Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư tại Tổng Công ty Bảo hiểm Bảo Việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.49 MB, 109 trang )


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH



PHẠM VIT ANH


GIẢI PHP NÂNG CAO HIU QUẢ HOẠT ĐNG
ĐU TƢ TẠI TỔNG CÔNG TY BẢO HIỂM BẢO VIT

Chuyên ngành: Quản lý kinh tế
Mã số: 60.43.01


LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ KINH TẾ



Nguời hƣớng dẫn khoa học: TS. Trần Minh Yến



THÁI NGUYÊN - 2012

i
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan: Đề tài “ Giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư tại Tổng
Công ty Bảo Hiểm Bảo Việt ” là đề tài nghiên cứu của riêng tôi. Được đưa ra trên


cơ sở tìm hiểu, phân tích, đánh giá quá trình hoạt động kinh doanh ở đơn vị-các số
liệu, kết quả là trung thực và chưa được công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu
nào khác.
Hà Nội, ngày 30 tháng 05 năm 2012
Tác giả

Phạm Việt Anh










ii
LỜI CẢM ƠN

Trong thời gian nghiên cứu và thực hiện luận văn này, tôi đã nhận được sự
giúp đỡ nhiệt tình của các cơ quan, các tổ chức và các cá nhân. Tôi xin bày tỏ lời
cảm ơn sâu sắc nhất tới tất cả các tập thể, cá nhân đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong
suốt quá trình thực hiện nghiên cứu luận văn này.
Trước hết tôi xin trân trọng cảm ơn Ban giám hiệu trường Đại học Kinh tế
và Quản trị kinh doanh Thái Nguyên, Phòng Đào tạo và Khoa Sau đại học của nhà
trường cùng các thầy cô giáo, những người đã trang bị kiến thức cho tôi trong suốt
quá trình học tập.
Với lòng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất, tôi xin trân trọng cảm ơn TS .
Trầ n Minh Yế n - Viện kinh tế Việ t Nam, người thầy đã trực tiếp chỉ bảo, hướng dẫn

khoa học và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu, hoàn thành luận văn này.
Tôi xin trân trọng gửi lời cảm ơn đến lã nh đạ o và các đ ồng nghiệp tại Tổ ng
Công ty Bả o Hiể m Bả o Việ t đã giúp đ ỡ tôi thu thập thông tin, số liệu trong suốt
quá trình thực hiện nghiên cứu luận văn.
Xin chân thành cảm ơn tất các bạn bè, đồng nghiệp đã động viên, giúp đỡ
nhiệt tình và đóng góp nhiều ý kiến quý báu để tôi hoàn thành luận văn này.
Do thời gian nghiên cứu có hạn, luận văn của tôi chắc hẳn không thể tránh
khỏi
những sơ suất, thiếu sót, tôi rất mong nhận đuợc sự đóng góp của các thầy cô
giáo cùng toàn thể bạn đọc
.
Xin trân trọng cảm ơn!

H Nội, ngy 30 tháng 05 năm 2012
Tác giả


Phạm Việt Anh

iii
MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN i
LỜI CẢM ƠN ii
MỤC LỤC iii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT v
DANH MỤC BẢNG BIỂU vi
DANH MỤC SƠ ĐỒ vii
PHN MỞ ĐU 1
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài 1

2. Mục đích nghiên cứu 1
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 2
4. Những đóng góp mới của luận văn 2
5. Kết cấu của luận văn 2
CHƢƠNG 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐNG ĐU TƢ VÀ HIU QUẢ
HOẠT ĐNG ĐU TƢ TRONG DOANH NGHIP BẢO HIỂM 3
1.1. Tổng quan về doanh nghiệp bảo hiểm 3
1.1.1. Sự hình thành doanh nghiệp bảo hiểm 3
1.1.2. Hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm 5
1.2. Bản chất hoạt động đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm 10
1.2.1. Các quan điểm về đầu tư 10
1.2.2. Hoạt động đầu tư trong doanh nghiệp bảo hiểm 10
1.3.1. Đặc điểm của hoạt động đầu tư 26
1.3.2. Hiệu quả của hoạt động đầu tư trong doanh nghiệp bảo hiểm 27
1.3.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động đầu tư tại doanh nghiệp
bảo hiểm 33
1.3.4. Kinh nghiệm hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm ở một số nước
và sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư tại các DNBH 37
CHƢƠNG 2 PHƢƠNG PHP NGHIÊN CỨU 41
2.1. Phương pháp nghiên cứu khoa học 41
2.1.1. Khái niệm 41
2.1.2. Đặc điểm của phương pháp nghiên cứu khoa học 42
2.1.3 Phương pháp luận nghiên cứu khoa học 43
2.1.4. Phân loại phương pháp 44
2.2. Các phương pháp nghiên cứu khoa học của đề tài 47

iv
2.2.1. Phương pháp thu thập thông tin 47
2.2.2. Phương pháp phân tích thông tin 47
2.2.3. Phương pháp quy nạp và diễn giải 48

2.2.4. Phương pháp lịch sử và phương pháp lôgíc 49
2.3. Hệ thống chỉ tiêu nghiên cứu 53
CHƢƠNG 3 THỰC TRẠNG ĐU TƢ VÀ HIU QUẢ HOẠT ĐNG ĐU
TƢ TẠI TỔNG CÔNG TY BẢO HIỂM BẢO VIT 54
3.1. Tổng quan về hoạt động sản xuất kinh doanh của Bảo Hiểm Bảo Việt 54
3.1.1. Lịch sử ra đời hình thành và phát triển của Tổng công ty bảo hiểm Bảo Việt 54
3.1.2. Cơ cấu tổ chức và quản lý hoạt động kinh doanh của BHBV 56
3.1.3. Kết quả hoạt động kinh doanh của BHBV giai đoạn 2007 - 2011 59
3.2. Thực trạng hoạt động đầu tư tại Bảo Hiểm Bảo Việt 63
3.2.1. Công tác tổ chức hoạt động đầu tư tại BHBV 63
3.2.2. Nguồn vốn đầu tư của BHBV 71
3.2.3. Các lĩnh vực và hạn mức đầu tư 72
3.2.4. Kết quả hoạt động đầu tư của BHBV trong giai đoạn 2007 - 2011 73
3.3. Đánh giá thực trạng hiệu quả hoạt động đầu tư của BHBV 76
3.3.1. Những thành tựu đạt được 76
3.3.2. Những hạn chế 80
CHƢƠNG 4. GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NÂNG CAO HIU QUẢ HOẠT ĐNG
ĐU TƢ CỦA BẢO HIỂM BẢO VIT 85
4.1. Mục tiêu chiến lược phát triển của Bảo Việt và BH SBảo Việt đến năm 2015 . 85
4.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư của Bảo Hiểm Bảo Việt 88
4.2.1. Hoàn thiện cơ cấu tổ chức hoạt động đầu tư 88
4.2.2. Xây dựng danh mục đầu tư hợp lý 88
4.2.3. Áp dụng công nghệ tiên tiến trong hoạt động kinh doanh, quản lý và đầu tư,
khai thác triệt để công nghệ quản lý hiện đại 90
4.2.4. Có các chính sách ưu đãi thu hút nhân tài 90
4.2.5. Tăng cường hoạt động giám sát, kiểm tra và phân tích hiệu quả hoạt động đầu tư 91
4.3. Một số kiến nghị đối với cơ quan quản lý nhà nước 94
4.3.1. Hoàn thiện môi trường pháp lý liên quan tới hoạt động bảo hiểm 94
4.3.2. Hoàn thiện môi trường pháp lý và chính sách quản lý vĩ mô đối với các hoạt
động phụ trợ khác 95

KẾT LUẬN 98
TÀI LIU THAM KHẢO 100

v
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BHBV hoặc BVI : Bảo Hiểm Bảo Việt
ĐT : Đầu Tư
CS : Chính sách
TCT : Tổng công ty
DNBH : Doanh nghiệp Bảo hiểm
BH : Bảo hiểm
TTCK : Thị trường chứng khoán
PNT : Phi nhân thọ
KDBH : Kinh doanh Bảo hiểm
PTGĐ : Phó Tổng Giám Đốc
TGĐ : Tổng Giám Đốc
HĐQT : Hội đồng quản trị
CP : Cổ phần
QL : Quản lý
BV : Bảo Việt

vi
DANH MỤC BẢNG BIỂU

Bảng 3.1: Tình hình tài chính và kết quả hoạt động kinh doanh của BHBV giai đoạn
2007-2011 61
Bảng 3.2: Bảng cân đối kế toán của BHBV 67
Bảng 3.3: Khả năng thanh toán của BHBV 68
Bảng 3.4: Bảng kê chi tiết số dư tiền và tài sản đầu tư của Bảo Hiểm Bảo Việt tại

Tập Đoàn 68
Bảng 3.5: Bảng cơ cấu danh mục đầu tư của Bảo Hiểm Bảo Việt tại Công Ty Quản
Lý Quỹ 70
Bảng 3.6: Cơ cấu lợi nhuận BHBV giai đoạn 2007 - 2011 73
Bảng 3.7: Tỷ trọng lợi nhuận các hoạt động của BHBV 73
Bảng 3.8: Nguồn vốn đầu tư cổ phiếu năm 2011 của BHBV 75
Bảng 3.9: Kết quả đầu tư của BHBV giai đoạn 2007 - 2011 76
Bảng 3.10 Nguồn vốn đầu tư của BHBV giai đoạn 2007-2011 77
Bảng 3.11: Giá trị đầu tư thực tế trở lại nền kinh tế giai đoạn 2007 - 2011 78
Bảng 3.12: Hiệu quả đầu tư của BHBV giai đoạn 2007-2011 78
Bảng 3.13: Tỷ trọng lợi nhuận từng loại hình của BHBV 79
Bảng 3.14: Tỷ suất lợi nhuận tính theo kỳ hạn đầu tư của BHBV 79
Bảng 3.15: Tỷ suất lợi nhuận đầu tư tài sản của BHBV 81
Bảng 3.16: Một số chỉ tiêu về lợi nhuận tại doanh nghiệp Bảo Hiểm 82

Biểu đồ 3.1: Thị phần doanh thu bảo hiểm gốc của BHBV giai đoạn 2007-2011 62
Biểu đồ 3.2: Tài sản doanh thu và lợi nhuận của BHBV 2007-2011 74
Biểu đồ 3.3: Tài sản, doanh thu và vốn ĐT trở lại nền kinh tế BHBV 2007-2011 75
Biểu đồ 3.4: Vốn giành cho hoạt động đầu tư và vốn bổ sung cho hoạt động đầu tư
của BHBV 2007-2011 77




vii
DANH MỤC SƠ ĐỒ

Sơ đồ 3.1: Mô hình tổ chức bộ máy của Tập đoàn Bảo Việt 57
Sơ đồ 3.2: Mô hình tổ chức bộ máy của BHBV 58
Sơ đồ 3.3: Bộ máy tổ chức của BVF 70



1
PHN MỞ ĐU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Theo quan niệm thông thường, hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm chỉ
đơn thuần là việc ký kết và thực hiện các hợp đồng bảo hiểm với khách hàng nhằm
thu phí bảo hiểm. Tuy nhiên trên thực tế, do đặc điểm kinh doanh bảo hiểm, doanh
nghiệp bảo hiểm luôn tạm thời “sở hữu” một lượng tiền nhàn rỗi khá lớn có thể
được sử dụng để đầu tư kiếm lời.
Đầu tư có hiệu quả nguồn vốn nhàn rỗi là một trong những điều kiện cần
thiết giúp công ty tăng thu nhập, tạo khả năng giảm phí bảo hiểm, quyết định hiệu
quả hoạt động của công ty, tăng cường năng lực tài chính, tăng khả năng cạnh tranh,
nâng cao uy tín, vị thế của công ty trên thị trường để ngày càng phát triển, từ đó lại
tiếp tục mở rộng thị trường, tăng nguồn thu từ phí bảo hiểm, mở rộng quy mô nguồn
vốn có thể đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm.
Là doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ hàng đầu Việt Nam, hoạt động đầu
tư tại Tổng công ty Bảo Hiểm Bảo Việt(BVI) đã đạt được những kết quả khả quan,
song vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế, đặc biệt là hiệu quả hoạt động đầu tư chưa cao
và chưa xứng tầm với quy mô của một công ty bảo hiểm lớn như BVI. Nhận thấy
tầm quan trọng của việc nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư trong doanh nghiệp
bảo hiểm, hiện là một cán bộ đang công tác tại BVI, tôi dành sự quan tâm đặc biệt
đến hiệu quả hoạt động đầu tư và các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động
đầu tư tại BVI. Hơn nữa, việc phát triển hoạt động đầu tư của công ty ngày một
chuyên nghiệp hơn, hiệu quả hơn, tăng cả về quy mô và chất lượng đầu tư là mục
tiêu mà Ban Lãnh đạo BVI đang hướng tới. Xuất phát từ thực tế trên, tôi đã lựa
chọn đề tài:

Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư tại Tổng Công ty Bảo

hiểm Bảo Việt
cho bài luận văn của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Khi tiến hành nghiên cứu đề tài trên, mục đích nghiên cứu của luận văn là:
+ Hệ thống hóa và làm rõ các vấn đề lý luận về hoạt động đầu tư và hiệu quả
hoạt động đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm.

2
+ Phân tích và đánh giá đúng thực trạng hoạt động đầu tư và hiệu quả hoạt
động đầu tư tại Tổng công ty bảo hiểm Bảo Việt.
+ Đề xuất các giải pháp phù hợp để phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt
động đầu tư tại Tổng công ty bảo hiểm Bảo Việt.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu hiệu quả hoạt động đầu tư tại
TCT Bảo Hiểm Bảo Việt.
* Phạm vi nghiên cứu:
+ Phạm vi về không gian: Nghiên cứu hoạt động đầu tư tại Tổng công ty
Bảo hiểm Bảo Việt.
+ Phạm vi về thời gian: Nghiên cứu chủ yếu giai đoạn 2007- 2011.
4. Những đóng góp mới của luận văn
- Hệ thống hoá những vấn đề lý luận về hoạt động đầu tư và hiệu quả hoạt
động đầu tư trong doanh nghiệp bảo hiểm, làm rõ các đặc trưng về nguồn vốn, về
hạn mức và lĩnh vực đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm cũng như các yếu tố ảnh
hưởng tới hiệu quả hoạt động đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm.
- Đánh giá thực trạng hoạt động đầu tư và hiệu quả hoạt động đầu tư tại Tổng
công ty bảo hiểm Bảo Việt: các kết quả đã đạt được, các hạn chế và nguyên nhân.

- Trên cơ sở phân tích thực trạng, đề xuất giải pháp nhằm phát triển hoạt
động đầu tư và hiệu quả hoạt động đầu tư tại Tổng công ty bảo hiểm Bảo Việt trong
những năm tới.

5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương:
Chƣơng 1: Lý luận chung về hoạt động đầu tư và hiệu quả hoạt động đầu tư
trong doanh nghiệp bảo hiểm.
Chƣong 2: Phương pháp nghiên cứu.
Chƣơng 3: Thực trạng đầu tư và hiệu quả hoạt động đầu tư tại Tổng công ty
bảo hiểm Bảo Việt.
Chƣơng 4: Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư tại Tổng công ty
bảo hiểm Bảo Việt.

3
CHƢƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐNG ĐU TƢ VÀ HIU QUẢ HOẠT
ĐNG ĐU TƢ TRONG DOANH NGHIP BẢO HIỂM

1.1. Tổng quan về doanh nghiệp bảo hiểm
1.1.1. Sự hình thành doanh nghiệp bảo hiểm
Trong lịch sử tồn tại và phát triển, con người luôn phải đối mặt với các biến
cố không mong muốn nhưng vẫn thường xảy ra như thiên tai, địch hoạ hoặc tai nạn,
bệnh tật Các rủi ro đó sẽ có ảnh hưởng nhất định đến cuộc sống của mỗi gia đình,
cộng đồng. Để ứng phó với các rủi ro đó, mỗi cá nhân, gia đình, tổ chức thấy rằng
tự thực hiện bằng việc hình thành các quỹ dự phòng, các khoản tiết kiệm để sử dụng
trong những trường hợp gặp phải rủi ro. Tuy nhiên, dần dần người ta nhận thấy việc
thiết lập một quỹ dự trữ chung hoặc theo từng cộng đồng sẽ đưa lại hiệu quả cao
hơn so với việc tự lập dự phòng bởi khi xảy ra một tổn thất lớn mang tính thảm hoạ
hoặc nhiều tổn thất xảy ra liên tiếp thì hậu quả đưa lại có thể ngoài khả năng chống
đỡ của từng cá nhân, tổ chức đó. Như vậy, bảo hiểm xuất hiện do sự tồn tại khách
quan của các rủi ro và từ mong muốn được bảo đảm an toàn về mặt tài chính của
con người. Đó là một hình thức phân tán rủi ro áp dụng theo nguyên lý cộng đồng.
Bảo hiểm thực chất là việc những người tham gia bảo hiểm đóng góp hình thành

nên một quỹ chung để từ đó thực hiện chi trả cho những trường hợp xảy ra rủi ro,
bất trắc đối với các thành viên tham gia.
Ban đầu Bảo hiểm ra đời một cách tự phát, một Nhóm người đứng ra thu phí
và nhận trách nhiệm thanh toán bồi thường cho những người tham gia bảo hiểm
trong trường hợp rủi ro, quy mô bảo hiểm nhỏ và cũng chỉ ở một số lĩnh vực hạn
hẹp. Cùng với quá trình phát triển, để đáp ứng các yêu cầu bảo hiểm ngày càng đa
dạng, với mức độ phức tạp ngày càng cao, đòi hỏi sự ra đời của các doanh nghiệp
bảo hiểm hoạt động chuyên nghiệp, trước hết dưới dạng các công ty cổ phần. Từ
chỗ là các tổ chức bảo hiểm nhỏ lẻ với sự tham gia của một số ít người nhận bảo
hiểm với hình thức cam kết thanh toán bồi thường, các nhà kinh doanh bảo hiểm
tiến tới kêu gọi mọi người góp vốn mua cổ phần của các doanh nghiệp bảo hiểm.
Khi đó, nguồn vốn huy động của các doanh nghiệp bảo hiểm lớn, khả năng đáp ứng

4
nhu cầu chi trả sẽ cao hơn, doanh nghiệp bảo hiểm cũng có điều kiện thực hiện các
hoạt động bảo hiểm một cách chuyên nghiệp hơn như thuê các chuyên gia để lựa
chọn các loại rủi ro có thể được bảo hiểm, thực hiện thống kê rủi ro và thiết lập biểu
phí bảo hiểm phù hợp.
Trên cơ sở thống kê rủi ro tổn thất đã xảy ra trong quá khứ cũng như trị giá
thiệt hại của chúng trong một thời gian dài và trên diện rộng, dựa trên quy luật số
lớn, các doanh nghiệp bảo hiểm sẽ xác định được tần suất của tổn thất và chi phí
trung bình trên một tổn thất, dự đoán những gì có tính quy luật có thể áp dụng trong
tương lai, từ đó xác định một biểu phí bảo hiểm hợp lý. Phí bảo hiểm phải đảm bảo
sự công bằng và phải phản ánh được mức độ nguy cơ rủi ro mà người được bảo
hiểm mang đến cho quỹ chung.
Một biểu phí bảo hiểm hợp lý và khả năng thanh toán bồi thường cao là điều
kiện quan trọng giúp các doanh nghiệp bảo hiểm thu hút thêm nhiều khách hàng
tham gia, và từ đó lại có tác động thúc đẩy trở lại làm tăng thêm quỹ bảo hiểm, mở
rộng phạm vi và lĩnh vực bảo hiểm, tạo khả năng giảm phí, tăng khả năng chi trả
cho khách hàng khi xảy ra rủi ro.

Trong lĩnh vực hàng hải, từ cuối thế kỷ 15 đã xuất hiện rất nhiều đội tàu
chuyên chở hàng hóa qua lại giữa châu Âu và châu á, châu Mỹ. Trong quá trình
hoạt động, các đội tàu này phải đối phó với rất nhiều rủi ro có thể làm cho một số
tàu không hoàn thành được chuyến đi. Để bảo vệ mình trong những tình huống xấu
có thể xảy ra, chủ tàu hoặc chủ hàng sẽ đồng ý chi trả một số tiền cho những người
khác nếu họ đồng ý sẽ bồi thường cho chủ tàu hoặc chủ hàng trong trường hợp tàu
gặp bất trắc như bị chìm hoặc bị mất tích. Số tiền chủ tàu, chủ hàng chi ra sẽ làm
hình thành nên một quỹ chung để từ đó thực hiện thanh toán cho chủ tàu, chủ hàng
khi xảy ra tổn thất. Số tiền mỗi người đóng góp vào quỹ không lớn song vì có nhiều
người tham gia nên sẽ hình thành nên một quỹ chung rất lớn, số người tham gia
càng nhiều thì quy mô của quỹ sẽ càng lớn và từ đó khả năng chi trả của quỹ sẽ
càng tăng.
Dần dần, bảo hiểm đã được mở rộng với nhiều loại hình khác nhau như bảo
hiểm hoả hoạn, bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm trách nhiệm, bảo hiểm con người

5
1.1.2. Hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm
Doanh nghiệp bảo hiểm là pháp nhân được thành lập theo những điều kiện
và trình tự theo luật định, chuyên hoạt động kinh doanh bảo hiểm nhằm mục đích
tạo ra thu nhập và lợi nhuận. Một doanh nghiệp bảo hiểm chuyên nghiệp thực hiện
các hoạt động chủ yếu sau:
1.1.2.1. Thực hiện các nghiệp vụ bảo hiểm
a) Ký các hợp đồng bảo hiểm với các chủ thể tham gia bảo hiểm
Là một quá trình từ khâu thiết kế, tính phí, tổ chức mạng lưới bán hàng, ký
kết hợp đồng, giám định tổn thất, giải quyết bồi thường.
Đây là hoạt động quan trọng nhất của doanh nghiệp bảo hiểm. Công ty bảo
hiểm sẽ tiến hành ký các hợp đồng bảo hiểm với khách doanh nghiệp hàng để thu
phí bảo hiểm, đổi lại cam kết sẽ thanh toán bồi thường, trả tiền bảo hiểm cho khách
hàng khi xảy ra sự kiện bảo hiểm theo các quy định trong hợp đồng bảo hiểm.
Theo đó người được bảo hiểm có nghĩa vụ đóng phí đầy đủ, đúng hạn, cung

cấp đầy đủ, trung thực các thông tin liên quan đến hợp đồng bảo hiểm, thực hiện các
biện pháp đề phòng hạn chế tổn thất và thông báo kịp thời cho doanh nghiệp bảo
hiểm trong trường hợp xảy ra sự kiện bảo hiểm như trong hợp đồng.
Người được bảo hiểm có các quyền lợi tương ứng là được quyền yêu cầu
doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền bảo hiểm hoặc bồi thường khi xảy ra sự kiện bảo
hiểm theo đúng quy định trong hợp đồng, quyền yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm
cung cấp các thông tin liên quan đến hợp đồng cũng như được quyền yêu cầu sửa
đổi, chấm dứt hợp đồng khi điều kiện bảo hiểm thay đổi.
Về phía mình, doanh nghiệp bảo hiểm có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ bồi
thường hoặc trả tiền bảo hiểm cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo
hiểm theo đúng mức trách nhiệm và thời hạn quy định. Doanh nghiệp bảo hiểm
cũng có nghĩa vụ giải thích cho bên mua bảo hiểm về các điều kiện, điều khoản bảo
hiểm, quyền và nghĩa vụ của bên mua bảo hiểm.
Đồng thời, doanh nghiệp bảo hiểm có quyền thu phí bảo hiểm theo như thoả
thuận trong hợp đồng, quyền yêu cầu bên mua bảo hiểm thực hiện các biện pháp đề
phòng hạn chế tổn thất theo quy định của pháp luật, yêu cầu bên mua bảo hiểm

6
cung cấp trung thực, đầy đủ các thông tin có liên quan đến việc giao kết và thực
hiện hợp đồng bảo hiểm. Doanh nghiệp bảo hiểm được quyền đơn phương chấm
dứt hợp đồng bảo hiểm trong trường hợp bên mua bảo hiểm không cung cấp thông
tin đầy đủ, trung thực, hoặc đóng phí không đúng hạn, không thực hiện nghiêm túc
các biện pháp đề phòng hạn chế tổn thất theo quy định. Doanh nghiệp bảo hiểm
cũng có quyền thay mặt người được bảo hiểm yêu cầu người thứ ba bồi hoàn số tiền
bảo hiểm mà doanh nghiệp đã bồi thường cho người được bảo hiểm do lỗi của
người thứ ba gây ra đối với tài sản và trách nhiệm dân sự.
Như vậy, qua hoạt động ký kết hợp đồng bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm
sẽ thu được một khoản phí bảo hiểm, là nguồn thu quan trọng nhất đối với doanh
nghiệp bảo hiểm, tạo nên quỹ bảo hiểm ngày càng lớn. Phí bảo hiểm thu được càng
lớn chứng tỏ doanh nghiệp bảo hiểm càng có uy tín, các hợp đồng bảo hiểm đa

dạng, chất lượng phục vụ tốt, thu hút được nhiều khách hàng tham gia.
Các hợp đồng bảo hiểm doanh nghiệp bảo hiểm ký kết với khách hàng rất đa
dạng, thuộc các nghiệp vụ bảo hiểm khác nhau. Để phục vụ yêu cầu quản lý người ta
thường tiến hành phân chia các nghiệp vụ bảo hiểm theo từng tiêu thức khác nhau.
Theo đặc điểm nghiệp vụ, các hợp đồng bảo hiểm thể được chia thành bảo
hiểm phi nhân thọ và bảo hiểm nhân thọ.
Trong đó, bảo hiểm nhân thọ là loại hình bảo hiểm mà doanh nghiệp bảo
hiểm phải chi trả một khoản tiền bảo hiểm nhất định khi xảy ra sự kiện bảo
hiểmnhư xảy ra tai nạn về sinh mạng hoặc trường hợp chất của con người , hoặc khi
đóa hạn hợp đồng (đối với các hợp đồng bảo hiểm tiết kiệm). Bảo hiểm nhân thọ
thường có thời hạn dài (lớn hơn một năm) và mang cả tính chất tiết kiệm cũng như
tính chất phòng ngõa rủi ro. Bảo hiểm nhân thọ có mức độ rủi ro thay đổi lớn trong
thời hạn hợp đồng, phí bảo hiểm có thể nộp một lần toàn bộ nhưng thông thường là
nộp thành nhiều kỳ với mức phí trung bình cố định. Bảo hiểm nhân thọ gắn với
trách nhiệm hoàn trả khi hết thời hạn bảo hiểm hoặc khi xảy ra một sự kiện đã được
quy định trong hợp đồng.
Để quản lý nghiệp vụ này người ta áp dụng kỹ thuật tồn tích. Theo đó cho
phép người bảo hiểm thu phí định kỳ với mức phí cố định. Kỹ thuật này đòi hỏi

7
phải trích lập quỹ dự phòng toán học với mục đích bảo tồn, tích lũy các khoản phí
tiết kiệm đã thu trước từ các hợp đồng bảo hiểm.
Còn bảo hiểm phi nhân thọ là loại hình bảo hiểm doanh nghiệp bảo hiểm có
trách nhiệm bồi thường tổn thất cho người tham gia bảo hiểm do rủi ro gây ra. Thời
hạn bảo hiểm ngắn (thường là một năm) và khi hết thời hạn hợp đồng nếu không có
tổn thất xảy ra thì doanh nghiệp bảo hiểm sẽ hết nghĩa vụ đối với bên mua bảo
hiểm. Như vậy, bảo hiểm phi nhân thọ chỉ thuần tuý mang tính chất phòng ngõa rủi
ro, không có tính chất tiết kiệm. Loại hình bảo hiểm này có mức độ rủi ro tương đối
ổn định. Phí bảo hiểm phi nhân thọ cũng có thể được đóng làm nhiều kỳ nhưng
thông thường được đóng một lần.

Trong bảo hiểm phi nhân thọ lại chia thành các nghiệp vụ bảo hiểm cụ thể sau:
+ Bảo hiểm tài sản: là loại bảo hiểm có đối tượng bảo hiểm là các loại tài sản
của công ty, gia đình, tổ chức.
+ Bảo hiểm hàng hoá vận chuyển: là loại bảo hiểm có đối tượng bảo hiểm là
các loại hàng hoá trong quá trình vận chuyển.
+ Bảo hiểm nông nghiệp: thực hiện bảo hiểm cho những tổn thất do thiên tai,
tai nạn bất nhờ gây ra mất mùa, thiệt hại mùa màng hoặc súc vật chết.
+ Bảo hiểm trách nhiệm: bảo hiểm trách nhiệm bồi thường dân sự của người
được bảo hiểm như trách nhiệm dân sự chủ xe ô tô, xe gắn máy, chủ tàu, trách
nhiệm của người sử dụng lao động,
+ Bảo hiểm tai nạn con người: thực hiện bảo hiểm cho tính mạng và thân thể
con người trong những trường hợp gặp tai nạn bất ngờ.
+ Bảo hiểm bệnh tật, sức khoẻ: là loại hình bảo hiểm chi trả tiền bảo hiểm
khi người được bảo hiểm đi khám bệnh, nằm viện, phẫu thuật, tiền bảo hiểm thường
được tính theo chi phí thực tế hoặc theo tỷ lệ phẫu thuật.
Trong mỗi loại hình nghiệp vụ bảo hiểm trên, các doanh nghiệp bảo hiểm có
thể nghiên cứu, xây dựng nên những sản phẩm bảo hiểm khác nhau phục vụ nhu
cầu của khách hàng, từ đó tăng nguồn thu từ phí bảo hiểm cho doanh nghiệp.
b) Ký các hợp đồng tái bảo hiểm
Khi khai thác các nghiệp vụ bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm phải đảm bảo

8
nguyên tắc phân tán, phân chia rủi ro. Theo đó, doanh nghiệp bảo hiểm cần bảo
hiểm cho nhiều loại rủi ro đa dạng, nhiều đối tượng khác nhau và trên phạm vi rộng
lớn để phân tán rủi ro. Số người tham gia bảo hiểm càng nhiều, mức độ tổn thất
được phân tán càng rộng. Đồng thời để giảm bớt trách nhiệm bảo hiểm, doanh
nghiệp bảo hiểm cần sử dụng các kỹ thuật tái bảo hiểm để phân chia rủi ro giữa
nhiều doanh nghiệp bảo hiểm khác nhau, tránh tập trung rủi ro quá mức. Nếu không
khi xảy ra tổn thất lớn ngoài khả năng tài chính của mình, có thể dẫn tới tình trạng
không thể thực hiện được trách nhiệm bồi thường, gây thiệt hại cho quyền lợi của

người tham gia bảo hiểm, đồng thời đe doạ sự an toàn của doanh nghiệp bảo hiểm.
Mặt khác, tái bảo hiểm cũng làm tăng năng lực chấp nhận dịch vụ của doanh
nghiệp bảo hiểm. Tái bảo hiểm cũng là một phương pháp giúp doanh nghiệp bảo
hiểm tránh được sự biến động quá lớn trong các khoản chi bồi thường qua các năm,
đảm bảo cho hoạt động của doanh nghiệp được ổn định.
Tái bảo hiểm bao gồm các hoạt động:
+ Nhượng tái bảo hiểm: là việc chuyển một phần trách nhiệm đã nhận bảo
hiểm cho một hay nhiều doanh nghiệp bảo hiểm khác.
+ Nhận tái bảo hiểm là việc nhận bảo hiểm lại một phần hay toàn bộ trách
nhiệm mà doanh nghiệp bảo hiểm khác đã nhận bảo hiểm.
Quan hệ giữa công ty bảo hiểm gốc và doanh nghiệp nhận tái bảo hiểm dựa
trên nguyên tắc tín nhiệm. Doanh nghiệp nhận tái bảo hiểm bắt buộc phải chấp nhận
mọi sự giải quyết của doanh nghiệp bảo hiểm gốc.
Trong hoạt động tái bảo hiểm, doanh nghiệp nhượng tái bảo hiểm sẽ được
nhận một khoản hoa hồng quản lý từ doanh nghiệp nhận tái bảo hiểm (thường được
tính theo tỷ lệ phần trăm của phí tái bảo hiểm) cũng như được quyền nhận tiền bồi
thường tái bảo hiểm từ doanh nghiệp nhận tái bảo hiểm trong trường hợp xảy ra tổn
thất, từ đó làm giảm chi bồi thường của doanh nghiệp. Còn doanh nghiệp nhận tái
bảo hiểm sẽ được nhận phí tái bảo hiểm theo tỷ lệ đã nhận tái bảo hiểm và có nghĩa
vụ phải chi trả bồi thường theo tỷ lệ đó khi xảy ra tổn thất hoặc sự kiện bảo hiểm
cho doanh nghiệp nhượng tái bảo hiểm.
c) Làm đại lý cho bên thứ ba
Trong hoạt động này, doanh nghiệp bảo hiểm nhận sự uỷ quyền của cá nhân, tổ
chức khác thực hiện các dịch vụ giám định, xét giải quyết bồi thường, yêu cầu người

9
thứ ba bồi hoàn, hộ cho các cá nhân, tổ chức đó. Qua đó, doanh nghiệp sẽ nhận được
một khoản phí đại lý, cũng là một khoản làm tăng thu nhập của doanh nghiệp.
1.1.2.2 Hoạt động đầu tư
Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm là loại hình kinh doanh có

điều kiện, Nhà nước quy định vốn pháp định tương đối lớn (theo TT 156/TT-BTC
ngày 20/12/2007 của Bộ Tài chính hướng dẫn vốn pháp định đối với doanh nghiệp
bảo hiểm Phi nhân thọ để hoạt động kinh doanh đầy đủ các loại hình bảo hiểm là
300 tỷ đồng), do vậy nguồn vốn đầu tư này rất quan trọng.
Qua việc thực hiện các nghiệp vụ bảo hiểm, tái bảo hiểm, đại lý, doanh
nghiệp bảo hiểm có được các khoản thu từ phí bảo hiểm gốc, phí nhận tái bảo hiểm,
hoa hồng nhượng tái bảo hiểm và phí đại lý.
Đặc thù của hoạt động kinh doanh bảo hiểm là quy trình ngược tức là phí bảo
hiểm thu trước còn trách nhiệm giao kết hợp đồng được thực hiện sau, do vậy doanh
nghiệp bảo hiểm có một nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi khá lớn có thể sử dụng để đầu
tư trong một khoảng thời gian nhất định từ lúc thu phí bảo hiểm đến lúc thực hiện
nghĩa vụ thanh toán với khách hàng. Đấy chính là điều kiện tiền đề cho doanh
nghiệp bảo hiểm thực hiện hoạt động đầu tư.
Một doanh nghiệp bảo hiểm có thể thực hiện đầu tư vào các lĩnh vực đa dạng
như trái phiếu, cổ phiếu, đầu tư bất động sản, cho vay, góp vốn liên doanh theo
quy định của pháp luật.
Giữa các hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau. Kinh doanh bảo hiểm gốc phát triển là cơ sở cho hoạt động kinh doanh tái bảo
hiểm. Ngược lại tái bảo hiểm sẽ đảm bảo an toàn, hiệu quả cho hoạt động kinh
doanh bảo hiểm gốc qua việc chuyển nhượng bớt một phần trách nhiệm đã nhận bảo
hiểm cho doanh nghiệp khác, đồng thời làm tăng năng lực chấp nhận dịch vụ bảo
hiểm gốc của doanh nghiệp bảo hiểm.
Hoạt động kinh doanh bảo hiểm, tái bảo hiểm, đại lý sẽ tạo các nguồn thu
quan trọng làm hình thành nên nguồn vốn nhàn rỗi để doanh nghiệp bảo hiểm đem
đi đầu tư. Đến lượt mình, hoạt động đầu tư sẽ lại có vai trò thúc đẩy ngược trở lại
đối với các hoạt động kinh doanh bảo hiểm, tái bảo hiểm thông qua sự tác động đến

10
hiệu quả kinh doanh, tạo khả năng giảm phí bảo hiểm, thu hút thêm khách hàng
cũng như nâng cao uy tín của doanh nghiệp.

1.2. Bản chất hoạt động đầu tƣ của doanh nghiệp bảo hiểm
1.2.1. Các quan điểm về đầu tư
Theo nghĩa rộng, đầu tư được hiểu là việc sử dụng các nguồn lực ở hiện tại
để tiến hành những hoạt động nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai lớn
hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó. Nguồn lực có thể là tiền, tài
nguyên thiên nhiên, sức lao động, trí tuệ Những kết quả đạt được có thể là sự tăng
thêm các tài sản tài chính, tài sản vật chất hoặc nguồn nhân lực với trình độ cao.
Dưới giác độ của nền kinh tế, đầu tư là việc hình thành nên các loại tài sản
thực - chẳng hạn các tài sản sản xuất như nhà xưởng, máy móc thiết bị, nguyên vật
liệu và các yếu tố của sản xuất. Đây chính là hoạt động đầu tư tài sản vật chất.
Dưới giác độ của nhà tài chính, đầu tư là việc mua sắm các tài sản tài
chính. Đây chính là hoạt động đầu tư tài sản tài chính hay đầu tư tài chính.
Hoạt động đầu tư trong doanh nghiệp bảo hiểm hiện tại bao gồm cả hoạt
động đầu tư tài sản vật chất và hoạt động đầu tư tài sản tài chính:
Đầu tư tài sản vật chất là hình thức đầu tư mua sắm các tài sản vật chất,
chẳng hạn như đầu tư vào nhà xưởng, máy móc thiết bị, bất động sản (như đất đai,
nhà ở, bệnh viện, trường học) với mục đích thu được những khoản lợi nhuận trong
tương lai.
Đầu tư tài sản tài chính hay đầu tư tài chính là hình thức đầu tư dựa vào việc
mua sắm các tài sản tài chính nhằm mục đích sinh lời. Đầu tư tài chính bao gồm các
khoản tiền gửi ngân hàng, mua các giấy tờ có giá như cổ phiếu, trái phiếu công ty, trái
phiếu Chính phủ, các chứng chỉ quỹ do các tổ chức phát hành trên thị trường.
Mối quan tâm hàng đầu của các doanh nghiệp bảo hiểm hiện nay là hoạt
động đầu tư tài chính vì hoạt động đầu tư này đang được triển khai có hiệu quả và
mang lại lợi nhuận chủ yếu cho hoạt động kinh doanh của Công ty.
1.2.2. Hoạt động đầu tư trong doanh nghiệp bảo hiểm
1.2.2.1. Bản chất của hoạt động đầu tư trong doanh nghiệp bảo hiểm
Bảo hiểm là một hoạt động tương trợ, tương hỗ, được hợp bởi sự tiết kiệm

11

của nhiều cá nhân nhằm bù đắp hậu quả thiệt hại do những sự kiện ngẫu nhiên tác
động đến con người hoặc tài sản. Đặc thù riêng của hoạt động kinh doanh bảo hiểm
là “sự đảo ngược của chu kỳ sản xuất kinh doanh”. Việc tiêu thụ sản phẩm dựa trên
quy trình: phí bảo hiểm (tiền bán sản phẩm bảo hiểm) được thu trước, còn cam kết
bồi thường, trả tiền bảo hiểm (giá trị sử dụng của sản phẩm) chỉ được thực hiện sau
khi mua một khoảng thời gian nhất định nào đó. Như vậy, từ phí bảo hiểm, các
DNBH có trong tay một quỹ tài chính rất lớn. Nhưng quỹ này sẽ không được sử
dụng để bồi thường, chi trả hết ngay nên DNBH có thể sử dụng lượng “tiền nhàn
rỗi” này để đầu tư lại nền kinh tế. Ngoài ra để đảm bảo quyền lợi cho khách hàng
tham gia bảo hiểm, các DNBH thường có vốn chủ sở hữu khá lớn để đáp ứng yêu
cầu về vốn pháp định cũng như về quỹ dự trữ bắt buộc và tự nguyện. Nhưng do là
ngành kinh doanh sản phẩm dịch vụ, các DNBH gần như không cần sử dụng hoặc
sử dụng nhưng rất ít vốn này để mua sắm “ nguyên vật liệu”, “ nhà xưởng” và các
chi phí đầu vào khác để tiến hành kinh doanh. Các DNBH hoàn toàn có thể sử dụng
phần vốn còn lại để đầu tư trở lại nền kinh tế. Việc sử dụng vốn nhàn rỗi đầu tư trở
lại nền kinh tế của các DNBH thường được thực hiện thông qua thị trường tài chính
như: đầu tư cổ phiếu, trái phiếu, gửi tiền ngân hàng.
Như vậy, bên cạnh hoạt động kinh doanh bảo hiểm gốc, hoạt động kinh
doanh của DNBH còn bao gồm cả hoạt động đầu tư. Theo quan điểm của tác giả
luận văn, hoạt động đầu tư của DNBH là hành động chi dùng vốn nhàn rỗi từ
vốn chủ sở hữu, từ các quỹ dự phòng nghiệp vụ và phí bảo hiểm thu được nhằm
mục đích thu lợi nhuận trong tương lai cho doanh nghiệp. Do vậy, công ty bảo
hiểm có thể sử dụng các nguồn vốn sau để đầu tư:
- Nguồn vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm: đây là tổng dự phòng
nghiệp vụ bảo hiểm trừ đi các khoản tiền mà Công ty bảo hiểm dùng để bồi thường
bảo hiểm thường xuyên trong kỳ. Dự phòng nghiệp vụ là khoản dự trữ liên quan
đến từng nghiệp vụ bảo hiểm, được trích lập và hạch toán vào chi phí kinh doanh
nhằm mục đích thanh toán các trách nhiệm đã được xác định trước và phát sinh từ
hợp đồng bảo hiểm đã được ký kết.
- Vốn chủ sở hữu: Vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp bảo hiểm bao gồm vốn


12
điều lệ - vốn đầu tư của chủ sở hữu, thặng dư vốn cổ phần, quỹ dự trữ bắt buộc, quỹ
dự trữ tự nguyện (quỹ đầu tư phát triển, quỹ dự phòng tài chính), lợi nhuận chưa
phân phối, nguồn kinh phí, quỹ khác:
+ Vốn đầu tư của chủ sở hữu là số vốn được ghi trong điều lệ doanh nghiệp
và không được thấp hơn số vốn pháp định. Theo quy định của luật pháp Việt nam
hiện nay (nghị định số 46/2007/NĐ-CP ngày 27/3/2007), mức vốn pháp định của
doanh nghiệp bảo hiểm kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ là 300 tỷ đồng, doanh
nghiệp bảo hiểm kinh doanh bảo hiểm nhân thọ là 600 tỷ đồng, doanh nghiệp bảo
hiểm nước ngoài phải có 2 tỷ USD. Ngoài vốn pháp định, để nâng cao năng lực
cạnh tranh, cổ đông của doanh nghiệp bảo hiểm có thể đầu tư thêm vốn tạo nguồn
vốn chủ sở hữu lớn bổ sung, mở rộng hoạt động kinh doanh. Vốn đầu tư của chủ sở
hữu cũng là nguồn quan trọng để thực hiện các nghĩa vụ thanh toán cho khách hàng
trong trường hợp doanh nghiệp làm ăn không hiệu quả.
+ Các quỹ dự trữ: Bao gồm các quỹ dự trữ bắt buộc và quỹ dự trữ tự nguyện.
Quỹ dự trữ bắt buộc được lập để bổ sung trong trường hợp thiếu hụt của dự phòng
nghiệp vụ, tăng thêm khả năng tài chính của doanh nghiệp. Sau khi đã trích lập đủ
quỹ dự trữ bắt buộc theo quy định, doanh nghiệp bảo hiểm có thể trích lập các quỹ
dự trữ tự nguyện khác để bảo đảm khả năng thanh toán của doanh nghiệp khi cần
thiết và phải ghi vào điều lệ công ty.
+ Phần vốn bổ sung từ các khoản lợi nhuận (thặng dư vốn và lợi nhuận chưa
phân phối): Phần lợi nhuận sau thuế hàng năm của doanh nghiệp bảo hiểm sau khi
chi trả cổ tức cho cổ đông, trích lập các quỹ như quỹ khen thưởng, phúc lợi phần
còn lại chưa sử dụng có thể được sử dụng, bổ sung vào nguồn vốn đầu tư của doanh
nghiệp bảo hiểm.
- Nguồn khác: Đối với doanh nghiệp bảo hiểm có uy tín trên thị trường, có
bộ phận đầu tư tài chính chuyên nghiệp và độc lập nhất định, có thể nhận nguồn vốn
ủy thác đầu tư từ các tổ chức khác để thực hiện đầu tư thông qua hình thức ký Hợp
đồng ủy thác vốn đầu tư và trả phí ủy thác.

1.2.2.2. Vai trò của hoạt động đầu tư trong doanh nghiệp bảo hiểm
Về bản chất, hoạt động bảo hiểm có tính chất hoàn trả (thanh toán tiền bồi

13
thường hoặc trả tiền bảo hiểm cho khách hàng). Đặc điểm hoạt động kinh doanh
bảo hiểm tạo cho doanh nghiệp bảo hiểm một nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi từ lúc
thu phí bảo hiểm đến khi thực hiện nghĩa vụ thanh toán với khách hàng. Doanh
nghiệp bảo hiểm có thể sử dụng nguồn vốn đó đầu tư kiếm lời.
Có thể nói, đầu tư là hoạt động có tầm quan trọng đặc biệt đối với sự tồn tại
và phát triển của doanh nghiệp bảo hiểm.
- Thu nhập từ hoạt động đầu tư là một nguồn quan trọng tạo lợi nhuận cho
doanh nghiệp bảo hiểm. Hoạt động đầu tư ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng cạnh
tranh của doanh nghiệp bảo hiểm.
Bên cạnh chính sách dịch vụ (thường là mối quan tâm hàng đầu ở các khách
hàng truyền thống) thì chính sách phí lại đóng vai trò quan trọng trong việc thu hút
các khách hàng mới. Một trong những điều kiện quan trọng để có khả năng thực
hiện giảm phí để thu hút khách hàng là doanh nghiệp phải có những biện pháp đầu
tư hợp lý để tăng cường hiệu quả sử dụng vốn.
- Thông qua hoạt động đầu tư, doanh nghiệp bảo hiểm cũng có thể xây dựng,
thắt chặt thêm các mối quan hệ với các khách hàng, từ đó, góp phần mở rộng quy
mô hoạt động của doanh nghiệp. Ví dụ như qua việc cho một tổ chức nào đó vay
tiền, hoặc góp vốn vào một doanh nghiệp, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ có thể thực
hiện khai thác bảo hiểm tại các doanh nghiệp, tổ chức đó. Qua đó lại làm tăng quy
mô phí bảo hiểm cũng như quy mô nguồn vốn có thể đầu tư.
- Hoạt động đầu tư cũng giúp các doanh nghiệp bù đắp sự mất giá của đồng
tiền, bảo toàn quỹ tài chính bảo hiểm trước rủi ro lạm phát.
1.2.2.3. Loại hình đầu tư chủ yếu trong doanh nghiệp bảo hiểm
Tại các Công ty bảo hiểm, hoạt động chính là kinh doanh bảo hiểm. Song
trên thực tế, hoạt động đầu tư mới là hoạt động đem lại lợi nhuận chủ yếu của công
ty. Do vậy, mối quan tâm hàng đầu của các các Công ty bảo hiểm là hoạt động đầu

tư, đặc biệt là đầu tư tài chính.
Do đặc điểm kinh doanh bảo hiểm là phí bảo hiểm thu trước còn trách nhiệm
giao kết hợp đồng được thực hiện sau, Công ty bảo hiểm có một nguồn vốn tạm thời
nhàn rỗi khá lớn có thể sử dụng đầu tư trong một khoảng thời gian nhất định từ lúc

14
thu phí bảo hiểm đến lúc thực hiện nghĩa vụ thanh toán với khách hàng. Đây chính
là điều kiện tiền đề cho Công ty bảo hiểm thực hiện hoạt động đầu tư.
Đối với doanh nghiệp bảo hiểm, đầu tư là hình thức Công ty sử dụng nguồn
vốn (được hình thành từ vốn chủ sở hữu, quỹ dự phòng nghiệp vụ, vốn khác) tạm
thời nhàn rỗi hoặc đang được sử dụng kém hiệu quả để thực hiện các hoạt động đầu
tư trong một khoảng thời gian nhất định, nhằm đem lại khoản tăng trưởng về vốn,
mở rộng cơ hội thu lợi nhuận trong tương lai trên cơ sở đảm bảo nguyên tắc an toàn,
hiệu quả, đáp ứng được các yêu cầu chi trả thường xuyên cho các cam kết theo hợp
đồng bảo hiểm cũng như phân tán rủi ro cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm.
Một Công ty bảo hiểm có thể thực hiện đầu tư vào các lĩnh vực đa dạng như
dự án, tiền gửi, cho vay, góp vốn, chứng khoán, bất động sản theo quy định của
pháp luật. Song hoạt động đầu tư chủ yếu của các Công ty bảo hiểm là đầu tư tài
chính, bao gồm đầu tư tiền gửi, đầu tư vào giấy tờ có giá (cổ phiếu, trái phiếu,
chứng chỉ quỹ đầu tư), đầu tư góp vốn vào dự án, cho vay (thông qua việc cầm cố
các giấy tờ có giá); còn hoạt động đầu tư vào tài sản vật chất (đầu tư bất động sản)
chiếm tỷ trọng nhỏ vì các Công ty bảo hiểm phải đảm bảo nguyên tắc an toàn, sinh
lời nhưng cũng phải đảm bảo tính thanh khoản để đáp ứng được các nhu cầu chi trả
thường xuyên cho khách hàng.
Danh mục đầu tư của các Công ty bảo hiểm vào các tài sản dài hạn hay ngắn
hạn phụ thuộc vào cơ cấu nguồn vốn tài trợ là ngắn hạn hay dài hạn. Do đặc thù kinh
doanh bảo hiểm, đầu tư dài hạn thường chiếm tỷ trọng lớn hơn đầu tư ngắn hạn.
1.2.2.4. Phân loại hoạt động đầu tư theo đối tượng đầu tư
Theo đối tượng đầu tư, hoạt động đầu tư được phân loại như sau:
a. Đầu tư tiền gửi

Đây là hình thức đầu tư đơn giản, có mức độ an toàn vốn cao. Tính thanh
khoản của các khoản đầu tư này lớn. Đây là hình thức đầu tư chủ yếu ở các Công ty
bảo hiểm nơi chưa có thị trường vốn phát triển như Việt Nam. Hình thức đầu tư này
chịu tác động lớn của lạm phát, lãi suất và là hình thức đầu tư có tỷ suất sinh lời
thấp hơn các loại hình đầu tư khác. Doanh nghiệp bảo hiểm có thể mở các tài khoản
thanh toán không kỳ hạn và các tài khoản tiền gửi có kỳ hạn ở các tổ chức tín dụng

15
để hưởng lãi suất theo như thoả thuận. Ngoài ra, các ngân hàng thương mại thường
chỉ thực hiện huy động vốn bằng tiền gửi với thời hạn ngắn (thường không quá 12
tháng) nên không phù hợp với tính chất dài hạn của nguồn vốn bảo hiểm nhân thọ.
b. Đầu tư chứng khoán
Là hình thức đầu tư thông qua việc mua và nắm giữ các loại trái phiếu, cổ
phiếu của các doanh nghiệp nhằm mục đích hưởng lãi từ việc tăng giá chứng khoán
hoặc cổ tức. Đầu tư trái phiếu có tính an toàn cao và lãi suất ổn định. Lãi từ đầu tư
cổ phiếu cao hơn nhưng đi kèm với các rủi ro có thể gặp phải trong đầu tư. Chứng
khoán mà doanh nghiệp bảo hiểm thực hiện đầu tư thường bao gồm trái phiếu
Chính phủ, cổ phiếu các loại, trái phiếu doanh nghiệp, chứng chỉ quỹ đầu tư.
Trái phiếu: là chứng chỉ nhận nợ do người đi vay phát hành cam kết thanh
toán theo kỳ hạn nhất định cho người nắm giữ trái phiếu một khoản lãi nhất định.
Các doanh nghiệp hoặc các Chính phủ phát hành trái phiếu như một phương pháp
huy động vốn. Ví dụ các chính quyền địa phương thường phát hành trái phiếu để tài
trợ cho các dự án lớn như xây dựng trường học hoặc hệ thống giao thông công cộng.
Trái phiếu được coi là công cụ đầu tư dài hạn tạo ra nguồn thu nhập ổn định
cho doanh nghiệp bảo hiểm thông qua việc được hưởng tiền lãi định kỳ và nhận lại
số tiền gốc theo mệnh giá vào lúc đáo hạn. Đầu tư vào trái phiếu Chính phủ có mức
độ rủi ro thấp và tạo ra độ chắc chắn cao hơn về tỷ suất lợi nhuận. Những công cụ
đầu tư tạo ra nguồn thu nhập ổn định giống như trái phiếu với thời hạn và dòng tiền
phù hợp với các trách nhiệm bảo hiểm trong tương lai rất phù hợp với mục tiêu của
doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ trong việc đạt được mức lợi nhuận giả định được

xây dựng trong công thức tính phí bảo hiểm và đáp ứng được mục tiêu quản lý rủi
ro mất cân đối giữa tài sản và trách nhiệm của doanh nghiệp.
Trái phiếu là một loại hình đầu tư chiếm tỷ trọng lớn nhất trong danh mục
đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm có các ưu thế sau:
- Trái phiếu đem lại khoản thu nhập thường xuyên ổn định cho trái chủ.
Người nắm giữ trái phiếu có thể có thu nhập từ lãi trái phiếu và khoản chênh lệch
giá từ việc bán trái phiếu trước hạn.
- Tỷ lệ lãi suất của trái phiếu thường được ấn định ngay từ đầu và cố định

16
trong suốt vòng đời của trái phiếu nên có thể coi trái phiếu là một loại đầu tư có thu
nhập cố định. Đặc điểm này tạo điều kiện cho nhà đầu tư có thể tính được dòng thu
nhập dự kiến trong tương lai. Hơn nữa, tỷ lệ lãi suất này thường là cao hơn lãi suất
tiền gửi ngân hàng cùng kỳ hạn, đặc biệt đối với trái phiếu công ty.
- Người nắm giữ trái phiếu có thể bán trái phiếu trước khi đến thời hạn thanh
toán nhằm đáp ứng nhu cầu thanh khoản. Đối với nước có thị trường chứng khoán
phát triển, doanh nghiệp bảo hiểm có thể bán trái phiếu một cách nhanh chóng để
thực hiện nghĩa vụ với khách hàng trong trường hợp cần thiết.
- Trái phiếu có độ an toàn vốn khá cao. Trái phiếu trên thị trường thường do
Chính phủ hoặc các Tập đoàn lớn, các Công ty có uy tín phát hành. Do vậy việc
thanh toán gốc và lãi trái phiếu được đảm bảo khá chắc chắn. Và trong trường hợp
các Công ty bị giải thể hoặc thanh lý thì trái phiếu lại được ưu tiên thanh toán trước
các cổ phiếu.
Hơn nữa, đối với mục tiêu mua và lưu giữ trái phiếu thì việc biến động giá
trái phiếu không ảnh hưởng đến dòng thu nhập từ trái tức và số vốn thu hồi. Đặc
điểm này rất phù hợp với các doanh nghiệp đầu tư bằng dòng vốn dài hạn.
Doanh nghiệp bảo hiểm có thể nắm giữ nhiều loại trái phiếu với các kỳ hạn
khác nhau chờ đến ngày đáo hạn và sử dụng tiền để thanh toán cho các hợp đồng
đến hạn và cung cấp tỷ lệ thu nhập đã hứa cho các hợp đồng bảo hiểm nhân thọ.
Doanh nghiệp bảo hiểm cũng rất linh hoạt trong việc mua bán trái phiếu để tận dụng

các phân đoạn thị trường trái phiếu làm tăng hoặc giảm giá trị.
Mặc dù vậy, các doanh nghiệp bảo hiểm vẫn phải đối mặt với rủi ro khi thực
hiện đầu tư vào trái phiếu. Đó là:
- Giá trái phiếu thường biến động và chịu tác động rất lớn của lãi suất trên thị
trường. Do tỷ lệ lãi vay đã được ấn định trước còn lãi suất lại thường xuyên thay đổi
nên sẽ ảnh hưởng đến giá trái phiếu. Trong trường hợp doanh nghiệp đầu tư trái
phiếu bằng nguồn vốn ngắn hạn thì khi lãi suất tăng sẽ làm giá trái phiếu giảm, khi
đó nhà đầu tư khó có thể thu hồi được vốn và thu được lợi nhuận trong thời gian
ngắn. Rủi ro này thường có ảnh hưởng lớn đến các loại trái phiếu có kỳ hạn dài.
- Rủi ro vì nợ, còn được gọi là rủi ro tín dụng, là rủi ro mà nhà phát hành trái

17
phiếu không có khả năng thanh toán các khoản gốc và lãi đúng kỳ hạn khi họ gặp
khó khăn về tài chính.
- Trái phiếu không có khả năng chống lại tác động của lạm phát. Khi lạm
phát tăng cao có thể làm cho thu nhập thực nhận từ trái phiếu sau khi điều chỉnh bởi
lạm phát là âm.
- Ngoài ra, thu nhập từ trái phiếu vẫn phải chịu thuế thu nhập.
Cổ phiếu: Cổ phiếu được thể hiện dưới dạng hình thức chứng chỉ, bót toán
ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu
đối với một phần vốn của tổ chức phát hành.
- Khi đầu tư cổ phiếu, nhà đầu tư kỳ vọng đến hai khoản thu nhập chính đó là cổ
tức và thu nhập từ chênh lệch giá. Khả năng chuyển nhượng của cổ phiếu cho phép nhà
đầu tư có thể bán một phần hoặc toàn bộ số cổ phần mình sở hữu khi cần thiết để đáp
ứng nhu cầu về vốn tại một thời điểm nhất định. Thu nhập từ cổ phiếu không bị đánh
thuế thu nhập vì cổ tức được chia từ phần lợi nhuận sau thuế của Công ty cổ phần.
- Những đặc tính của dòng tiền tạo ra từ việc đầu tư vào cổ phiếu phổ thông
có mức biến động cao hơn nhiều và do vậy có nhiều rủi ro hơn so với các đặc tính
của dòng tiền tạo ra từ việc đầu tư vào trái phiếu. Đặc tính của dòng tiền của cổ
phiếu phổ thông được quyết định bởi việc chi trả cổ tức hàng năm (thường không

mang tính cam kết) và bởi giá trị thị trường của cổ phiếu. Khác với trái phiếu, cổ
phiếu phổ thông không có thời gian đáo hạn.
Bên cạnh những ưu thế trên, việc đầu tư cổ phiếu cũng có một số bất lợi như:
- Chi phí để thu thập thông tin khi tiến hành đầu tư cao. Chi phí này thường
lớn, đặc biệt đối với các Công ty nhỏ hoặc mới thành lập. Từ đó, làm giảm lợi
nhuận đầu tư.
- Thu nhập từ cổ phiếu thường không ổn định, phụ thuộc vào kết quả hoạt
động kinh doanh của Công ty phát hành và chính sách chia cổ tức của công ty. Do
vậy, doanh nghiệp bảo hiểm khi thực hiện đầu tư khó dự đoán được chính xác
nguồn thu nhập dự kiến trong tương lai của mình.
- Trong trường hợp Công ty phát hành cổ phiếu bị phá sản, người giữ cổ
phiếu sẽ chỉ được trả tiền nếu quỹ còn lại sau khi thanh toán cho người giữ trái
phiếu và các chủ nợ khác.

×