Niên luận
GVHD: Hồ Dũng
A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Với đường bờ biền dài 3.260km, gồm nhiều đảo và quần đảo, có trữ lượng
lớn về hải sản, khoáng sản, dầu mỏ, có vị trí chiến lược về giao thông, quốc
phòng biển, đảo nước ta có tiềm năng rất lớn để phát triển kinh tế. Đặc biệt,
thế kỷ XXI - Thế kỷ của biển và đại dương - Thế kỷ tiến ra biển của loài người
thì Đảng và Nhà nước càng coi trọng việc phát huy thế mạnh của biển, đảo để
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đặc biệt, trong tình hình bất ổn hiện nay ở Biển Đông, vấn đề chủ quyền
biển, đảo càng quan trọng hơn bao giờ hết. Để bảo vệ chủ quyền lãnh hải,ngoài sự
kết hợp sức mạnh quốc phòng, sức mạnh đoàn kết toàn dân,…còn có sự đóng góp
rât lớn của kinh tế biển, đảo. Vì vậy, Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung
ương lần 4, khóa X đã đề ra Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 với quan
điểm: “Nước ta phải trở thành quốc gia giàu mạnh về biển, làm giàu từ biển”, “Tạo
ra tốc độ phát triển nhanh, bền vững, hiệu quả cao với tầm nhìn dài hạn”, hướng tới
đạt mục tiêu kinh tế trên biển và ven biển đóng góp 53 – 55% GDP cả nước.
Với tư cách là phương tiện thông tin đại chúng thiết yếu đối với đời sống xã
hội; là cơ quan ngôn luận của Đảng, Nhà nước, tổ chức xã hội; là diễn đàn của
nhân dân, báo chí có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội trong những
năm qua. Đặc biệt Tuổi trẻ, một tờ báo in có sự đóng góp rất lớn trong việc tuyên
truyền đường lối, từng chính sách mà Nhà nước đề ra trong việc phát triển kinh tế
biển đảo, cũng như phổ biến một cách tổng quan nhất về những vấn đề, những thực
trạng mà kinh tế biển đảo chưa đáp ứng được để góp phần vào việc xây dựng đất
nước vững mạnh. Vì vậy, việc nghiên cứu, tìm ra những thành công và hạn chế, từ
đó đề xuất giải pháp khắc phục nhược điểm phát huy thế mạnh thông tin phát triển
kinh tế biển đảo trên báo Tuổi trẻ là cấp thiết và cần thiết.
Vì những lý do trên, tôi đã chọn nghiên cứu vấn đề: “Báo Tuổi Trẻ với
thông tin phát triển kinh tế biển đảo những năm gần đây”.
SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Mai 1
Niên luận
GVHD: Hồ Dũng
2. Lịch sử nghiên cứu của đề tài
Vấn đề kinh tế biển đảo lâu nay vẫn được xã hội hết sức quan tâm và chú
trọng, có thể kể đến như bài nghiên cứu:
Vai trò của báo chí ngành giao thông vận tải thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, luận văn thạc sĩ của Vũ Hồng Nhung (Khoa
Báo chí – Truyền thông, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân Văn Hà Nội, 2004.
TS Nguyễn Tuấn Phong hướng dẫn). Trình bày khái quát về ngành hàng hải
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Luận văn phân
tích vai trò của báo chí nói chung, Báo GTVT, Tạp chí GTVT và Tạp chí Hàng
hải Việt Nam nói riêng đối với sự phát triển của ngành hàng hải. Đưa ra một số
giải pháp nhằm đổi mới, nâng cao chất lượng của Tạp chí Hàng hải Việt Nam.
Đổi mới và nâng cao chất lượng các chương trình phát thanh kinh tế của
Đài Tiếng nói Việt Nam, luận văn thạc sĩ của Phạm Nguyên Long (Khoa Báo
chí – Truyền thông, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân Văn Hà Nội, 2009, PGS.
TS Dương Xuân Sơn hướng dẫn). Nghiên cứu khái quát về quá tr.nh phát triển,
đổi mới của Đài Tiếng Nói Việt Nam (ĐTNVIệT NAM) nói chung và các
chương trình phát thanh kinh tế nói riêng, cũng như vai tr. của công tác thông tin
các vấn đề liên quan đến kinh tế trong đời sống chính trị, x. hội. Nghiên cứu
thực trạng sản xuất các chương tr.nh phát thanh kinh tế: những đóng góp của
chương trình (cung cấp thông tin nóng hổi về vấn đề kinh tế, khảo sát thực tế
một số chương trình nổi bật: nông nghiệp-nông thôn; công nghiệp và thương
mại), về phương thức thể hiện (kết cấu và thời lượng chương tr.nh). Nghiên cứu
về hoàn cảnh ra đời, phát triển của chương trình phát thanh trực tiếp (Tọa đàm
trực tiếp). Từ đó nêu lên những ưu điểm và hạn chế của chương trình phát thanh
trực tiếp trên Hệ Thời sự- chính trị-Tổng hợp (VOV1). Đề xuất phương hướng
và đưa ra các giải pháp đổi mới về tổ chức bộ máy và quy trình sản xuất các
chương trình phát thanh kinh tế; đổi mới hình thức các chương trình; quảng bá,
mở rộng diện phủ sóng và nghiên cứu thính giả.
SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Mai 2
Niên luận
GVHD: Hồ Dũng
Nâng cao chất lượng chương trình về biển, đảo trên sóng phát thanh của
Đài tiếng nói Việt Nam, Luận văn Thạc Sĩ Nguyễn Thị Hòa (Khoa Báo chí –
Truyền thông, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân Văn Hà Nội, 2011, PGS.TS
Dương Xuân Sơn hướng dẫn). Luận văn nói về các chương trình phát thanh thông
tin, tuyên truyền về biển đảo trên sóng Đài Tiếng nói Việt Nam (Đài TNVIệT
NAM) cần phải đổi mới và nâng cao chất lượng hơn nữa, góp phần vào việc đổi
mới và nâng cao chất lượng chương trình về biển đảo trên sóng phát thanh Đài
TNVIệT NAM nói riêng và các đài phát thanh trên toàn quốc nói chung.
Sách nói về vấn đề này có thể kể đến như “Hỏi- đáp Những điều Ngư dân
cần biết trong hoạt động thuỷ sản” của Ban Tuyên giáo TƯ- Nhà xuất bản Thế
giới 2007; sách “Biển và hải đảo Việt Nam” do Trung tâm Thông tin công tác tư
tưởng phối hợp với Cục Chính trị Quân chủng Hải quân biên soạn năm 2007;
cuốn “Chiến lược biển Việt Nam từ quan điểm đến thực tiễn” của Ban Tuyên
giáo TƯ- Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia- 2010… cùng một số sách, báo tạp
chí nghiên cứu riêng lẻ các khía cạnh nhỏ trong công tác tuyên truyền về biển
đảo cho quân và dân ở các vùng biên giới hải đảo.
Nhìn chung các vấn đề được nói đến trong các luận văn đã khái quát được
phần nào tình hình phát triển cũng như là đổi mới trong vấn đề thông tin phát
triển kinh tế biển đảo. Nhưng số sách, báo tạp chí, nghiên cứu còn riêng lẻ, chỉ
đề cập đến các khía cạnh nhỏ trong công tác tuyên truyền về biển đảo cho quân
và dân ở các vùng biên giới hải đảo, chưa thực sự đi sâu vào khảo sát từng vấn
đề cụ thể của vấn đề biển đảo. Cách khai thác chưa có tính sâu rộng, đại chúng
khiến nó chỉ tồn tại trong một phạm vi nhỏ, hẹp dẫn đến khó tạo được chất
lượng truyền thông cao. Từ đó dẫn đến phạm vi và đối tượng tiếp nhận những
vấn đề trong những tài liệu này cũng có phần hạn chế.
Cho đến thời điểm hiện nay, vẫn chưa có nghiên cứu nào đề cập một cách
cụ thể những giải pháp về việc đổi mới và nâng cao chất lượng các thông tin về
biển đảo trên báo in. Vì vậy, niên luận “Bao Tuổi Trẻ với thông tin về phát triển
kinh tế biển đảo những năm gần đây” là một công trình khoa học mới, độc lập,
SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Mai 3
Niên luận
GVHD: Hồ Dũng
mang tính thời sự, có kế thừa kết quả nghiên cứu của các đề tài và công trình
khoa học cũng như sách, báo, tạp chí… có liên quan. Bên cạnh đó niên luận cũng
là một tài liệu nghiên cứu được tổng hợp từ nhiều nguồn khác nhau nên sẽ có giá
trị về mặt thông tin cũng như là lí luận cho những nghiên cứu khác sau này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Việc nghiên cứu các đề tài về kinh tế biển đảo trên báo Tuổi trẻ những
năm gần đây nhằm nghiên cứu đặc điểm thông tin về phát triển kinh trên báo tờ
báo này. Tìm hiểu cách thức tuyên truyền, cách thức đưa tin và tư tưởng chủ đạo
khi viết các vấn đề về kinh tế biển đảo, đồng thời đưa ra được cái nhìn tổng quan
về vấn đề phát triển kinh tế biển đảo trên báo Tuổi trẻ. Trên cơ sở nghiên cứu
đặc điểm nội dung, hình thức, tìm ra những thành công và hạn chế, từ đó đưa ra
những kiến nghị, đề xuất giải pháp phát huy thế mạnh, khắc phục hạn chế về
thông tin phát triển kinh tế biển, đảo trên báo Tuổi Trẻ.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục tiêu trên, nhiệm vụ đặt ra là:
- Tìm hiểu lý luận chung cũng như tiềm năng, thực trạng phát triển kinh tế
biển đảo nước ta hiện nay.
- Thống kê phân tích, đánh giá nội dung và hình thức thông tin tuyên
truyền về phát triển kinh tế biển, đảo trên báo Tuổi Trẻ những năm gần đây
- Tìm ra ưu, nhược điểm nội dung, hình thức thông tin cũng như đánh giá
thành công và hạn chế thông tin phát phát triển kinh tế biển, đảo trên báo Tuổi
Trẻ những năm gần đây.
- Kiến nghị, đề xuất giải pháp khắc phục hạn chế, phát huy thế mạnh
thông tin phát triển kinh tế biển đảo trên báo Tuổi Trẻ.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Các tin bài liên quan đến vấn đề phát triển kinh tế biển đảo trên báo Tuổi
Trẻ những năm gần đây.
SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Mai 4
Niên luận
GVHD: Hồ Dũng
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Khảo sát những tin, bài liên quan đến đề tài phát triển kinh tế biển, đảo
đăng tải trên báo Tuổi Trẻ từ 1/2013 - 3/2014.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.
Trong quá trình thực hiện luận văn này, chúng tối sử dụng những cơ sở lý
luận và phương pháp nghiên cứu như sau:
5.1. Cơ sở lý luận.
- Chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng
và Nhà nước về sự nghiệp thông tin báo chí.
- Sử dụng những kiến thức cơ bản về cơ sở lý luận báo chí – truyền thông.
5.2. Phương pháp nghiên cứu.
- Phân tích tài liệu thứ cấp như sách, tài liệu, bài viết… về kinh tế biển,
đảo. Việc phân tích này sẽ làm rõ lý luận về phát triển kinh tế, biển đảo.
- Phương pháp thống kê, phân tích, so sánh, đối chiếu về số lượng, nội dung,
hình thức thông tin tuyên truyền phát triển kinh tế biển, đảo trên báo Tuổi Trẻ.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài.
Về lý luận:
- Công trình nghiên cứu là tài liệu tham khảo cho các đề tài nghiên cứu
sau liên quan đến đề tài.
- Củng cố lý luận chung về tác phẩm báo chí.
Về thực tiễn:
Cung cấp thực trạng thông tin phát triển kinh tế biển đảo trên báo Tuổi
Trẻ. Từ thực trạng giúp cơ quan báo Tuổi trẻ tham khảo, điều chỉnh và hoàn
thiện thông tin phát triển kinh tế biển đảo trên tờ báo của mình.
7. Kết cấu niên luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn gồm
có 3 chương:
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ THÔNG TIN
PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN ĐẢO TRÊN BÁO TUỔI TRẺ.
SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Mai 5
Niên luận
GVHD: Hồ Dũng
Chương 2: ĐẶC ĐIỂM THÔNG TIN VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN
ĐẢO TRÊN BÁO TUỔI TRẺ NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY.
Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN THÔNG TIN
PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN ĐẢO TRÊN BÁO TUỔI TRẺ.
SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Mai 6
Niên luận
GVHD: Hồ Dũng
B. NỘI DUNG
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ THÔNG
TIN PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN ĐẢO TRÊN BÁO TUỔI TRẺ
1.1. Một số khái niệm
Biển đảo là một bộ phận cấu thành phạm vi chủ quyền thiêng liêng của tổ
quốc, cùng với đất liền tạo ra môi trường sinh tồn và phát triển của con người và
mọi sinh vật. Lấn biển để dựng nước và thông qua biển để giữ nước là nét độc
đáo trong bản sắc văn hóa mà Việt Nam cần giữ và phát huy trong quá trình xây
dựng, bảo vệ đất nước và hội nhập với xu thế quốc tế.
Công ước 1982, vùng biển nước ta được mở rộng đến gần 1 triệu Km
2
,
tiếp giáp với 5 vùng biển có chê độ pháp lý khác nhau. Tuy nhiên do tính đặc thù
của môi trường biển nên mọi hoạt động kinh tế biển đều liên quan mật thiết và
chịu sự tác động của đất liền, không thể tách rời kinh tế biển với kinh tế đất liền.
Vì vậy khi xem xét kinh tế biển, cũng cần phải đề cập đến kinh tế vùng ven biển.
Theo từ điển Tiếng Việt, Hoàng Phê chủ biên:
“1. Biển được quan niệm là một vùng nước mặn rộng lớn nói chung trên
bề mặt trái đất (nước biển, tàu biển, cá biển,…).
2. Phần của đại dương ở ven đại lục, ít nhiều bị ngăn ra bởi đất liền hoặc
bởi những đảo (Biển Đông)”.
Theo luật biển Việt Nam:
“Vùng biển Việt Nam bao gồm nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải,
vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và
quyền tài phán quốc gia của Việt Nam, được xác định theo pháp luật Việt Nam,
điều ước quốc tế về biên giới lãnh thổ mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là thành viên và phù hợp với Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển
năm 1982”.
“Đảo là một vùng đất tự nhiên có nước bao bọc, khi thủy triều lên vùng
đất này vẫn ở trên mặt nước.
SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Mai 7
Niên luận
GVHD: Hồ Dũng
Quần đảo là một tập hợp các đảo, bao gồm cả bộ phận của các đảo, vùng
nước tiếp liền và các thành phần tự nhiên khác có liên quan chặt chẽ với nhau.
Đảo, quần đảo thuộc chủ quyền của Việt Nam là bộ phận không thể tách rời
của lãnh thổ Việt Nam”.
Kinh tế biển, về mặt khái quát có thể hiểu bao gồm:
Thứ nhất, toàn bộ các hoạt động kinh tế diễn ra trên biển như kinh tế hàng
hải (vận tải biển và dịch vụ cảng biển), đánh bắt và nuôi trồng hải sản, khai thác
dầu khí ngoài khơi, du lịch biển, làm muối, dịch vụ tìm kiếm, cứu hộ cứu nạn
trên biển, kinh tế đảo…
Thứ hai, nó bao gồm cả các hoạt động trực tiếp liên quan đến khai thác
biển, mặc dù không hoàn toàn diễn ra trên biển nhưng hoạt động kinh tế này lại
liên quan đến yếu tố của biển hay trực tiếp phục vụ cho kinh tế biển ở vùng ven
biển - thông thường đó là hoạt động đóng và sửa chữa tàu biển (hoạt động này
cũng được xếp vào kinh tế hàng hải), công nghiệp chế biến dầu, khí, công
nghiệp chế biến thủy hải sản, cung cấp dịch vụ biển, thông tin liên lạc (biển),
nghiên cứu khoa học - công nghệ biển, đào tạo nhân lực phục vụ kinh tế biển,
điều tra cơ bản về tài nguyên – môi trường biển…
Khác với kinh tế biển, kinh tế vùng ven biển lại bao gồm các hoạt động
kinh tế ở dải ven biển (địa bàn các xã ven, huyện biển hay các tỉnh có địa giới
tiếp giáp với biển) gồm cả nông lâm, ngư nghiệp, công nghiệp và dịch vụ trên
phạm vi địa bàn đó.
Như vậy, kinh tế biển là toàn bộ các hoạt động kinh tế được diễn ra trên
biển và ở đất liền nhưng có liên quan trực tiếp cho hoạt động khai thác các
nguồn lợi kinh tế từ biển.
Từ những định nghĩa trên, chúng ta thấy đặc trưng của kinh tế biển khác
với các ngành khác. Vì kinh tế biển luôn mang những đặc thù, tính chất đa
ngành, đa lĩnh vực: bao gồm nhiều ngành nghề khác nhau, có tác động qua lại, lệ
thuộc lẫn nhau.
SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Mai 8
Niên luận
GVHD: Hồ Dũng
1.2. Vai trò và tầm quan trọng của phát triển kinh tế biển đảo đối với
Việt Nam
Nước ta với diện tích đất liền không lớn, dân cư đông, đặc biệt là vùng
đồng bằng sông Hồng và các đô thị; trong khi đó, có khoảng 1/3 dân số dân số
nước ta sống ở vùng ven biển và chịu ảnh hưởng trực tiếp của biển, nhưng chỉ
có gần 40% số này sống nhờ hoạt động kinh tế liên quan đến biển.
Trước yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH phát triển kinh tế nhằm thoát khỏi
nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế, khoa học kỹ thuật… trong khi nguồn tài
nguyên trên đất liền ngày càng cạn kiệt và không có khả năng tái tạo. Để đảm
bảo khả năng tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững với tốc độ hằng năm 8%
trở lên thì các lĩnh vực kinh tế liên quan đến biển và kinh tế ven biển phải được
coi trọng và đóng vai trò chủ lực trong phát triển kinh tế.
Theo các chuyên gia, vùng biển Việt Nam được biết đến như một khu vực
giàu tài nguyên thiên nhiên, cứ 100 km2 đất liền là có một km bờ biển. Đây là chỉ
số lãnh thổ quan trọng cho phát triển cảng và hàng hải, cũng như các khu kinh tế
hướng biển. Trong đó kinh tế hàng hải và các dịch vụ đi kèm đã trở thành một
ngành mũi nhọn được ưu tiên phát triển trong chiến lược biển đến năm 2020.
Các chuyên gia cho rằng, tài nguyên biển, đảo Việt Nam nếu có được
chiến lược tiếp thị thương hiệu đúng đắn sẽ tạo ra một nguồn lực kinh tế vô cùng
to lớn. “Chỉ có nâng cao được các giá trị thương hiệu đối với sản phẩm, dịch vụ
từ biển, thì mới có thể hạch toán được đầy đủ, toàn diện giá trị tài nguyên biển
để phát triển bền vững đất nước”, Tổng cục trưởng Biển và hải đảo Việt Nam
Nguyễn Văn Cư nêu quan điểm.
"Xây dựng, phát triển thương hiệu biển Việt Nam trong các lĩnh vực và
vùng địa lý, trong đó có cảng nước sâu và khu kinh tế ven biển theo hướng kinh
tế xanh là hướng đi đúng, giải pháp trước mắt và lâu dài để giải quyết vấn đề",
Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ngãi Nguyễn Xuân Huế khẳng định.
Với hơn 3.200 km bờ biển, Việt Nam có một tiềm năng về cảng biển hết
sức to lớn. Hệ thống cảng biển bao gồm trên 80 cảng biển lớn nhỏ, trong đó có
SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Mai 9
Niên luận
GVHD: Hồ Dũng
một số cảng đã và đang được nâng cấp và mở rộng như Hải Phòng, Cái Lân, Đà
Nẵng, Quy Nhơn, Nha Trang, Sài Gòn, Cần Thơ.
Xu thế vận tải hiện nay là sử dụng tàu có trọng tải lớn, áp dụng các công
nghệ vận tải tiên tiến, đặc biệt là vận tải đa phương thức. Do vậy, việc xây dựng
các cảng nước sâu với trang thiết bị hiện đại, công nghệ quản lý điều hành tiên
tiến là yêu cầu bức bách hiện nay.
Ngành Dầu khí ngày nay đã trở thành một trong những ngành chủ lực của
Việt Nam, là ngành xuất khẩu hàng đầu của đất nước (hơn ba tỷ USD hàng
năm), gắn liền với kinh tế biển. Gần như toàn bộ trữ lượng dầu khí của nước ta
nằm trong thềm lục địa cần được chú trọng khai thác.
Và trong tương lai, khi các nguồn điện sơ cấp cạn kiện thì việc phát triển
phong điện và điện nguyên tử dọc bờ biển sẽ đóng vai trò vô cùng quan trọng
trong công nghiệp.
Biển cung cấp ngày càng nhiều và đa dạng các loại nguyên liệu cho công
nghiệp chế biến như: cá, tôm, cua, sò, mực, rong, ngọc trai… dưới dạng đánh
bắt tự nhiên và nuôi trồng, phát triển nuôi trồng và đánh bắt hải sản ở nước ta
ngày càng giữ vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế của đất nước nói chung
và công nghiệp nói riêng. Ngành công nghiệp chế biến thuỷ sản đã trở thành
ngành mũi nhọn đem lại hiệu quả kinh tế cao của ven biển nước ta.
Tiềm năng các mỏ quặng ở thềm lục địa nước ta còn khá lớn nhưng do
kinh phí và trình độ của chúng ta còn hạn chế chưa có điều kiện tìm kiếm thăm
dò vùng ngập nước nên chưa khẳng định được.
Có thể nói, kinh tế biển ngày càng giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế
biển đã trở thành động lực thúc đẩy phát triển công nghiệp vì biển là cửa ngõ
giao lưu với thế giới, tạo điều kiện cho công tác xuất nhập khẩu hàng hoá thuận
lợi với chi phí thấp. Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực như
hiện nay thì biển ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc tạo năng lực cạnh
tranh của quốc gia và của ngành công nghiệp. Ngoài ra, biển còn là nơi cung cấp
nguyên liệu phong phú, đa dạng cho công nghiệp chế biến.
SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Mai 10
Niên luận
GVHD: Hồ Dũng
1.3. Phát triển kinh tế biển đảo ở Việt Nam hiện nay
1.3.1. Tiềm năng phát triển
* Tiềm năng và tầm quan trọng của biển
+ Về kinh tế
- Hải sản: Ở vùng biển nước ta đến nay có khoảng 2.040 loài cá gồm nhiều
bộ, họ khác nhau, trong đó có giá trị kinh tế cao khoảng 110 loài. Trữ lượng cá ở
vùng biển nước ta khoảng 3 triệu tấn/năm.
- Rong biển: Trên biển nước ta có trên 600 loài rong biển là nguồn thức ăn
có dinh dưỡng cao và là nguồn dược liệu phong phú.
- Khoáng sản: Dưới đáy biển nước ta có nhiều khoáng sản quý như: thiếc,
ti tan, đi-ri-con, thạch anh, nhôm, sắt, măng gan, đồng, kền và các loại đất hiếm.
Muối ăn chứa trong nước biển bình quân 3.500gr/m
2
.
- Dầu mỏ: Vùng biển Việt Nam rộng hơn l triệu km
2
trong đó có
500.000km
2
nằm trong vùng triển vọng có dầu khí. Trữ lượng dầu khí ngoài
khơi miền Nam Việt Nam có thể chiếm 25% trữ lượng dầu dưới đáy biển Đông.
Có thể khai thác từ 30-40 ngàn thùng/ngày (mỗi thùng 159 lít) khoảng 20 triệu
tấn/năm. Trữ lượng dầu khí dự báo của toàn thềm lục địa Việt Nam khoảng 10 tỷ
tấn quy dầu. Ngoài dầu Việt Nam còn có khí đốt với trữ lượng khoảng ba nghìn
tỷ m
3
/năm.
- Giao thông: Bờ biển nước ta chạy dọc từ Bắc tới Nam theo chiều dài đất
nước, với 3.260km bờ biển có nhiều cảng, vịnh… rất thuận liện cho giao thông,
đánh bắt, hải sản. Nằm liên trục giao thông đường biển quốc tế từ Thái Bình
Dương sang Đại Tây Dương, trong tương lai sẽ là tiềm năng cho ngành kinh tế
dịch vụ trên biển (đóng tàu, sửa chữa tàu, tìm kiếm cứu trợ, thông tin dẫn dắt ).
- Du lịch: Bờ biển dài có nhiều bãi cát, vụng, vịnh, hang động tự nhiên
đẹp, là tiềm năng du lịch lớn của nước ta.
+ Quốc phòng, an ninh:
- Biển nước ta nằm trên đường giao thông quốc tế từ Đông sang Tây, từ
Bắc xuống Nam, vì vậy có vị trí quân sự hết sức quan trọng. Đứng trên vùng
SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Mai 11
Niên luận
GVHD: Hồ Dũng
biển-đảo của nước ta có thể quan sát khống chế đường giao thông huyết mạch ở
Đông Nam Á.
Biển-đảo nước ta có tầm quan trọng hết sức lớn lao đối với kinh tế và sự
phát triển trường tồn của đất nước.
* Đảo, quần đảo ở nước ta và tầm quan trọng của nó.
- Đảo và quần đảo:
Vùng biển nước ta có trên 4000 hòn đảo lớn nhỏ trong đó:
+ Vùng biển Đông Bắc có trên 3.000 đảo.
+ Bắc Trung Bộ trên 40 đảo.
+ Còn lại ở vùng biển Nam Trung Bộ, vùng biển Tây Nam và hai quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
- Căn cứ vào vị trí chiến lược và các điều kiện địa lý kinh tế, dân cư,
thường người ta chia các đảo, quần đảo thành các nhóm:
+ Hệ thống đảo tiền tiêu có vị trí quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Trên các đảo có thể lập những căn cứ kiểm soát vùng biển,
vùng trời nước ta, kiểm tra hoạt động của tàu, thuyền, bảo đảm an ninh quốc
phòng, xây dựng kinh tế, bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước ta.
Đó là các đảo, quần đảo như: Hoàng Sa, Trường Sa, Chàng Tây, Thổ Chu, Phú
Quốc, Côn Đảo, Phú Quý, Lý Sơn, Cồn Cỏ, Cô Tô, Bạch Long Vĩ
+ Các đảo lớn có điều kiện tự nhiên thuận lợi cho phát triển kinh tế-xã
hội. Đó là các đảo như: Cô Tô, Cát Bà, Cù Lao Chàm, Lý Sơn, Phú Quý, Côn
Đảo, Phú Quốc.
+ Các đảo ven bờ gần có điều kiện phát triển nghề cá, du lịch và cũng là
căn cứ để bảo vệ trật tự, an ninh trên vùng biển và bờ biển nước ta. Đó là các
đảo thuộc huyện đảo Cát Bà, huyện đảo Bạch Long Vĩ (Hải Phòng), huyện đảo
Phú Quý (Bình Thuận), huyện đảo Côn Sơn (Bà Rịa-Vũng Tàu), huyện đảo Lý
Sơn (Quảng Ngãi), huyện đảo Phú Quốc (Kiên Giang)
+ Việt Nam có hai quần đảo xa bờ là Hoàng Sa và Trường Sa.
- Đảo và quần đảo nước ta có ý nghĩa quan trọng trong sự nghiệp công
SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Mai 12
Niên luận
GVHD: Hồ Dũng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; vai trò lớn lao trong công cuộc bảo vệ chủ
quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc ta.
* Vịnh Bắc Bộ
- Nằm ở Tây Bắc Biển Đông, được bao bọc bởi bờ biển Việt Nam và
Trung Quốc.
- Diện tích khoảng 126.250km
2
, chiều ngang, nơi rộng nhất khoảng 310
km và nơi hẹp nhất khoảng 220km.
- Là vịnh nông, nơi sâu nhất khoảng l00m.
Thềm lục địa Việt Nam khá rộng, độ dốc thoải và có một lòng máng sâu
trên 70m gần đảo Hải Nam của Trung Quốc.
- Phần Vịnh phía Việt Nam có khoảng 3.000 đảo lớn nhỏ, đảo Bạch Long
Vĩ diện tích 2,5km
2
cách đất liền Việt Nam 110km, cách đảo Hải Nam của Trung
Quốc 130km. Có nhiều nguồn lợi hải sản và tiềm năng dầu khí (trữ lượng cá của
Việt Nam khoảng 44 vạn tấn).
* Vịnh Thái Lan
- Nằm ở Tây Nam biển Đông, được bao bọc bởi bờ biển Việt Nam,
Campuchia, Thái Lan, Malaixia.
- Diện tích khoảng 293.000km
2
, chu vi khoảng 2.300km.
- Là một vịnh nông, nơi sâu nhất khoảng 80 mét.
- Đảo Phú Quốc trong Vịnh là đảo lớn nhất của Việt Nam, diện tích 567km2.
- Có nhiều nguồn lợi hải sản (trữ lượng cá của Việt Nam khoảng 51 vạn tấn).
Có tiềm năng dầu khí lớn: Việt Nam đã khai thác và hợp tác khai thác
vùng chồng lấn với Malaixia.
* Hoàng Sa - Trường Sa
- Quần đảo Hoàng Sa
+ Quần đảo Hoàng Sa là một quần đảo san hô nằm giữa Biển Đông. Từ
lâu Hoàng Sa cũng như Trường Sa đã thuộc lãnh thổ Việt Nam với tên Bãi Cát
Vàng, Hoàng Sa.
SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Mai 13
Niên luận
GVHD: Hồ Dũng
- Quần đảo Trường Sa
+ Quần đảo Trường Sa cách quần đảo Hoàng Sa khoảng 200 hải lý về
phía Nam. Quần đảo Trường Sa bao gồm hơn 100 đảo nhỏ, bãi ngầm, bãi san hô
nằm trải rộng trong một vùng biển rộng.
Điều kiện tự nhiên và khí hậu vùng này rất khắc nghiệt: nắng gió, giông
bão thường xuyên, thiếu nước ngọt, nhiều đảo không có cây. Quần đảo Trường
Sa không chỉ là vị trí quân sự chiến lược án ngữ phía Đông Nam nước ta, bảo vệ
vùng biển và hải đảo ven bờ, mà còn là một vùng có trữ lượng lớn phốt phát khá
lớn, có nhiều loại động thực vật và có thể có nhiều dầu.
1.3.2. Thành tựu và hạn chế phát triển kinh tế biển, đảo ở Việt Nam
Theo ước tính, quy mô kinh tế (GDP) biển và vùng ven biển Việt Nam
bình quân đạt khoảng 47- 48% GDP cả nước, trong đó GDP của kinh tế “thuần
biển” đạt khoảng 20-22% tổng GDP cả nước. Trong các ngành kinh tế biển, đóng
góp của các ngành kinh tế diễn ra trên biển chiếm tới 98%, chủ yếu là khai thác dầu
khí, hải sản, hàng hải (vận tải biển và dịch vụ cảng biển), du lịch biển. Các ngành
kinh tế có liên quan trực tiếp tới khai thác biển như đóng và sửa chữa tàu biển, chế
biến dầu khí, chế biến thủy hải sản, thông tin liên lạc, bước đầu phát triển, nhưng
hiện tại quy mô còn rất nhỏ bé (chỉ chiếm khoảng 2% kinh tế biển và 0,4% tổng
GDP cả nước), song trong tương lai sẽ có mức gia tăng nhanh hơn.
Việt Nam hiện có 15 khu kinh tế biển, ven biển trên cả nước. Đánh giá
hiệu quả các khu kinh tế biển, Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ngãi Nguyễn Xuân
Huế lấy khu kinh tế ven biển Dung Quất làm ví dụ. Theo đó, thực tiễn phát triển
khu kinh tế ven biển Dung Quất đã cho thấy hiệu ứng lan tỏa của vùng đối với
toàn bộ kinh tế của tỉnh theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Giai đoạn năm 2006-2009, khu kinh tế Dung Quất đã góp gần 50% tổng thu
ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh, đưa Quảng Ngãi từ một tỉnh có nguồn thu
ngân sách thấp gia nhập "Câu lạc bộ 1.000 tỷ đồng" vào năm 2006, rồi lên 4.000 tỷ
đồng vào năm 2009. Dự kiến năm 2010 này Quảng Ngãi gia nhập “Câu lạc bộ
14.000 tỷ đồng” thu ngân sách, thuộc top 10 tỉnh có nguồn thu cao của cả nước.
SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Mai 14
Niên luận
GVHD: Hồ Dũng
Còn với cảng biển, khối lượng hàng hoá thông qua cảng biển Việt Nam
tăng nhanh chóng. Tốc độ tăng trưởng bình quân là 17%/năm. Các cảng lớn như
Hải Phòng, Sài Gòn đạt một mức kỷ lục. Nhưng, nhìn chung các cảng biển vẫn
đang ở trong tình trạng kém hiệu quả, thiếu sức cạnh tranh bởi các lý do: quy mô
cảng nhỏ bé, thiết bị xếp dỡ lạc hậu, thiếu cảng nước sâu, cảng tàu container,
những cảng tổng hợp quan trọng đều nằm sâu trong đất liền như Hải Phòng (30
km), Sài Gòn (90km) luồng lạch hẹp lại bị sa bồi lớn không cho phép các tàu lớn
ra vào cảng, mặt bằng chật hẹp, thiếu hệ thống đường bộ, đường sắt nối vào
mạng lưới giao thông quốc gia.
Ngành thuỷ sản (chủ yếu là hải sản) trong những năm gần đây đã có tốc
độ tăng trưởng nhanh, chiếm tỷ trọng ngày càng tăng trong cơ cấu sản xuất nông
nghiệp nước ta. Năm 2002, giá trị sản xuất ngành thủy sản chiếm 17,76% tổng
giá trị sản xuất nông nghiệp. Đặc biệt ngành thuỷ sản có giá trị xuất khẩu cao,
ước đạt 2.024 triệu USD năm 2002, đứng thứ 3 về xuất khẩu của cả nước sau
dầu thô và dệt may. Năm 2002, ngành thuỷ sản đã đánh bắt và trồng được 2,57
triệu tấn, trong đó cung cấp cho công nghiệp chế biến khoảng 600 ngàn tấn. Dự
báo, đến năm 2010 ngành thuỷ sản có thể khai thác và nuôi trồng được khoảng
3,5 - 4 triệu tấn, trong đó cung cấp khoảng 1 triệu tấn nguyên liệu cho công
nghiệp chế biến và có thể đại giá trị xuất khẩu từ 4,5 - 5 tỷ USD.
Những năm gần đây, công tác khai thác đã được phát triển mạnh ở Hà
Tĩnh, Thừa Thiên - Huế, Bình Định và Bình Thuận với sản lượng khai thác
khoảng 100 ngàn tấn/năm phục vụ cho nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Dự báo
đến năm 2010 có thể khai thác từ 250 - 300 ngàn tấn tinh quặng ilmenit. Đây là
nguồn nguyên liệu khá lớn có thể phục vụ cho công nghiệp sản xuất bột TiO2.
1.3.3. Đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước về phát triển kinh tế
biển đảo
Thế kỷ XIX được các nhà chiến lược xem là “thế kỷ của biển và đại
dương”, và càng về sau các vấn đề liên quan đến biển và đại dương càng được
đề cao, chú trọng. Trong điều kiện mà các nguồn tài nguyên trên đất liền đang
SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Mai 15
Niên luận
GVHD: Hồ Dũng
ngày càng cạn kiệt, không gian kinh tế truyền thống không còn phù hợp nữa,
nhiều quốc gia bắt đầu quay ra biển và định hình các phương án chiếm biển và
khống chế biển, khai thác các nguồn lợi từ biển và hải đảo thành lãnh địa, thành
không gian kinh tế mới để tìm kiếm và bảo đảm các vấn đề về nhiên liệu,
nguyên liệu, thực phẩm và không gian sinh tồn trong tương lai.
Nhà nước ưu tiên tập trung phát triển các ngành kinh tế biển sau đây:
1. Tìm kiếm, thăm dò, khai thác, chế biến dầu, khí và các loại tài nguyên,
khoáng sản biển;
2. Vận tải biển, cảng biển, đóng mới và sửa chữa tàu thuyền, phương tiện
đi biển và các dịch vụ hàng hải khác;
3. Du lịch biển và kinh tế đảo;
4. Khai thác, nuôi trồng, chế biến hải sản;
5. Phát triển, nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao khoa học, công nghệ
về khai thác và phát triển kinh tế biển;
6. Xây dựng và phát triển nguồn nhân lực biển
Như vậy, khi đề ra các ngành này Nhà nước đã có những hướng đi cụ thể
cho kinh tế biển đảo và thông qua đó đem lại hiệu quả cao nhất cho nền kinh tế
đất nước.
Với việc phê chuẩn công ước luật biển 1982, Việt Nam quyết tâm cùng
cộng đồng quốc tế xây dựng một trật tự pháp lý, khuyến khích hợp tác và phát
triển trên biển . Ngày 2/8/1977, hội thảo khoa học về biển lần thứ nhất được tổ
chức tại Nha Trang đã nêu rõ phương hướng phát triển khoa học kỹ thuật kinh tế
biển đảo. Trong những năm 90 của thế kỷ XX, Việt Nam có một số nghị quyết
phát triển kinh tế biển, đặc biệt quan trọng nhất là Nghị quyết số 3- NQ/TW,
ngày 6/5/1993 của Bộ Chính trị về “Một số nhiệm vụ phát triển kinh tế biển đi
đôi với tăng cường bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia”- trong đó nhấn mạnh
nhiệm vụ bảo vệ tài nguyên , môi trường sinh thái biển, phấn đấu trở thành một
quốc gia mạnh và giàu lên từ biển, đồng thời thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội.
Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần 4, khóa X đã đề ra
SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Mai 16
Niên luận
GVHD: Hồ Dũng
Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 với quan điểm: “ Nước ta phải trở
thành quốc gia giàu mạnh về biển, làm giàu từ biển”, “Tạo ra tốc độ phát triển
nhanh, bền vững, hiệu quả cao với tầm nhìn dài hạn”, hướng tới đạt mục tiêu
kinh tế trên biển và ven biển đóng góp 53 – 55% GDP cả nước.
Như vậy, phát triển kinh tế biển đã được đặt trong tổng thể phát triển kinh
tế của đất nước, trong điều kiện hội nhập kinh tế thế giới.
1.3.4. Thuận lợi, khó khăn trong phát triển kinh tế biển đảo hiện nay
Theo ước tính, quy mô kinh tế (GDP) biển và vùng ven biển Việt Nam bình
quân đạt khoảng 47- 48% GDP cả nước, trong đó GDP của kinh tế “thuần biển” đạt
khoảng 20-22% tổng GDP cả nước. Trong các ngành kinh tế biển, đóng góp của
các ngành kinh tế diễn ra trên biển chiếm tới 98%, chủ yếu là khai thác dầu khí, hải
sản, hàng hải (vận tải biển và dịch vụ cảng biển), du lịch biển. Các ngành kinh tế có
liên quan trực tiếp tới khai thác biển như đóng và sửa chữa tàu biển, chế biến dầu
khí, chế biến thủy hải sản, thông tin liên lạc, bước đầu phát triển, nhưng hiện tại
quy mô còn rất nhỏ bé (chỉ chiếm khoảng 2% kinh tế biển và 0,4% tổng GDP cả
nước), song trong tương lai sẽ có mức gia tăng nhanh hơn.
Gần đây, kinh tế trên một số đảo đã có bước phát triển nhờ chính sách di dân
và đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng trên các đảo (hệ thống giao thông, mạng lưới
điện, cung cấp nước ngọt, trường học, bệnh xá ). Tuy vậy, có thể nhận định một
cách khái quát rằng, sự phát triển của kinh tế biển còn quá nhỏ bé và nhiều yếu
kém. Quy mô kinh tế biển Việt Nam chỉ đạt khoảng hơn 10 tỷ USD; trong khi
sản lượng kinh tế biển của thế giới ước 1.300 tỷ USD, Nhật Bản là 468 tỷ USD,
Hàn Quốc là 33 tỷ USD. Cơ sở hạ tầng các vùng biển, ven biển và hải đảo còn
yếu kém, lạc hậu. Hệ thống cảng biển nhỏ bé, manh mún, thiết bị nhìn chung
còn lạc hậu và chưa đồng bộ nên hiệu quả thấp. Các chỉ tiêu hàng thông qua
cảng trên đầu người rất thấp so với các nước trong khu vực (chỉ bằng 1/140 của
Xingapo, 1/7 của Malaixia và 1/5 của Thái Lan).
Đến nay, Việt Nam vẫn chưa có đường bộ cao tốc chạy dọc theo bờ biển,
nối liền các thành phố, khu kinh tế, khu công nghiệp ven biển thành một hệ
SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Mai 17
Niên luận
GVHD: Hồ Dũng
thống kinh tế biển liên hoàn. Các sân bay ven biển và trên một số đảo nhỏ bé.
Các thành phố, thị trấn, khu kinh tế, khu công nghiệp ven biển còn nhỏ bé, đang
trong thời kỳ bắt đầu xây dựng. Hệ thống các cơ sở nghiên cứu khoa học-công
nghệ biển, đào tạo nhân lực cho kinh tế biển, các cơ sở quan trắc, dự báo, cảnh
báo thời thiết, thiên tai, các trung tâm tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn, còn nhỏ bé,
trang bị thô sơ.
Du lịch biển là một tiềm năng kinh doanh lớn. Vùng biển và ven biển tập
trung tới 3/4 khu du lịch tổng hợp và 10/17 khu du lịch chuyên đề. Tuy nhiên,
ngành du lịch biển vẫn thiếu những sản phẩm dịch vụ biển-đảo đặc sắc có tính
cạnh tranh cao so với khu vực và quốc tế, chưa có khu du lịch biển tổng hợp đạt
trình độ quốc tế. Khai thác hải sản và nuôi thuỷ sản nước lợ vốn là lĩnh vực kinh
tế đặc trưng của biển đã đóng góp khoảng hơn 3 tỷ USD trong tổng giá trị thuỷ
sản xuất khẩu (năm 2008) và tạo việc làm cho hơn 1 triệu lao động đánh cá trực
tiếp, nuôi thuỷ sản và 50 vạn lao động dịch vụ liên quan.
Đối với các lĩnh vực kinh tế liên quan trực tiếp đến biển như chế biến sản
phẩm dầu, khí; chế biến thủy hải sản, đóng và sửa chữa tàu biển, sản xuất muối
biển công nghiệp, các dịch vụ kinh tế biển và ven biển (như thông tin, tìm kiếm
cứu nạn hàng hải, dịch vụ viễn thông công cộng biển trong nước và quốc tế,
nghiên cứu khoa học-công nghệ biển, xuất khẩu thuyền viên, ) hiện chủ yếu
mới ở mức đang bắt đầu xây dựng, hình thành và quy mô còn nhỏ bé.
Khu vực Biển Đông đang có tranh chấp gay gắt, nên việc hợp tác và hội
nhập quốc tế để phát triển kinh tế ở khu vực này còn gặp không ít khó khăn.
Việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến biển, những vi phạm trong quá
trình sử dụng, khai thác tài nguyên biển chưa có các quy định cụ thể mang tính
pháp quy như trong quản lý sử dụng đất trên đất liền và còn nhiều bất cập. Việc
tranh chấp về chủ quyền biển đảu trên Biên Đông hiện đang là một vấn đề chính
trị thời sự nóng đối với nước ta. Đi liền với vấn đề chủ quyền thì việc phát triển
kinh tế biển đảo cũng gặp không ít trở ngại, bởi đất nước không ổn định về
chính trị thì hẳn nhiên nó sẽ khó phát triển, ổn định về kinh tế.
SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Mai 18
Niên luận
GVHD: Hồ Dũng
Ngoài ra, nước ta là một trong 5 nước chịu tác động mạnh mẽ nhất của biến
đổi khí hậu và dâng cao mực nước biển, trước hết là vùng ven biển và các đảo
nhỏ. Các hệ sinh thái ven biển, các giá trị dịch vụ của chúng, người dân ven biển
và trên các đảo là những đối tượng dễ bị tổn thương và bị tác động mạnh mẽ
nhất, nhưng đến nay còn thiếu những nghiên cứu cụ thể về vấn đề này, cũng như
chưa có giải pháp lồng ghép và mô hình thích ứng với biến đổi khí hậu và dâng
cao mực nước biển. Vùng Biển Đông nói chung và biển Việt Nam nói riêng là
khu vực chịu nhiều thiên tai bão, tố, biến đổi khí hậu và có nguy cơ sóng thần.
Trung bình hàng năm có khoảng 8 cơn bão đổ bộ vào vùng biển và nội địa Việt
Nam. Điều kiện khí hậu khắc nghiệt khiến cho công cuộc phát triển kinh tế biển
đảo Việt nam gặp rất nhiều khó khăn trở ngại.
Khai thác biển - đảo đã đem lại những lợi ích kinh tế -xã hội bước đầu
quan trọng, nhưng việc sử dụng biển và hải đảo chưa hiệu quả, thiếu bền vững,
trình độ khai thác biển của nước ta vẫn đang ở tình trạng lạc hậu nhất trong khu
vực. Việt Nam tuy là một quốc gia biển, song đến nay, chúng ta vẫn chưa thực
sự dựa vào biển để phát triển đúng tiềm năng và thế mạnh. Việt Nam vẫn chưa
phải là quốc gia mạnh về biển, vẫn chưa phải là một “cường quốc biển”
1.4. Vài nét về báo Tuổi Trẻ
Báo Tuổi Trẻ ra đời chính thức ngày 2 tháng 9 năm 1975. Số báo đầu tiên
phát hành với số lượng khoảng 5.000 bản/tuần. Trụ sở đầu tiên của báo Tuổi Trẻ
tại 55 Duy Tân (nay là Phạm Ngọc Thạch, Q.3, TP HCM). Tiền thân của tờ báo
này bắt đầu từ những tờ truyền đơn và bản tin in roneo của sinh viên, học sinh
Sài Gòn trong phong trào chống Mỹ những ngày chiến tranh Việt Nam.
Báo Tuổi Trẻ gồm 4 ấn bản: nhật báo Tuổi Trẻ, tuần báo, Tuổi Trẻ Cười và
báo điện tử Tuổi Trẻ, phát hành trên Việt Nam với số lượng gần 500.000
bản/ngày, số lượng ấn bản lớn nhất tại đât nước này của một tạp chí (số liệu từ
tháng 6-2008).
Đến tháng 7-2008, Tuổi Trẻ được phát hành 2 kỳ/tuần (thứ Tư và thứ Bảy)
với số lượng 30.000 bản/kỳ. Ngày 10-8-1982, Tuổi trẻ tăng lên 3 kỳ phát hành
SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Mai 19
Niên luận
GVHD: Hồ Dũng
mỗi tuần (thứ Ba, thứ Năm và thứ Bảy).
Ngày 16-1-1983, Tuổi trẻ Chủ Nhật ra đời với số lượng khoảng 20.000 tờ
mỗi kỳ. Bảy năm sau Tuổi Trẻ Chủ Nhật đạt kỷ lục 131.000 tờ trong năm 1990.
Ngày 1-1-1984, Tuổi Trẻ Cười ra đời, là tờ báo trào phúng duy nhất của Việt
Nam lúc đó. Số lượng phát hánh ban đầu khoảng 50.000 tờ sau đó nhanh chóng
tăngđến 250.000 tờ vào cuối năm đó.
Đến ngày 1 tháng 9 năm 2000, số thứ Sáu được phát hành. Sau đó, 2 số
thứ Tư và thứ Hai lần lượt được xuất bản vào các ngày 23 tháng 1 và 7 tháng 10
năm 2002. Báo Tuổi Trẻ Online ra mắt chính thức ngày 1-12-2003. Chưa đầy 2
năm sau Tuổi Trẻ đã vươn lên vị trí thứ ba về số lượt truy cập trong bảng xếp
hạng tất cả các website tiếng Việt trên thế giới.
Từ ngày 2-4-2006, Tuổi trẻ chính thức trở thành một tờ nhật báo khi được
phép ra thêm 1 kỳ vào ngày Chủ Nhật. cùng lúc đó, tuần báo Tuổi Trẻ Chủ Nhật
đổi tên thành Tuổi Trẻ Cuối Tuần (hiện phát hành 60.000 bản/kỳ).
Ngày 3-8-2008, truyền hình Tuổi Trẻ (TVO) được thành lập, sản xuất
những chương trình truyền hình phát trên Tuổi Trẻ Online và hợp tác phát sóng
với các kênh truyền hình trong nước.
Từ ngày 1-11-2009, Tuổi Trẻ Chủ Nhật ra ấn bản 4 màu (in màu toàn bộ
20 trang) phát hành lần đầu tiên tại Việt Nam.
Ngày 18-6-2010, Tuổi trẻ News được thành lập và ngay sau đó là Tuổi trẻ
Mobile vào tháng 9-2010.
Nhiều thế hệ phóng viên của Tuổi Trẻ đã tạo dấu ấn trên mặt báo và được
bạn đọc Việt Nam yêu thích. Có thể kể đến các tác giả như Hàng Chức Nguyên
(chuyên mục ký sự pháp đình), Cù Mai Công (phóng sự Saigon by night), Binh
Nguyên (ký sự đường xa), Hoài Lê (thể thao), Cam Ly (quốc tế- đã định cư tại
Mỹ), …
Cơ chế của báo cũng như làng báo Việt Nam, khá trì trệ và đã không bắt
mạch được với những tiến bộ của môi trường làm việc xung quanh. Dù là ờ báo
thuộc loại tiên tiến và có tiềm lực mạnh nhất làng báo Việt Nam, báo Tuổi trẻ
SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Mai 20
Niên luận
GVHD: Hồ Dũng
vẫn bị “chảy máu chất xám” nặng nề. Các nhân lực nòng cốt, các cây bút chủ
chốt của Tuổi Trẻ đã lần lượt ra đi.
Tuổi trẻ được xem như một “lò” đào tạo số một bởi một số phóng viên,
biên tập viên của Tuổi trẻ rời bỏ báo lại trở thành lãnh đạo của các báo khác như
Người lao động, Sài Gòn Giải phóng, Pháp luật TP HCM,…
Là tờ báo tiên phong trong tổ chức kinh doanh, báo Tuổi Trẻ có tiềm lực
kinh tế thuộc loại mạnh nhất trong các báo in ở Việt Nam.
Thực hiện kiên trì những chiến lược đó, phát hành Tuổi Trẻ đã trở thành
mạng lưới bán báo có 5 vị trí hạng nhất trong báo in cả nước:
- Hệ thống đại lý ba cấp nhiều thành phần kinh tế đông đảo nhất (trên 500
tổng đại lý). Từ khởi đầu chỉ có 100 đại lý tư nhân tại TP HCM, phát hành Tuổi
trẻ đã mở rộng và kết nạp thêm các công ty bưu chính và công ty phát hành tư
nhân vào hệ thống đại lý Tuổi Trẻ trên khắp cả nước.
- Mạng lưới phát hành rộng mạnh nhất (6.234 điểm bán trên cả nước,
tháng 4.2009). Trong đó mạng lưới dày đặc nhất tại TP HCM, đặc biệt là Quận
1, Quận 3 và Quận 5. Có nơi cứ 100 người dân thì có 40 người mua báo Tuổi
Trẻ.
- Số lượng báo dài hạn cao nhất (102.000 tờ) do các công ty bưu chính,
đại lý tư nhân và cả phát hành Tuổi trẻ cùng thực hiện.
- Ra báo sớm nhất trên toàn quốc. Tuổi trẻ đã được in cùng lúc tại 7 nơi
TP HCM, Hà Nội, Đà Nẵng, Quy Nhơn, Nha Trang, Cần Thơ và Rạch Giá.
Trong tương lai Tuổi Trẻ sẽ tiếp tục được in tại một số tỉnh lỵ lớn để đáp ứng
nhu cầu đọc báo sớm của bạn đọc và đi xa hơn vào các vùng sâu vùng xa.
Bảng hiệu Tuổi Trẻ nhiều nhất trên các sạp báo. Trong 6.234 điểm bán
trên toàn quốc, chỉ có gần phân nửa có thể làm bảng hiệu thì bảng hiệu của Tuổi
trẻ đã chiếm 1.300 sạp, tiệm và con số này đang tiếp tục được nâng cao.
Văn phòng chính hiện nay của Tuổi Trẻ đặt tại 60A, đường Hoàng Văn
Thụ, phường 9, quận Phú Nhuận, TP HCM. Báo có 9 văn phòng đại diện tại Hà
SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Mai 21
Niên luận
GVHD: Hồ Dũng
Nội, Nghệ An, Huế, Đà Nẵng, Quy Nhơn, Nha Trang, Đà Lạt, Đăk Lăk và Cần
Thơ.
Đến nay báo Tuổi Trẻ đã qua 4 đời Tổng biên tập. Người hiện giữ chức
Tổng biên tập của Tuổi trẻ là nhà báo Phạm Đức Hải.
Về vấn đề thông tin và phát triển kinh tế biển đảo, báo Tuổi Trẻ là một
trong nhiều tờ báo đi đầu trong công tác tuyên truyền cũng như cung cấp thông
tin đầy đủ, kịp thời về mọi thông tin về biển đảo, cũng như là thông báo, tuyên
truyền về những chính sách, chủ trương của Đảng và Nhà nước đến mọi người
dân trên các miền tổ quốc.
SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Mai 22
Niên luận
GVHD: Hồ Dũng
Chương 2: ĐẶC ĐIỂM THÔNG TIN VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ
BIỂN ĐẢO TRÊN BÁO TUỔI TRẺ NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY
2.1. Thống kê, phân loại tin, bài về phát triển kinh tế biển đảo trên
báo Tuổi Trẻ
2.1.1. Phân loại theo thể loại
Về thể loại:
Về định nghĩa thể loại, PGS.TS Đinh Văn Hường định nghĩa thể loại như
sau: thể loại báo chí là hình thức biểu hiện cơ bản, thống nhất và tương đối ổn định
của các nhà báo, được phân chia theo phương thức phản ánh hiện thực, sử dụng các
công cụ khác để chuyển tải nội dung mang tính chính trị, tư tưởng nhất định.
Giáo trình nghiệp vụ báo chí (1997) chỉ ra đặc điểm của văn bản các thể
loại: tin, tường thuật, ký (người tốt việc tốt), phóng sự, điều tra, ghi nhanh
nhưng không trình bày quan điểm về cách phân chia thể loại.
Nhà báo Đức Dũng chia các văn bản báo chí thành 3 nhóm:
- Nhóm thông tấn báo chí: tin, điều tra, tường thuật…
- Nhóm chính luận báo chí: bình luận, xã luận, chuyên luận…
- Nhóm ký báo chí: phóng sự, ghi nhanh, ký chân dung…
PGS. TS Dương Xuân Sơn đã phân chia thể loại thành 3 loại:
- Báo chí thông tấn: tin, phỏng vấn, tường thuật, điểm báo.
- Báo chính luận: xã luận, bình luận, chuyên luận, bài phê bình.
- Báo chí chính luận nghệ thuật: ký, phóng sự, tiểu phẩm, ghi nhanh, điều
tra, câu chuyện báo chí.
Theo nghiên cứu trong luận án “Ngôn ngữ báo chí Sài Gòn” thì PGS.TS
Hoàng Tất Thắng phân chia các thể loại báo chí thành:
- Tin tức báo chí: tin, phóng sự, phỏng vấn…
- Ký báo chí: ký, ghi nhanh, sổ tay phóng viên…
- Bình luận báo chí: tiểu phẩm, bài bình luận, bài chuyên luận…
- Trao đổi công luận: hỏi đáp, ý kiến bạn đọc…
SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Mai 23
Niên luận
GVHD: Hồ Dũng
Đối chiếu những định nghĩa, cách phân chia thể loại với các bài viết cụ
thể trên báo Tuổi Trẻ thì có thể nói bên cạnh báo in thì vấn đề kinh tế biển đảo
vẫn được báo Tuổi trẻ chú trọng trong các phương tiện khác như Truyền hình
Tuổi Trẻ (TVO) và báo Tuổi Trẻ Online (TTO), tờ Tuổi Trẻ cuối tuần và tập san
áo trắng. Tuy nhiên có thể nói tờ nhật báo Tuổi Trẻ là nơi đề cập nhiều nhất và
sâu nhất về vấn đề kinh tế biển đảo qua việc đăng tải thường xuyên và thể hiển
qua những thể loại phổ biến như: phóng sự, tin, tin vắn, phản ánh và thỉnh
thoảng có bình luận, phỏng vấn.
Bảng thống kê số lượng, tần suất các thể loại xuất hiện trên báo Tuổi Trẻ về
vấn đề phát triển kinh tế biển đảo năm 2013 và ba tháng đầu năm 2014.
Thể loại
Tháng
Tin Tin vắn Phóng sự Bình luận Phản ánh Phỏng vấn
NĂM 2013
1 2 3 1 0 1 0
2 2 0 0 0 0 0
3 3 1 0 0 1 0
4 2 0 1 0 0 0
5 3 0 2 0 0 0
6 2 3 0 1 1 1
7 0 0 0 0 0 0
8 2 0 0 0 2 0
9 5 2 1 0 2 0
10 1 0 1 1 2 0
11 2 3 4 0 2 0
12 1 1 0 0 0 0
NĂM 2014
1 2 1 0 0 2 0
2 9 1 2 1 4 0
3 3 1 1 0 2 0
2.1.2. Phân loại theo nội dung
Có các nội dung như là:
- Đẩy mạnh tuyên truyền sâu rộng vị trí, vai trò, tiềm năng thế mạnh của
biển đảo Việt Nam đối với sự nghiệp phát triển kinh tế, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc với 3 tin, 2 phản ánh, 1 phóng sự.
SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Mai 24
Niên luận
GVHD: Hồ Dũng
- Cung cấp thông tin về vấn đề chủ quyền lãnh hải, khẳng định quan điểm
của Đảng và Nhà nước ta trong giải quyết tranh chấp, giáo dục cho toàn dân
nâng cao ý thức đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo của Tổ quốc. Thông qua
đó nhằm thúc đẩy kinh tế biển đảo phát triển với 4 tin, 1 tin vắn, 2 phản ánh, 1
phóng sự, 2 bình luận.
- Tuyên truyền, giới thiệu những thành tựu phát triển kinh tế biển đảo của
Tổ quốc với 14 tin, 6 tin vắn, 4 phản ánh, 5 phóng sự.
- Những khó khăn trong việc phát triển kinh tế biển đảo với 1 tin vắn, 7
phản ánh, 4 phóng sự.
- Tuyên truyền định hướng về điều tra tài nguyên biển, môi trường biển;
phát triển khoa học công nghệ biển, công tác hỗ trợ tài chính, vật chất, dự báo,
phòng chống thiên tai, cứu hộ cứu nạn cho cư dân biển đảo… với 17 tin, 8 tin
vắn, 4 phản ánh, 2 phóng sự, 1 phỏng vấn và 1 bình luận.
2.2. Nội dung thông tin về phát triển kinh tế biển, đảo trên báo Tuổi Trẻ
2.2.1. Những vấn đề liên quan đến phát triển kinh tế biển, đảo trên
báo Tuổi Trẻ.
Phát triển kinh tế biển đảo trên báo Tuổi trẻ hướng đến các đề tài chủ yếu
như là:
Việc khai thác hải sản trên các vùng biển có các tin, bài: Phóng sự “Mùa
biển thắng lớn” của Võ Minh số ra ngày 2/1/2013 nói về việc ngư dân ở vùng
biển Quảng Ngãi thu lợi lớn trong những chuyến đi biển đánh bắt cá xa bờ:
“Năm 2012, biển khơi thuận buồm xuôi gió, bất chấp những thời điểm khó khăn
nhưng nhiều ngư dân Quảng Ngãi thu về tiền tỉ từ bám biển. Ngư dân lại đầu tư
thêm để chuẩn bị một năm mới xa khơi tràn đầy hi vọng, niềm tin từ biển…”,
Tin “Ngư dân Quảng Ngãi trúng đậm cá hố” của Minh Kỳ (23/3/2013) có nội
dung là “Những ngày qua, nhiều tàu cá của ngư dân xã Phổ Thạnh, H.Đức Phổ
(Quảng Ngãi) trúng đậm cá hố. Sau vài ngày ra khơi đánh bắt, mỗi tàu cá thu
được 2-4 tấn cá, với mức giá 62.000-120.000 đồng/kg như hiện tại, bình quân
mỗi tàu lãi trên dưới 50 triệu đồng”.
SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Mai 25