013; Nkusu, 2011). Vì thế tác động của thất nghiệp lên nợ xấu được là đồng
biến.
1.1.2.5. Tác động của tỉ giá hối đoái đến rủi ro tín dụng
Tỷ giá ngoại hối có liên quan chặt chẽ đến lãi suất và có tác dụng điều chỉnh lãi
suất.trong nền kinh tế thị trường. Khi đồng nội tệ mất giá khối lượng nội tệ cung ứng
ngoài thị trường lớn đòi hỏi phải điều chỉnh tăng lãi suất, trong trường hợp này làm
tăng chi ngân sách về thanh toán lãi suất huy động nội tệ.Từ đó làm cho lãi suất cho vay
tăng, điều này sẽ tác động xấu đến sản xuất-kinh doanh của doanh nghiệp dẫn đến sự
suy giảm khả năng trả nợ của họ.
Sự gia tăng trong tỉ giá hối đoái có những tác động hỗn hợp. Những nghiên cứu
thực nghiệm của Castro (2013 ), Nkusu (2011 ) cho thấy biến số này dùng để kiểm soát
khả năng cạnh tranh bên ngoài. Theo Fofack (2005), sự đánh giá cao của biến này có
thể làm suy yếu tính cạnh tranh của những công ty theo định hướng xuất khẩu và làm
14
cho họ không thể trả nợ. Hơn thế nữa, sự đánh giá cao đồng nội tệ làm cho hàng hóa và
dịch vụ đắt hơn.Tuy nhiên, sự gia tăng trong tỉ giá hối đoái có thể cải thiện khả năng
của người đi vay đồng ngoại tệ để trả nợ (Nkusu, 2011). Do đó, mối quan hệ giữa tỉ giá
hối đoái và nợ xấu có thể là đồng biến hoặc nghịch biến.
Lí thuyết nền tảng về rủi ro tín dụng trong hệ thống NH (theo yêu cầu của bạn,
bạn đánh giá dùm tui, chứ tui thấy tác động của từng yếu tố đến rủi ro tín dụng là đủ
ròi)
1.1.3. Rủi ro tín dụng
1.1.3.1. Khái niệm
Rủi ro tín dụng có thể được hiểu là mối đe doạ, bị tổn thương một phần nguồn
vốn của ngân hàng hoặc không đạt được thu nhập hay đòi hỏi các khoản chi phí bổ
sung để thực hiện các nghiệp vụ nhất định.
Rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt
động ngân hàng do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện
nghĩa vụ của mình theo cam kết.
Hoạt động ngân hàng không thể tránh khỏi rủi ro, quá trình mở rộng kinh doanh
càng đi liền với mở rộng phạm vi rủi ro. Hoạt động ngân hàng còn bao gồm nhiều
nghiệp vụ, mỗi nghiệp vụ gắn liền với rủi ro khác nhau, do đó luôn đòi hỏi phải sử
dụng các biện pháp bảo vệ và các biện pháp khác để giảm bớt các thiệt hại, mất mát có
thể xảy ra.
1.1.3.2. Đặc điểm
Hoạt động kinh doanh ngân hàng luôn chứa đựng nhiều rủi ro, mặt khác
hiệu quả kinh doanh lại phụ thuộc vào mức độ rủi ro (không có rủi ro thì không có lợi
nhuận, rủi ro càng cao thì lợi nhuận càng cao). Quản lý rủi ro tốt, đặc biệt là rủi ro tín
dụng sẽ tạo điều kiện nâng cao chất lượng hoạt động kinh doanh, qua đó nâng cao vị
thế cạnh tranh của ngân hàng.
15
1.1.3.3. Tác hại
1.1.3.3.1. Đối với ngân hàng thương mại
Các NHTM có vốn tự có thấp, thường chỉ chiếm từ 5% đến 8% trên tổng nguồn
vốn hoạt động, vốn kinh doanh chủ yếu là vốn huy động nên rủi ro xảy ra sẽ dễ dẫn tới
mất khả năng thanh toán chi trả, có thể làm giảm lòng tin của khách hàng vào ngân
hàng. Từ đó họ sẽ hạn chế quan hệ với ngân hàng, làm cho ngân hàng mất đi cơ hội huy
động vốn, giảm sức cạnh tranh của ngân hàng, gây phản ứng dây chuyền nhiều khách
hàng đến rút tiền làm cho ngân hàng mất khả năng thanh toán, gây suy yếu nhanh và
phá sản hàng loạt các ngân hàng
1.1.3.3.2. Đối với khách hàng
Khi ngân hàng gặp rủi ro thì người gửi tiền sẽ mất vốn dẫn tới gặp khó khăn trong
kinh doanh. Nguồn đi vay, nguồn tài trợ từ các ngân hàng hoàn toàn bị mất, cơ hội kinh
doanh tuột mất, tài sản bị thu hoặc phát mại, người vay đứng trước nguy cơ phá sản.
1.1.3.3.3. Đối với kinh tế
Hoạt động ngân hàng liên quan chặt chẽ trực tiếp đến toàn bộ nền kinh tế quốc
dân, các doanh nghiệp, tổ chức dân cư. Khi NHTM sụp đổ, tác hại của nó ảnh hưởng
xấu đến hầu hết các ngành kinh tế khác, có thể gây tê liệt một số ngành và doanh
nghiệp, làm sản xuất, lưu thông hàng hoá bị đình trệ, chức năng làm công cụ điều tiết
nền kinh tế bị suy yếu, quyền lợi người gửi bị đe doạ, ảnh hưởng xấu đến tiết kiệm –
đầu tư của nền kinh tế, nền kinh tế rối loạn, người lao động mất việc làm, khủng hoảng
kinh tế - xã hội kéo dài.
1.2. Các nghiên cứu liên quan
Các tài liệu nghiên cứu trước đây cho thấy các yếu tố tác động đến rủi ro tín dụng
được phân loại thành hai nhóm: yếu tố vĩ mô và yếu tô vi mô.
16
Trong đó, cách tiếp cận theo hướng kiểm tra sự tác động của các biến vĩ mô đến
rủi ro tín dụng chiếm đa số. Shu (2002), Zribi và Boujelbene (2011) và Vogiazas và
Nikolaidou (2011) đã nghiên cứu ảnh hưởng của chỉ số lạm phát đến rủi ro tín dụng ở
HongKong, Tunisia, Rumani, kết quả tìm được cho thấy 2 yếu tố này tỉ lệ nghịch với
nhau. Tuy nhiên, một vài nhà nghiên cứu khác lại tìm thấy những kết quả ngược
lại.Tiêu biểu như Gunsel (2008) và Rinaldi và Sanchis-Arellano (2006) lại cho ra kết
quả tỉ lệ thuận.
Castren và cộng sự (2008) tìm hiểu mối quan hệ giữa nợ xấu với tăng trưởng kinh
tế, tỷ giá hối đoái, giá xăng dầu ở các nước EU. Otani, Shiratsuka & Yamada (2009)
thuộc Ngân hàng trung ương Nhật Bản đã thiết kế một mô hình vĩ mô bao gồm các biến
GDP thực, CPI, tỷ giá danh nghĩa, lãi suất và tổng dư nợ. Jakubik & Schmieder (2008)
đã nhận thấy ảnh hưởng của tỷ lệ thất nghiệp, lãi suất danh nghĩa và lãi suất thực, tỷ lệ
lạm phát, chênh lệch lãi suất, tốc độ tăng trưởng GDP thực, chênh lệch sản lượng, tỷ số
nợ trên GDP, tỷ số lãi phải trả trên thu nhập khả dụng với các khoản nợ xấu ở Cộng hòa
Czech.
Rinaldi và Sanchis-Arellano (2006) phân tích sự bền vững của nợ hộ gia đình ở
các nước châu Âu( như Bỉ, Pháp, Phần Lan, Ireland, Ý, Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha)
và cung cấp bằng chứng thực nghiệm rằng thu nhập sẵn có, thất nghiệp và các điều kiện
lưu thông tiền tệ có ảnh hưởng mạnh mẽ đến rủi ro tín dụng ngân hàng. Berge và
Boyne(2007) chỉ ra rằng các khoản vay rất nhạy cảm với lãi suất thực và tỉ lệ thất
nghiệp trong hệ thống ngân hàng Bắc Âu giai đoạn 1993-2005.
Funda Yurdakul (2013) nhận định rằng rủi ro tín dụng của ngân hàng chịu ảnh
hưởng của tình trạng kinh tế, rủi ro tín dụng NH giảm trong giai đoạn kinh tế tăng
trưởng, khi mà có sự cải thiện các chỉ báo vĩ mô, trong khi rủi ro tín dụng sẽ tăng trong
giai đoạn khủng hoảng và suy thoái. Nghiên cứu này cũng ủng hộ quan điểm đó.Theo
ông, một môi trườngkinh tế mạnh như Thổ Nhĩ Kỳ sẽ không chịu bất kì vấn đề nào về
rủi ro tín dụng ngân hàng.
17
Có rất it các nghiên cứu tập trung vào các yếu tố cụ thể bên trong ngân hàng.
Chúng tôi trích dẫn các nghiên cứu của Ahmas và Ariff(2007), Berger và
DeYoung(1997), Podpiera và Weill(2008), họ xem xét liên kết giữa các đặc điểm cụ thể
bên trong ngân hàng, tập trung vào các khoản cho vay có vấn đề. Các nghiên cứu trên
trình bày những vấn đề có thể có, như là “may rủi”, “quản lý kém”,…, “rủi ro đạo đức”
liên quan đến hiệu quả sử dụng vốn. Họ kiểm tra mẫu của ngân hàng Mĩ trong giai đoạn
1985-1994, và kết luận rằng hiệu quả sử dụng chi phí có thể là chỉ báo quan trọng đối
với các khoản vay có vấn đề trong tương lai.
Havrylchyk (2003) với nghiên cứu về ảnh hưởng của chất lượng hoạt động của
ngân hàng đối với rủi ro tín dụng ở các nước đang phát triển. Qua kết quả phân tích, rủi
ro tín dụng của các ngân hàng trong nước thì cao hơn các ngân hàng nước ngoài có lẽ là
do quy mô, kinh nghiệm các ngân hàng của các nước đang phát triển thì hạn chế hơn so
với các ngân hàng đến từ các nước phát triển.
Podpiera và Weill (2008) tiếp tục phạm vi nghiên cứu và kiểm tra mối quan hệ
giữa hiệu quả sử dụng chi phí và các khoản nợ xấu. Họ mở rộng mô hình nhân quả
Granger được phát triển bởi Berger và DeYoung(1997) bằng cách áp dụng phương
pháp thời điểm (GMM) thống kê ước lượng bảng động trên dữ liệu của ngân hàng cộng
hòa Czech trong giai đoạn 1994-2005. Nghiên cứu cũng cung cấp bằng chứng thực
nghiệm xác nhận rằng hiệu quả sử dụng chi phí sẽ giảm do nợ xấu.
Trong cùng lĩnh vực nghiên cứu lại có rất ít những bài viết kết hợp phân tích sự
tác động của cả biến vĩ mô và vi mô đến rủi ro tín dụng, hoặc những bài viết này chỉ
chuyên sâu vào nghiên cứu ở một quốc gia nhất định. Chẳng hạn như Zribi và
Boujelbene (2011) đã kiểm tra các yếu tổ quyết định rủi ro tín dụng tại Tunisia – một
quốc gia mới nổi – trong giai đoạn 1995 đến 2008, kết quả nhận định các yếu tố quyết
định chính đến vấn đề nợ xấu ở các ngân hàng tại Tunisa là cơ cấu sở hữu, quy định
bảo đảm an toàn vốn, lợi nhuận và một số chỉ số vĩ mô.
Đến nay, chúng tôi chỉ mới phát hiện một nghiên cứu của Hasna Chaibi, Zied
Ftiti(2014) về các yếu tố quyết định rủi ro tín dụng tương quan giữa hai quốc gia ở khu
18
vực EU mà có sự kết hợp giữa các biến vĩ mô và vi mô. Trong nghiên cứu này, 11 yếu
tố quyết định tiềm năng đã được kết hợp trong các mô hình thử nghiệm.Họ sử dụng
cách tiếp cận dữ liệu bảng động trong giai đoạn 2005-2011 để kiểm tra những yếu tố
quyết định việc cho vay không hiệu quả trong cả hai hệ thống ngân hàng ở hai nền kinh
tế, cụ thể là kinh tế thị trường, đại diện Pháp, và nền kinh tế dựa trên ngân hàng, đại
diện Đức. Họ nhận thấy rằng tất cả những biến số vĩ mô, đặc biệt là tốc độ phát triển
GDP, lãi suất, tỉ lệ thất nghiệp, và tỉ giá hối đoái có tác động mạng mẽ lên cả 2 nền kinh
tế. Trường hợp ngoại lệ duy nhất là tỉ lệ lạm phát ở Pháp. Song, cả hai hệ thống ngân
hàng chỉ có chung hai yếu tố quyết định rủi ro tín dụng trong nội bộ ngân hàng, chính là
quy mô và lợi nhuận. Ngoài những yếu tố quyết định chung, việc cho vay không hiệu
quả còn phụ thuộc vào những yếu tố khác như: rủi ro của ngân hàng Pháp được quyết
định bởi điều khoản rủi ro tín dụng và sự kém hiệu quả, trong khi đó yếu tố quyết định
việc cho vay không hiệu quả của những ngân hàng Đức phụ thuộc vào tác động đòn
bẩy của các ngân hàng. Do đó, phân tích này nhấn mạnh rằng rủi ro tín dụng trong nền
kinh tế thị trường cao hơn trong nền kinh tế dựa trên ngân hàng, và rủi ro cao hơn này
được hình thành bởi một số lượng lớn các yếu tố ngân hàng cụ thể của Pháp so với
Đức.
Dưới đây là bảng tổng hợp những nghiên cứu trước đây về các yếu tố ảnh hưởng
đến rủi ro tín dụng của ngân hang được thực hiện ở nhiều nước khác nhau trên thế giới
cùng với phương pháp nghiên cứu và kết quả của chúng :
Bảng 1: Tổng hợp những bài nghiên cứu trước đây về các yếu tố tác động đến hệ
thống ngân hàng
Bài nghiên cứu Mẫu Phương pháp Kết quả
Vĩ mô
Castro (2013).
Macroeconomic
determinants of the
credit risk in the
banking system: The
Hy Lạp, Ai Len,
Tây Ban Nha và
Ý (GIPSI), giai
đoạn từ quí I
năm 1997 đến
Dữ liệu bảng
dynamic, GMM,
phương pháp
Arellano-Bond
Rủi ro ngân hàng chịu
ảnh hưởng bởi tăng
trưởng GPD, chỉ số
giá nhà ở, tỷ lệ thất
nghiệp, lãi suất, tăng
19
case of the GIPSI.
Econ. Model. 31,
672–683.
quí III năm 2011
trưởng tín dụng, tỷ giá
thực, và tình trạng
khủng hoảng tài chính
Ali và Daly (2010).
Macroeconomic
determinants of credit
risk: recent evidence
from a cross-country
study. Int. Rev. Financ.
Anal. 19, 165–171
Úc và Mỹ, từ
quí I năm 1995
đến quí 2 năm
2009
Phương pháp cấu
trúc và phương
pháp rút gọn
Cùng 1 bộ biến vĩ mô
cho thấy những kết
quả khác nhau giữa 2
quốc gia. GDP, lãi
suất ngắn hạn, tổng nợ
để giải thích rủi ro vỡ
nợ ở 2 nước. Nền kinh
tế Mỹ dễ bị tổn thương
bởi các cú sốc bất lợi
về vĩ mô hơn là Úc
Rinaldi and Sanchis-
Arellano (2006).
Household debt
sustainability: what
explains household
non-performing loans?
An Empirical Analysis.
ECB Working Paper
Bỉ, Pháp, Phần
Lan, Ai Len và
Tây Ban Nha
Phân tích kiểm
tra bằng đồ thị
Thu nhập khả dụng,
thất nghiệp và tình
trạng tiền tệ ảnh
hưởng mạnh đến rủi ro
tín dụng ngân hàng
Vi mô
Podpiera and Weill
(2008).
Bad luck or bad
management?
Emerging banking
market experience. J.
Financ. Stab. 4, 135–
148
Czech, 1994 -
2005
Mở rộng mô hình
nhân quả của
Berger và
DeYoung (1997)
bằng cách áp
dụng ước lượng
bảng động GMM
Các kết quả xác minh
giả thuyết “quản trị
xấu”, theo đó việc suy
giảm hiệu quả sử dụng
vốn kéo theo việc tăng
NPLs, và bác bỏ giả
thuyết “nợ xấu” do nó
đưa ra kết quả ngược
lại
Ahmad and Ariff
(2007).
Multi-country study of
bank credit risk
determinants. Int. J.
Bank. Finance 5 (1),
135–152
Các nền kinh tế
phát triển (Úc,
Pháp, Mỹ) so
sánh với các nền
kinh tế mới nổi
(Ấn Độ, Hàn
Quốc, Malaysia,
Phương pháp dữ
liệu chéo
Vốn pháp định là quan
trọng với hệ thống
ngân hàng nhờ việc
chắc chắn được phạm
vi của sản phẩm, chất
lượng quản trị có tính
quyết định trong việc
20
Mexico, Thái
Lan) trong giai
đoạn 1996 –
2002
quản trị các khoản vay
của ngân hàng ở các
nền kinh tế mới nổi,
đòn bẩy tài chính
không liên quan đến
rủi ro tín dụng
Berger and DeYoung
(1997).
Problem loans and cost
efficiency in
commercial banks. J.
Bank. Finance 21, 849–
870
Các ngân hàng
Mỹ từ 1985 đến
1994
Kĩ thuật nhân
quả
Chi phí sử dụng vốn
có thể là 1 chỉ báo
quan trọng cho các
vấn đề nợ và vấn đề
của ngân hàng trong
tương lai.
Vĩ mô và vi mô tại 1 quốc gia cụ thể
Louzis và cộng sự
(2012).
Macroeconomic and
bank-specific
determinants of non-
performing loans in
Greece: a comparative
study of mortgage,
business and consumer
loan portfolios. J.
Bank. Finance 36 (4),
1012–1027
Ngành ngân
hàng Hy Lạp
giai đoạn 2003 –
2009
Phương pháp dữ
liệu bảng động
Các vấn đề về nợ hầu
hết được giải thích bởi
các biến vĩ mô (Tốc
độ tăng GDP thực, tỷ
lệ thất nghiệp, lãi suất,
nợ công). Cũng được
giải thích bởi 1 số biến
vi mô như là các chỉ
báo về kết quả kinh
doanh và hiệu suất
Zribi and Boujelbène
(2011)
The factors influencing
bank credit risk: the
case of Tunisia. J.
Account. Tax. 3 (4),
70–78.
10 NHTM
Tunisi từ 1995
đến 2008
Phương pháp dữ
liệu bảng
Các yếu tố chính ảnh
hưởng rủi ro tín dụng
ngân hàng là cấu trúc
quyền sở hữu, điều lệ
khôn ngoan của ngân
hàng về vốn và lợi
nhuận, các yếu tố vĩ
mô (tăng trưởng GDP,
lạm phát, tỷ giá, lãi
suất)
Vĩ mô và vi mô so sánh giữa 2 quốc gia
21
Hasna Chaibi, Zied
Ftiti(2014).
Credit risk
determinants: Evidence
from a cross-country
study
Xác định các
yếu tố vĩ mô và
vi mô dẫn đến
sự khác nhau rõ
rệt về rủi ro tín
dụng giữa Đức
và Pháp (2005 –
2011)
GMM 2 bước
Tất cả những biến số
vĩ mô, đặc biệt là tốc
độ phát triển GDP, lãi
suất, tỉ lệ thất nghiệp,
và tỉ giá hối đoái có
tác động mạng mẽ lên
cả 2 nền kinh tế. Phân
tích này nhấn mạnh
rằng rủi ro tín dụng
trong nền kinh tế thị
trường cao hơn trong
nền kinh tế dựa trên
ngân hàng, và rủi ro
cao hơn này được hình
thành bởi một số
lượng lớn các yếu tố
vi mô của Pháp so với
Đức.
Tiếp theo sẽ là bảng thể hiện các biến được sử dụng trong các bài nghiên cứu
trên, từ đó so sánh với các biến được sử dụng trong bài nghiên cứu của chúng tôi :
Bảng 2: So sánh các biến sử dụng trong các bài nghiên cứu trước đây với các
biến sử dụng trong bài
Bài nghiên cứu Biến
Biến được sử dụng trong
bài
Castro (2013).
Macroeconomic
determinants of the credit
risk in the banking system:
The case of the GIPSI.
Econ. Model. 31,
Thất ngiệp
Tốc độ tăng trưởng GDP
Lãi suất (lãi suất dài hạn, lãi
suất thực, chênh lệch giữa lãi
suất dài hạn và ngắn hạn)
Tổng tăng trưởng tín dụng
Tỷ lệ tăng chỉ số cổ phiếu
Tỉ lệ thất nghiệp
Tốc độ tăng trưởng GDP
Lãi suất
22
Chỉ số giá nhà ở hằng quý
Tỷ giá thực hiệu quả
Lạm phát
Khủng hoảng tài chính
Lạm phát
Ali và Daly (2010).
Macroeconomic
determinants of credit risk:
recent evidence from a
cross-country study. Int.
Rev. Financ.
GDP
Lãi suất
Sản phẩm công nghiệp
Tỷ số nợ trên GDP
GDP
Lãi suất
Rinaldi and Sanchis-
Arellano (2006).
Household debt
sustainability: what
explains household non-
performing loans? An
Empirical Analysis. ECB
Working Paper
Nợ của hộ gia đình
Thu nhập khả dụng
Tỷ lệ tổng tài sản tài chính
của HGĐ trên thu nhập khả
dụng
Lãi suất cho vay thực
Tỷ lệ thất nghiệp
Tỷ lệ lạm phát
Tỷ lệ thất nghiệp
Tỷ lệ lạm phát
Podpiera and Weill (2008).
Bad luck or bad
management? Emerging
banking market
experience. J. Financ. Stab.
4, 135–148
Hiệu quả sử dụng vốn Hiệu quả sử dụng vốn
Ahmad and Ariff (2007).
Multi-country study of
Hiệu quả quản trị
Dự phòng rủi ro Dự phòng rủi ro
23
bank credit risk
determinants. Int. J. Bank.
Finance 5 (1), 135–152
Tỷ lệ cho vay trên vốn huy
động
Đòn bẩy tài chính
Vốn pháp định
Chi phí huy động vốn
Thanh khoản
Chênh lệch lãi suất cho vay
và huy động vốn
Tổng tài sản
Đòn bẩy tài chính
Berger and DeYoung
(1997).
Problem loans and cost
efficiency in commercial
banks. J. Bank. Finance
21, 849–870
Chất lượng khoản vay
Chi phí sử dụng vốn
Vốn ngân hàng
Louzis và cộng sự (2012).
Macroeconomic and bank-
specific determinants of
non-performing loans in
Greece: a comparative
study of mortgage,
business and consumer
loan portfolios. J. Bank.
Finance 36 (4), 1012–1027
Vĩ mô
Tăng trưởng GDP
Tỷ lệ thất nghiệp
Tỷ lệ nợ công
Vi mô
ROE
Tỷ suất khả năng hoàn trả
Qui mô
Thu nhập ngoài lãi
Tỷ lệ và quy mô đòn bẩy tài
chính
Mức độ vốn Nhà nước
Tăng trưởng GDP
Tỷ lệ thất nghiệp
ROE
Qui mô
Thu nhập ngoài lãi
24
Zribi and Boujelbène
(2011)
The factors influencing
bank credit risk: the case
of Tunisia. J. Account.
Tax. 3 (4), 70–78.
Vĩ mô
Lạm phát
Tốc độ tăng GDP
Lãi suất
Tỷ giá
Vi mô
Tỷ suất khả năng sinh lời
Tỷ lệ vốn
Cấu trúc quyền sở hữu
Điều lệ quản lý ngân hàng
Biến kiểm soát
Quy mô ngân hàng
Lạm phát
Tốc độ tăng GDP
Lãi suất
Tỷ giá
Quy mô ngân hàng
Hasna Chaibi, Zied
Ftiti(2014).
Credit risk determinants:
Evidence from a cross-
country study
Vĩ mô
Lạm phát
Tăng trưởng GDP
Lãi suất
Thất nghiệp
Tỷ giá
Vi mô
NPLs
Dự phòng rủi ro tín dụng
Suất đòn bẩy
Tỉ lệ khả năng thanh toán
Lạm phát
Tăng trưởng GDP
Lãi suất
Thất nghiệp
Tỷ giá
NPLs
Dự phòng rủi ro tín dụng
Suất đòn bẩy
Tỉ lệ khả năng thanh toán
25
Thu nhập ngoài lãi
Quy mô
Lợi nhuận ngân hàng
Thu nhập ngoài lãi
Quy mô
Như vậy, các nghiên cứu chủ yếu sử dụng các biến vĩ mô như tỷ lệ lạm phát, tỉ lệ
tăng trưởng GDP, lãi suất, tỷ lệ thất nghiệp, tỷ giá hối đoái, các biến vi mô như hiệu
quả sử dụng vốn, dự phòng rủi ro tín dụng, đòn bẩy, chỉ số khả năng thanh toán, thu
nhập ngoài lãi và quy mô ngân hàng để xác định ảnh hưởng của chính các biến đó với
rủi ro tín dụng của hệ thống ngân hàng. Về kết quả tác động của từng biến có thể cho
ảnh hưởng khác nhau ở các quốc gia khác nhau do sự khác biệt về kinh tế, chính trị, xã
hội… Bài nghiên cứu của chúng tôi đã chọn lọc sử dụng những biến phổ biến, được các
nhà nghiên cứu sử dụng nhiều nhất trong các bài nghiên cứu về lĩnh vực rủi ro tín dụng
ngân hàng.