Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Dạy học phần đọc thêm các tác phẩm tự sự trong chương trình ngữ văn lớp 12 theo hướng tự học có hướng dẫn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (446.25 KB, 15 trang )

Dạy học phần đọc thêm các tác phẩm tự sự
trong chương trình Ngữ văn lớp 12 theo
hướng tự học có hướng dẫn


Trần Thị Hương Mai


Trường Đại học Giáo dục
Luận văn ThS. ngành: Lý luận và phương pháp dạy học (Bộ môn Ngữ văn)
Mã số: 60 14 10
Người hướng dẫn: PGS.TS. Trần Khánh Thành
Năm bảo vệ: 2012


Abstract. Hệ thống hóa những vấn đề lý luận liên quan đến đề tài: Xu hướng đổi
mới phương pháp dạy học; cơ sở lý luận về tự học; khảo sát phần Đọc thêm môn
Ngữ văn; thực trạng dạy-học phần Đọc thêm môn Ngữ văn trung học phổ thông
(THPT). Khảo sát về việc dạy - học phần đọc thêm các tác phẩm tự sự lớp 12 trong
trường THPT. Đề xuất phương pháp dạy học (PPDH) phần đọc thêm các tác phẩm
tự sự trong chương trình Ngữ văn lớp 12 theo hướng tự học có hướng dẫn. Hiện thực
hóa PPDH phần đọc thêm các tác phẩm tự sự trong chương trình Ngữ văn lớp 12
theo hướng tự học có hướng dẫn bằng hoạt động tổ chức dạy học. Thiết kế giáo án
thể nghiệm. Kiểm chứng về mức độ đạt được khi áp dụng PPDH phần đọc thêm các
tác phẩm tự sự trong chương trình Ngữ văn lớp 12 theo hướng tự học có hướng dẫn
qua thực nghiệm giảng dạy.

Keywords. Phương pháp giảng dạy; Ngữ văn; Lớp 12; Tự học


Content


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
1.1. Trong bối cảnh nhân loại đã và đang bước vào kỷ nguyên của công nghệ thông tin cùng
với nền kinh tế tri thức và xu thế toàn cầu hoá mạnh mẽ, giáo dục và đào tạo cũng diễn ra
những biến đổi sâu sắc trên quy mô toàn cầu. Dạy học được xem là con đường giáo dục cơ
bản nhất để thực hiện mục đích của quá trình giáo dục tổng thể, trong đó tự học là phương
thức cơ bản để người học có được những hệ thống tri thức phong phú và thiết thực. Tự học -
tự đào tạo là con đường phát triển suốt đời của mỗi người, đó cũng là truyền thống quý báu
của dân tộc Việt Nam
1.2. Xuất phát từ yêu cầu của chiến lược phát triển con người và những đòi hỏi bức bách của
công cuộc cải cách giáo dục ở nước ta, những năm gần đây, trong ngành giáo dục có cuộc
vận động đổi mới phương pháp dạy học trong đó một số phương pháp dạy học tích cực được
đề cập và quan tâm như một biện pháp hữu hiệu để người học hoạt động tự giác, tích cực, độc
lập và sáng tạo trong quá trình học tập, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục, đáp ứng nhu
cầu ngày càng cao của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
1.3. Phần Đọc thêm và Tự học có hướng dẫn của môn Ngữ văn chiếm một vị trí quan trọng
trong việc giúp học sinh hoàn chỉnh thêm kiến thức về mặt loại thể và làm phong phú hơn
kiến thức văn học. Đồng thời, nó còn giúp học sinh rèn năng lực đọc hiểu văn bản và kỹ năng
tự học, tự nghiên cứu.
1.4. Hướng dẫn học sinh tự học nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh
vừa đảm bảo thực hiện đúng quan điểm dạy học hiện đại vừa phù hợp với đặc điểm nhận thức
của HS. Tác động dạy của GV là bên ngoài, chỉ có tự học của HS mới là nhân tố quyết định
sự phát triển của bản thân HS. Từ những lí do trên, chúng tôi quyết định chọn đề tài “Dạy
học phần đọc thêm các tác phẩm tự sự trong chương trình Ngữ văn lớp 12 theo hướng tự
học có hướng dẫn”.
2. Lịch sử vấn đề.
2.1. Tự học trong nhà trường nói chung.
Vấn đề tự học của HS – SV đã được rất nhiều các nhà nghiên cứu quan tâm ở nhiều
góc độ khác nhau. Tại Hà Nội năm 1998, một cuộc hội thảo khoa học với tiêu đề “Nghiên
cứu tự học – tự đào tạo” đã được tổ chức với sự tham gia của nhiều nhà nghiên cứu, nhiều

GS đầu ngành. Trong cuộc hội thảo này, nội dung các bài viết, các bài phát biểu đều nhấn
mạnh tầm quan trọng của tự học và yêu cầu các cấp ngành phải chăm lo xây dựng phong trào
tự học toàn dân. Tạp chí nghiên cứu Giáo dục số 2 năm 1998 đã đặc biệt quan tâm đăng tải
một số bài viết tiêu biểu trong hội thảo: “Tự học – chìa khoá vàng của giáo dục” của GS.
Phan Trọng Luận, “Vì năng lực tự học sáng tạo của HS” của Nguyễn Nghĩa Dân…Bên cạnh
đó, một số cuốn sách cũng được xuất hiện như “Tôi tự học” – Nguyễn Duy Cần, “Tự học là
một nhu cầu của thời đại” – Nguyễn Hiến Lê, “Luận bàn và kinh nghiệm tự học” – GS.
Nguyễn Cảnh Toàn Đặc biệt, trung tâm nghiên cứu và phát triển tự học còn cho ra mắt bạn
đọc tạp chí “Tự học”. Tuy vậy, các cuốn sách hầu như mới chỉ dừng lại ở phần lý thuyết
chung nhất cho mọi môn học mà chưa đi vào các biện pháp cụ thể đối với từng môn học.
Cuốn “Học và dạy cách học” do GS. Nguyễn Cảnh Toàn chủ biên, NXB ĐHSP, xuất
bản 2002 là một trong những cuốn sách đầu tiên ở Việt Nam viết một cách có hệ thống về
việc “học” và “dạy cách học”. Cuốn sách này đã thực sự là tài liệu bổ ích giúp cho việc đổi
mới phương pháp dạy và học ở Việt Nam, đặc biệt là quá trình dạy tự học.
2.2. Tự học trong môn Ngữ văn.
Ngữ văn là một môn học có những đặc trưng riêng đòi hỏi người đọc phải có sự liên
tưởng, tưởng tượng, nên trong việc thay đổi phương pháp giảng dạy thì giảng dạy môn Ngữ
văn cũng là một vấn đề được quan tâm.
Đã có rất nhiều những bài viết, những công trình đề cập đến vấn đề tự học nói chung
và tự học môn Ngữ văn nói riêng. Các bài viết đã chỉ ra được mục tiêu, cách thức, biện pháp
để dạy tự học. Tuy nhiên, các bài viết còn thiên về mặt lí thuyết mà chưa cụ thể hoá đối với
từng môn học, phân môn của nhà trường phổ thông. Từ thực tế đó, chúng tôi đề xuất nghiên
cứu vấn đề dạy học phần đọc thêm các tác phẩm tự sự trong chương trình ngữ văn lớp 12
theo hướng tự học có hướng dẫn.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu.
3.1. Mục đích nghiên cứu.
Từ việc tìm hiểu đặc trưng của tác phẩm tự sự, khảo sát về việc dạy- học phần đọc thêm
các tác phẩm tự sự lớp 12 trong trường THPT, luận văn đề xuất PPDH phần đọc thêm các tác
phẩm tự sự lớp 12 trong chương trình ngữ văn theo hướng tự học có hướng dẫn.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu.

- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận liên quan đến đề tài.
- Khảo sát về việc dạy - học phần đọc thêm các tác phẩm tự sự lớp 12.
- Đề xuất PPDH phần đọc thêm các tác phẩm tự sự trong chương trình Ngữ văn lớp 12 theo
hướng tự học có hướng dẫn .
- Hiện thực hóa PPDH phần đọc thêm các tác phẩm tự sự trong chương trình Ngữ văn lớp 12
theo hướng tự học có hướng dẫn bằng hoạt động tổ chức dạy học.
- Thiết kế giáo án thể nghiệm và kiểm chứng về mức độ đạt được của đề tài.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.
4.1. Đối tượng.
Đối tượng mà đề tài hướng tới là PPDH phần đọc thêm các tác phẩm tự sự trong chương
trình Ngữ văn lớp 12 theo hướng tự học có hướng dẫn.
4.2. Phạm vi khảo sát.
-Trích đoạn tác phẩm Mùa lá rụng trong vườn của nhà văn Ma Văn Kháng; tác phẩm Một
người Hà Nội của nhà văn Nguyễn Khải (SGK Ngữ văn 12, Ban cơ bản).
- Đối tượng khảo sát: GV và HS hai trường THPT Mạc Đĩnh Chi và Hải An, thành phố Hải
Phòng.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu.
Chúng tôi sử dụng nhóm phương pháp : điều tra, khảo sát, so sánh và thực nghiệm sư phạm.
6. Cấu trúc luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, khuyến nghị, tài liệu tham khảo, mục lục, phụ lục, danh mục
viết tắt, luận văn được trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài.
Chương 2: Đề xuất phương pháp dạy học phần đọc thêm các tác phẩm tự sự.
Chương 3 : Thực nghiệm sư phạm.

CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Xu hƣớng đổi mới phƣơng pháp dạy học.
1.1.1. Xu hướng đổi mới.
Mục tiêu quan trọng của giáo dục hiện đại là đổi mới phương pháp giáo dục. Theo

PGS.TS. Trịnh Văn Biều[2], một số xu hướng đổi mới phương pháp dạy học trên thế giới và
trong nước ta hiện nay là :
1- Phát huy tính tích cực, tự lực, chủ động, sáng tạo của người học. Chuyển lối học từ thông
báo tái hiện sang sáng tạo, tìm tòi, khám phá.
2- Cá thể hóa việc dạy học.
3- Sử dụng tối ưu các phương tiện dạy học đặc biệt là tin học và công nghệ thông tin vào dạy
học.
4- Tăng cường khả năng vận dụng kiến thức vào đời sống . Chuyển từ lối học nặng nề về tiêu
hóa kiến thức sang lối học coi trọng việc vận dụng kiến thức.
5- Cải tiến việc kiểm tra và đánh giá kiến thức .
6- Phục vụ ngày càng tôt hơn hoạt động tự học và phương châm tự học suốt đời.
7- Gắn dạy học với nghiên cứu khoa học với mức độ ngày càng cao (theo sự phát triển của
HS, theo cấp học, bậc học).
Trong các xu hướng trên, có thể nói, việc phát huy tính tích cực chủ động và khả năng
tự học của học sinh là những xu hướng đổi mới quan trọng về phương pháp dạy và học hiện
nay.
1.1.2. Một số quan niệm về dạy cách học:
Một số quan niệm về việc dạy học:
- Dạy là truyền đạt thông tin.
- Dạy là truyền đạt kiến thức và thái độ đối với kiến thức đó.
- Dạy là giúp cho người học được học tập dễ dàng.
- Dạy là hỗ trợ cho việc học của học sinh.
Hai quan niệm đầu là cách dạy thiên về số lượng, GV chỉ chú trọng đến lượng kiến
thức truyền đạt cho HS. Hai quan niệm cuối thiên về chất lượng. Trọng điểm của việc dạy là
thay đổi cách nhìn, cách dùng kiến thức. Việc dạy của GV nhằm làm cho việc học được dễ
dàng hơn.
1.1.3. Phương pháp dạy học tích cực.
1.1.3.1.Quan niệm về PPDH nhằm phát huy tính tích cực của học sinh
Phương pháp dạy học tích cực (PPDH tích cực) là một thuật ngữ rút gọn, được dùng ở
nhiều nước để chỉ những phương pháp giáo dục, dạy học theo hướng phát huy tính tích cực,

chủ động, sáng tạo của người học.
"Tích cực" trong PPDH - tích cực được dùng với nghĩa là hoạt động, chủ động, trái
nghĩa với không hoạt động, thụ động chứ không dùng theo nghĩa trái với tiêu cực.
PPDH tích cực hướng tới việc hoạt động hóa, tích cực hóa hoạt động nhận thức của
người học, nghĩa là tập trung vào phát huy tính tích cực của người học chứ không phải là tập
trung vào phát huy tính tích cực của người dạy. Khơi dậy và phát huy tính tích cực của người
học là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của giáo dục hiện đại, nhằm đào tạo những
con người năng động góp phần phát triển xã hội.
1.1.3.2. Đặc trưng của phương pháp dạy học tích cực.
a, Dạy học thông qua tổ chức các hoạt động học tập của học sinh.
Trong PPDH tích cực, người học - đối tượng của hoạt động "dạy", đồng thời là chủ thể
của hoạt động "học" - được cuốn hút vào các hoạt động học tập do giáo viên tổ chức và chỉ
đạo, thông qua đó tự lực khám phá những điều mình chưa rõ chứ không phải thụ động tiếp
thu những tri thức đã được giáo viên sắp đặt. Dạy theo cách này thì giáo viên không chỉ giản
đơn truyền đạt tri thức mà còn hướng dẫn hành động. Chương trình dạy học phải giúp cho
từng học sinh biết hành động và tích cực tham gia các chương trình hành động của cộng
đồng.
b, Dạy học chú trọng rèn luyện phương pháp tự học.
PPDH tích cực xem việc rèn luyện phương pháp học tập cho học sinh không chỉ là một
biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là một mục tiêu dạy học. Trong các phương
pháp học thì cốt lõi là phương pháp tự học. Nếu rèn luyện cho người học có được phương
pháp, kĩ năng, thói quen, ý chí tự học thì sẽ tạo cho họ lòng ham học, khơi dậy nội lực vốn có
trong mỗi con người, kết quả học tập sẽ được nhân lên gấp bội. Vì vậy, ngày nay người ta
nhấn mạnh mặt hoạt động học trong quá trình dạy học, nỗ lực tạo ra sự chuyển biến từ học
tập thụ động sang tự học chủ động, đặt vấn đề phát triển tự học ngay trong trường phổ thông,
không chỉ tự học ở nhà sau bài lên lớp mà tự học cả trong tiết học có sự hướng dẫn của giáo
viên.
c, Tăng cường học tập cá thể, phối hợp với học tập hợp tác.
Trong học tập, không phải mọi tri thức, kĩ năng, thái độ đều được hình thành bằng
những hoạt động độc lập cá nhân. Lớp học là môi trường giao tiếp thầy - trò, trò - trò, tạo nên

mối quan hệ hợp tác giữa các cá nhân trên con đường chiếm lĩnh nội dung học tập. Phương
pháp học tập hợp tác được tổ chức ở cấp nhóm, tổ, lớp hoặc trường và sử dụng phổ biến trong
dạy học là hoạt động hợp tác trong nhóm nhỏ 4 đến 6 người.
Học tập hợp tác làm tăng hiệu quả học tập, nhất là lúc phải giải quyết những vấn đề
gay cấn, lúc xuất hiện thực sự nhu cầu phối hợp giữa các cá nhân để hoàn thành nhiệm vụ
chung. Mô hình hợp tác trong xã hội đưa vào đời sống học đường sẽ làm cho các thành viên
quen dần với sự phân công hợp tác trong lao động xã hội. Nền kinh tế thị trường đã xuất hiện
nhu cầu hợp tác xuyên quốc gia, liên quốc gia; năng lực hợp tác trở thành một mục tiêu giáo
dục mà nhà trường phải chuẩn bị cho học sinh.
d, Kết hợp đánh giá của thầy với tự đánh giá của trò.
Trong dạy học, việc đánh giá học sinh không chỉ nhằm mục đích nhận định thực trạng
và điều chỉnh hoạt động học của trò mà còn đồng thời tạo điều kiện nhận định thực trạng và
điều chỉnh hoạt động dạy của thầy. Tự đánh giá đúng và điều chỉnh hoạt động kịp thời là
năng lực rất cần cho sự thành đạt trong cuộc sống mà nhà trường phải trang bị cho học sinh.
1.2. Cơ sở lý luận về tự học.
1.2.1. Khái niệm tự học.
Tự học là quá trình cá nhân người học tự giác, tích cực, độc lập tự chiếm lĩnh tri thức ở
một lĩnh vực nào đó trong cuộc sống, bằng hành động của chính mình nhằm đạt được mục
đích nhất định.
1.2.2. Các hình thức tự học.
1.2.2.1. Tự học hoàn toàn (Cá nhân tự mày mò theo sở thích và hứng thú độc lập không có
sách và sự hướng dẫn của giáo viên)
Hình thức này gọi là tự nghiên cứu của các nhà khoa học. Tới trình độ tự học này người
học không thầy, không sách mà chỉ cọ sát với thực tiễn vẫn có thể tổ chức có hiệu quả hoạt
động của mình.
1.2.2.2. Tự học có sách nhưng không có giáo viên bên cạnh.
Ở hình thức tự học này có thể diễn ra ở hai mức:
Thứ nhất, tự học theo sách mà không có sự hướng dẫn của thầy:
Thứ hai, tự học có thầy ở xa hướng dẫn:
1.2.2.3. Tự học dưới sự hướng dẫn gián tiếp của giáo viên.

Tự học của người học theo hình thức này liên quan trực tiếp với yêu cầu của giáo viên,
được giáo viên định hướng về nội dung, phương pháp tự học để người học thực hiện. Như
vậy ở hình thức tự học thứ ba này quá trình tự học của HS có liên quan chặt chẽ với quá trình
dạy học, chịu sự tác động của nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố tổ chức và quản lý quá trình
dạy học của giáo viên và quá trình tự học của HS.
1.2.3. Tự học có hướng dẫn.
Tự học là một hình thức học. Vậy hoạt động tự học cũng phải có mục đích, nội dung
và phương pháp phù hợp. Hình thức tự học có hướng dẫn vừa phải đảm bảo thực hiện đúng
quan điểm dạy học hiện đại vừa phù hợp với đặc điểm nhận thức của HS. Hình thức tự học có
hướng dẫn là hướng dẫn để HS tự học. Trong tự học có hướng dẫn, HS nhận được sự hướng
dẫn từ hai nguồn : từ tài liệu hướng dẫn và trực tiếp từ GV.
Như vậy hình thức tự học có hướng dẫn ở đây được hiểu là hoạt động tự lực của HS
để chiếm lĩnh tri thức khoa học đã được qui định thành kiến thức học tập trong chương trình
và SGK với sự hướng dẫn trực tiếp hoặc gián tiếp của GV thông qua các phương tiện học tập
như tài liệu tự học có hướng dẫn, tài liệu tra cứu, giáo án điện tử,
1.2.4. Vai trò của tự học.
Khi bàn về vai trò của tự học nguyên Tổng bí thư Đỗ Mười đã phát biểu: “Tự học, tự
đào tạo là con đường phát triển suốt cuộc đời của mỗi người, trong điều kiện kinh tế – xã hội
nước ta hiện nay và cả mai sau, đó cũng là truyền thống quý báu của người Việt Nam và dân
tộc Việt Nam. Chất lượng và hiệu quả giáo dục được nâng cao khi tạo ra được năng lực sáng
tạo của người học, khi biến được quá trình giáo dục thành quá trình tự giáo dục. Qui mô của
giáo dục được mở rộng khi có phong trào toàn dân tự học” (Trích thư gửi Hội thảo khoa học
nghiên cứu phát triển tự học, tự đào tạo ngày 6/1/1998) [10].
Vì vậy, có thể khẳng định vai trò của hoạt động tự học luôn giữ một vị trí rất quan trọng
trong quá trình học tập của người học. Tự học là yếu tố quyết định chất lượng và hiệu quả của
hoạt động học tập, là con đường tự khẳng định của mỗi người. Đặc biệt đối với HS THPT,
quỹ thời gian 3 năm được đào tạo ở bậc học này quả là ít ỏi so với lượng kiến thức khổng lồ
của chương trình, tự học sẽ là giải pháp khoa học giúp giải quyết mâu thuẫn giữa kiến thức và
thời gian.
Tự học là con đường tạo ra tri thức bền vững cho mỗi người . Quá trình tự học diễn ra

theo đúng quy luật của hoạt động nhận thức, khác hẳn với quá trình học tập thụ động, nhồi
nhét, áp đặt. Kiến thức có được do tự học là kết quả của hứng thú, tìm tòi, lựa chọn nên bao
giờ cũng vững chắc bền lâu.
1.2.5. Năng lực tự học.
1.2.5.1. Khái niệm năng lực tự học.
Năng lực tự học là khả năng tự mình tìm tòi, nhận thức và vận dụng kiến thức vào
tình huống mới hoặc tương tự với chất lượng cao.
1.2.5.2. Một số năng lực tự học cần bồi dưỡng và phát triển cho học sinh.
* Năng lực nhận biết, tìm tòi và phát hiện vấn đề.
Năng lực này đòi hỏi HS phải nhận biết, hiểu, phân tích, tổng hợp, so sánh sự vật hiện
tượng được tiếp xúc; suy xét từ nhiều góc độ, có hệ thống trên cơ sở lí luận và hiểu biết sẵn
có của mình; phát hiện ra những khó khăn, mâu thuẫn xung đột, những điểm chưa hoàn chỉnh
cần giải quyết, bổ sung, các bế tắc, nghịch lí cần khai thông, làm sáng tỏ…
* Năng lực giải quyết vấn đề.
Năng lực giải quyết vấn đề bao gồm khả năng trình bày giả thuyết; xác định cách thức
giải quyết và lập kế hoạch giải quyết vấn đề; khảo sát các khía cạnh, thu thập và xử lí thông
tin; đề xuất các giải pháp, kiến nghị và kết luận.
* Năng lực xác định kết luận đúng.
Đây là một năng lực quan trọng cần cho người học đạt đến những kết luận đúng của
quá trình giải quyết vấn đề. Năng lực này bao gồm các khả năng khẳng định hay bác bỏ giả
thuyết, hình thành kết quả và đề xuất vấn đề mới hoặc áp dụng
( nếu cần thiết).
* Năng lực vận dụng kiến thức.
Kết quả cuối cùng của việc học tập phải được thể hiện ở ngay chính trong thực tiễn
cuộc sống, hoặc là học sinh vận dụng kiến thức đã học để nhận thức, cải tạo thực tiễn, hoặc
trên cơ sở kiến thức và phương pháp đã có nghiên cứu, khám phá, thu nhận thêm những kiến
thức mới.
* Năng lực đánh giá và tự đánh giá.
Dạy học đề cao vai trò tự chủ của HS, đòi hỏi phải tạo điều kiện, cơ hội, khuyến khích
học sinh đánh giá và tự đánh giá mình. Chỉ có như vậy họ mới dám suy nghĩ, dám chịu trách

nhiệm và luôn luôn tìm tòi sáng tạo, tìm ra cái mới, cái hợp lí, cái có kết quả tốt hơn.
1.2.6. Những kĩ năng tự học cơ bản.
- Kĩ năng đọc giáo trình tài liệu, tóm tắt và chọn ra những tri thức cơ bản, sắp xếp và hệ thống
hóa theo trình tự khoa học.
- Phát huy thuận lợi, hạn chế điểm yếu của bản thân trong quá trình tự học.
- Vận dụng lợi thế, khắc phục khó khăn, thích nghi với các điều kiện học tập.
- Sử dụng linh hoạt các hình thức, các phương pháp học tập cho phép để đạt kết quả cao.
- Biết xây dựng kế hoạch học tập cụ thể từng tuần, tháng, kì, năm…
- Biết sử dụng có hiệu quả các kĩ thuật đọc sách, nghe giảng, trao đổi, thảo luận, tranh luận,
xây dựng đề cương, viết báo cáo, thu thập, xử lí thông tin.
- Biết sử dụng các phương tiện học tập, đặc biệt là công nghệ thông tin.
- Biết phân tích, lựa chọn, sử dụng các thông tin.
- Biết kiểm tra đánh giá chất lượng của bản thân.
- Biết vận dụng thực hành, tham gia nghiên cứu, thực nghiệm ứng dụng.
1.3. Cơ sở lí luận về loại tác phẩm tự sự.
1.3.1. Định nghĩa Tự sự
Cuốn Từ điển Tiếng Việt do GS Hoàng Phê chủ biên định nghĩa “ Tự sự là thể loại
văn học trong đó nhà văn phản ánh thế giới bên ngoài bằng cách kể lại sự việc, miêu tả tính
cách, thông qua một cốt truyện tương đối hoàn chỉnh”[27, tr.1378].
Cuốn 150 thuật ngữ văn học – Lại Nguyên Ân biên soạn định nghĩa : Tự sự là “một
trong ba loại văn học (bên cạnh trữ tình và kịch), tái hiện hành động diễn ra trong thời gian
và không gian, tái hiện tiến trình các biến cố trong cuộc đời các nhân vật.”[1, tr. 374].
1.3.2. Đặc trưng của thể loại tự sự.
- Tác phẩm tự sự phản ánh đời sống trong tính khách quan của nó thông qua các sự kiện, hệ
thống sự kiện.
- Tác phẩm tự sự có khả năng phản ánh hiện thực một cách rộng lớn, bao quát.
- Tác phẩm tự sự luôn luôn có hình tượng người trần thuật. Người trần thuật có thể xuất hiện
dưới nhiều hình thức: khi thì tác giả ẩn mình sau những nhân vật tưởng tượng, khi thì nhân
danh chính bản thân mình mà kể chuyện với ngôi thứ nhất. Nhưng dù dưới hình thức nào,
người trần thuật cũng làm nhiệm vụ tường thuật, kể chuyện để phân tích, nghiên cứu, khêu

gợi, bình luận, cắt nghĩa những quan hệ phức tạp giữa nhân vật và nhân vật, giữa nhân vật và
hoàn cảnh
- Hình thức tự sự dựa vào các kiểu kết cấu cốt truyện khác nhau. Có kiểu triển khai rõ rệt các
biến động của sự kiện, có kiểu nhấn chìm dòng biến cố vào những đoạn mô tả , thể hiện tâm
lý, hoặc bàn luận.
- Tác phẩm tự sự có thể viết bằng văn xuôi hoặc văn vần. Dung lượng tác phẩm không hạn
chế, từ các truyện rất ngắn đến các thiên sử thi, tiểu thuyết trường thiên.
- Tự sự chia ra Tự sự dân gian gồm các thể loại thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, ngụ ngôn,
truyện cười và Tự sự cổ trung đại - hiện đại gồm các thể loại truyền kì, tiểu thuyết, truyện vừa, kí.
1.4. Khảo sát phần Đọc thêm môn Ngữ văn.
1.4.1. Vị trí của phần Đọc thêm môn Ngữ văn ở nhà trường THPT.
Môn Ngữ văn THPT chia làm ba phân môn nhỏ:Văn học( gồm các tác phẩm hoặc
trích đoạn tác phẩm văn học); Làm văn( Các kĩ năng, thao tác làm văn ) và Tiếng Việt. Ở mỗi
phân môn đều có các bài Đọc thêm nhằm củng cố kiến thức cho học sinh. Những văn bản đọc
thêm do đó đều là những văn bản được chọn lựa rất kỹ càng, nội dung, nghệ thuật đều có thể
được coi là tiêu biểu, đại diện cho những tác phẩm cùng giai đoạn hoặc cùng tác giả.
1.4.2. Hướng dẫn thực hiện phần Đọc thêm.
1- Công văn số 5842/BGD ĐT-VP ngày 01 tháng 9 năm 2011 với mục đích hướng
dẫn điều chỉnh nội dung dạy học các môn cấp THPT, trong đó có Ngữ văn, đã quy định thời
lượng dành cho phần đọc thêm dùng để luyện tập, củng cố, thực hành cho học sinh và không
ra bài tập, không kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh vào những nội dung này.
2- Phân phối chương trình môn Ngữ văn THPT của Sở GD_ĐT Hải Phòng hướng dẫn
thực hiện dạy các bài Đọc thêm và các bài Tự học có hướng dẫn đã ghi rõ : “Giáo viên cần
dành thời lượng nhất định (3 đến 5 phút hoặc có thể nhiều hơn tùy theo mục tiêu đề ra sau
khi đã dạy phần chính), hướng dẫn học sinh rất ngắn gọn cách thức tự học, tự đọc. Dành tỉ
trọng câu hỏi và điểm kiểm tra thích đáng để kiểm tra kiến thức và kĩ năng Tự học và Đọc
thêm” [28].
1.5. Thực trạng dạy - học phần Đọc thêm môn Ngữ văn THPT.
1.5.1. Khảo sát chương trình dạy học phần đọc thêm bậc THPT
1.5.1.1. Bảng thống kê phần đọc thêm môn Ngữ văn bậc THPT.

1.5.1.2. Nhận xét chung.
Trong chương trình ngữ văn lớp 10, các văn bản đọc thêm chếm tỷ lệ 14/38 văn bản.
Trong chương trình ngữ văn lớp 11, các văn bản đọc thêm chiếm tỷ lệ 14/40 văn bản. Trong
chương trình ngữ văn lớp 12, các văn bản đọc thêm chiếm tỷ lệ 12/32 văn bản.
1.5.2. Thực trạng phần đọc thêm các tác phẩm tự sự lớp 12 - ban cơ bản.
1- Chương trình ngữ văn lớp 12 tập trung chính vào giai đoạn văn học từ sau Cách
Mạng Tháng Tám năm 1945 đến hết thế kỷ 20. Cách Mạng thángTám đã mở ra một chân trời
mới cho văn học dân tộc. Cùng với sự hồi sinh của dân tộc là sự khai sinh của nền văn học
mới với những thành tựu rực rỡ. Nền văn học Việt Nam từ sau Cách mạng Tháng Tám năm
1945 đến hết thế kỉ XX là nền văn học của chế độ mới, vận động, phát triển dưới sự lãnh đạo
của Đảng.
Văn học Việt Nam sau 1975 vận động theo xu hướng dân chủ hóa, đổi mới quan niệm
về nhà văn, về văn học và quan niệm nghệ thuật về con người , phát huy cá tính sáng tạo và
phong cách nghệ thuật của nhà văn với những tìm tòi, thể nghiệm mới, thể hiện con người ở
nhiều phương diện của đời sống, kể cả đời sống tâm linh.
2- Chương trình Ngữ văn lớp 12 Ban cơ bản chỉ trích học 11 văn bản tự sự trong đó
dạy chính thức 7 văn bản : Người lái đò sông Đà ( trích)- Nguyễn Tuân, Ai đã đặt tên cho
dòng sông- (trích)- Hoàng Phủ Ngọc Tường, Vợ chồng A Phủ ( trích)- Tô Hoài, Vợ nhặt –
Kim Lân, Rừng xà nu – (trích) - Nguyễn Trung Thành, Những đứa con trong gia đình –
(trích) –Nguyễn Thi, Chiếc thuyền ngoài xa – Nguyễn Minh Châu; và đọc thêm bốn văn bản:
Những ngày đầu của nước Việt Nam mới - (trích) - Võ Nguyên Giáp, Bắt sấu rừng U Minh
Hạ - Sơn Nam, Mùa lá rụng trong vườn ( trích)- Ma Văn Kháng, Một người Hà Nội ( trích)-
Nguyễn Khải.
Tỷ lệ các bài đọc thêm là 4/11 chiếm 36 %. Điều đó cho thấy số lượng các bài đọc
thêm chiếm tỷ lệ đáng kể trong chương trình giảng dạy ngữ văn lớp 12, từ đó cho thấy ý đồ
của nhóm biên soạn SGK và tầm quan trọng của phần Đọc thêm.
1.5.3. Thực trạng dạy – học phần Đọc thêm môn Ngữ văn THPT.
1.5.3.1. Thực trạng dạy phần đọc thêm môn Ngữ văn THPT.
Qua nghiên cứu, tìm hiểu thực trạng dạy, có một bộ phận không nhỏ giáo viên còn
vướng mắc, lúng túng trong cách thức dạy học ngữ văn nói chung và những bài đọc thêm nói

riêng. Thực tế hiện nay đang tồn tại hai khuynh hướng, hai cách dạy các bài đọc thêm như
sau:
- Cách 1: Để học sinh tự hoạt động thông qua hình thức giáo viên nêu một số câu hỏi
trong sách giáo khoa- trò trả lời.
- Cách 2: Thầy - trò cùng hoạt động, tìm hiểu vài nét sơ lược về nội dung và nghệ
thuật của tác phẩm.
Nhận xét: Phần đọc thêm bị xem nhẹ, chưa phát huy được mục đích tối ưu. Để khắc
phục những tồn tại đó, nên có một phương pháp phát huy khả năng tự học của HS như một
yếu tố quan trọng để học tốt phần đọc thêm.
1.5.3.2. Khảo sát các nguồn tài liệu hướng dẫn đọc thêm.
a, Về phía học sinh.
Tài liệu hướng dẫn cho phần Đọc thêm môn ngữ văn bậc THPT hầu như chưa có.
Để chuẩn bị cho bài Đọc thêm, hầu như học sinh chỉ biết dựa vào hướng dẫn của SGK.
Trong SGK, bài học được biên soạn gồm có : Tiểu dẫn; Văn bản văn học; Hướng dẫn học
thêm bằng hệ thống câu hỏi. Khảo sát các câu hỏi hướng dẫn đọc thêm trong SGK chúng tôi
thấy phần lớn nội dung câu hỏi quá lớn hoặc quá khó gây cản trở cho hoạt động phát huy vai
trò chủ thể của học sinh. Mục kiến thức cần đạt và ghi nhớ không có nên các em học sinh khó
khái quát được về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm, chưa có thước đo các chuẩn kiến
thức cần thiết để có định hướng điều chỉnh quá trình nhận thức phù hợp.
b, Về phía giáo viên.
- Khảo sát SGV Ngữ văn chương trình chuẩn, Phan Trọng Luận tổng chủ biên - Nxb Giáo
dục, 2007.
- Khảo sát SGV Ngữ văn chương trình nâng cao, Trần Đình Sử tổng chủ biên - Nxb Giáo dục,
2007.
1.5.3.3. Khảo sát thời gian dành cho việc hướng dẫn đọc thêm các tác phẩm tự sự trong
chương trình ngữ văn lớp 12.
- Mùa lá rụng trong vườn, Một người Hà Nội: 01 tiết
- Những ngày đầu của nước Việt Nam mới: 1/2 tiết
- Bắt sấu rừng U Minh Hạ: 01 tiết
* Nhận xét : Thời gian dành cho văn bản đọc thêm không nhiều. Trong khoảng thời gian đó,

GV phải đảm bảo đủ các hoạt động lên lớp, phải khắc sâu kiến thức trọng tâm bài học, đặc
trưng thể loại. Vậy nên, GV dù cố gắng đến thế nào cũng rất khó để lưu lại trong tâm trí HS
những hiểu biết cơ bản về các tác phẩm này. Vì thế, việc HS tự học là rất cần thiết.
1.5.3.4. Điều tra thực trạng tự học phần Đọc thêm của học sinh THPT lớp 12.
Chúng tôi đã tham khảo ý kiến của 550 học sinh lớp 12 THPT Mạc Đĩnh Chi và
trường THPT Hải An – Hải Phòng về một số vấn đề và thu được kết quả sau :
- Đa số học sinh cho biết phần Đọc thêm không được kiểm tra nên bỏ qua không cần học,
không tự học, số lượng này chiếm hơn 60 %.
- Một số học sinh có đọc tác phẩm, tìm hiểu về nội dung và nghệ thuật nhưng rất sơ sài. Số
này chiếm khoảng 18 %.
- Một số học sinh khá hứng thú với các tác phẩm Đọc thêm nhưng chỉ dừng lại ở việc đọc
văn bản trong sách giáo khoa, chưa biết cách tự học. Số này chiếm tỉ lệ 17 %.
Điều tra cho thấy học sinh còn rất thụ động và chưa có cách tự học hiệu quả.
1.5.3.5. Kết luận chung.
Chiếm một vị trí không nhỏ trong chương trình Ngữ văn 12, các văn bản đọc thêm là
một phần quan trọng để học sinh nắm bắt được những đặc điểm và khuynh hướng chính của
giai đoạn văn học từ sau 1945 đến nay.
Có thể thấy rằng, mỗi văn bản đọc thêm không chỉ làm giàu thêm kiến thức Ngữ văn
và đời sống tâm hồn cho học sinh, mà còn giúp học sinh rèn những kỹ năng tự học quan trọng
nếu được nhìn nhận và phát huy đúng. Nhưng nếu chúng ta không coi trọng, yếu tố hướng
dẫn của thầy và kỹ năng tự học của trò không thực hiện được hoặc nếu có thì cũng mờ nhạt.
Những kết quả thăm dò trên đây là cơ sở, là định hướng cho chúng tôi nghiên cứu, đề
xuất phương pháp hướng dẫn học sinh tự học phần Đọc thêm các tác phẩm tự sự lớp 12 môn
Ngữ văn.
1.6. Tiểu kết.
Trong chương 1 chúng tôi đã nghiên cứu các xu hướng đổi mới phương pháp dạy học
và một số quan niệm về dạy cách học. Sau khi tìm hiểu vể phương pháp dạy học tích cực,
những đặc trưng của phương pháp dạy học tích cực để đáp ứng các xu hướng đổi mới trên và
so sánh với phương pháp dạy học truyền thống, chúng tôi nhận thấy xu hướng dạy học hiện
nay là tích cực hóa hoạt động học tập của người học và chú trọng dạy học sinh phương pháp

tự học cùng các kỹ năng tự học.
Chúng tôi tiếp tục tiến hành khảo sát vị trí và hướng dẫn dạy phần đọc thêm môn ngữ
văn, khảo sát thực trạng dạy và học phần đọc thêm nói chung và đọc thêm các tác phẩm tự sự
lớp 12 ban cơ bản nói riêng. Ngoài ra chúng tôi còn điều tra thực trạng về việc tự học của học
sinh ở môn ngữ văn.
Từ những vấn đề trên, chúng tôi đề xuất phương pháp dạy phần đọc thêm các tác
phẩm tự sự theo hướng tự học có hướng dẫn trong chương tiếp theo .


CHƢƠNG 2
ĐỀ XUẤT PHƢƠNG PHÁP DẠY HỌC PHẦN ĐỌC THÊM
CÁC TÁC PHẨM TỰ SỰ

2.1. Những tiền đề định hƣớng cho việc dạy học phần đọc thêm các tác phẩm tự sự.
2.1.1. Phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh qua việc tự học, tự nghiên
cứu.
2.1.1.1. Phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh.
Phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh có nghĩa là phải thay đổi cách
dạy và cách học. Chuyển cách dạy thụ động, truyền thụ một chiều “đọc- chép”, giáo viên làm
trung tâm sang cách dạy lấy học sinh làm trung tâm hay còn được gọi là dạy và học tích cực
Tính tích cực nhận thức trong học tập liên quan với động cơ học tập. Động cơ đúng
tạo ra hứng thú. Hứng thú là tiền đề của tự giác. Hứng thú và tự giác là hai yếu tố tâm lí tạo
nên tính tích cực. Tính tích cực sản sinh ra nếp tư duy độc lập. Suy nghĩ độc lập là mầm
mống của sáng tạo và ngược lại.
Tính tích cực học tập biểu hiện ở những dấu hiệu như: hăng hái, chủ động, tự giác
tham gia các hoạt động học tập, thích tìm tòi khám phá những điều chưa biết dựa trên những
cái đã biết. Sáng tạo vận dụng kiến thức đã học vào thực tế cuộc sống …
2.1.1.2. Dạy và học chú trọng rèn luyện phương pháp tự học, tự nghiên cứu.
Trong phương pháp học thì cốt lõi là phương pháp tự học, tự nghiên cứu. Điều quan
trọng là phải giúp người học biết cách khai thác, lựa chọn tìm kiếm thông tin bằng cách hình

thành thói quen tự học, tự nghiên cứu. Khi người học có phương pháp, thói quen, ý chí tự học
thì sẽ ham học, thích học, đó là điều kiện tốt để khơi dậy nội lực, khả năng vốn có của mỗi cá
nhân, kết quả học tập sẽ nâng cao. Thói quen tự học được thể hiện ở mọi nơi, mọi lúc, học
trên lớp, học ở nhà, học trong thư viện và học ngoài thực tiễn cuộc sống, thông qua các
phương tiện: tài liệu, sách báo, truyền hình, phim ảnh, internet, thực tiễn, thày cô giáo và
những người xung quanh.
2.1.2. Dạy đọc- hiểu các văn bản đọc thêm theo đặc trưng loại thể.
Con đường hiệu quả nhất để đi khám phá, thâm nhập chiếm lĩnh các văn bản là con
đường đi từ đặc trưng thể loại. Vì thế, người GV trên cơ sở những hiểu biết của mình về thể
loại hướng dẫn HS khám phá tiếp nhận giá trị tư tưởng của tác phẩm từ góc độ này. Có như
vậy, dạy học phần đọc thêm mới đảm bảo sự toàn diện khi chiếm lĩnh tác phẩm là chiếm lĩnh
cả nội dung và hình thức, không thiên về nội dung cũng không thiên về hình thức nghệ thuật.
2.1.3. Rèn năng lực quy chiếu ngữ cảnh cho HS thông qua việc đọc hiểu văn bản văn học
trong trường THPT.
Trong cuộc giao tiếp giữa người học và tác giả thông qua văn bản văn học, quy chiếu
ngữ cảnh bao gồm những nội dung sau: quy chiếu với ngữ cảnh văn bản; quy chiếu với ngữ
cảnh thời đại; quy chiếu với ngữ cảnh đời sống. Năng lực quy chiếu ngữ cảnh thực chất là
năng lực cắt nghĩa, khái quát hóa các nghĩa của văn bản. Yêu cầu của năng lực này là phải
thường xuyên giữ mối liên hệ với ngữ cảnh.
2.1.4. Phát triển năng lực giao tiếp thẩm mĩ và giao tiếp xã hội cho HS thông qua việc dạy
văn bản đọc thêm ở trường THPT.
Học tác phẩm văn chương là HS học cách ứng xử giao tiếp trong cuộc sống, trong xã
hội, học cách giao tiếp thẩm mĩ. Để phát triển năng lực giao tiếp thẩm mĩ, giao tiếp xã hội
cho HS, môn Văn có vị trí hết sức quan trọng. Người GV dạy văn phải khai thác triệt để khả
năng tác động giáo dục thẩm mĩ của mỗi tác phẩm văn chương cho HS và dẫn dắt các em học
theo những hành vi cao thượng, cách ứng xử đẹp, cách sống, cách nói năng đẹp của các nhân
vật trong tác phẩm.
Những tác phẩm được chọn đưa vào trường THPT kể cả giờ Đọc thêm đều là những
tác phẩm có giá trị trong nền văn học dân tộc và văn học thế giới. Đây là những văn bản có
tác dụng giáo dục sâu sắc, có khả năng bồi dưỡng, phát triển tri thức văn học, kĩ năng văn

học, năng lực tư duy, óc thẩm mĩ, phát triển khả năng tự nhận thức, tự đánh giá các hành
động hành vi đạo đức ở HS.
2.2. Nguyên tắc và thao tác hƣớng dẫn tự học tác phẩm tự sự phần đọc thêm.
2.2.1. Về nguyên tắc:
Coi trọng yếu tố hướng dẫn - tự học của loại bài hướng dẫn đọc thêm và ý nghĩa của
nó trong việc rèn luyện kỹ năng, tiến đến hình thành, xây dựng một phương pháp tự học -
một văn hóa đọc, làm cơ sở cho quá trình học văn trong nhà trường và sau này vào đời cho
học sinh.
Nhận rõ vai trò của yếu tố hướng dẫn, để thầy làm tốt nhiệm vụ của mình trong vai trò
này đối với học sinh, giúp các em "tự học" tốt hơn, có hiệu quả hơn.
Thấy được các mối quan hệ biện chứng của hai yếu tố "tự học" và "hướng dẫn". Nếu người
giáo viên hướng dẫn tốt tất yếu học sinh sẽ tự học tốt, ngược lại nếu hướng dẫn có hạn chế,
kết quả tự học sẽ không cao.
2.2.2. Hướng dẫn tự học phần đọc thêm tác phẩm tự sự trong chương trình 12 THPT.
Luận văn này muốn đề cập đến vai trò hướng dẫn của giáo viên trong việc tổ chức
một giờ Đọc thêm nhằm phát huy năng lực tự học của học sinh. Giáo viên phải đưa ra những
hướng dẫn, những yêu cầu cụ thể để học sinh làm việc.
2.2.2.1. Hướng dẫn học sinh tự làm việc với sách giáo khoa( SGK).
* Quan niệm về SGK:
SGK là một công cụ không thể thiếu trong quá trình tự học của HS. Việc sử dụng
SGK có hiệu quả đóng vai trò quan trọng trong việc nắm vững kiến thức nói chung và phát
huy tính tích cực tự giác của HS.
* Hướng dẫn HS sử dụng SGK trong phần Đọc thêm để chuẩn bị bài trước khi đến lớp (soạn
bài).
Để sử dụng SGK học tập đạt kết quả tốt, người GV cần đề ra những nhiệm vụ học tập
cụ thể cho HS đối với việc đọc hiểu văn bản đọc thêm.
- Hướng dẫn HS tự đọc văn bản và trả lời các câu hỏi.
+ Đọc văn bản.
+ Trả lời các câu hỏi trong SGK:
2.2.2.2. Hướng dẫn học sinh đọc hiểu văn bản qua hệ thống câu hỏi.

Hệ thống câu hỏi hướng dẫn đọc thêm cần phải được định hướng theo đặc trưng thể
loại. Với các tác phẩm tự sự, có thể phân loại như sau :
1- Câu hỏi về yếu tố ngoài văn bản.
*Câu hỏi về hoàn cảnh ra đời của tác phẩm: Hoàn cảnh xã hội chung; Hoàn cảnh cá nhân tác
giả; Hoàn cảnh sáng tác cụ thể của mỗi tác phẩm.
*Câu hỏi về tác giả : Quê hương, gia đình; Những giai đoạn hoặc những mốc quan trọng
trong cuộc đời tác giả; Sự nghiệp sáng tác; Quan điểm sáng tác, quan niệm thẩm mĩ; Dấu ấn
phong cách cá nhân
* Câu hỏi nâng cao :
- Những yếu tố nào góp phần ảnh hưởng đến tài năng và nghệ thuật của tác giả?
- Yếu tố nào ảnh hưởng đến sự chuyển đổi về tư tưởng của tác giả ?
2- Câu hỏi đọc – hiểu văn bản.
* Câu hỏi tóm tắt cốt truyện.
* Tìm bố cục văn bản hoặc kết cấu văn bản ( tùy theo văn bản cụ thể ).
* Đặt tiêu đề ( hoặc nêu nội dung ) cho từng đoạn văn bản.
* Câu hỏi phát hiện và lý giải :
- Phát hiện tình huống truyện .
- Phát hiện điểm nhìn nghệ thuật, giọng điệu trần thuật.
- Phát hiện vấn đề được đặt ra trong văn bản?
- Phát hiện và lý giải tư tưởng, tình cảm, thái độ của tác giả trước vấn đề đặt ra trong văn bản.
* Câu hỏi yêu cầu các kỹ năng phân tích tổng hợp, so sánh, bác bỏ.
- Phân tích nhân vật : Lai lịch; ngoại hình; ngôn ngữ; nội tâm; cử chỉ, hành động; lời các nhân
vật khác về nhân vật được phân tích.
- Phân tích các chi tiết về hành vi, lời nói của nhân vật.
- Phân tích thái độ của tác giả đối với nhân vật.
- Tổng hợp , khái quát giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật, giá trị tư tưởng của văn bản.
- So sánh hai văn bản cùng thể loại, cùng thời kỳ để thấy đặc điểm riêng của từng tác giả. Ví
dụ : Người lái đò sông Đà và Ai đã đặt tên cho dòng sông.
* Câu hỏi phát biểu quan điểm cá nhân.
- Các câu hỏi nêu cảm nghĩ, suy nghĩ của bản thân về nhân vật, về một sự kiện hoặc về một

chi tiết tiêu biểu và giải thích rõ lý do.
- Các câu hỏi yêu cầu học sinh trình bày ý kiến của mình về một vấn đề nào đó trong tác
phẩm.
2.2.2.3. Hướng dẫn học sinh thu thập, chọn lọc, sắp xếp tư liệu có liên quan tới các văn bản
đọc thêm.
a, Thu thập tài liệu, thông tin về tác giả :
- Nguồn : + Từ điển văn học, nxb Thế giới, 2004.
+ Wikipedia, Google( mạng thông tin điện tử).
- Sắp xếp tài liệu thu thập được về tác giả theo từng mục : Cuộc đời, sự nghiệp sáng tác, đặc
điểm nội dung, đề tài sáng tác và phong cách nghệ thuật.
b, Thu thập các tư liệu về tác phẩm.
- Tác phẩm( bản đầy đủ).
- Các công trình nghiên cứu, phê bình, bình luận về tác phẩm được đăng tải trên mạng điện tử
trong những trang web lớn, có uy tín.
- Các bài phân tích, bình giảng in trong sách tham khảo môn văn.
2.2.2.4. Vận dụng phương pháp dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề.
Trong luận văn này, chúng tôi chú trọng đến hình thức thứ 2 của phương pháp dạy
học phát hiện và giải quyết vấn đề, đó là “ Đàm thoại giải quyết vấn đề”. Giáo viên nêu vấn
đề dưới hình thức câu hỏi với 3 mục đích :
- Kiểm tra năng lực tự học của học sinh qua hệ thống câu hỏi hướng dẫn đọc thêm đã cho
trước đó.
- Kiểm tra khả năng độc lập giải quyết vấn đề của học sinh .
- Kiểm tra khả năng trình bày vấn đề một cách thuyết phục nhằm bảo vệ ý kiến của mình .
Khi nêu vấn đề, giáo viên phải đưa ra chỉ dẫn gợi ý tương đối cụ thể để học sinh
không đi chệch hướng ý đồ của giáo viên. Kiểm tra đánh giá cách giải quyết vấn đề của học
sinh bằng yêu cầu trình bày thành bài tập nghị luận về vấn đề được nêu sau một thời gian cụ
thể ( 5 ngày đến một tuần).
2.3. Tiểu kết :
Điều cốt yếu quyết định kết quả học tập là hoạt động tự giác, tích cực, chủ động và
sáng tạo của học sinh. Nếu không kích thích được trò suy nghĩ, hoạt động thì dù thầy có giỏi

đến đâu cũng không mang lại kết quả mong muốn. Học sinh phải là chủ thể của quá trình học
tập
Với mục tiêu hướng dẫn học sinh phương pháp tự học, chúng tôi đã đưa ra các hướng
dẫn cụ thể để học sinh tự đọc – hiểu các tác phẩm tự sự lớp 12 – ban cơ bản.
Sau khi đề xuất phương pháp dạy, chúng tôi tiến hành tổ chức thực nghiệm và kiểm
tra, đánh giá kết quả cũng như tính khả thi của đề tài sau đó thể hiện trong chương 3 của luận
văn.


CHƢƠNG 3
THỰC NGHIỆM SƢ PHẠM

3.1. Mục đích thực nghiệm sƣ phạm.
Thực nghiệm sư phạm được tiến hành nhằm kiểm tra khả năng vận dụng, tính khả thi
và tính hiệu quả của phương án dạy học phần đọc thêm các tác phẩm tự sự lớp 12 theo hướng
tự học có hướng dẫn đã được đề xuất ở chương 2.
3.2. Nội dung thực nghiệm.
- Thực nghiệm dạy học hai bài đọc thêm : Mùa lá rụng trong vườn của Ma Văn Kháng và
Một người Hà Nội của Nguyễn Khải ( thời lượng giảng dạy trong 1 tiết).
- Nội dung thực nghiệm được biên soạn thành giáo án lên lớp.
3.3. Tổ chức thực nghiệm.
3.3.1. Chọn lớp thực nghiệm.
3.3.2. Tiến hành thực nghiệm.
3.3.3. Giáo án thực nghiệm.
3.3.3.1. Mùa là rụng trong vườn –( trích )- Ma Văn Kháng.
3.3.3.2. Một người Hà Nội – Nguyễn Khải.
3.3.4. Đánh giá kết quả thực nghiệm.
- Qua kết quả thăm dò của học sinh chúng tôi thấy rằng việc dạy phần Đọc thêm các
tác phẩm tự sự theo hướng tự học có hướng dẫn đã thu được kết quả tốt trong dạy học.
- Qua thăm dò ý kiến của 11 giáo viên đang giảng dạy khối 12 tại hai trường tiến hành

thực nghiệm, chúng tôi nhận được sự ủng hộ của đa số GV về tính khả thi của hướng dạy
này.
3.4. Tiểu kết.
Qua phân tích kết quả thực nghiệm sư phạm và thăm dò ý kiến của giáo viên giảng
dạy cũng như học sinh ở các lớp thực nghiệm, chúng tôi rút ra một số nhận xét như sau:
- Việc dạy phần đọc thêm các tác phẩm tự sự trong chương trình lớp 12 theo hướng tự
học có hướng dẫn bước đầu đã có hiệu quả, góp phần nâng cao chất lượng dạy học bộ môn
Văn, phát huy được tính chủ động trong việc tự học, tự chiếm lĩnh kiến thức của học sinh.
- Kết quả bài thu hoạch đã thể hiện hệ thống câu hỏi hướng dẫn và vấn đề được giáo
viên nêu ra sau bài học có tính vừa sức, cụ thể, phù hợp với năng lực và trình độ học sinh.
Kết quả đó bước đầu cho thấy giả thuyết khoa học của đề tài luận văn đặt ra là đúng đắn.
- Đề xuất dạy học phần đọc thêm các tác phẩm tự sự theo hướng tự học có hướng dẫn
là có tính khả thi, có thể phát huy năng lực tự học và bồi dưỡng kỹ năng tự học cho học sinh
lớp 12.

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ

1. Kết luận
Đối chiếu với mục đích và nhiệm vụ của đề tài, luận văn của chúng tôi đã giải quyết
được những vấn đề sau :
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận làm cơ sở cho việc nghiên cứu nội dung của đề tài :
Xu hướng đổi mới của PPDH hiện nay là dạy học hoạt động hóa người học, đổi mới
PPDH theo hướng dạy học tích cực hoạt động nhận thức, rèn năng lực và kỹ năng tự học,
hình thành phương pháp tự học cho học sinh. Từ đó hệ thống hóa và làm rõ hơn cơ sở lý luận
về tự học và phương pháp tự học có hướng dẫn, các khái niệm và đặc trưng của loại tự sự
trong văn học.
- Nghiên cứu cơ sở thực tiễn của đề tài:
Chúng tôi đã tiến hành khảo sát phần Đọc thêm trong chương trình ngữ văn, phần đọc
thêm các tác phẩm tự sự lớp 12 và thực trạng tình hình dạy của GV, tự học phần đọc thêm
của HS để làm cơ sở thực tiễn cho đề tài và nhận thấy: Mặc dù chiếm một vị trí khá lớn trong

chương trình ngữ văn, nhưng phần Đọc thêm chưa được chú ý, nên chưa phát huy được hết
hiệu quả đối với việc học môn ngữ văn nói chung và ý đồ của nhóm tác giả biên soạn nói
riêng. Học sinh quen cách học thụ động, GV chưa có những hướng dẫn phù hợp để tự học
nên phần này thường bị bỏ qua.
- Đề xuất phương pháp dạy học phần đọc thêm các tác phẩm tự sự lớp 12 theo hướng tự học
có hướng dẫn.
Trọng tâm của phương pháp đề xuất là hướng dẫn của giáo viên để học sinh tự học
bao gồm :
+ Hướng dẫn học sinh sử dụng sách giáo khoa.
+ Hướng dẫn học sinh đọc hiểu văn bản bằng hệ thống câu hỏi cụ thể được soạn theo
đặc trưng thể loại tự sự.
+ Hướng dẫn học sinh thu thập tài liệu liên quan đến bài học.
+ Ứng dụng phương pháp phát hiện và giải quyết vấn đề cho phần kiểm tra đánh giá
kết quả tự học.
- Hiện thực hóa đề xuất trên bằng quá trình thực nghiệm sư phạm.
2. Khuyến nghị.
- Về phía tổ, nhóm chuyên môn ngữ văn : Có thể ứng dụng phương pháp dạy phần đọc thêm
theo hướng tự học có hướng dẫn ở các khối lớp khác, đặc biệt là từ lớp dưới để rèn kỹ năng
tự học cho học sinh. Có thể áp dụng cả ở thể loại trữ tình và kịch.
- Về phía giáo viên : Mỗi giáo viên có thể soạn thật công phu một bài, gộp lại thành giáo án
hướng dẫn tự học chung cho phần đọc thêm.
Xuất phát từ định hướng đổi mới PPDH theo hướng tích cực hóa hoạt động của người
học, phát huy khả năng tự học, tự nghiên cứu của học sinh, đề tài nghiên cứu trong luận văn
của chúng tôi hi vọng được góp một phần vào việc nâng cao chất lượng học tập của học sinh,
nâng cao chất lượng giáo dục. Chúng tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu
của các thày cô giáo và các bạn đồng nghiệp để luận văn được hoàn thiện hơn.



References

1. Lại Nguyên Ân biên soạn (2003), 150 thuật ngữ văn học. Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.
2. Nguyễn Thị Bình (1998), “Bài phát biểu tại Hội thảo nghiên cứu và phát triển tự học tự
đào tạo”, Tạp chí Nghiên cứu giáo dục( 2).
3. Trịnh Văn Biều (2002), Lí luận dạy học hóa học. Nxb Đại học sư phạm TP HCM.
4. Nguyễn Duy Cần, Thu Giang (1999), Tôi tự học. Nxb Thanh niên.
5. Đỗ Hữu Châu (2007), Đại cương ngôn ngữ học tập II, ngữ dụng học. Nxb Giáo Dục.
6. Nguyễn Văn Cƣờng (2006), “Đổi mới phương pháp dạy học trung học phổ thông, một số
vấn đề chung”, Dự án phát triển giáo dục trung học phổ thông, Bộ Giáo dục và đào tạo.
7. Chiến lƣợc phát triển giáo dục 2001 – 2010. (Ban hành kèm theo Quyết định số
201/2001/QĐ- TTg ngày 28/12/2001 của Thủ tướng Chính phủ).
8. Nguyễn Nghĩa Dân (1998), “Vì năng lực tự học sáng tạo của học sinh”, Tạp chí Nghiên
cứu giáo dục (2).
9. Ngô Thu Dung (2006), Bài giảng Lý luận dạy học. Khoa sư phạm Đại học quốc gia, Hà
Nội.
10. Phạm Văn Đồng (1973), “Dạy văn là một quá trình rèn luyện toàn diện”, Tạp chí Nghiên
cứu giáo dục (11).
11. Phạm Văn Đồng (6/1/1998), “Thư gửi Hội thảo khoa học nghiên cứu phát triển tự học,
tự đào tạo”.
12. Phạm Văn Đồng (2000), “Phương pháp tự học và lòng ham học đó là cái quý nhất”, Tạp
chí Tự học (9).
13. Trần Bá Hoành (1998), “Vị trí của tự học tự đào tạo trong quá trình dạy học giáo dục và
đào tạo”, Tạp chí Nghiên cứu giáo dục (7).
14. Lê Quang Hƣng, “Cách học để đạt điểm cao tác phẩm văn xuôi tự sự”, Nguồn http.www.
baomoi.com.
15. Nguyễn Bá Kim - Vũ Dƣơng Thụy (2000), Phương pháp dạy học môn Toán. Nxb Giáo
dục.
16. Phan Trọng Luận (1969), Rèn luyện tư duy qua giảng dạy văn học. Nxb Giáo dục, Hà Nội.
17. Phan Trọng Luận, Tự học, chuyện cũ mà mới. Nxb Giáo dục, Hà Nội.
18. Phan Trọng Luận tổng chủ biên (2007), SGV Ngữ văn chương trình chuẩn. Nxb Giáo
dục.

19. Phan Trọng Luận tổng chủ biên (2007), SGK Ngữ văn lớp 12 chương trình chuẩn. Nxb
Giáo dục.
20. Phan Trọng Luận (2001), Phương pháp dạy học văn, tập 1,2. Nxb Giáo dục.
21. Phan Trọng Luận (1998), “Tự học, chìa khóa vàng của Giáo dục”, Tạp chí Nghiên cứu
giáo dục (2).
22. Phan Trọng Luận (2000), “Giáo dục Việt Nam bước vào thế kỉ XXI”, Tạp chí tự học
(14).
23. Luật giáo dục của quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam số
38/2005/QH11( ngày 14/06/2005).
24. Lê Đức Ngọc (2004), “Dạy cách học, một trong những giải pháp nâng cao chất lượng đào
tạo đại học”, Tạp chí Dạy và học ngày nay.
25. Nghị quyết hội nghị lần thứ hai BCH TW Đảng(Khóa VIII) về định hướng chiến lược
phát triển giáo dục đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhiệm vụ đến năm
2000. (Số 02 - NQ/HNTW ngày 24/12/1996).
26. Chu Mạnh Nguyên (2000), “Trình độ học vấn tự học và tự nghiên cứu là hai mặt của
quá trình tự học”, Tạp chí Tự học (7).
27. Hoàng Phê chủ biên (2009), Từ điển Tiếng Việt. Nxb Đà Nẵng.
28. Sở giáo dục và đào tạo Hải Phòng (2011), Tài liệu phân phối chương trình THPT môn
Ngữ văn.
29. Trần Đình Sử tổng chủ biên(2007), SGV Ngữ văn chương trình nâng cao. Nxb Giáo dục.
30. Nguyễn Cảnh Toàn chủ biên, Nguyễn Kì, Vũ Văn Tảo, Bùi Tường (1997), Quá trình
dạy - tự học. Nxb Giáo Dục Hà Nội.
31. Nguyễn Cảnh Toàn (2001), “Nghiên cứu và phát triển tự học”, Đề tài nghiên cứu khoa
học in nội bộ.
32. Nguyễn Cảnh Toàn (2001), Tuyển tập tác phẩm tự giáo dục, tự học, tự nghiên cứu tập I.
Trường Đại học sư phạm Hà Nội I, Trung tâm văn hoá ngôn ngữ Đông Tây.
33. Thái Duy Tuyên (2001), Giáo dục học hiện đại - Những vấn đề cơ bản. Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội.
34. Thái Duy Tuyên (2003), “Dạy tự học cho sinh viên trong các nhà trường Cao đẳng Đại
học chuyên nghiệp”, Chuyên đề Phương pháp dạy học cho học viên Cao học, Đại học Huế.







×