Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
i
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC Y - DƢỢC
NÔNG THỊ TUYẾN
ĐẶC ĐIỂM GLUCOSE MÁU SAU ĂN Ở BỆNH NHÂN
ĐÁI THÁO ĐƢỜNG TYP 2 ĐIỀU TRỊ TẠI BỆNH VIỆN
ĐA KHOA TRUNG ƢƠNG THÁI NGUYÊN
LUẬN VĂN THẠC SĨ Y HỌC
THÁI NGUYÊN - NĂM 2012
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ii
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC Y - DƢỢC
NÔNG THỊ TUYẾN
ĐẶC ĐIỂM GLUCOSE MÁU SAU ĂN Ở BỆNH NHÂN
ĐÁI THÁO ĐƢỜNG TYP 2 ĐIỀU TRỊ TẠI BỆNH VIỆN
ĐA KHOA TRUNG ƢƠNG THÁI NGUYÊN
Chuyên ngành : NỘI KHOA
Mã số : 60.72.01.40
LUẬN VĂN THẠC SĨ Y HỌC
Hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS NGUYỄN KIM LƢƠNG
THÁI NGUYÊN - NĂM 2012
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
iii
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này
do tôi thu thập là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ một công
trình nghiên cứu khoa học nào khác.
Thái Nguyên, ngày 6 tháng 12 năm 2012
Học viên
Nông Thị Tuyến
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
iv
LỜI CẢM ƠN
Hoàn thành khóa học và luận văn tốt nghiệp cao học này, tôi xin chân
thành cảm ơn Đảng uỷ, Ban Giám hiệu, Phòng Quản lý Đào tạo Sau Đại học
và bộ môn Nội Trường Đại học Y - Dược Thái Nguyên đã tạo điều kiện giúp
đỡ tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu.
Tôi xin chân thành cảm ơn Đảng ủy, Ban Giám hiệu, Phòng Đào tạo
Trường Cao đẳng Y tế Thái Nguyên đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong quá
trình học tập và nghiên cứu.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS TS. Nguyễn Kim Lƣơng
người thầy đã hết lòng dạy dỗ, dìu dắt, trực tiếp hướng dẫn và luôn tạo mọi
điều kiện thuận lợi giúp tôi hoàn thành luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám đốc, phòng Kế hoạch tổng hợp,
tập thể các bác sĩ, điều dưỡng khoa Khám bệnh, khoa Nội III, khoa Sinh hóa
Bệnh viện Đa khoa Trung ương Thái Nguyên đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi
trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Đặc biệt tôi xin tỏ lòng biết ơn tới gia đình, các đồng nghiệp và bạn bè
đã cổ vũ, động viên và giúp đỡ tôi trong suốt thời gian qua.
Thái Nguyên, tháng 12 năm 2012
Tác giả
Nông Thị Tuyến
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
v
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ADA: Hiệp hội đái tháo đường Mỹ (American Diabetes Association)
B/C : Biến chứng
B/M: Chỉ số vòng bụng/vòng mông
BMI: Chỉ số khối cơ thể (Body mass index)
CT: Cholesterol toàn phần
ĐTĐ: Đái tháo đường
G
0
: Glucose máu lúc đói
G
2
: Glucose máu sau ăn
IDF: Hiệp hội đái đường quốc tế (International Diabetes Federation)
HA: Huyết áp
HbA1c: Hemoglobin gắn đường (Glycosylated Hemoglobin)
HDL-C: Cholesterol trong lipoprotein tỷ trọng cao (High density
lipoprotein - Cholesterol)
LDL-C: Cholesterol trong lipoprotein tỷ trọng thấp (Low density lipoprotein
- Cholesterol)
TG: Triglycerid
THA: Tăng huyết áp
RLDNG: Rối loạn dung nạp glucose
UKPDS: Nghiên cứu về đái tháo đường của Vương quốc Anh
( United Kingdom Prospective Diabetes Study).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
vi
MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ i
Chƣơng 1: TỔNG QUAN 3
1.1. Định nghĩa đái tháo đường 3
1.2. Tiêu chuẩn chẩn đoán và phân loại bệnh đái tháo đường 3
1.3. Biến chứng bệnh đái tháo đường 6
1.4. Các rối loạn chuyển hóa ở bệnh nhân đái tháo đường 9
1.5. Tăng glucose máu sau ăn 11
1.6. Các biện pháp kiểm soát glucose máu sau ăn 15
1.7. Chế độ ăn và luyện tập của bệnh nhân ĐTĐ 24
1.8. Các nghiên cứu về tăng glucose máu sau ăn 26
Chƣơng 2: ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 33
2.1. Đối tượng nghiên cứu 33
2.2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu 34
2.3. Phương pháp nghiên cứu 34
2.4. Các chỉ tiêu nghiên cứu 34
2.5. Phương pháp thu thập số liệu 35
2.6. Vật liệu nghiên cứu 40
2.7. Xử lý số liệu 41
2.8. Đạo đức trong nghiên cứu 41
Chƣơng 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 42
3.1. Đặc điểm chung của nhóm đối tượng nghiên cứu 42
3.2. Thực trạng tăng glucose máu sau ăn ở nhóm đối tượng nghiên cứu 43
3.3. Liên quan giữa glucose máu sau ăn với một số chỉ số sinh hóa ở nhóm
đối tượng nghiên cứu 45
3.4. Liên quan giữa glucose máu sau ăn với chỉ số nhân trắc, số đo huyết áp 48
3.5. Liên quan giữa glucose máu sau ăn của nhóm đối tượng nghiên cứu
với một số biến chứng thường gặp 50
Chƣơng 4: BÀN LUẬN 53
4.1. Đặc điểm chung của nhóm nghiên cứu 53
4.2. Mô tả glucose máu sau ăn ở bệnh nhân đái tháo đường typ 2 điều trị
ngoại trú tại Bệnh viện Đa khoa Trung ương Thái Nguyên. 54
4.3. Xác định mối liên quan giữa glucose máu sau ăn với một số chỉ số sinh
hóa và biến chứng ở bệnh nhân đái tháo đường typ 2 58
KẾT LUẬN 73
KHUYẾN NGHỊ 75
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
vii
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.1. Vai trò của tăng glucose máu cấp trong việc hình thành các biến chứng 12
Bảng 1.2. Kết quả kiểm soát glucose máu ở bệnh nhân ĐTĐ týp 1 và 2 dùng
insulin lispro và insulin thường tiêm dưới da trong liệu pháp
insulin tăng cường 22
Bảng 2.1. Phân độ tăng huyết áp theo JNC-VI. 36
Bảng 2.2. Bảng xếp loại BMI. 37
Bảng 2.3. Tiêu chuẩn đánh giá cho người bệnh ĐTĐ theo WHO 2002 và
khuyến cáo của Hội nội tiết – ĐTĐ 2009 . 39
Bảng 3.1. Đặc điểm về tuổi của nhóm đối tượng nghiên cứu 42
Bảng 3.2. Số năm mắc bệnh ĐTĐ ở nhóm đối tượng nghiên cứu 43
Bảng 3.3. Đánh giá sự kiểm soát glucose máu của nhóm đối tượng nghiên cứu 44
Bảng 3.4. Đánh giá sự kiểm soát huyết áp, chỉ số BMI của nhóm đối tượng
nghiên cứu 44
Bảng 3.5. Đánh giá sự kiểm soát các thành phần lipid máu của nhóm đối tượng
nghiên cứu 45
Bảng 3.6. Liên quan giữa glucose máu sau ăn với glucose máu lúc đói ở nhóm
đối tượng nghiên cứu 45
Bảng 3.7. Liên quan giữa glucose máu sau ăn với chỉ số HbA1c ở nhóm đối
tượng nghiên cứu 46
Bảng 3.8. Liên quan giữa glucose máu sau ăn với rối loạn các thành phần lipid
máu ở nhóm đối tượng nghiên cứu 46
Bảng 3.9. Liên quan giữa glucose máu sau ăn với tăng enzyme AST, ALT ở
nhóm đối tượng nghiên cứu 47
Bảng 3.10. Liên quan giữa glucose máu sau ăn với rối loạn thành phần nước
tiểu ở nhóm đối tượng nghiên cứu 47
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
viii
Bảng 3.11. Liên quan giữa glucose máu sau ăn với rối loạn chức năng thận ở
nhóm đối tượng nghiên cứu 48
Bảng 3.12. Liên quan giữa glucose máu sau ăn với số đo huyết áp ở nhóm đối
tượng nghiên cứu 48
Bảng 3.13. Liên quan giữa glucose máu sau ăn với chỉ số BMI ở nhóm đối
tượng nghiên cứu 49
Bảng 3.14. Liên quan giữa glucose máu sau ăn với chỉ số vòng bụng, vòng
mông ở nhóm đối tượng nghiên cứu 49
Bảng 3.15. Liên quan giữa glucose máu sau ăn với biến chứng mắt của nhóm
đối tượng nghiên cứu 50
Bảng 3.16. Liên quan giữa glucose máu sau ăn với biến chứng răng của nhóm
đối tượng nghiên cứu 50
Bảng 3.17. Liên quan giữa glucose máu sau ăn với biến chứng thận của nhóm
đối tượng nghiên cứu 51
Bảng 3.18. Liên quan giữa glucose máu sau ăn với biến chứng tim mạch của
nhóm đối tượng nghiên cứu 51
Bảng 3.19. Liên quan giữa glucose máu sau ăn với biến chứng thần kinh của
nhóm đối tượng nghiên cứu 52
Bảng 3.20. Liên quan giữa glucose máu sau ăn với biến chứng bàn chân của
nhóm đối tượng nghiên cứu 52
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ix
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 3.1. Giới tính của đối tượng nghiên cứu 42
Biểu đồ 3.2. Tỷ lệ tăng glucose máu sau ăn của nhóm đối tượng nghiên cứu 43
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Thế kỷ XXI là thế kỷ của các bệnh nội tiết và rối loạn chuyển hóa.
Trong số các bệnh nội tiết và rối loạn chuyển hóa bệnh đái tháo đường
(ĐTĐ), nhất là đái tháo đường týp 2 đã và đang được xem là vấn đề cấp thiết
của thời đại. Đái tháo đường là một trong bốn bệnh không lây nhiễm (đái tháo
đường, tăng huyết áp, ung thư, tâm thần) có tỉ lệ gia tăng và phát triển nhanh
nhất thế giới. Theo thống kê của Tổ chức Y tế thế giới năm 1997, trên toàn
thế giới có khoảng 124 triệu người mắc bệnh đái tháo đường, năm 2000 có
151 triệu, năm 2006 có 246 triệu và con số này dự đoán sẽ tăng khoảng 300-
330 triệu người mắc bệnh đái tháo đường, chiếm 5,4% dân số toàn cầu năm
2025 [15]. Tại trung Quốc, năm 2009, tỷ lệ đái tháo đường đã tăng gấp đôi so
với dự đoán, còn tại Mỹ năm 2007 là 23,6 triệu người mắc đái tháo đường,
tương đương với 7% dân số và dự kiến đến năm 2030 có khoảng 30,3 triệu
người. Tại Việt Nam, năm 2002 tỷ lệ mắc bệnh đái tháo đường là 2,7%, trong đó
miền núi là 2,1%, đồng bằng là 2,7%, ở khu công nghiệp và thành phố là 4,4%
nhưng đến năm 2008, tỷ lệ sơ bộ mắc bệnh này chung toàn quốc là 5,7% [28].
Số người mắc bệnh được điều trị tại Bệnh viện Nội tiết Trung ương
trong 10 năm qua gia tăng nhiều. Năm 2003, số bệnh nhân được điều trị nội
trú chỉ là 2.480, con số này đã tăng lên 7.301 vào năm 2007, và số lượt bệnh
nhân đến khám tăng từ 53.042 lên 211.889 người. Tuy nhiên, đây chỉ chiếm
con số nhỏ, vì số người mắc bệnh mà không biết mình mắc bệnh đang chiếm
tới 65%. Có tới hơn 85% số bệnh nhân khi được phát hiện đã có biến chứng,
chỉ có khoảng 8% số bệnh nhân phát hiện được bệnh khi khám sức khoẻ định
kỳ. Do phát hiện bệnh muộn, đến bệnh viện muộn, đã dẫn tới chi phí cho mỗi
đợt điều trị của bệnh nhân rất tốn kém, từ 500.000 đồng - 20 triệu đồng [15].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
Đái tháo đường là một trong những bệnh lý mạn tính thường gặp nhất
trong các bệnh nội tiết và chuyển hóa. Bệnh gây ra nhiều biến chứng cấp tính
và mạn tính ảnh hưởng nặng nề đối với cuộc sống người bệnh như biến chứng
tim mạch, cầu thận, võng mạc, thần kinh, nhiễm khuẩn Thành công của điều
trị bệnh đái tháo đường là kiểm soát được nồng độ glucose máu và các rối
loạn chuyển hóa khác. Chúng ta thường quan tâm tới nồng độ glucose máu
lúc đói mà chưa lưu ý nhiều tới nồng độ glucose máu sau ăn, Những nghiên
cứu gần đây cho thấy tăng nồng độ glucose máu sau ăn có vai trò quan trọng
trong toàn bộ quá trình điều chỉnh nồng độ glucose máu, tăng nồng độ
glucose máu sau ăn là chỉ điểm sớm của biến chứng mạch máu nhỏ [19].
Liên quan giữa tăng nồng độ glucose máu sau ăn tới rối loạn chuyển
hóa lipid, chức năng tế bào gan, các chỉ số nhân trắc, huyết áp và biến chứng
ở bệnh nhân đái tháo đường typ 2 còn chưa được đề cập nhiều ở các nghiên
cứu trước đây. Vì vậy chúng tôi nghiên cứu đề tài: “Đặc điểm glucose máu
sau ăn ở bệnh nhân đái tháo đƣờng typ 2 điều trị tại Bệnh viện Đa khoa
trung ƣơng Thái Nguyên”. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài này với
mục tiêu:
1. Mô tả glucose máu sau ăn ở bệnh nhân đái tháo đường typ 2
điều trị ngoại trú tại Bệnh viện Đa khoa Trung ương Thái Nguyên.
2. Xác định mối liên quan giữa glucose máu sau ăn với một số chỉ số
sinh hóa và biến chứng ở bệnh nhân đái tháo đường typ 2.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
Chƣơng 1
TỔNG QUAN
1.1. Định nghĩa đái tháo đƣờng
Theo Tổ chức Y tế thế giới, đái tháo đường “là một hội chứng có đặc
tính biểu hiện bằng tăng glucose máu do hậu quả của việc thiếu hoặc mất
hoàn toàn insulin hoặc do có liên quan đến sự suy yếu trong bài tiết và hoạt
động của insulin" [2].
Tháng 1/2003, các chuyên gia thuộc Uỷ ban chẩn đoán và phân loại bệnh
đái tháo đường Hoa Kỳ, lại đưa ra một một định nghĩa mới về đái tháo đường
“là một nhóm các bệnh chuyển hoá có đặc điểm là tăng glucose máu, hậu quả
của sự thiếu hụt bài tiết insulin; khiếm khuyết trong hoạt động của insulin
hoặc cả hai. Tăng glucose máu mạn tính thường kết hợp với sự huỷ hoại, sự
rối loạn chức năng của nhiều cơ quan đặc biệt là mắt, thận, thần kinh, tim và
mạch máu” [20].
Đái tháo đường có thể biểu hiện bằng các triệu chứng khát nhiều, đái
nhiều và sút cân. Trong các trường hợp nặng (nhiễm toan ceton hoặc tăng áp
lực thẩm thấu) bệnh có thể tiến triển đến hôn mê và tử vong nếu không được
điều trị kịp thời [20].
1.2. Tiêu chuẩn chẩn đoán và phân loại bệnh đái tháo đƣờng
1.2.1. Tiêu chuẩn chẩn đoán
Theo tiêu chuẩn của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) 1998, người được
chẩn đoán đái tháo đường khi có ít nhất một trong ba tiêu chuẩn sau:
- Tiêu chuẩn 1: Đường huyết bất kỳ ≥ 11,1 mmol/l. Kèm theo các triệu
chứng uống nhiều, đái nhiều, sút cân.
- Tiêu chuẩn 2: Đường huyết lúc đói ≥ 7,0 mmol/l, xét nghiệm lúc bệnh
nhân đã nhịn đói sau 8 giờ không ăn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
- Tiêu chuẩn 3: Đường huyết ở thời điểm 2 giờ sau khi làm nghiệm pháp
tăng đường huyết ≥ 11,1 mmol/l.
Các xét nghiệm trên phải được lặp lại 1- 2 lần trong những ngày sau đó [2].
Ngoài tiêu chuẩn chẩn đoán đái tháo đường của WHO (1998) dựa vào
glucose máu, Hiệp hội đái tháo đường Hoa Kỳ (ADA) đề nghị đưa thêm tiêu
chuẩn chẩn đoán dựa vào HbA1c. Người bệnh đái tháo đường có tăng glucose
máu (như tiêu chuẩn của WHO) và HbA1c > 6,5% [20], [53].
1.2.2. Phân loại bệnh đái tháo đường
* Đái tháo đường týp 1
Do tế bào bêta bị phá huỷ, thường dẫn đến thiếu insulin hoàn toàn, chiếm
khoảng 10% số trường hợp mắc, gặp ở người trẻ do phá huỷ tế bào bêta tuyến
tuỵ bởi chất trung gian miễn dịch. Sự phá huỷ này có thể nhanh hoặc chậm,
dạng phá huỷ nhanh thường xảy ra ở trẻ em, nhưng cũng có khi gặp ở người
lớn. Nhiều bệnh nhân, đặc biệt là trẻ em và trẻ vị thành niên biểu hiện nhiễm
toan ceton là triệu chứng đầu tiên của bệnh. Nhưng cũng có người chỉ có tăng
nồng độ glucose máu lúc đói vừa phải và bệnh nặng lên rất nhanh khi có
nhiễm trùng hoặc stress. Thậm chí có người (thường là người lớn) vẫn còn đủ
tế bào bêta sản xuất insulin nên không bị nhiễm toan ceton trong nhiều năm
liền [2].
Một số thể đái tháo đường týp 1 vẫn chưa biết rõ bệnh căn. Những bệnh
nhân này có thiếu hụt tiết insulin thường xuyên và có khuynh hướng nhiễm toan
ceton nhưng không thấy rõ ràng bằng chứng bệnh lý tự miễn dịch [2], [35], [53].
* Đái tháo đường týp 2
Chiếm 80 - 90% số trường hợp mắc bệnh đái tháo đường, thường gặp ở
người trưởng thành trên 40 tuổi. Đái tháo đường týp 2 trước đây còn gọi là đái
tháo đường không phụ thuộc insulin, đái tháo đường ở người lớn, nhưng gần
đây ngày càng có nhiều trường hợp mắc đái tháo đường týp 2 ở người trẻ,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
điều đó cho thấy tình trạng gia tăng nhanh chóng của bệnh do sự thay đổi quá
nhanh về lối sống [2], [20], [35].
Đặc trưng của đái tháo đường týp 2 là kháng insulin đi kèm với thiếu hụt
tiết insulin tương đối (hơn là thiếu hụt tuyệt đối). Ở giai đoạn đầu những bệnh
nhân đái tháo đường týp 2 không cần insulin cho điều trị sinh tồn. Sau 15 năm
mắc bệnh, chức năng tế bào bêta chỉ còn khoảng 10% nên bệnh nhân thường
phải cần dùng đến insulin để điều chỉnh nồng độ glucose máu. Người ta cũng
chưa biết rõ bệnh căn của đái tháo đường týp 2, không thấy sự phá huỷ tế bào
bêta do tự miễn dịch như trong đái tháo đường týp 1 và cũng không tìm thấy
các nguyên nhân khác gây ra đái tháo đường [2], [8], [35].
Phần lớn số bệnh nhân đái tháo đường týp 2 có béo phì và tự béo phì là
nguyên nhân gây kháng insulin, ở những bệnh nhân không có béo phì có thể
có tăng mô mỡ phân bố nhiều ở bụng, nội tạng dẫn đến tình trạng tăng nồng
độ acid béo tự do tích tụ tại tuỵ làm gia tăng sự chết tế bào bêta tuỵ theo
chương trình.
Đái tháo đường týp 2 thường được chẩn đoán rất muộn vì giai đoạn đầu
tăng nồng độ glucose máu thường âm thầm không có triệu chứng. Nguy cơ
mắc đái tháo đường týp 2 tăng theo tuổi, béo phì, ít vận động thể lực. Bệnh
thường gặp hơn ở những người phụ nữ có tiền sử mắc đái tháo đường lúc có
thai, người bị tăng huyết áp, rối loạn mỡ máu và tần suất mắc bệnh khác nhau
ở chủng tộc này so với chủng tộc khác [2], [35], [53].
* Đái tháo đường thai nghén
Đái đường thai nghén thường gặp ở phụ nữ có thai, có nồng độ glucose
máu tăng, gặp khi có thai lần đầu. Sự tiến triển của đái tháo đường thai nghén
sau đẻ theo 3 khả năng:
- Bị đái tháo đường.
- Giảm dung nạp glucose.
- Bình thường.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
* Các loại đái tháo đường khác: Do các tuyến nội tiết, thứ phát sau các
bệnh khác [8].
1.3. Biến chứng bệnh đái tháo đƣờng
Đái tháo đường nếu không được phát hiện sớm và điều trị kịp thời bệnh
sẽ tiến triển nhanh chóng và xuất hiện các biến chứng cấp và mạn tính. Bệnh
nhân có thể tử vong do các biến chứng này.
1.3.1. Biến chứng cấp tính
1.3.1.1. Biến chứng hôn mê nhiễm toan ceton
Nhiễm toan ceton là biểu hiện nặng của rối loạn chuyển hóa glucid do
thiếu insulin gây tăng nồng độ glucose máu, tăng phân hủy lipid, tăng sinh thể
ceton gây toan hóa tổ chức và hậu quả là mất nước và điện giải trong và ngoài
tế bào kèm theo một loạt các rối loạn khác như tăng tiết GH. Mặc dù y học
hiện đại đã có nhiều tiến bộ về trang thiết bị, điều trị và chăm sóc, tỷ lệ tử
vong vẫn cao 5 - 10% [2], [20], [47].
1.3.1.2. Hôn mê do tăng áp lực thẩm thấu
Là tình trạng rối loạn chuyển hóa glucose nặng, nồng độ glucose máu
tăng cao, bệnh nhân có biểu hiện rối loạn ý thức từ nhẹ lơ mơ đến nặng (hôn
mê). Hôn mê tăng áp lực thẩm thấu chiếm 5 - 10%. Ở bệnh nhân đái tháo
đường type 2 nhiều tuổi, tỷ lệ tử vong từ 30 - 50% [2], [47].
Nhiều bệnh nhân hôn mê tăng nồng độ glucose máu chính là dấu hiệu
đầu tiên của bệnh, điều đó chứng tỏ sự hiểu biết về bệnh đái tháo đường còn
chưa được phổ biến trong cộng đồng [2], [47].
1.3.2. Biến chứng mạn tính
1.3.2.1. Bệnh lý mắt ở bệnh nhân đái tháo đường
Bệnh võng mạc do đái tháo đường biểu hiện nhẹ bằng tăng tính thấm
mao mạch, ở giai đoạn muộn hơn bệnh tiến triển đến tắc mạch máu, tăng sinh
mạch máu với thành mạch yếu dễ xuất huyết gây mù loà.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
Bệnh lý võng mạc đái tháo đường là nguyên nhân hàng đầu của mù ở
người 20 - 60 tuổi. Ở các nước phát triển, bệnh nhân đái tháo đường bị mù
gấp 25 lần so với người không bị đái tháo đường. Sau 20 năm mắc bệnh, hầu
hết bệnh nhân đái tháo đường týp 1 và khoảng 60% bệnh nhân đái tháo đường
týp 2 có bệnh lý võng mạc do đái tháo đường [20], [27].
Biến chứng mắt do đái tháo đường tại khoa Nội tiết Bệnh viện Bạch
Mai là 28,87%; bệnh võng mạc đái tháo đường chiếm 9,05%; đục thủy tinh thể
19,82% [4].
Nghiên cứu 60 bệnh nhân đái tháo đường týp 2 của Nguyễn Kim
Lương, Thái Hồng Quang ở lứa tuổi trên 40 thấy tỷ lệ bệnh võng mạc là
22,22% [2].
1.3.2.2. Bệnh thận do đái tháo đường
Biến chứng thận do đái tháo đường là một trong những biến chứng
thường gặp, tỷ lệ biến chứng tăng theo thời gian. Bệnh thận do đái tháo đường
được biểu hiện bằng sự có mặt của protein trong nước tiểu. Khoảng 20 - 30%
số bệnh nhân đái tháo đường có bệnh lý thận do đái tháo đường [15], [27].
Với người đái tháo đường týp 1, mười năm sau khi biểu hiện bệnh thận
rõ ràng (có microalbumin trong nước tiểu), khoảng 50% tiến triển đến suy
thận giai đoạn cuối và sau 20 năm sẽ có khoảng 75% số bệnh nhân trên cần
chạy thận lọc máu chu kỳ [15].
Nhiều bệnh nhân đái tháo đường týp 2 biểu hiện bệnh thận rất sớm sau
khi được chẩn đoán, chứng tỏ đái tháo đường đã xuất hiện từ nhiều năm trước
khi bệnh được phát hiện. Dù khả năng diễn biến đến suy thận giai đoạn cuối
của bệnh nhân đái tháo đường týp 2 ít hơn so với bệnh nhân đái tháo đường
týp 1, song số lượng bệnh nhân đái tháo đường týp 2 chiếm tỷ lệ rất lớn nên
thực sự số bệnh nhân suy thận giai đoạn cuối chủ yếu là bệnh nhân đái tháo
đường týp 2 [2], [15], [20].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
1.3.2.3. Biến chứng tim - mạch
Ngày nay với sự tiến bộ của khoa học, các thuốc điều trị đái tháo đường
ngày càng có hiệu quả, các biến chứng mạch máu nhỏ và biến chứng hôn mê
tăng đường máu có khuynh hướng giảm dần. Bệnh lý tim - mạch trở thành
vấn đề nan giải trong công tác chăm sóc người bệnh ĐTĐ. Trên thực tế, 75%
bệnh nhân đái tháo đường tử vong vì biến chứng tim - mạch, trong đó nhồi
máu cơ tim chiếm tới một nửa số trường hợp. Bệnh đái tháo đường làm gia
tăng nguy cơ tai biến mạch máu não 1,5 - 2 lần, gia tăng nguy cơ bệnh mạch
vành 2 - 4 lần và gia tăng nguy cơ viêm tắc động mạch chi dưới từ 5 - 10 lần
[27], [31], [42].
1.3.2.4. Bệnh lý bàn chân do đái tháo đường
Bệnh lý bàn chân do đái tháo đường do sự phối hợp của tổn thương mạch
máu, thần kinh ngoại vi và cơ địa dễ nhiễm khuẩn do nồng độ glucose
máu tăng cao.
Bệnh nhân đái tháo đường phải cắt cụt chi dưới nhiều gấp 15 lần so với
người không bị đái tháo đường chiếm 45-70% tổng số các trường hợp cắt cụt
chân. Sau đó trên 50% các trường hợp cắt chân có nguy cơ phải cắt nốt chân
còn lại, trong vòng 4 năm (Farant và cộng sự) [17], [20], [27].
1.3.2.5. Bệnh thần kinh do đái tháo đường
Bệnh thần kinh do đái tháo đường gặp khá phổ biến, ước tính khoảng
30% bệnh nhân đái tháo đường có biểu hiện biến chứng này; 7,5% bệnh nhân
đái tháo đường mới được chẩn đoán đã có bệnh thần kinh do đái tháo đường,
sau 25 năm mắc bệnh có khoảng 50% số bệnh nhân đái tháo đường có biểu
hiện bệnh lý thần kinh do đái tháo đường [23], [26], [27].
1.3.3. Các biến chứng khác
1.3.3.1. Nhiễm khuẩn ở bệnh nhân đái tháo đường
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
Bệnh nhân bị đái tháo đường thường nhạy cảm với tất cả các loại
nhiễm khuẩn do có nhiều yếu tố thuận lợi. Lao phổi là một biến chứng thường
gặp, trước khi có thuốc điều trị đặc hiệu, bệnh nhân mắc lao phổi thường suy
kiệt nhanh và tử vong nhanh [2], [20].
Ngoài ra, còn gặp nhiễm khuẩn ở nhiều cơ quan như: viêm đường tiết
niệu, viêm răng lợi, viêm tủy xương, viêm túi mật sinh hơi, nhiễm nấm [20].
1.3.3.2. Ảnh hưởng của đái tháo đường thai nghén tới sức khoẻ bà mẹ và thai nhi
Ở những người đái tháo đường thai nghén sẽ có 30 - 50% bệnh nhân
sau này sẽ chuyển thành đái tháo đường thực sự.
Tăng nồng độ glucose máu trong thời kỳ mang thai làm tổn hại lên thai
nhi, dù bệnh khởi phát bắt đầu lúc nào trong thời kỳ có thai cũng có thể gây ra
các bất thường bẩm sinh hoặc sẩy thai.
Nguy cơ tử vong chu sinh sẽ tăng gấp 4 - 8 lần so với trường hợp
không có bệnh đái tháo đường thai nghén [8].
1.4. Các rối loạn chuyển hóa ở bệnh nhân đái tháo đƣờng
1.4.1. Tăng huyết áp
Là một nguy cơ của bệnh mạch máu lớn và bệnh thận ở người bệnh đái
tháo đường, tỷ lệ tăng huyết áp ở người mắc bệnh đái tháo đường typ 2 luôn
cao, mối liên giữa tăng huyết áp với microalbumin niệu, rồi protein niệu cũng
phức tạp hơn nhiều so với đái tháo đường typ 1. Hầu hết những người có
microalbumin niệu hoặc protein niệu đều có tăng huyết áp đồng hành và số
huyết áp của họ cũng tiếp tục tăng lên khi mức albumin niệu tăng dần lên.
Tăng huyết áp là một yếu tố vừa là nguy cơ, vừa là hậu quả của tổn thương
thận ở bệnh nhân ĐTĐ [15], [19], [48].
1.4.2. Rối loạn chuyển hóa lipid
Rối loạn lipid máu là tình trạng rối loạn và/ hoặc tăng nồng độ các
thành phần lipid trong máu, hậu quả là tạo thành các mảng xơ vữa gây tắc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
mạch, làm gia tăng biến chứng tim mạch và đột quỵ, tăng các biến chứng
mạch máu khác. Hậu quả nặng nề nhất là dẫn tới tử vong hoặc tàn phế.
Vì những lý do này người ta cho rằng cần phải theo dõi tình trạng lipid
máu, triglycerid, LDL- C, HDL- C và phải áp dụng các biện pháp dự phòng
bệnh mạch vành cho tất cả những người mắc bệnh đái tháo đường typ 2 [5],
[6], [10], [11], [48].
1.4.3. Rối loạn chức năng gan
Ở người bình thường, lúc đói gan tăng phân giải glycogen thành
glucose, tăng sinh glucose mới, 50% glucose máu được ưu tiên cho hoạt động
của các tạng, hoạt động của cơ được cung cấp một phần năng lượng bởi acid
béo tự do giải phóng từ các mô mỡ. Còn sau ăn, 100% glucose được hấp thu
từ đường tiêu hóa vận chuyển tới gan, gan tổng hợp glucogen (nhờ có tác
dụng của insulin), 50% glucose được vận chuyển tới các mô, cơ, lúc này cơ
sử dụng năng lượng từ glucose máu [9], [19].
Ở bệnh nhân đái tháo đường, do giảm tác dụng của insulin làm tăng
nồng độ glucose máu sau ăn, do giảm quá trình tổng hợp glycogen, tăng nồng
độ glucose máu sau ăn dẫn tới tăng những sản phẩm cuối cùng gắn đường
không enzym gây tổn thương vi mạch tại gan, ảnh hưởng tới chức năng tế bào
gan, tăng enzyme AST và ALT. Ngoài ra kháng insulin, tăng insulin, tăng
tổng hợp glucose, giảm hấp thu glucose ở tổ chức cũng có thể là do thiếu
receptor đặc hiệu tại cơ quan đích [9], [19].
1.4.4. Rối loạn chức năng thận
1.4.4.1. Giảm protein và albumin máu
Ở bệnh nhân đái tháo đường typ 2 có biến chứng thận, càng giai đoạn sau
thì protein và albumin máu càng giảm do hậu quả của tổn thương thận [15].
1.4.4.2. Tăng creatinin huyết thanh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
Khi đã có microalbumin niệu và protein niệu, việc đo nồng độ creatinin
và ure máu là bắt buộc. Nếu đồng thời với microalbumin niệu và protein niệu
lại có tăng creatinin và ure máu thì đây là một dấu hiệu tiên lượng xấu. Người
bệnh lúc này cần được theo dõi chặt chẽ chức năng thận về mặt lâm sàng và
cận lâm sàng [15].
1.4.4.3. Xuất hiện protein niệu
Tổn thương thận ở bệnh nhân đái tháo đường không chỉ tổn thương đơn
thuần ở cầu thận do bệnh lý mạch máu đái tháo đường, mà thường kèm theo
viêm thận, bể thận. Bệnh lý cầu thận đái tháo đường có liên quan chặt chẽ tới
thời gian bị bệnh và khả năng kiểm soát glucose máu [15].
Chẩn đoán bệnh thận lâm sàng được xác định khi protein niệu phát hiện
được bằng test thử tích nước tiểu. Những test như thế này thường thấy khi
mức protein niệu nồng độ > 300mg/l [15].
1.5. Tăng glucose máu sau ăn
1.5.1. Định nghĩa tăng glucose máu sau ăn
Nồng độ glucose máu bắt đầu tăng sau khi ăn 10 phút. Ở người không
mắc bệnh ĐTĐ, nồng độ glucose máu đạt đỉnh sau 1giờ, hiếm khi vượt quá
7,8mmol/l và trở về nồng độ bình thường trước ăn từ 2 – 3 giờ. Tuy nhiên sự
tiêu hoá và hấp thu carbohydrate cũng còn tiếp tục từ 5 – 6 giờ sau ăn. Vì thế
khó xác định được thời điểm để đo nồng độ glucose máu sau ăn; nhìn chung
nồng độ glucose máu thường được đo sau khi ăn 2 giờ, một số thầy thuốc đo
sau 1,5 giờ [51].
Do bữa ăn thay đổi rất lớn giữa các nước và các nền văn hoá khác nhau,
cũng như thay đổi theo các bữa trong ngày vì thế hiện vẫn chưa có được sự
đồng thuận về thời điểm đo nồng độ glucose máu sau ăn cũng như thành phần
bữa ăn. Việc sử dụng glucose đã giúp giải quyết một phần vấn đề. Ví dụ giá
trị nồng độ glucose vào thời điểm 2 giờ < 7,8 mmol/l được xem là bình
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12
thường, từ 7,8 – 11,0 mmol/l là rối loạn dung nạp glucose (RLDNG) và trên
11,1mmol/l là ĐTĐ rõ. Nhưng trên thực tế lâm sàng glucose lại không được
sử dụng vì nó không đại diện được cho bữa ăn hàng ngày của người bệnh [51].
1.5.2. Ý nghĩa lâm sàng của tăng glucose máu sau ăn
Sự tăng nhanh nồng độ glucose máu tạo ra một loạt các đáp ứng của
mô và góp phần vào việc hình thành các biến chứng ĐTĐ (Bảng 1.1). Các
đáp ứng này bao gồm: tăng lưu lượng máu ở võng mạc, tăng tốc độ lọc cầu
thận, giảm vận tốc dẫn truyền thần kinh cảm giác và vận động [51].
Bảng 1.1. Vai trò của tăng glucose máu cấp trong việc hình thành các biến chứng
Tăng tốc độ lọc cầu thận và tăng lưu lượng huyết tương qua thận
Tăng lưu lượng máu võng mạc
Giảm vận tốc dẫn truyền thần kinh cảm giác và vận động
Ảnh hưởng chức năng tế bào nội mạc
Tình trạng tiền đông
Tăng kết dính protein
Stress oxy hoá
Glycate hóa không ổn định protein
Nhiều nghiên cứu dịch tễ học cho thấy tỉ lệ hiện mắc và tỉ lệ mới mắc
một số biến chứng (võng mạc, thận) có liên hệ chặt chẽ với tăng nồng độ
glucose máu sau ăn và HbA1c. Trong nghiên cứu RIAD, những bệnh nhân
RLDNG có bề dày trung bình lớp nội mạc mạch máu tăng hơn so với những
người chỉ có rối loạn glucose máu đói và dung nạp glucose bình thường. Vì
thế nguy cơ xơ vữa chỉ xảy ra khi bị RLDNG và không xảy ra khi bị rối
loạn glucose máu đói [51].
Các nghiên cứu như Honolulu Heart, Whitehall, Hoorn, DECODE … đều
cho thấy có mối liên quan giữa tăng nguy cơ bệnh tim mạch với tăng nồng độ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
13
glucose máu sau ăn, ngay cả ở những người không bị ĐTĐ. Ngoài ra nghiên cứu
Paris Prospective Study và Helsinki Policemen Study còn cho thấy tăng nồng độ
glucose máu sau ăn là một yếu tố nguy cơ độc lập của biến chứng mạch
máu lớn [51].
Tăng nồng độ glucose máu sau ăn gây tăng lipid máu sau ăn, đặc biệt là
thành phần lipoprotein có tính sinh vữa cao, vì thế nguy cơ sinh xơ vữa càng
cao. Sự tăng peroxide hoá lipid cũng góp phần làm tăng nồng độ glucose máu
sau ăn, và tạo ra các stress oxy hoá góp phần vào các biến chứng mạch máu
lớn và nhỏ của ĐTĐ.
Vì vậy tăng nồng độ glucose máu sau ăn nên được xem là một yếu tố
có nguy cơ cao đối với các biến chứng mạch máu nhỏ và lớn; và nên điều
chỉnh cả nồng độ glucose máu lúc đói lẫn nồng độ glucose máu sau ăn [51].
1.5.3. Sinh lý bệnh của tăng glucose máu sau ăn
Hiểu biết các yếu tố ảnh hưởng tăng nồng độ glucose máu sau ăn sẽ
giúp lựa chọn các thuốc điều trị phù hợp theo cơ chế.
Giảm tiết insulin trong pha đầu có thể xảy ra khi có tăng tiết insulin
hoặc ngay cả trong trường hợp dự trữ tiết insulin của tế bào bêta tuỵ còn bình
thường. Rối loạn này xảy ra sớm và có thể gặp ở những người béo phì không
mắc ĐTĐ, ở những người có người thân mắc ĐTĐ týp 2 và ở những người bị
RLDNG. Sự tiết insulin trong pha đầu bị mất làm tăng sản xuất glucose nội
sinh và làm tăng nồng độ glucose máu. Thức ăn từ ruột càng làm nồng độ
glucose máu tăng hơn nữa. Ngoài ra có thể có đề kháng insulin ở gan do đó
làm giảm khả năng ức chế sản xuất glucose nội sinh. Tất cả những yếu tố này
làm tăng sớm nồng độ glucose máu sau ăn [51].
Đề kháng insulin làm glucose được hấp thu nhưng không được gan và
các mô ngoại vi sử dụng, hậu quả làm tăng nồng độ glucose máu trường diễn.
Tăng nồng độ glucose máu có tác dụng độc lên tuỵ và làm giảm tiết insulin
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
14
hơn nữa; ngoài ra còn làm giảm tác dụng của insulin ở ngoại vi do điều hoà
giảm các thụ thể insulin. Hiện tượng này được gọi là “ngộ độc glucose”. Sự
tăng nồng độ glucose máu tạo ra một vòng xoắn bệnh lý luẩn quẩn và làm cho
tình trạng tăng nồng độ glucose máu càng ngày càng nặng hơn [51].
Giữa nồng độ glucose máu lúc đói và nồng độ glucose máu sau ăn có
một số khác biệt về các yếu tố xác định và cơ sở sinh lý. Để giữ nồng độ
glucose máu lúc đói bình thường, cơ thể phải duy trì được khả năng tiết
insulin nền thích hợp và độ nhạy thích hợp của gan với insulin để kiểm soát
sự tổng hợp glucose ở gan. Trong khi đó, đáp ứng bình thường của cơ thể sau
ăn là đồng thời ức chế sự tổng hợp glucose ở gan và tăng sự thu nạp glucose
bởi gan và cơ xương. Để giữ nồng độ glucose máu sau ăn bình thường, cơ thể
phải duy trì một sự tiết insulin thích hợp cả về lượng lẫn về thời điểm bởi các
tế bào bêta tuyến tụy, đồng thời một độ nhạy thích hợp của gan và cơ xương
với insulin. Như vậy, để giữ nồng độ glucose máu sau ăn bình thường đòi hỏi
nhiều điều kiện hơn là giữ nồng độ glucose máu lúc đói bình thường [51].
Bệnh đái tháo đường týp 2 được đặc trưng bởi sự giảm độ nhạy của mô
với insulin và sự suy giảm dần khả năng tiết insulin của các tế bào bêta tuyến
tụy. Trong diễn tiến tự nhiên của bệnh đái tháo đường týp 2, những điều kiện
cần để duy trì nồng độ glucose máu sau ăn bình thường bị mất đi sớm hơn so
với những điều kiện cần để duy trì nồng độ glucose máu lúc đói bình thường,
do đó tăng nồng độ glucose máu sau ăn xuất hiện sớm hơn so với tăng nồng
độ glucose máu lúc đói [51].
1.5.4. Kiểm soát tăng glucose máu sau ăn
Bao gồm các biện pháp dùng thuốc và không dùng thuốc.
1.5.4.1. Biện pháp không dùng thuốc
Trước hết là vấn đề tiết thực. Mặc dù có nhiều quan niệm cho phép sử
dụng sucrose ở bệnh nhân ĐTĐ, nhất là những nơi có lượng carbohydrate
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
15
trong thức ăn cao; hiện người ta vẫn khuyên nên hạn chế sử dụng sucrose.
Các thực phẩm có chỉ số đường thấp và có nhiều chất sợi giúp hạn chế sự gia
tăng nồng độ glucose máu sau ăn rất tốt. Chia nhỏ bữa ăn, ăn thức ăn đặc hơn
là thức ăn lỏng, ăn chậm và nhai kỹ cũng là những biện pháp hữu ích.
Tập luyện làm giảm nồng độ glucose máu sau ăn nhờ tiêu thụ năng
lượng và nhờ cải thiện nhạy cảm insulin [38], [45], [51].
1.5.4.1. Biện pháp dùng thuốc
Bao gồm các nhóm sau:
- Thuốc làm chậm hấp thu carbohydrate ở ruột như chất ức chế glucosidase.
- Thuốc gây tiết insulin như các sulffonylurea thế hệ mới và các chất
tương tự meglitinide.
- Thuốc làm giảm đề kháng insulin như biguanide và thiazolidinedione.
- Các chất tương tự insulin tác dụng nhanh có tác dụng gần giống
insulin sinh lý [51].
1.6. Các biện pháp kiểm soát nồng độ glucose máu sau ăn
1.6.1. Các thuốc làm chậm hấp thu carbohydrate
Các chất ức chế glucosidase có tác dụng ức chế men glucosidase ở viền
bàn chải ruột, men này có nhiệm vụ chuyển disaccharide thành các
monosaccharide hấp thu được, chúng còn có tác dụng ức chế men amylase
của tuỵ. Kết quả là sự tiêu hoá và hấp thu carbohydrate xảy ra trên toàn bộ
chiều dài ruột non chứ không chỉ ở hỗng tràng, do đó nồng độ glucose máu
tăng chậm hơn và làm giảm bớt hiện tượng tăng insulin máu, 2 thuốc trong
nhóm được nghiên cứu nhiều là acarbose và miglitol [38], [39], [51].
1.6.1.1. Acarbose
Acarbose là một oliogosaccharide phức và là thuốc đầu tiên của nhóm
được sử dụng trên lâm sàng. Acarbose ức chế men glucosidase theo thứ tự
sau: Glucoamylase > sucrase > maltase > isomaltase.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
16
Tinh bột tiêu hóa chậm do glucoamylase, maltose và isomaltose bị ức
chế. Còn sucrose được hấp thu chậm lại do sucrase bị ức chế (chuyển sucrose
thành glucose và fructose). Sự hấp thu glucose, lactose hay dextrose lại không
bị ảnh hưởng.
Acarbose không làm giảm đề kháng insulin và không làm tăng nhạy
cảm insulin ở các mô ngoại biên. Tuy vậy cũng có một số tác dụng có ích nhờ
hiệu quả cải thiện chuyển hóa chung. Acarbose làm tăng thải qua phân các
chất mỡ, nước, nitrogen, sắt và chrom.
Các thử nghiệm so sánh acarbose với giả dược ở những bệnh nhân
ĐTĐ kiểm soát kém cho thấy acarbose làm giảm đáng kể nồng độ glucose
máu sau ăn. Acarbose làm giảm HbA1c trung bình 0,5-1%. Vì vậy mặc dù tác
dụng của acarbose đơn liệu pháp còn kém so với sulfonylurea hay metformin,
thuốc này vẫn rất hữu ích khi nồng độ glucose máu tăng sau khi ăn là chủ yếu.
Acarbose còn được phối hợp với sulfonylurea hoặc metformin khi nồng độ
glucose máu sau ăn cao. Ngoài ra acarbose còn làm giảm lipid máu ở bệnh
nhân ĐTĐ týp 1, týp 2 và cả ở người khỏe mạnh.
Tác dụng phụ chủ yếu bao gồm đầy hơi, chướng bụng, tiêu chảy, sôi
bụng do carbohydrate không được hấp thu bị lên men. Triệu chứng thường
giảm dần và có thể hạn chế bằng cách tăng liều dần. Tỉ lệ bị hạ glucose máu
khi dùng acarbose thấp hơn khi dùng sulfonylurea và nên được điều trị bằng
glucose chứ không phải là sucrose. Điểm đặc biệt là ở nhóm có dùng acarbose
tỉ lệ hạ glucose máu muộn do insulin sẽ ít hơn. Ngoài ra acarbose còn làm tăng
men gan ( phục hồi khi ngừng thuốc) và gây thiếu máu (do giảm hấp thu sắt).
Acarbose ảnh hưởng đến sự hấp thu của các thuốc khác. Acarbose
không ảnh hưởng đến sự hấp thu của glibenclamide nhưng lại ảnh hưởng đến
sự hấp thu của metformin nếu dùng acarbose > 300 mg/ngày.