1
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH
NGUYỄN THỊ MINH PHƢƠNG
NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG ĐÀO TẠO
CỦA TRƢỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ
CƠ ĐIỆN - LUYỆN KIM THÁI NGUYÊN
TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ KINH TẾ
Thái Nguyên - 2012
2
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong thời kỳ hội nhập, Việt Nam được đánh giá là một nền kinh tế nhiều
tiềm năng với dân số trẻ đang là điểm thu hút các nhà đầu tư từ nhiều nước trên
thế giới. Có nhiều nhà đầu tư lớn vào các ngành công nghiệp như: khai thác,
sản xuất, chế biến, Số lượng các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp tăng lên
không ngừng trên khắp các tỉnh, yêu cầu thay đổi nhanh chóng về cơ cấu lao
động trong xã hội: số việc làm cho lực lượng lao động giản đơn giảm, việc làm
cho lao động kỹ thuật tăng nhanh. Hàng năm, các doanh nghiệp cần tuyển dụng
trên 1 triệu lao động, trong khi hệ thống trường nghề nước ta mới chỉ đáp ứng
trên 35% lao động được học nghề.
Sự phát triển của nền kinh tế - xã hội hiện đại đã có tác động rất lớn đến
toàn bộ nền giáo dục, trong đó phát triển đào tạo nghề là vấn đề cấp thiết được
sự quan tâm đặc biệt không chỉ của Chính phủ mà còn được các trường dạy
nghề và các doanh nghiệp cũng như đông đảo người lao động hưởng ứng. Tuy
nhiên đào tạo nghề hiện nay chưa bắt kịp sự phát triển của khoa học–công nghệ
cả về số lượng và chất lượng, tay nghề của học sinh sinh viên sau khi tốt nghiệp
nghề chưa đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp tuyển dụng, hầu hết phải
đào tạo bổ sung và nâng cao cho phù hợp với yêu cầu công nghệ của doanh
nghiệp
Trường Cao đẳng nghề Cơ điện - Luyện kim Thái Nguyên là một trong số
trường hàng đầu trong đào tạo nghề phục vụ ngành Thép Việt Nam, hàng năm
được giao đào tạo nghề cho 2000 người. Việc nghiên cứu tìm nhiều hướng,
nhiều biện pháp để nâng cao chất lượng đào tạo đáp ứng yêu cầu của doanh
nghiệp tuyển dụng là vấn đề hết sức cấp thiết đối với nhà trường. Do đó, tôi
lựa chọn đề tài nghiên cứu “Nâng cao chất lượng đào tạo của trường Cao đẳng
nghề Cơ điện – Luyện kim Thái Nguyên trong thời kỳ hội nhập” nhằm góp
3
phần cải thiện chất lượng đào tạo của nhà trường từ đó giúp tăng thêm độ tin
cậy của doanh nghiệp và người học nghề đối với nhà trường.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu chung
Đề tài góp phần nâng cao chất lượng đào tạo của trường Cao đẳng nghề
Cơ điện – Luyện kim Thái Nguyên trong thời kỳ hội nhập và góp phần thực
hiện thành công đề án "Đổi mới và phát triển dạy nghề đến năm 2020" của Bộ
Lao Động - TB & XH với dự kiến đến năm 2020 tỷ lệ lao động qua đào tạo
nghề đạt 55%.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hóa một số vấn đề cơ bản bằng lý luận và thực tiễn về đào tạo
nghề ở một số nước trên thế giới và Việt Nam.
- Đánh giá thực trạng đào tạo nghề của Trường Cao đẳng nghề Cơ điện –
Luyện kim Thái Nguyên trong giai đoạn vừa qua, tìm ra những ưu nhược điểm
của hoạt động đào tạo nghề, phân tích nguyên nhân dẫn đến kết quả đó.
- Đề xuất một số giải pháp có tính khả thi phù hợp với điều kiện nhà
trường để nâng cao chất lượng đào tạo nghề trong thời kỳ hội nhập.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu là các vấn đề liên quan đến chất lượng đào tạo
nghề của trường Cao đẳng nghề Cơ điện - Luyện kim Thái Nguyên và giải pháp
nâng cao chất lượng đào tạo nghề của nhà trường trong thời kỳ hội nhập.
- Phạm vi nghiên cứu: Đề tài được thực hiện thông qua số liệu từ năm
2008 – 2010 tại trường Cao đẳng nghề Cơ điện - Luyện kim Thái Nguyên .
4. Ý nghĩa khoa học và những đóng góp mới của đề tài
4.1. Ý nghĩa khoa học
Luận văn đáp ứng được các yêu cầu cơ bản của một luận văn thạc sỹ, đề
xuất được một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nghề của trường
Cao đẳng nghề Cơ điện - Luyện kim Thái Nguyên trong thời kỳ mới. Luận văn
có thể sử dụng làm tài liệu nghiên cứu, tham khảo trong lĩnh vực đào tạo nghề.
4
4.2. Đóng góp mới của đề tài
Những nghiên cứu của luận văn sẽ giúp cho trường CĐN Cơ điện -
Luyện kim Thái Nguyên nói riêng và ngành dạy nghề nói chung nâng cao chất
lượng đào tạo nghề, góp phần thực hiện thành công chiến lược đào tạo nghề
giai đoạn 2011 – 2015.
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn được chia làm
4 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về đào tạo nghề
Chương 2: Phương pháp nghiên cứu
Chương 3: Thực trạng đào tạo nghề ở trường Cao đẳng nghề Cơ điện -
Luyện kim Thái Nguyên
Chương 4: Giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo của trường Cao đẳng
nghề Cơ điện - Luyện kim Thái Nguyên trong thời kỳ hội nhập.
5
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIẾN VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Một số vấn đề cơ bản về dạy nghề
1.1.1.1. Khái niệm về dạy nghề
Từ điển tiếng Việt (năm 1998) đưa ra định nghĩa “Nghề là công việc
chuyên làm, theo sự phân công của xã hội”. Khái niệm nghề của Nga được định
nghĩa là một hoạt động đòi hỏi có đào tạo nhất định và thường là nguồn gốc
của sự sống. Khái niệm nghề của Pháp được định nghĩa là một loại lao động có
thói quen và kỹ năng, kỹ xảo của một người để từ đó tìm được phương tiện
sống. Ở Đức, nghề được định nghĩa là hoạt động cần thiết cho xã hội ở một
lĩnh vực lao động nhất định, đòi hỏi phải được đào tạo ở một trình độ nào đó.
Từ các khái niệm trên, chúng ta có thể hiểu nghề là một lĩnh vực hoạt động lao
động mà trong đó, nhờ được đào tạo, con người có được những tri thức, những
kỹ năng để làm ra các loại sản phẩm vật chất hay tinh thần nào đó, đáp ứng
được những nhu cầu của xã hội.
Nghề bao gồm nhiều chuyên môn. Chuyên môn là một lĩnh vực lao động
sản xuất hẹp mà ở đó, con người bằng năng lực thể chất và tinh thần của mình
làm ra những giá trị vật chất (thực phẩm, lương thực, công cụ lao động…) hoặc
giá trị tinh thần (sách báo, phim ảnh, âm nhạc, tranh vẽ…) với tư cách là những
phương tiện sinh tồn và phát triển của xã hội.
Trên thế giới hiện nay có trên 2000 nghề với hàng chục nghìn chuyên
môn. Ở Việt Nam trong những năm gần đây, do sự chuyển biến của nền kinh tế
từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường, nên đã gây ra những
biến đổi sâu sắc trong cơ cấu nghề nghiệp của xã hội. Trong cơ chế thị trường,
nhất là trong nền kinh tế tri thức tương lai, sức lao động cũng là một thứ hàng
hóa. Giá trị của thứ hàng hóa sức lao động này tuỳ thuộc vào trình độ, tay nghề,
khả năng về mọi mặt của người lao động. Xã hội đón nhận thứ hàng hóa này
6
như thế nào là do “hàm lượng chất xám” và “chất lượng sức lao động” quyết
định. Khái niệm phân công công tác sẽ mất dần trong quá trình vận hành của cơ
chế thị trường. Con người phải chủ động chuẩn bị tiềm lực, trau dồi bản lĩnh,
nắm vững một nghề, biết nhiều nghề để rồi tự tìm việc làm, tự tạo việc làm…
Vì hệ thống nghề nghiệp trong xã hội có số lượng nghề và chuyên môn
nhiều như vậy nên người ta gọi hệ thống đó là “Thế giới nghề nghiệp”. Nhiều
nghề chỉ thấy có ở nước này nhưng lại không thấy ở nước khác. Hơn nữa, các
nghề trong xã hội luôn ở trong trạng thái biến động do sự phát triển của khoa
học và công nghệ. Nhiều nghề cũ mất đi hoặc thay đổi về nội dung cũng như về
phương pháp sản xuất. Nhiều nghề mới xuất hiện rồi phát triển theo hướng đa
dạng hóa. Theo thống kê gần đây, trên thế giới mỗi năm có tới 500 nghề bị đào
thải và khoảng 600 nghề mới xuất hiện. Ở nước ta, mỗi năm ở cả 3 hệ trường
(dạy nghề, trung học chuyên ngiệp và cao đẳng - đại học) đào tạo trên dưới 300
nghề bao gồm hàng nghìn chuyên môn khác nhau.
Luật dạy nghề số 76/2006/QH2011 ngày 29/ 11/ 2006 đã nêu rõ: " Dạy
nghề là hoạt động dạy và học nhằm trang bị kiến thức, kỹ năng và thái độ nghề
nghiệp cần thiết cho người học nghề để có thể tìm được việc làm hoặc tự tạo
việc làm sau khi hoàn thành khoá học" với "mục tiêu là đào tạo nhân lực kỹ
thuật trực tiếp trong sản xuất, dịch vụ có năng lực thực hành nghề tương xứng
với trình độ đào tạo, có đạo đức, lương tâm nghề nghiệp, ý thức kỷ luật, tác
phong công nghiệp, có sức khoẻ nhằm tạo điều kiện cho người học nghề sau
khi tốt nghiệp có khả năng tìm việc làm, tự tạo việc làm hoặc học lên trình độ
cao hơn, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước."
1.1.1.2. Vị trí của ngành dạy nghề trong hệ thống giáo dục quốc dân
Theo Luật giáo dục số 38/2005/QH11 ngày 14/ 6/ 2005: Hệ thống giáo
dục quốc dân gồm giáo dục chính quy và giáo dục thường xuyên. Hệ thống
giáo dục quốc dân gồm nhiều cấp học và trình độ đào tạo, trong đó giáo dục
7
nghề nghiệp là một cấp học quan trọng và được quy định cụ thể hơn bởi Luật
dạy nghề số 76/2006/QH2011 ngày 29/ 11/ 2006.
Theo luật này, ngành dạy nghề đã trở thành một bộ phận quan trọng của hệ
thống giáo dục quốc dân, bao gồm dạy nghề chính quy và dạy nghề thường xuyên.
Vị trí của ngành dạy nghề đã được mô tả trong “Hệ thống giáo dục quốc
dân Việt Nam 2010” .
Sơ đồ 1.1: Vị trí của ngành dạy nghề trong hệ thống giáo dục quốc dân
(Nguồn: Tổng cục Dạy nghề)
Nhìn vào sơ đồ trên ta có thể thấy dạy nghề có vị trí quan trọng trong
hệ thống giáo dục quốc dân, nguồn của giáo dục dậy nghề bắt đầu từ cấp trung
học cơ sở, trung học phổ thông và từ giáo dục thường xuyên, từ 3 nguồn này
học sinh sẽ được học tại các trường cao đẳng nghề, trung cấp nghề, trung học
8
chuyên nghiệp với các hệ đào tạo nghề dài hạn ngắn hạn. Người học nghề sau
khi tốt nghiệp có thể học liên thông lên các bậc học cao hơn như cao đẳng, đại
học hoặc có thể đi làm ngay.
1.1.1.3. Vai trò của ngành dạy nghề trong nền kinh tế quốc dân
Trong thời đại hiện nay, trước xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế,
nhằm đáp ứng nhu cầu của xã hội, hệ thống đào tạo nghề ở Việt Nam đang có
nhiều đổi mới. Hệ thống giáo dục nghề nghiệp có vai trò hết sức quan trọng
trong việc phát triển nguồn nhân lực mà trọng tâm là việc nâng cao chất lượng
và hiệu quả nguồn nhân lực.
Trong đào tạo nghề, việc đào tạo phải gắn với nhu cầu lao động mà
trước hết là gắn với người sử dụng lao động (các doanh nghiệp). Ở nhiều nước
như Nhật, Hàn Quốc…việc đào tạo nghề được tiến hành trong công ty, xí
nghiệp và đã chứng tỏ rất hiệu quả. Thực tế cho thấy, bao giờ cũng có độ trễ về
đào tạo so với nhu cầu sử dụng nên trong đào tạo nghề, có thể khắc phục bằng
cách chia nhỏ các giai đoạn đào tạo (đào tạo theo modul) hay thiết kế các
modul thích ứng…Đối với người lao động, việc đào tạo nghề và đào tạo lại có
thể tiến hành trong bất kỳ giai đoạn nào của cuộc đời.
Theo văn kiện Hội nghị thế giới về Giáo dục nghề nghiệp-UNESCO-
1999 thì “Hầu hết các học viên sau khi hoàn thành các chương trình giáo dục
nghề nghiệp đều hy vọng sẽ có cơ hội tiếp tục được đào tạo tại nơi làm việc hay
trong các cơ sở đào tạo. Vì vậy, việc quản lý chương trình và nội dung đào tạo
phải đảm bảo đầu vào linh hoạt và các cơ hội đầu ra trong suốt cuộc đời. Các
học viên tốt nghiệp các chương trình giáo dục nghề nghiệp mong muốn thu
nhận được những kỹ năng mới thông qua việc đào tạo lại, cần có các cơ hội học
tập suốt đời. Một số đề xuất nhằm tạo điều kiện cho hướng đi này bao gồm:
thiết kế các khóa học theo mô hình modul, giới thiệu phương pháp đánh giá dựa
trên năng lực, sử dụng hình thức học tập tự điều chỉnh nhằm đáp ứng các nhu
cầu của cá nhân và công nhận những kinh nghiệm, kiến thức và kỹ năng được
tích luỹ trước đó của người được đào tạo”. Trong bối cảnh toàn cầu hoá, công
9
nghệ tin học phát triển hàng ngày, hàng giờ. Kinh tế phát triển mạnh, xã hội
thay đổi, nhiều ngành nghề mới xuất hiện và một số ngành nghề cũng mất đi.
Nền kinh tế chuyển từ quan liêu bao cấp sang kinh tế thị trường có định hướng
XHCN, năm 2006, Việt Nam đã chính thức gia nhập Tổ chức thương mại thế
giới (WTO).
Bối cảnh quốc tế và trong nước vừa tạo thời cơ lớn vừa đặt ra những
thách thức không nhỏ cho giáo dục nghề nghiệp ở Việt nam . Quá trình tăng
cường hợp tác khu vực ASEAN và các nước trên thế giới đã và đang đặt ra
những yêu cầu mới không chỉ về kinh tế mà cả về giáo dục đặc biệt là về đào
tạo nguồn nhân lực theo các chuẩn mực đào tạo khu vực và quốc tế.
Đồng thời, những tiến bộ khoa học- công nghệ và những đổi mới về tổ
chức, quản lý sản xuất-dịch vụ trong tất cả các lĩnh vực kinh tế- xã hội cũng đặt
ra những yêu cầu mới về cơ cấu và chất lượng đào tạo nhân lực nói chung và
đào tạo nghề nghiệp nói riêng.
Các nghiên cứu gần đây về chất lượng giáo dục và nguồn nhân lực ở các
nước cho thấy Việt nam chỉ đạt 3,79 /10 (so với Trung quốc là 5,73/10 và Thái
lan là 4,04/10). Nhân lực được đào tạo trong hệ thống giáo dục nghề nghiệp dù
đã có những chuyển đổi để thích nghi với nền kinh tế thị trường song vẫn chưa
đáp ứng được nhu cầu của thị trường lao động, chưa gắn với việc làm. So với
các nước, sản phẩm đào tạo - nguồn nhân lực - ở Việt Nam chất lượng còn hạn
chế, thiếu tính cạnh tranh do năng lực hoạt động, năng lực chia sẻ và năng lực
hòa nhập kém dù người Việt Nam không thiếu sự thông minh và cần cù. Đặc
biệt, so với các nước, người lao động ở nước ta ở mức rất thấp về sự thành thạo
tiếng Anh và công nghệ cao. Vì vậy, xuất khẩu lao động tuy mang lại ngoại tệ
cho đất nước và giúp nhiều nông dân đổi đời song nhìn chung người lao động
Việt Nam ở nước ngoài chủ yếu chỉ biết lao động đơn giản nên làm việc vất vả
mà mức lương không cao.
Nói chung, kinh tế Việt Nam chưa bắt kịp kinh tế của các nước phát triển.
Lao động nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng lớn so với hai ngành: công nghiệp và
10
dịch vụ. Người lao động ít thay đổi nghề nghiệp (72% lực lượng lao động chưa
bao giờ thay đổi việc làm – Khảo sát của Henaff, Martin năm 1999).Thương
mại chiếm đa số trong việc chuyển đổi lao động và là điểm dừng chân chính
cho những người rời bỏ nghề nghiệp ban đầu. Việc hầu hết người dân giữ
nguyên công việc và nơi sinh sống do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách
quan. Trong đó, nguyên nhân quan trọng là sự phiến diện trong hướng nghiệp
và sự lạc hậu, bất cập trong đào tạo nghề.
Trong vài năm gần đây, kinh tế-xã hội Việt Nam có những bước phát
triển mạnh, việc thay đổi cơ cấu ngành nghề và trình độ của nhân lực lao động
trong xã hội đã làm nảy sinh nhu cầu của người lao động. Đó là được bồi dưỡng
nâng cao trình độ nghề nghiệp và đào tạo lại để chuyển đổi vị trí làm việc cũng
như nghề nghiệp. Thực trạng về lao động và việc làm, về chất lượng nguồn
nhân lực ở nước ta đã đặt ra những yêu cầu mới về đào tạo nghề. Nhà nước ta
đã đặt ra mục tiêu: ưu tiên nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực, đặc biệt chú
trọng nhân lực khoa học - công nghệ trình độ cao, cán bộ quản lý giỏi và công
nhân kỹ thuật lành nghề, trực tiếp góp phần nâng cao sức cạnh tranh của nền
kinh tế.
Trong đào tạo nghề, không chỉ dừng ở việc đào tạo cho người lao động
có kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp mà còn đào tạo và hình thành các năng lực
mềm (thích nghi, biến đổi ) để con người có thể linh hoạt trong lựa chọn nghề
và chuyển đổi nghề nghiệp. Các trường nghề cần được đầu tư chuyên sâu cho
nghề trọng điểm để có thể đào tạo được một đội ngũ đông đảo những người lao
động có trình độ lành nghề và tay nghề bậc cao.
Đáp ứng được những yêu cầu cấp thiết trên, việc đào tạo nghề ở nước ta
sẽ có những bước chuyển biến mạnh mẽ, hòa nhập với thế giới. Sản phẩm đào
tạo-nguồn nhân lực-sẽ phát triển và có chất lượng cao, phục vụ cho sự nghiệp
CNH, HĐH đất nước và đáp ứng được những thách thức của quá trình toàn cầu
hóa mạnh mẽ hiện nay.
11
Như vậy, nền kinh tế hiện đại đòi hỏi nguồn nhân lực có chất lượng cao,
có thể thích ứng với nhiều loại hình nghề nghiệp. Từ đó, giáo dục nghề nghiệp
phải chú trọng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhân lực phải đa
năng…Người lao động phải biết di chuyển kĩ năng, di chuyển cảm xúc…khi
chuyển đổi công việc. Đây là vấn đề khó khăn đặt ra cho giáo dục nghề nghiệp
hiện đại.
1.1.1.4. Đặc điểm của đào tạo nghề:
- Thay đổi sự phân loại nghề nghiệp truyền thống theo lĩnh vực kinh tế-xã
hội, ngành, nghề ( công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ ) hay theo văn bằng, trình
độ đào tạo ( sơ học, trung học, đại học ). Xuất hiện nhiều ngành nghề mới.
- Xoá bỏ tính định mệnh nghề nghiệp cho các cá nhân do phải thay đổi và
chuyển nghề hoặc việc làm nhiều lần trong toàn bộ cuộc đời.
- Dỡ bỏ những rào cản giữa những đặc điểm nhân cách cá nhân (đặc điểm
tâm –sinh lý, sức khoẻ, thành phần xã hội, xu hướng nghề nghiệp…) với các
loại hình nghề nghiệp khác nhau về tính chất, nội dung, công cụ , môi trường
lao động… Mỗi một cá nhân có thể thích ứng với nhiều loại hình nghề nghiệp,
việc làm khác nhau và ở những môi trường khác nhau.
- Chuyển từ đào tạo nghề một lần sang đào tạo, bồi dưỡng liên tục, suốt
đời . Chuyển từ đào tạo kỹ năng sang đào tạo và hình thành năng lực đặc biệt là
các năng lực mềm (tư duy, thích nghi, biến đổi…)
- Thay đổi những định hướng giá trị nghề nghiệp trong đó bảo đảm kết
hợp hài hoà giữa lợi ích, nhu cầu cá nhân và xã hội , cân bằng các giá trị,
lợi ích vật chất ( thu nhập, lưong bổng, đãi ngộ ) và giá trị tinh thần (thoả
mãn sự hứng thú, say mê công việc…).
- Chuyển từ đào tạo theo công nghệ, thiết bị dạy học sẵn có trong trường
sang đào tạo nghề gắn liền với yêu cầu công nghệ của doanh nghiệp.
- Chuyển từ đào tạo theo chỉ tiêu kế hoạch hàng năm sang đào tạo liên tục
theo nhu cầu xã hội và xu thế phát triền của nền sản xuất công nghiệp.
12
- Việc dạy, học nghề hiện nay ở nước ta ngày càng tiếp cận theo hướng
nhu cầu (cần gì dạy đó). Chúng ta đã áp dụng những công nghệ hiện đại, những
chương trình, giáo trình tiêu chuẩn nghề, áp dụng công nghệ phân tích nghề Đa
Cum của Mỹ và Canada. Đây là công nghệ tiên tiến nhất để làm các tiêu chuẩn
kỹ năng nghề cũng như chương trình, giáo trình. Sự vào cuộc của các doanh
nghiệp giúp dạy nghề đáp ứng được các kiến thức, kỹ năng doanh nghiệp đòi
hỏi. Nhờ làm tốt công tác dạy nghề, tạo đầu ra cho học viên, người dân đã nhận
thức được tầm quan trọng của học nghề.
1.1.1.5. Các phương thức đào tạo nghề
Dạy nghề bao gồm phương thức dạy nghề chính quy và dạy nghề thường xuyên:
* Dạy nghề chính quy được thực hiện với các chương trình sơ cấp nghề,
trung cấp nghề và cao đẳng nghề tại các trường Trung cấp nghề, Cao đẳng nghề,
các trường trung cấp, đại học có đăng ký dạy nghề theo các khoá học tập trung
và liên tục kéo dài từ 3 tháng đến 36 tháng.
Phương pháp dạy nghề trình độ sơ cấp phải chú trọng rèn luyện kỹ năng
thực hành nghề và phát huy tính tích cực, tự giác của người học nghề.
Phương pháp dạy nghề trình độ trung cấp phải kết hợp rèn luyện năng
lực thực hành nghề với trang bị kiến thức chuyên môn và phát huy tính tích cực,
tự giác, khả năng làm việc độc lập của người học nghề.
Phương pháp dạy nghề trình độ cao đẳng phải kết hợp rèn luyện năng lực
thực hành nghề với trang bị kiến thức chuyên môn và phát huy tính tích cực, tự
giác, năng động, khả năng tổ chức làm việc theo nhóm.
* Dạy nghề thường xuyên được thực hiện linh hoạt về thời gian, địa điểm,
phương pháp đào tạo để phù hợp với yêu cầu của người học nghề nhằm tạo
điều kiện cho người lao động học suốt đời, nâng cao trình độ kỹ năng nghề
thích ứng với yêu cầu của thị trường lao động, tạo cơ hội tìm việc làm, tự tạo
việc làm.
1.1.1.6. Yếu tố ảnh hưởng đến đào tạo nghề:
Trong thực tế, dạy nghề chịu ảnh hưởng vởi nhiều yếu tố khách quan và chủ quan:
13
* Yếu tố khách quan:
- Chính sách của nhà nước: Những năm gần đây mặc dù ngành dạy nghề
đã được quan tâm lớn của Nhà nước bằng các dự án chương trình mục tiêu
quốc gia về trang thiết bị dạy học, về nguồn cấp kinh phí cho đào tạo lao động
nông thôn với mục đích dịch chuyển dần cơ cấu lao động từ nông nghiệp sang
công nghiệp song kết quả thực hiện còn nhiều bất cập do đầu tư quá dàn trải.
- Tâm lý người học: Chủ yếu do tâm lý chuộng bằng cấp của người dân
cho rằng cơ hội tăng tiến của học sinh tại các trường đại học cao hơn các
trường dạy nghề, mặt khác nguồn đầu tư tài chính của gia đình cho các học sinh
học tập tại các trường nghề cũng tương đương với các trường đại học do đó họ
không lựa chọn học nghề.
* Yếu tố chủ quan:
- Cơ sở vật chất tại các trường nghề : Các thiết bị dạy và học còn lạc hậu,
cũ kỹ và còn thiếu, chưa thể đáp ứng nhu cầu học tập và chưa thể theo kịp các
tiến bộ của khoa học công nghệ hiện nay.
- Đội ngũ cán bộ giảng dạy đủ tiêu chuẩn: Còn rất ít, đây là một thách thức
lớn đang đặt ra cho ngành dạy nghề, hầu hết tại các trường nghề đều thiếu giáo
viên đặc biệt là các giáo viên có khả năng dạy nghề theo phương pháp tích hợp.
- Hệ thống giáo trình dùng cho việc giảng dạy không thường xuyên được
chỉnh lý, có những trường còn giảng dạy trên các thiết bị kỹ thuật cũ của thế kỷ
trước.
Tất cả các bất cập trên đều làm cho chất lượng đào tạo nghề của chúng
ta còn thấp khó có thể đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực trong tương lai.
1.1.2. Một số vấn đề cơ bản của trường nghề
1.1.2.1. Khái niệm và phân loại trường nghề
* Khái niệm: Nơi đào tạo nghề trong các trường chuyên nghiệp được gọi
là trường nghề, đó là cơ sở giáo dục nhằm cung cấp các kiến thức cần thiết
nghề nghiệp, các kỹ năng thực hành cho thực tế cuộc sống và nghề nghiệp.
* Phân loại trường nghề: Được phân loại theo cấp trình độ đào tạo
14
- Trường Cao đẳng nghề; Trường cao đẳng, trường đại học có đăng ký
dạy nghề trình độ cao đẳng: Được đào tạo nghề ở cả 3 cấp trình độ: Sơ cấp
nghề, Trung cấp nghề và Cao đẳng nghề
- Trường Trung cấp nghề: Được đào tạo nghề ở 2 cấp trình độ: Sơ cấp
nghề và Trung cấp nghề .
- Trung tâm dạy nghề: Được đào tạo nghề ở trình độ: Sơ cấp nghề .
1.1.2.2. Hệ thống các trường dạy nghề:
Hệ thống Dạy nghề Việt Nam được đặt dưới sự quản lý nhà nước của Bộ
Giáo dục và Đào tạo, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội và các bộ ngành
khác cấp trung ương. Ở cấp cơ sở, hệ thống này được chính quyền tỉnh và địa
phương quản lý một phần. Vào năm 1998, trách nhiệm về Dạy nghề ở Việt
Nam được chuyển từ Bộ Giáo dục và Đào tạo sang một cơ quan mới được
thành lập là Tổng cục Dạy nghề thuộc Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội,
tuy nhiên việc đào tạo kỹ thuật (chuyên nghiệp) ở trìknh độ trung cấp và đại
học vẫn thuộc Bộ GD-ĐT. Các trường đại học Sư phạm Kỹ thuật thuộc Bộ GD-
ĐT cung cấp giáo viên cho trường và các cơ sở đào tạo thuộc Bộ và các bộ
ngành khác.
Ngày 03 tháng 10 năm 2012 Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội có
công văn số 3566/LĐTBXH-TCDN gửi các Sở Lao động - Thương binh và Xã
hội các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương về việc thông báo Danh sách mã
trường hình thức sở hữu trường CĐN,TCN đến ngày 01/8/2012. Theo đó, các
trường dạy nghề được phân bổ đều khắp các tỉnh thành trong cả nước với 317
trường dạy nghề công lập và 131 trường dạy nghề tư thục, các trường dạy nghề
tư thục chủ yếu tập trung ở hai thành phố lớn là Hà Nội và Hồ Chí Minh
15
(Nguồn : Tổng cục Dạy nghề)
16
Sơ đồ 1.2. Hệ thống trƣờng dạy nghề
Qua sơ đồ ta thấy hệ thống trường nghề được nhiều cấp, nhiều ngành
quản lý, các trường dạy các kỹ năng như một hình thức thay thế cho con đường
học trung học cơ sở thông thường. Mục tiêu là phát triển kiến thức cơ bản của
học sinh và giới thiệu các kỹ năng kỹ thuật và kỹ năng nghề nghiệp để học sinh
có thể tiếp tục học lên các bậc học cao hơn hoặc đi làm.
HỆ THỐNG TRƢỜNG DẠY
NGHỀ
CÁC TRƢỜNG
THUỘC BỘ
CÁC TRƢỜNG
THUỘC TỔNG
CÔNG TY, TẬP
ĐOÀN
CÁC TRƢỜNG
THUỘC ĐỊA
PHƢƠNG
Trƣờng
Trung
cấp nghề
Trƣờng
Cao
đẳng
nghề
Trƣờng
Trung
cấp nghề
Trƣờng
Cao
đẳng
nghề
Trƣờng
Trung
cấp nghề
Trƣờng
Cao
đẳng
nghề
Trung
tâm dạy
nghề
Được
đào
tạo:
- TCN
- SCN
- BDN
Được
đào tạo:
- CĐN
- TCN
- SCN
- BDN
Được
đào
tạo:
- TCN
- SCN
- BDN
Được
đào tạo:
-
CĐN
-
TCN
- SCN
- BDN
Được
đào
tạo:
-
TCN
- SCN
- BDN
Được
đào tạo:
-
CĐN
-
TCN
- SCN
- BDN
Được
đào
tạo:
- SCN
- BDN
17
- Về hình thức dạy nghề: Các cơ sở Dạy nghề với nhiều loại hình khác
nhau thuộc sự quản lý của Tổng cục Dạy nghề - Bộ LĐ-TBXH cung cấp phần
lớn lực lượng lao động được tốt nghiệp qua trường lớp cho thị trường lao động.
Luật Dạy nghề số 76/2006/QH11 quy định tổ chức và hoạt động của các cơ sở
Dạy nghề, và đưa ra 3 cấp đào tạo như sau:
• Đào tạo trình độ sơ cấp nghề tại các trung tâm Dạy nghề (khoảng 3
tháng đến 1 năm)
• Đào tạo trình độ trung cấp nghề tại các trường trung cấp nghề (3 đến 4
năm đối với học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở, 2 đến 3 năm đối với học sinh
đã tốt nghiệp trung học phổ thông)
• Đào tạo trình độ cao đẳng nghề tại các trường cao đẳng nghề (2 năm
đối với những người đã có bằng trung cấp nghề, 2 đến 3 năm với những người
tốt nghiệp trung học phổ thông).
Theo quy định của Tổng cục Dạy nghề - Bộ LĐ-TBXH, một số lớn các
cơ sở cung cấp đào tạo nghề thuộc các Sở LĐ-TBXH, Bộ GD-ĐT, các cơ sở
Dạy nghề thuộc doanh nghiệp, tư nhân, và của các bộ ngành (công nghiệp, xây
dựng, nông nghiệp, v.v.) cung cấp tất cả các loại hình đào tạo nghề, ở tất cả các
cấp đào tạo và thời gian học khác nhau.
- Về chất lượng đào tạo nghề: Hình thức đạo tạo nghề theo trường lớp
thường không đáp ứng yêu cầu về thực hành, và hiếm khi đáp ứng nhu cầu của
“thế giới công việc”. Học sinh sau khi tốt nghiệp nghề chưa đáp ứng được thị
trường lao động, cơ cấu đào tạo chưa hợp lý, thiếu nhân lực kỹ thuật trình độ
cao. Năng lực nghề nghiệp của lao động nước ta vẫn còn khoảng cách lớn so
với các nước phát triển trên thế giới và khu vực. Một hệ thống thực hành nghề
trong đó tỷ lệ lớn đào tạo thực hành được giao cho các doanh nghiệp vẫn chưa
xuất hiện ở Việt Nam, mặc dù các quy định có liên quan đã được đưa vào Luật
Dạy nghề (Điều 35) và Bộ luật Lao động (Chương III). Cho đến giờ, việc đào
tạo thực hành phù hợp thực tế công việc vẫn chỉ dừng lại ở các đợt thực tập –
thuộc một phần của chương trình đào tạo chính quy. Chất lượng đào tạo nghề
18
những năm gần đây mặc dù đã có chuyển biến nhưng vẫn chưa đáp ứng được
nhu cầu của thị trường lao động về tay nghề và các kỹ năng mềm như tác phong
công nghiệp, khả năng làm việc theo tổ, nhóm. Kỹ năng nghề, năng lực nghề
nghiệp của lao động Việt Nam vẫn còn khoảng cách lớn so với các nước phát
triển trên thế giới và trong khu vực.
- Về số lượng trường nghề và số lao động được đào tạo: Mạng lưới cơ
sở dạy nghề mở rộng, phân bố tương đối hợp lý ở các ngành kinh tế, địa
phương, vùng, miền. Hiện nay cả nước có 136 trường cao đẳng nghề, 308
trường trung cấp nghề; 849 trung tâm dạy nghề (trong đó có 296 trung tâm
ngoài công lập) và hơn 1000 cơ sở khác (các cơ sở giáo dục - đào tạo, doanh
nghiệp,…) tham gia dạy nghề. Số cơ sở dạy nghề ngoài công lập chiếm 35,4%.
Bộ LĐ-TBXH hội cho biết năm 2010, hệ thống Dạy nghề đã đào tạo
được khoảng 1,84 triệu học viên/sinh viên. Nhưng có lẽ, đóng góp lớn nhất
trong hệ thống Dạy nghề là đào tạo phi chính quy, tức là đào tạo tại chỗ trong
quá trình đi làm tại các doanh nghiệp, cho đến nay chưa có sự công nhận chính
thức nào về những năng lực mà người học đạt được qua hình thức này. Không
có số liệu thống kê cụ thể nào về số lượng người theo học nghề không chính
quy, nhưng khả năng và tiềm lực của loại hình này được chính phủ công nhận.
Việc cải cách hệ thống theo dự án sẽ giải quyết vấn đề công nhận các hình thức
đào tạo không chính quy thông qua cách tiếp cận về đào tạo và đánh giá đầu ra
dựa trên các tiêu chuẩn nghề.
1.1.2.3. Tiêu chuẩn đánh giá năng lực và hiệu quả hoạt động của trường dạy nghề
a. Tiêu chuẩn kỹ năng nghề
Quyết định số 09/2008/QĐ-BLĐTBXH ngày 27 tháng 3 năm 2008 của
Bộ trưởng Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội quy định:
- Tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia bao gồm các quy định về mức độ
thực hiện và yêu cầu kiến thức, kỹ năng, thái độ cần có để thực hiện các công
việc của một nghề.
19
- Tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia do Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan
ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ (sau đây gọi chung là Bộ
trưởng) chủ trì, phối hợp với cơ quan, hội nghề nghiệp có liên quan tổ chức xây
dựng và ban hành theo quy định của của Luật dạy nghề và Quy định này.
- Cấu trúc tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia gồm 3 phần cơ bản sau:
+ Mô tả nghề: Mô tả phạm vi, vị trí làm việc, các nhiệm vụ chính cần
phải thực hiện, điều kiện và môi trường làm việc, bối cảnh thực hiện các công
việc, công cụ, máy, thiết bị, dụng cụ chủ yếu cần thiết để thực hiện các công
việc của nghề.
+ Danh mục công việc: Liệt kê đầy đủ các công việc cần phải thực hiện
và sắp xếp các công việc đó theo các bậc trình độ kỹ năng nghề.
+ Tiêu chuẩn thực hiện công việc: Tiêu chuẩn thực hiện công việc của
từng công việc trong danh mục công việc được trình bày theo 5 mục có nội
dung như sau:
Mô tả công việc: Nêu khái quát về công việc và các bước cần phải tiến
hành khi thực hiện công việc;
Các tiêu chí thực hiện: xác định và mô tả chi tiết các tiêu chí cần phải
đạt được khi thực hiện các bước công việc về quy trình, kỹ thuật, chất lượng
sản phẩm, thái độ nghề nghiệp, an toàn lao động, thời gian thực hiện … Các
tiêu chí phải lượng hóa hoặc tính toán xác định được;
Các kỹ năng và kiến thức thiết yếu: nêu rõ các kỹ năng quan trọng và
kiến thức lý thuyết cần thiết để thực hiện công việc một cách hiệu quả;
Các điều kiện thực hiện: nêu rõ các công cụ, máy, thiết bị, trang bị
dụng cụ, tài liệu và nguyên vật liệu cần thiết để tiến hành thực hiện công việc;
Tiêu chí và cách thức đánh giá: nêu các hướng dẫn lựa chọn bằng
chứng hỗ trợ cho việc đánh giá và cách thức để xác định một cá nhân có năng
lực thực hiện công việc trong một môi trường làm việc cụ thể.
20
- Các bậc trình độ kỹ năng nghề quốc gia : Trên cơ sở các nhóm tiêu chí
xác định bậc trình độ kỹ năng nghề quy định tại khoản 2 Điều 5 của Quy định
này, yêu cầu cho từng bậc trình độ kỹ năng nghề như sau:
+ Bậc 1 (chứng chỉ 1):
Làm được các công việc đơn giản và công việc của nghề có tính lặp lại;
Hiểu biết và có kiến thức cơ bản ở một phạm vi hẹp về hoạt động của
nghề trong một số lĩnh vực, áp dụng được một số kiến thức nhất định khi thực
hiện công việc;
Có khả năng tiếp nhận, ghi chép và chuyển thông tin theo yêu cầu, chịu
một phần trách nhiệm đối với kết quả công việc, sản phẩm của mình.
+ Bậc 2 (chứng chỉ 2):
Làm được các công việc đơn giản, công việc có tính lặp lại và làm được
một số công việc có tính phức tạp trong một số tình huống khác nhau nhưng
cần có sự chỉ dẫn;
Hiểu biết và có kiến thức cơ bản về hoạt động của nghề; áp dụng được
một số kiến thức chuyên môn và có khả năng đưa ra được một số giải pháp để
giải quyết vấn đề thông thường khi thực hiện công việc;
Có khả năng suy xét, phán đoán và giải thích thông tin; có khà năng
làm việc theo nhóm, trong một số trường hợp có khả năng làm việc độc lập và
chịu phần lớn trách nhiệm đối với kết quả công việc, sản phẩm của mình.
+ Bậc 3 (chứng chỉ 3):
Làm được phần lớn các công việc của nghề có tính phức tạp, công việc có
sự lựa chọn khác nhau và có khả năng làm việc độc lập mà không cần có sự chỉ dẫn;
Hiểu biết và có kiến thức cơ bản về lý thuyết cơ sở, kiến thức chuyên
môn của nghề; áp dụng được các kiến thức chuyên môn và có khả năng nhận
biết để vận dụng các kiến thức để xử lý, giải quyết các vấn đề thông thường
trong các tình huống khác nhau:
Có khả năng nhận biết, phân tích và đánh giá thông tin từ nhiều nguồn
khác nhau; có khả năng hướng dẫn người khác trong tổ, nhóm; chịu trách
21
nhiệm đối với kết quả công việc, sản phẩm của mình về chất lượng theo tiêu
chuẩn quy định và chịu một phần trách nhiệm đối với kết quả công việc, sản
phẩm của người khác trong tổ, nhóm.
+ Bậc 4 (chứng chỉ 4):
Làm được hầu hết các công việc của nghề có tính phức tạp, công việc
có nhiều sự lựa chọn trong các tình huống khác nhau và có khả năng làm việc
độc lập, tự chủ cao;
Hiểu biết và có kiến thức rộng về lý thuyết cơ sở, kiến thức chuyên
môn tương đối sâu trong một số lĩnh vực của nghề; có khả năng truyền tải và
vận dụng sáng tạo các kiến thức, kỹ năng để xử lý, giải quyết các vấn đề kỹ
thuật phức tạp trong các tình huống khác nhau;
Biết phân tích, đánh giá thông tin và sử dụng kết quả phân tích đánh giá
để đưa ra ý kiến, kiến nghị cho mục đích quản lý và nghiên cứu; có khả năng
quản lý, điều hành được tổ, nhóm trong quá trình thực hiện công việc; tự chịu
trách nhiệm đối với kết quả công việc, sản phẩm do mình đảm nhiệm về chất
lượng theo tiêu chuẩn quy định và chịu trách nhiệm một phần đối với kết quả
công việc, sản phẩm của tổ, nhóm.
+ Bậc 5 (chứng chỉ 5):
Làm được các công việc của nghề với mức độ tinh thông, thành thạo và
làm việc độc lập, tự chủ cao;
Hiểu biết rộng về lý thuyết cơ sở và sâu về kiến thức chuyên môn trong
nhiều lĩnh vực của nghề; có kỹ năng phân tích, chẩn đoán, thiết kế, suy xét để
giải quyết các vấn đề về mặt kỹ thuật và yêu cầu quản lý trong phạm vi rộng;
Biết phân tích, đánh giá thông tin và tổng quát hóa để đưa ra các quan
điểm, sáng kiến của mình; quản lý, điều hành tổ, nhóm trong thực hiện công
việc; tự chịu trách nhiệm đối với kết quả công việc, sản phẩm do mình đảm
nhiệm về chất lượng và chịu trách nhiệm về kết quả công việc của tổ, nhóm
theo tiêu chuẩn quy định và các thông số kỹ thuật.
b. Giáo viên dạy nghề
22
- Về số lượng: Hiện nay, tổng số giảng viên, giáo viên (gọi chung là giáo
viên) dạy nghề ở trường CĐN, TCN, TTDN là 35.800 người, trong đó giáo
viên dạy ở các trường nghề là 24.200 người (dạy ở các trường CĐN là 12.800
người, giáo viên dạy ở các trường TCN là 11.400 người), giáo viên dạy ở các
TTDN là 11.600 người. Chia theo cấp trình độ giảng dạy có 6.880 giáo viên
dạy chuyên môn nghề ở trình độ cao đẳng nghề, 8.630 giáo viên dạy chuyên
môn nghề ở trình độ trung cấp nghề, 16.150 giáo viên dạy trình độ sơ cấp nghề
và 4.140 giáo viên dạy môn chung.
- Về chất lượng: Chất lượng của đội ngũ GVDN cũng rất khác nhau, chia
theo trình độ của giáo viên có 3,1% trên đại học, 73,7% Đại học và cao đẳng,
còn lại là Trung học chuyên nghiệp và công nhân kỹ thuật. Trình độ tay nghề
đa phần đạt từ 3/7 trở lên. Tuy nhiên, tỷ lệ giáo viên đạt tiêu chuẩn trong các
trường dạy nghề mới chỉ đạt khoảng 63%.
- Một số tồn tại của đội ngũ giáo viên dạy nghề: Do hệ thống dạy nghề đa
dạng về cả loại hình cơ sở , ngành nghề và trình độ đào tạo nên đội ngũ giáo
viên dạy nghề (GVDN) của cả nước nói chung, cũng như Tỉnh Thái Nguyên và
Trường CĐN Cơ điện – Luyện kim nói riêng đa dạng về mọi mặt, trình độ
không đồng đều nên những tồn tại của đội ngũ GVDN hiện nay không phải là ít.
Những tồn tại, yếu kém của đội ngũ GVDN hiện nay nổi lên mấy vấn đề là
thiếu về số lượng, không đồng bộ về cơ cấu ngành nghề đào tạo. Đặc biệt thiếu
nghiêm trọng giáo viên cho các nghề mới, thiếu giáo viên giỏi thực sự. Mặt
khác, giáo viên dạy nghề nước ta ít đựoc tiếp cận với khoa học kỹ thuật
(KHKT), công nghệ sản xuất hiện đại nên chất lượng đào tạo nghề chắc chắn bị
hạn chế. Không những thế, họ còn nhiều hạn chế về năng lực sư phạm, cũng
như trình độ ngoại ngữ, tin học nên việc giảng dạy, cũng như khai thác, sử dụng
các phương tiện kỹ thuật dạy học hiện đại vào đào tạo nghề còn gặp nhiều khó
khăn. Việc đào tạo GVDN ở các trường sư phạm kỹ thuật hiện nay là quá ít
( chiếm khoảng 10%), trong khi nhu cầu của xã hội ngày càng nhiều hơn. Điều
này đặt ra sự cần thiết phải có những phương hướng, mô hình đào tạo GVDN
23
một cách linh hoạt để đáp ứng nhu cầu đào tạo giáo viên cho nhiều ngành nghề
khác nhau trong xã hội, đồng thời phải gắn đào tạo với mục đích sử dụng họ
sau khi ra trường. Phần lớn vẫn phân biệt giáo viên dạy nghề thành 2 loại giáo
viên lý thuyết và thực hành, nay chỉ nên có 1 loại giáo viên dạy nghề là tích
hợp cả lý thuyết và thực hành và phải có trình độ chuẩn gồm chuyên môn, kỹ
năng nghề và kỹ năng sư phạm dạy nghề.
c. Tài chính cho Đào tạo nghề
- Cấp tài chính cho đào tạo nghề đã trở thành một vấn đề ngày càng quan
trọng đối với các nhà hoạch định chính sách và đưa ra quyết định về đào tạo
nghề tại Việt Nam. Chính phủ đã nhận ra sự bức thiết trong việc huy động các
nguồn lực bổ sung để đầu tư một cách phù hợp và bền vững cho việc mở rộng
quy mô đào tạo nghề và nâng cao chất lượng đào tạo theo kế hoạch đã đặt ra.
Biểu đồ 1.1. Cơ cấu nguồn lực tài chính cho đào tạo nghề
(Nguồn: Tổng cục Dạy nghề)
Biểu đồ cho thấy nguồn tài chính cho đào tạo nghề gồm:
- Nguồn lực đầu tư từ NSNN :
Bình quân trong 5 năm qua, tổng chi NSNN cho đào tạo nghề đạt
0,4% GDP là còn quá thấp so với yêu cầu thực tế đào tạo nghề. Trong khi đó
24
các nước trong liên minh Châu Âu chi cho dạy nghề (năm 2003) trên 1% GDP
(như Phần Lan là: 1,1% GDP; Cộng hoà Czech, Hungary, Hà Lan, Slovakia là
1% GDP, Thuỵ Sỹ là 1,08% GDP). Vì vậy, chưa tạo động lực phát triển mạnh
dạy nghề đáp ứng nhu cầu nguồn lao động có tay nghề cho sự nghiệp CNH,
HĐH. Mặt khác, các nguồn lực huy động từ nguồn trái phiếu Chính phủ, thu xổ
số kiến thiết chỉ dành đầu tư cho các bậc giáo dục - đào tạo khác, đào tạo
nghề chưa được quan tâm.
Tốc độ tuyển sinh học nghề trong các năm qua tăng gấp 3 lần so với
tốc độ tăng nguồn lực đầu tư từ NSNN cho đào tạo nghề. Ngân sách Nhà nước
chỉ đảm bảo cho đào tạo nghề theo tốc độ tăng NSNN bình quân hàng năm.
Trong khi các nguồn lực tài chính khác đầu tư cho đào tạo nghề không tăng; giá
cả vật tư, nguyên nhiên vật liệu thực hành tăng nhanh, lạm phát năm sau cao
hơn năm trước Như vậy, dẫn đến kinh phí đầu tư cho một suất học nghề liên
tục bị giảm xuống trong thời gian qua.
Do thiếu nguồn đầu tư cho đào tạo nghề, nên Ngân sách Nhà nước bố
trí dàn trải, nhiều khoản chỉ được chi “cầm chừng”, không được bố trí ngân
sách tới ngưỡng cần thiết. Do đó, thời gian đầu tư bị kéo dài nên việc sử dụng
nguồn ngân sách kém hiệu quả.
Nguồn lực tài chính chưa đáp ứng được việc tập trung đầu tư hoàn
chỉnh theo từng nghề, từng nhóm nghề, từng trường trọng điểm tiếp cận trình
độ khu vực, quốc tế, vùng kinh tế trọng điểm, các vùng khó khăn như Tây Bắc,
Tây Nguyên, Tây Nam Bộ
- Nguồn đóng góp của người học :
Chính sách học phí học nghề tuy đã được sửa đổi, nhưng cũng chỉ đáp
ứng được khoảng 20% trong tổng chi cho đào tạo nghề. Vì đối với đào tạo nghề
việc chi phí đầu tư về cơ sở vật chất, thiết bị, nguyên nhiên vật liệu thực tập rất
tốn kém.
Mức đóng học phí của người học nghề hiện nay chưa cao, nhưng so
với người học nghề là những người có thu nhập thấp, thì mức đóng học phí
25
hiện hành là rất khó khăn. Vì vậy, nếu tăng mức đóng học phí của người học
nghề trên 20% trong tổng chi cho đào tạo nghề, để đạt mục tiêu: tính đúng, tính
đủ chi phí, đồng thời đảm bảo chất lượng đào tạo nghề và có tích lũy cho các cơ
sở dạy nghề là không thực hiện được. Mặt khác, nếu tăng học phí lên nữa thì
người học nghề sẽ không có khả năng đóng góp, không học nghề nữa, điều này
sẽ ảnh hưởng đến qui mô tuyển sinh. Nhưng, nếu giữ mức đóng học phí như
hiện hành hoặc giảm mức học phí, thì sẽ không đảm bảo được chất lượng dạy
và học nghề.
Chính sách học phí còn một số điểm bất cập, trong khi đầu tư từ ngân
sách tăng không đáng kể (thậm chí bị cắt giảm như trường hợp của các cơ sở
đào tạo thuộc doanh nghiệp nhà nước) đã gây khó khăn cho người học nghề ở
một số nghề đòi hỏi phải chi phí đào tạo lớn, cơ hội việc làm và thu nhập cao.
Việc quy định miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học nghề và cơ chế
thu học phí còn nhiều thủ tục gây khó khăn cho người học. Những đối tượng
học nghề ở mức cận nghèo sẽ không có cơ hội tiếp cận học nghề chất lượng cao
ở một số cơ sở dạy nghề có thương hiệu, vì phải nộp học phí cao theo chương
trình đào tạo nghề chất lượng cao.
- Nguồn đóng góp của doanh nghiệp :
Hiện nay, các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế ở Việt Nam
chưa thực hiện đóng góp kinh phí cho đào tạo nghề với trách nhiệm là “người
sử dụng lao động đã qua đào tạo nghề”; mức đóng góp 5% trong tổng chi cho
học nghề như hiện nay là quá thấp. Do chưa có cơ chế chính sách để khuyến
khích doanh nghiệp tham gia một cách tích cực, chủ động vào hoạt động dạy
nghề (kể cả dạy nghề tại doanh nghiệp và hoạt động phối kết hợp với cơ sở dạy
nghề) nên chưa huy động được tối đa nguồn lực từ phía doanh nghiệp.
- Nguồn thu sự nghiệp, thu sản xuất kinh doanh của các cơ sở dạy nghề
Thực tế, nguồn thu từ hoạt động sản xuất, cung ứng dịch vụ tại các
cơ sở dạy nghề ở Việt Nam hiện nay là không lớn. Một phần do cơ sở vật chất
của các cơ sở dạy nghề còn nhiều hạn chế nên việc tận dụng để tăng cường