Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

TÍCH hợp TRONG dạy học NGỮ văn ở TRƯỜNG PHỔ THÔNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (64.41 KB, 9 trang )

TÍCH HỢP TRONG DẠY HỌC NGỮ VĂN Ở
TRƯỜNG PHỔ THÔNG
I. Tích hợp là một trong những xu thế dạy học hiện đại hiện đang
được quan tâm nghiên cứu và áp dụng vào nhà trường ở nhiều nước trên
thế giới. Ở nước ta, từ thập niên 90 của thế kỷ XX trở lại đây, vấn đề xây
dựng môn học tích hợp với những mức độ khác nhau mới thực sự được tập
trung nghiên cứu, thử nghiệm và áp dụng vào nhà trường phổ thông, chủ
yếu ở bậc Tiểu học và cấp THCS. Trước đó, tinh thần giảng dạy tích hợp
chỉ mới được thực hiện ở những mức độ thấp như liên hệ, phối hợp các
kiến thức, kĩ năng thuộc các môn học hay phân môn khác nhau để giải
quyết một vấn đề giảng dạy.
Hiện nay, xu hướng tích hợp vẫn đang được tiếp tục nghiên cứu, thử
nghiệm và áp dụng vào đổi mới chương trình và SGK THPT.
Chương trình
THPT, môn Ngữ văn
, năm 2002 do Bộ GD&ĐT dự thảo đã ghi rõ: “Lấy
quan điểm tích hợp làm nguyên tắc chỉ đạo để tổ chức nội dung chương
trình, biên soạn SGK và lựa chọn các phương pháp giảng dạy.” (tr.
27) “Nguyên tắc tích hợp phải được quán triệt trong toàn bộ môn học, từ
Đọc văn, Tiếng Việt đến Làm văn; quán triệt trong mọi khâu của quá trình
dạy học; quán triệt tromg mọi yếu tố của hoạt động học tập; tích hợp trong
chương trình; tích hợp trong SGK; tích hợp trong phương pháp dạy học của
GV và tích hợp trong hoạt động học tập của HS; tích hợp trong các sách đọc
thêm, tham khảo.” (tr. 40).
Như vậy, ở nước ta hiện nay, vấn đề cần hay không cần tích hợp trong xây
dựng nội dung chương trình, biên soạn SGK và lựa chọn các phương pháp
giảng dạy môn Ngữ văn không đặt ra nữa. Bài toán đang đặt ra trong lĩnh
vực lí luận và phương pháp dạy học bộ môn là phải tiếp cận, nghiên cứu
và vận dụng dạy học tích hợp vào dạy học Ngữ văn ở THPT nhằm hình
thành và phát triển năng lực cho HS một cách có hiệu quả hơn, góp phần
thực hiện tốt mục tiêu giáo dục và đào tạo của bộ môn.


II.1. Tích hợp (integration) có nghĩa là sự hợp nhất, sự hoà nhập,
sự kết hợp. Nội hàm khoa học khái niệm tích hợp có thể hiểu một cách
khái quát là sự hợp nhất hay là sự nhất thể hoá đưa tới một đối tượng mới
như là một thể thống nhất trên những nét bản chất nhất của các thành
phần đối tượng, chứ không phải là một phép cộng giản đơn những thuộc
tính của các thành phần ấy. Hiểu như vậy, tích hợp có hai tính chất cơ bản,
liên hệ mật thiết với nhau, quy định lẫn nhau, là tính liên kết và tính toàn
vẹn. Liên kết phải tạo thành một thực thể toàn vẹn, không còn sự phân
chia giữa các thành phần kết hợp. Tính toàn vẹn dựa trên sự thống nhất
nội tại các thành phần liên kết, chứ không phải sự sắp đặt các thành phần
bên cạnh nhau. Không thể gọi là tích hợp nếu các tri thức, kĩ năng chỉ
được thụ đắc, tác động một cách riêng rẽ, không có sự liên kết, phối hợp
với nhau trong lĩnh hội nội dung hay giải quyết một vấn đề, tình huống.
Trong lí luận dạy học, tích hợp được hiểu là sự kết hợp một cách hữu cơ,
có hệ thống, ở những mức độ khác nhau, các kiến thức, kĩ năng thuộc các
môn học khác nhau hoặc các hợp phần của bộ môn thành một nội dung
thống nhất, dựa trên cơ sở các mối liên hệ về lí luận và thực tiễn được đề
cập đến trong các môn học hoặc các hợp phần của bộ môn đó.
Trong
Chương trình THPT, môn Ngữ văn
, năm 2002 của Bộ GD&ĐT, khái
niệm tích hợp cũng được hiểu là “sự phối hợp các tri thức gần gũi, có quan
hệ mật thiết với nhau trong thực tiễn, để chúng hỗ trợ và tác động vào
nhau, phối hợp với nhau nhằm tạo nên kết quả tổng hợp nhanh chóng và
vững chắc.” (tr. 27)
II.2. Trên thế giới, tích hợp đã trở thành một trào lưu sư phạm hiện
đại bên cạnh các trào lưu sư phạm theo mục tiêu, giải quyết vấn đề, phân
hoá, tương tác Trào lưu sư phạm tích hợp xuất phát từ quan niệm về quá
trình học tập, trong đó toàn thể các quá trình học tập góp phần hình thành ở
HS những năng lực rõ ràng, có dự tính những hoạt động tích hợp trong đó

HS học cách sử dụng phối hợp các kiến thức, kĩ năng và thao tác đã lĩnh hội
một cách riêng rẽ.
Khái niệm năng lực ở đây được hiểu là một khái niệm tích hợp bao hàm cả
những nội dung, những hoạt động cần thực hiện và những tình huống
trong đó diễn ra các hoạt động. Theo ý nghĩa đó, năng lực được định
nghĩa là sự tích hợp các kĩ năng (các hoạt động) tác động một cách thích
hợp và tự nhiên lên các nội dung trong một loại tình huống cho trước để
giải quyết những vấn đề do tình huống này đặt ra. Năng lực này là một
hoạt động phức hợp đòi hỏi sự tích hợp, phối hợp các kiến thức và kĩ năng,
chứ không phải là sự tác động các kĩ năng riêng rẽ lên một nội dung.
Khoa sư phạm tích hợp nhấn mạnh dạy cách tìm tòi sáng tạo và cách vận
dụng kiến thức vào các tình huống khác nhau. Tức là, dạy cho HS biết
cách sử dụng kiến thức và kĩ năng của mình để giải quyết những tình huống
cụ thể, có ý nghĩa nhằm mục đích hình thành, phát triển năng lực. Đồng thời
chú ý xác lập mối liên hệ giữa các kiến thức, kĩ năng khác nhau của các
môn học hay các phân môn khác nhau để bảo đảm cho HS khả năng huy
động có hiệu quả những kiến thức và năng lực của mình vào giải quyết các
tình huống tích hợp.
III.1. Việc vận dụng quan điểm tích hợp vào dạy học Ngữ văn ở
trường THPTchẳng những dựa trên cơ sở các mối liên hệ về lí luận và thực
tiễn được đề cập trong các phân môn Văn học, Tiếng Việt, Làm văn cũng
như các bộ phận tri thức khác như hiểu biết lịch sử xã hội, văn hoá nghệ
thuật mà còn xuất phát từ đòi hỏi thực tế là cần phải khắc phục, xoá bỏ
lối dạy học theo kiểu khép kín, tách biệt thế giới nhà trường và thế giới cuộc
sống, cô lập giữa những kiến thức và kĩ năng vốn có liên hệ, bổ sung cho
nhau, tách rời kiến thức với các tình huống có ý nghĩa, những tình huống cụ
thể mà HS sẽ gặp sau này. Nói khác đi, đó là lối dạy học khép kín “trong nội
bộ phân môn”, biệt lập các bộ phận Văn học, Tiếng Việt và Làm văn vốn có
quan hệ gần gũi về bản chất, nội dung và kĩ năng cũng như mục tiêu, đủ
cho phép phối hợp, liên kết nhằm tạo ra những đóng góp bổ sung cho nhau

cả về lí luận và thực tiễn, đem lại kết quả tổng hợp và vững chắc trong việc
giải quyết những tình huống tích hợp hoặc những vấn đề thuộc từng phân
môn.
Vận dụng quan điểm tích hợp trong dạy học Ngữ văn là cách thức để khắc
phục, hạn chế lối dạy học đó nhằm nâng cao năng lực sử dụng những kiến
thức và kĩ năng mà HS lĩnh hội được, bảo đảm cho mỗi HS khả năng huy
động có hiệu quả những kiến thức và kĩ năng của mình để giải quyết
những tình huống có ý nghĩa, cũng có khi là một tình huống khó khăn, bất
ngờ, một tình huống chưa từng gặp. Mặt khác, tránh được những nội
dung, kiến thức và kĩ năng trùng lặp, đồng thời lĩnh hội những nội dung, tri
thức và năng lực mà mỗi môn học hay phân môn riêng rẽ không có được.
III.2. Dạy học Ngữ văn theo định hướng tích hợp vẫn theo đuổi quan
điểm “lấy HS làm trung tâm”, tích cực hoá hoạt động học tập của HS trong
mọi mặt, mọi khâu của quá trình dạy học; tìm mọi cách phát huy năng lực
tự học, năng lực sáng tạo của HS. Do vậy, việc lựa chọn và sử dụng các
phương pháp dạy học cần chú ý bảo đảm các yêu cầu sau:
- Giúp HS tích hợp các kiến thức và kĩ năng đã lĩnh hội, xác lập mối liên hệ
giữa các tri thức và kĩ năng thuộc các phân môn đã học bằng cách tổ chức,
thiết kế các nội dung, tình huống tích hợp để HS vận dụng phối hợp các tri
thức và kĩ năng riêng rẽ của các phân môn vào giải quyết vấn đề đặt ra, qua
đó lĩnh hội các kiến thức và phát triển năng lực, kĩ năng tích hợp.
- Tổ chức, thiết kế các hoạt động phức hợp để HS học cách sử dụng phối
hợp những kiến thức và kĩ năng đã thụ đắc trong “nội bộ các phân môn”.
- Đặt HS vào trung tâm của quá trình dạy học để HS trực tiếp tham gia vào
giải quyết các vấn đề, tình huống tích hợp; biến quá trình truyền thụ tri thức
thành quá trình HS tự ý thức về cách thức chiếm lĩnh tri thức và hình thành
kĩ năng.
- Phát huy tính tích cực chủ động và sáng tạo của HS; chú trọng mối quan
hệ giữa HS với SGK; phải buộc HS chủ động tự đọc, tự làm việc độc lập
theo SGK, theo hướng dẫn của GV.

III.3. Thiết kế bài dạy học Ngữ văn theo quan điểm tích hợp không
chỉ chú trọng nội dung kiến thức tích hợp mà cần thiết phải xây dựng một
hệ thống việc làm, thao tác tương ứng nhằm tổ chức, dẫn dắt HS từng
bước thực hiện để chiếm lĩnh đối tượng học tập, nội dung môn học, đồng
thời hình thành và phát triển năng lực, kĩ năng tích hợp, tránh áp đặt một
cách làm duy nhất.Giờ học Ngữ văn theo quan điểm tích hợp phải là một giờ
học hoạt động phức hợp đòi hỏi sự tích hợp các kĩ năng, năng lực liên môn để
giải quyết nội dung tích hợp, chứ không phải sự tác động các hoạt động, kĩ
năng riêng rẽ lên một nội dung riêng rẽ thuộc “nội bộ phân môn”.
IV.1. Dạy học TPVC theo quan điểm tích hợp đòi hỏi phải biến giờ
“giảng văn” thành giờ dạy kĩ năng đọc hiểu cho HS, hướng tới làm cho các
em có năng lực đọc hiểu bất kì văn bản nào.
Khái niệm đọc hiểu là một trong những khái niệm cơ bản làm cơ sở cho việc
dạy họcTPVC ở THPT theo quan điểm tích hợp, là một trong những năng lực
tối thiểu cần hình thành và phát triển cho HS. Khái niệm đọc hiểu nói lên
hoạt động của HS phải được thay thế cho khái niệm giảng văn chỉ nói lên
hoạt động của người thầy theo quan điểm “lấy người dạy làm trung tâm”. Dĩ
nhiên ở đây không hề triệt tiêu yếu tố “giảng” của người thầy, một yếu tố
vốn có vai trò kích thích hứng thú đọc hiểu cho HS, nếu được sử dụng thích
đáng, mà là để nhấn mạnh hoạt động đọc hiểu của trò, được coi là hoạt
động trung tâm của quá trình dạy học TPVC. Hoạt động đọc hiểu trong nhà
trường phải được thiết kế và thực hiện theo một trình tự qua các giai đoạn
và ở những mức độ khác nhau: từ dễ đến khó, từ thấp đến cao, từ hẹp đến
rộng, từ đọc tích luỹ đến đọc hiểu, từ đọc đánh giá đến đọc sáng tạo
IV.2. Dạy đọc hiểu TPVC theo quan điểm tích hợp đòi hỏi GV phải
thay đổi cách dạy học. GV phải có ý thức đầy đủ về trình độ tiếng Việt, đặc
thù và hoạt động cảm thụ văn học của HS để có phương pháp phát triển,
nâng cao lên cho ngang tầm với việc đọc hiểu văn bản. Tất nhiên, có nhiều
cách đọc đối với một văn bản, nhưng trong nhà trường THPT phải tập trung
chú ý trước hết mức độ phổ thông, không đi sâu vào những khía cạnh triết

học, tâm lí phức tạp. HS phải biết vai trò biểu đạt của từ ngữ, câu, đoạn,
mạch lạc, hình ảnh, biểu tượng, những cách biểu đạt đa dạng như hàm ẩn,
nghịch lí, ngữ cảnh hẹp và rộng; từ đó HS nắm được cái chìa khoá nằm
trong hệ thống biểu đạt của văn bản để tự mình đọc được và tự học. Muốn
vậy, GV phải biết lựa chọn và sử dụng phương pháp dạy học nhằm kết hợp
hữu cơ hoạt động đọc hiểu văn bản với tri thức và kĩ năng tiếng Việt.
Dạy đọc hiểu TPVC cần chú trọng hình thành cho HS cách đọc có phương
pháp, phát huy năng lực cảm thụ thẩm mĩ trực tiếp, khêu gợi tưởng tượng
tái hiện và tưởng tượng sáng tạo, liên tưởng hình tượng và liên tưởng ý
niệm, bồi dưỡng năng lực cảm thụ tinh tế, nhanh nhạy, phát triển năng lực
tư duy, cắt nghĩa, khái quát, tránh suy diễn máy móc tuỳ tiện, xuyên tạc
dung tục, mô phỏng sáo mòn hời hợt, thiếu màu sắc chủ quan, cá tính
sáng tạo.
Giờ dạy đọc hiểu TPVC cần tích hợp tri thức, kĩ năng tiếng Việt và Làm
văn; phải làm cho HS thực sự cảm được cái hay, cái đẹp, sự tinh tế, độc
đáo của tiếng mẹ đẻ, bồi dưỡng cho HS năng lực sử dụng tiếng Việt đúng
và hay; chú trọng rèn luyện cho HS cách diễn đạt giản dị, trong sáng,
chính xác, lập luận chặt chẽ, có suy nghĩ độc lập, bộc lộ thái độ riêng trước
những vấn đề về văn học và đời sống, tránh lối nói, viết sáo rỗng, sao
chép
IV.3. Thiết kế giáo án giờ học TPVC theo quan điểm tích hợp
Giáo án giờ học TPVC không phải là một bản đề cương kiến thức để GV lên
lớp giảng giải, truyền thụ áp đặt cho HS, mà là một bản thiết kế các hoạt
động, thao tác nhằm tổ chức cho HS thực hiện trong giờ lên lớp để lĩnh hội
tri thức, phát triển năng lực và nhân cách theo mục đích giáo dục và giáo
dưỡng của bộ môn.
Đó là bản thiết kế gồm hai phần hợp thành hữu cơ: Một là, hệ thống các
tình huống dạy học được đặt ra từ nội dung khách quan của bài văn, phù
hợp với tính chất và trình độ tiếp nhận của HS. Hai là, một hệ thống các
hoạt động, thao tác tương ứng với các tình huống trên do GV sắp xếp, tổ

chức hợp lí nhằm hướng dẫn HS từng bước tiếp cận, chiếm lĩnh bài văn
một cách tích cực và sáng tạo.
Thiết kế giáo án giờ học TPVC phải bám chặt vào những giá trị tư tưởng và
nghệ thuật vốn có và ổn định của TP trong đời sống văn hoá - lịch sử đầy
biến động của nó, đồng thời phải mở ra hướng thu nạp các nhu cầu, thị
hiếu, cá tính và khả năng diễn dịch của cá nhân HS.
Thiết kế giáo án giờ học TPVC ở THPT phải bảo đảm nội dung và cấu trúc
đặc thù nhưng không gò ép vào một khuôn mẫu cứng nhắc mà cần tạo ra
những chân trời mở cho sự tìm tòi sáng tạo trong các phương án tiếp nhận
của HS, trên cơ sở bảo đảm được chủ đích, yêu cầu chung của giờ học.
Nội dung dạy học của thiết kế giáo án giờ học TPVC phải làm rõ những tri
thức và kĩ năng cần hình thành, tích luỹ cho HS qua phân tích, chiếm lĩnh
bài văn; mặt khác, phải chú trọng nội dung tích hợp giữa tri thức lí thuyết
và lịch sử văn học với Tiếng Việt, Làm văn, với hiểu biết văn hoá và đời
sống, v.v
Giáo án giờ học TPVC theo quan điểm tích hợp phải chú trọng thiết kế các
tình huống tích hợp và tương ứng là các hoạt động phức hợp để HS vận
dụng phối hợp các tri thức và kĩ năng của các phân môn vào xử lí các tình
huống đặt ra, qua đó chẳng những lĩnh hội được những tri thức và kĩ năng
riêng rẽ của từng phân môn mà còn chiếm lĩnh tri thức và phát triển năng
lực tích hợp.
Nội dung tích hợp của thiết kế giáo án cần tập trung vào

những điểm quy
tụ, liên kết nội dung ba bộ phận Văn - Tiếng Việt - Làm văn trong văn bản
để xây dựng các tình huống tích hợp và các hoạt động phức hợp tương
ứng nhằm giúp HS tích hợp tri thức và kĩ năng trong khi xử lí tình huống.
Đó có thể là những từ ngữ, câu thơ, đoạn văn, những chi tiết, hình tượng,
các sự kiện, quan hệ, tình huống mà muốn cảm hiểu, cắt nghĩa, đánh giá
đòi hỏi phải vận dụng tri thức liên văn bản, phải tổng hợp hiểu biết nhiều

mặt về lịch sử, xã hội, tâm lí, văn hoá, văn học, ngôn ngữ
IV.4. Tổ chức giờ học TPVC trên lớp là tiến trình thực thi bản kế hoạch
phối hợp hữu cơ hoạt động của GV và HS theo một cơ cấu sư phạm hợp lí,
khoa học, trong đó GV giữ vai trò, chức năng tổ chức, hướng dẫn, định hướng
chứ không phải truyền thụ áp đặt một chiều. HS được đặt vào vị trí trung tâm
của quá trình tiếp nhận, đóng vai trò chủ thể cảm thụ, nhận thức thẩm mĩ,
trực tiếp tiến hành hoạt động tiếp cận, khám phá, chiếm lĩnh bài văn, chuyển
TP của nhà văn vào trong tư duy, cảm xúc của mình, biến TP thành thế giới
tinh thần, tình cảm của riêng mình để tự nhận thức, tự giáo dục và phát triển
theo mục đích định hướng giáo dục của GV.
Tổ chức hoạt động đọc hiểu TPVC trên lớp, GV phải chú trọng mối quan hệ
giữa HS và văn bản (nội dung dạy học), phải coi đây là mối quan hệ cơ
bản, quan trọng nhất trong cơ chế giờ học. Muốn vậy, GV phải từ bỏ vai
trò, chức năng truyền thống là truyền đạt kiến thức có sẵn cho HS, còn HS
không thể duy trì thói quen nghe giảng, ghi chép, học thuộc, rồi “làm văn”
theo lối tái hiện, sao chép, làm thui chột dần năng lực tư duy trên văn bản,
khả năng tự đọc, tự tìm tòi, xử lí thông tin, tổ chức các kiến thức một cách
sáng tạo.
Ngày nay nhiều lí thuyết hiện đại về quá trình học tập đã nhấn mạnh rằng
hoạt động của HS trước hết là học cách học. Theo ý nghĩa đó, quan điểm
dạy học tích hợp đòi hỏi GV phải có cách dạy chú trọng phát triển ở HS
cách thức lĩnh hội kiến thức và năng lực, phải dạy cho HS cách thức hành
động để hình thành kiến thức và kĩ năng cho chính mình, phải có cách dạy
buộc HS phải tự đọc, tự học để hình thành thói quen tự đọc, tự học suốt
đời, coi đó cũng là một hoạt động đọc hiểu trong suốt quá trình học tập ở
nhà trường.
Quan điểm dạy học tích hợp hay dạy cách học, dạy tự đọc, tự học không
coi nhẹ việc cung cấp tri thức cho HS. Vấn đề là phải xử lí đúng đắn mối
quan hệ giữa bồi dưỡng kiến thức, rèn luyện kĩ năng và hình thành, phát
triển năng lực, tiềm lực cho HS. Đây thực chất là biến quá trình truyền thụ

tri thức thành quá trình HS tự ý thức về phương pháp chiếm lĩnh tri thức,
hình thành kĩ năng. Muốn vậy, chẳng những cần khắc phục khuynh hướng
dạy tri thức hàn lâm thuần tuý đã đành, mà còn cần khắc phục khuynh
hướng rèn luyện kĩ năng theo lối kinh nghiệm chủ nghĩa, ít có khả năng sử
dụng vào đọc hiểu văn bản, vào những tình huống có ý nghĩa đối với HS,
coi nhẹ kiến thức, nhất là kiến thức phương pháp.
V. Tóm lại, “
Quan điểm tích hợp cần được hiểu toàn diện và phải được quán triệt trong
toàn bộ môn học: từ Đọc văn, Tiếng Việt đến Làm văn; quán triệt trong
mọi khâu của quá trình dạy học; quán triệt trong mọi yếu tố của hoạt động
học tập; tích hợp trong chương trình, tích hợp trong SGK, tích hợp trong
phương pháp dạy học của GV và tích hợp trong hoạt động học tập của HS;
tích hợp trong các sách đọc thêm, tham khảo. Quan điểm “lấy HS làm
trung tâm” đòi hỏi thực hiện việc tích cực hoá hoạt động học tập của HS
trong mọi mặt, trên lớp và ngoài giờ; tìm mọi cách phát huy năng lực tự
học của HS, phát huy tinh thần dân chủ, bồi dưỡng lòng tin cho HS thì các
em mới tự tin và tự học, mới xem tự học là có ý nghĩa và như vậy đào tạo
mới có kết quả.” (
Chương trình THPT môn Ngữ văn
- Bộ GD&ĐT, năm
2002)

×