Tải bản đầy đủ (.doc) (86 trang)

giải pháp mở rộng phát hành và thanh toán thẻ tại ngân hàng ngoại thương việt nam trong điều kiện hội nhập quốc tế về tài chính - ngân hàng tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (795.21 KB, 86 trang )

1
LỜI NÓI ĐẦU
Thẻ ngân hàng là phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt
(TTKDTM), ra đời từ phương thức mua bán chịu hàng hoá bán lẻ và phát
triển gắn liền với sự phát triển của công nghệ trong lĩnh vực ngân hàng. Trong
khi thẻ ngân hàng đã được sử dụng phổ biến và là một phần không thể thiếu
trong cuộc sống hàng ngày của đông đảo dân chúng trên thế giới thì tại thị
trường Việt Nam nó mới thu hút được sự quan tâm, đầu tư của các ngân hàng
thương mại (NHTM) trong nước vài năm trở lại đây.
Việt Nam đang trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế quốc tế và mở
cửa thị trường tài chính theo các cam kết với đối tác nước ngoài đã đặt ra
nhiều cơ hội và thách thức cho các NHTM, đó là sự tham gia của các tập đoàn
tài chính quốc gia có thế mạnh về tài chính, kỹ thuật và công nghệ. NHTM
Việt Nam cần chủ động tham gia vào thương mại quốc tế, hợp tác và cạnh
tranh trên cơ sở phát huy tốt nhất nội lực và lợi thế so sánh quốc gia, từng
bước tiến hành hiện đại hoá công nghệ, tin học hoá các hoạt động nghiệp vụ
và dịch vụ ngân hàng, xây dựng cơ sở kỹ thuật hiện đại cho việc triển khai các
ứng dụng nghiệp vụ và dịch vụ mới. Phát triển dịch vụ ngân hàng bán lẻ - sự
lựa chọn hàng đầu của các NHTM cho sự phát triển lâu dài và bền vững - là
một chiến lược phát triển đúng đắn trong thời điểm hiện tại. Hướng tới đối
tượng khách hàng cá nhân, thẻ ngân hàng là công cụ quan trọng trong chiến
lược phát triển đó.
Tham gia thị trường thẻ từ những ngày đầu tại Việt Nam, Ngân hàng
Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) luôn chú trọng phát triển sản phẩm,
nghiên cứu ứng dụng các công nghệ mới, nâng cao chất lượng dịch vụ, tiện
ích sử dụng thẻ cho khách hàng. Doanh số phát hành, thanh toán và sử dụng
thẻ của Vietcombank luôn đạt tốc độ tăng trưởng cao, chiếm hơn 50% doanh
số trên thị trường.
2
Việt Nam, một nền kinh tế đang phát triển với quy mô dân số gần 90
triệu dân, đang ở thời kỳ “dân số vàng” (gần 58 triệu người trong độ tuổi lao


động thực tế) và mức sống của người dân ngày càng được nâng cao, được
đánh giá là thị trường tiềm năng cho các sản phẩm dịch vụ ngân hàng bán lẻ
nói chung và dịch vụ thẻ nói riêng. Chính vì thế, ngày càng có nhiều các ngân
hàng trong nước cũng như ngân hàng nước ngoài tham gia vào thị trường thẻ
Việt Nam và tập trung các nguồn lực cho phát triển dịch vụ thẻ cả về chiều
rộng lẫn chiều sâu với nhiều chính sách cạnh tranh đa dạng, linh hoạt. Đây là
một cơ hội nhưng đồng thời cũng đem lại nhiều thách thức, áp lực cho hoạt
động phát hành và thanh toán thẻ của Vietcombank, đòi hỏi phải có chiến
lược phát triển đúng đắn, huy động được các nguồn lực cũng như sự nỗ lực
của các cán bộ trong toàn hệ thống.
Nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh, phát triển dịch vụ ngân hàng bán lẻ
và đẩy mạnh sự phát triển toàn diện hoạt động kinh doanh, duy trì vị thế hàng
đầu của Vietcombank trên thị trường thẻ Việt Nam, tôi đã chọn đề tài: "Giải
pháp mở rộng phát hành và thanh toán thẻ tại ngân hàng Ngoại thương
Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế về tài chính - ngân hàng tại
Việt Nam" làm đề tài nghiên cứu của mình.
1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề cơ bản về thẻ ngân hàng - một
phương tiện TTKDTM hiện đại gắn liền với sự phát triển khoa học công nghệ
và những lợi ích mà thẻ ngân hàng mang lại cho khách hàng, cho ngân hàng
và cho nền kinh tế; phân tích đánh giá thực trạng kết quả phát hành và thanh
toán thẻ tại ngân hàng Ngoại thương Việt Nam giai đoạn 2006-2010. Từ đó
đề xuất một số giải pháp, kiến nghị nhằm mở rộng phát hành và thanh toán
thẻ tại ngân hàng Ngoại thương Việt Nam thời gian tới trong điều kiện hội
nhập quốc tế về tài chính – ngân hàng tại Việt Nam hiện nay.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
3
Đối tượng: Mở rộng phát hành và thanh toán thẻ tại ngân hàng Ngoại
thương Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu: Thực trạng phát hành và thanh toán thẻ tại ngân

hàng Ngoại thương Việt Nam giai đoạn 2006-2010.
3. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu, đề tài sử dụng kết hợp nhiều phương
pháp nghiên cứu khác nhau nhằm tận dụng tính chất hợp lý và ưu việt của
từng loại phương pháp nghiên cứu khoa học. Cụ thể bao gồm:
Phương pháp thống kê: thu thập và xử lý thông tin qua 2 nguồn, đó là:
Dùng dữ liệu nội bộ được tổng hợp từ Trung tâm thẻ - Ngân hàng Ngoại
thương Việt Nam và Vụ Thanh toán – Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; Dùng
dữ liệu thu thập từ các nguồn: sách báo, các phương tiện truyền thông, thông
tin thương mại, các tổ chức, hiệp hội
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các phương pháp khác như duy vật biện
chứng gắn liền với phương pháp phân tích, so sánh, quy nạp, phán đoán, tổng
hợp, kết hợp giữa lý luận và thực tiễn tư duy logic để phân tích chứng minh
và đề xuất giải pháp.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài:
 Ý nghĩa khoa học: Hệ thống hoá lý luận về thẻ ngân hàng, phát hành
và thanh toán thẻ của NHTM.
 Ý nghĩa thực tiễn: Việc tổ chức tốt công tác thanh toán thẻ nói riêng
và TTKDTM nói chung giúp cho Ngân hàng khai thông được những khó
khăn về vốn (tận dụng nguồn tiền nhàn rỗi trong các tài khoản và các khoản
phí thu được từ dịch vụ này). Bên cạnh đó, mục tiêu dài hạn mà Ngân hàng
hướng tới chính là khai thác lượng lớn khách hàng cá nhân để phát triển các
dịch vụ bán lẻ - mảng hoạt động được cho là có tiềm năng trong tương lai.
Đây là nhân tố quan trọng quyết định hiệu quả kinh doanh của Ngân hàng
thời gian tới trong điều kiện các quy định về hoạt động tín dụng được cơ quan
4
quản lý ban hành trong năm 2010 có xu hướng ngày càng chặt chẽ hơn so với
trước đây và nền kinh tế Việt Nam vẫn còn gặp nhiều khó khăn bên cạnh
những cơ hội và thách thức trong việc hội nhập kinh tế quốc tế.
5. Kết cấu luận văn:

Bố cục luận văn: Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được kết cấu
thành 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về thẻ ngân hàng và hoạt động phát hành và
thanh toán thẻ của ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng phát hành và thanh toán thẻ tại ngân hàng
Ngoại thương Việt Nam giai đoạn 2006-2010.
Chương 3: Giải pháp mở rộng phát hành và thanh toán thẻ tại ngân
hàng Ngoại thương Việt Nam.
Để hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận được sự giúp đỡ của các đồng
nghiệp ở Trung tâm thẻ - Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam và Vụ Thanh
toán – Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, đặc biệt là cán bộ hướng dẫn GS.,TS
Vũ Văn Hóa. Tôi xin chân trọng cảm ơn!
5
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ THẺ NGÂN HÀNG VÀ HOẠT ĐỘNG PHÁT
HÀNH VÀ THANH TOÁN THẺ CỦA NHTM
1.1 Những vấn đề chung về thẻ ngân hàng
1.1.1 Khái niệm, đặc điểm cấu tạo và phân loại thẻ ngân hàng
a. Khái niệm:
Thẻ ngân hàng là một phương tiện TTKDTM, ra đời từ phương thức mua
bán chịu hàng hoá bán lẻ và phát triển gắn liền với sự ứng dụng công nghệ tin
học trong lĩnh vực ngân hàng. Thẻ ngân hàng là công cụ thanh toán do ngân
hàng phát hành thẻ cấp cho khách hàng sử dụng thanh toán hàng hoá dịch vụ
hoặc rút tiền mặt trong phạm vi số dư tiền gửi của mình hoặc hạn mức tín
dụng được cấp. Thẻ ngân hàng còn dùng để thực hiện các dịch vụ thông qua
hệ thống máy giao dịch tự động hay còn gọi là hệ thống tự phục vụ ATM.
Theo “Quy chế phát hành, sử dụng và cung cấp dịch vụ hỗ trợ hoạt động
thẻ ngân hàng” ban hành kèm theo Quyết định số 20/2007/QĐ-NHNN ngày
15/5/2007 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thì Thẻ ngân hàng
“là phương tiện do tổ chức phát hành thẻ phát hành để thực hiện giao dịch thẻ

theo các điều kiện và điều khoản được các bên thoả thuận”.
b. Đặc điểm cấu tạo:
Kể từ khi ra đời cho đến nay, thẻ ngân hàng đã có sự thay đổi khá lớn về
nội dung và hình thức nhằm tăng độ an toàn và tính tiện dụng cho khách
hàng. Nguyên tắc của việc chế tạo và sử dụng thẻ dựa trên một loạt những
thành tựu của ngành công nghệ thông tin, đặc biệt là kỹ thuật mã hoá từ tính
và hiện đại nhất là công nghệ sử dụng các vi mạch điện tử.
Thẻ làm bằng chất liệu plastic, gồm 3 lớp ép sát: 2 lớp tráng mỏng ở bên
ngoài và ở giữa là lõi thẻ làm bằng nhựa. Thẻ có kích thước chung theo tiêu
chuẩn quốc tế là 85mm x 55mm x 0,76mm, có 4 góc tròn. Thẻ bao gồm hai
mặt, mỗi mặt chứa đựng những thông tin và ký hiệu khác nhau, cụ thể:
6
Mặt trước của thẻ có các yếu tố sau:
- Số thẻ: Gồm 16 số, được in rõ ràng cách đều nhau, chia thành 4 nhóm
cách biệt, không mờ nhạt hoặc có dấu vết của thẻ bị in nổi lại.
- Họ tên của chủ thẻ được dập nổi.
- Tên ngân hàng phát hành thẻ.
- Biểu tượng và thương hiệu của thẻ.
- Ngày hiệu lực: là thời hạn thẻ được lưu hành.
Mặt sau của thẻ có:
- Dải băng từ chứa đựng các yếu tố bảo mật như số thẻ, tên chủ thẻ, thời
hạn hiệu lực, mã số bí mật, hạn mức tín dụng v v Dải băng từ này có 2 hoặc
3 rãnh được đọc bởi các thiết bị chuyên dùng như POS (Point of sale), Veri
phone rãnh thứ ba được sử dụng cho máy ATM để khách hàng rút tiền mặt
qua PIN.
- Trên thẻ còn có số điện thoại dịch vụ giải đáp thắc mắc của khách hàng
và băng chữ kí trên đó có tên loại thẻ được in nghiêng trái 45
0
trên nền trắng.
Băng chữ kí được làm từ một chất liệu đặc biệt nếu cố tình cạo, sửa đổi phần

ô chữ kí hoặc chữ kí gốc thì trên ô chữ kí sẽ xuất hiện ra chữ “VOID”.
Tùy ngân hàng và tổ chức phát hành thẻ có thể có thêm một số yếu tố
khác như: ký hiệu riêng của từng tổ chức (để đảm bảo tính an toàn), chữ ký và
hình của chủ thẻ, con chip (đối với thẻ điện tử), v.v…
c. Phân loại thẻ
Có rất nhiều tiêu thức để phân loại thẻ nhưng chủ yếu người ta sử dụng
theo 3 phương thức chính: Phân loại theo công nghệ sản xuất, phân loại theo
tính chất thanh toán của thẻ và phân loại theo phạm vi sử dụng thẻ.
 Căn cứ theo công nghệ sản xuất chia thành 3 loại: thẻ in nổi, thẻ
từ và thẻ thông minh:
7
Thẻ in nổi: Là loại thẻ mà trên bề mặt thẻ được khắc nổi các thông tin
cần thiết. Ngày nay loại thẻ này ít được sử dụng vì công nghệ in quá thô sơ,
dễ bị làm giả mà kết hợp với các công nghệ mới như thẻ từ, thẻ thông minh.
Thẻ từ: là loại thẻ mà các thông tin của chủ thẻ vừa được dập nổi ở mặt
trước của thẻ vừa được mã hoá trong băng từ ở mặt sau của thẻ. Các thông tin
này phải đảm bảo chính xác và khớp với nhau. Thẻ từ hiện nay đang chiếm
phần lớn trong tổng số lượng thẻ đang sử dụng trên thị trường. Nhược điểm
của thẻ từ là số lượng các thông tin được mã hoá không nhiều và mang tính cố
định nên không thể áp dụng kỹ thuật mã hoá an toàn và có thể bị ăn cắp thông
tin bằng các thiết bị nối với máy vi tính.
Thẻ thông minh: Đây là thế hệ mới nhất của thẻ, có đặc tính bảo mật và
an toàn rất cao, dựa trên kỹ thuật vi xử lý tin học, gắn vào thẻ một chip điện
tử có cấu tạo như một máy tính hoàn hảo. Thông thường một tấm thẻ thông
minh được gắn chip điện tử để thay thế cho dải băng từ sau thẻ. Cũng có
trường hợp thẻ thông minh có cả Chip điện tử và băng từ. Chip điện tử độc
lập với thẻ và được gắn trên bề mặt của thẻ, về bản chất gồm 2 loại chip: chip
bộ nhớ và chip xử lý dữ liệu. Chip bộ nhớ lưu trữ toàn bộ các thông tin cần
thiết phục vụ cho công tác thanh toán thẻ trong mỗi lần sử dụng còn chip xử
lý dữ liệu có khả năng bổ sung, xoá bỏ hoặc điều chỉnh các thông tin trong bộ

nhớ. Thẻ thông minh gắn chip xử lý dữ liệu có khả năng vừa lưu trữ các thông
tin về chủ thẻ, điểm thưởng tích luỹ đồng thời lưu trữ cả số liệu về những lần
giao dịch của chủ thẻ tại ĐVCNT. Tính năng vượt trội này của thẻ thông
minh giúp cắt giảm chi phí xử lý đối với ngân hàng và các trung gian thanh
toán bởi việc đối chiếu thông tin tài khoản và thông tin của chủ thẻ cũng như
việc cập nhật thông tin liên quan tới thẻ giờ đây đã được thực hiện ngay tại
ĐVCNT. Tuy nhiên, do sử dụng công nghệ mới nên giá thành cao, hệ thống
máy chấp nhận thanh toán thẻ này cũng đắt nên sử dụng còn chưa phổ biến
như thẻ từ.
8
 Căn cứ vào tính chất thanh toán có thể chia thành 2 loại chính là
thẻ tín dụng và thẻ ghi nợ.
Thẻ tín dụng (Credit card) là phương tiện TTKDTM cung cấp cho nguời
sử dụng khả năng chi tiêu trước trả tiền sau. Tại thời điểm khách hàng thanh
toán hàng hóa dịch vụ ngân hàng sẽ đứng ra tạm ứng thanh toán cho đơn vị
cung cấp hàng hoá dịch vụ và sau đó sẽ tiến hành thu hồi khoản tiền này từ
khách hàng sau một khoảng thời gian nhất định theo thoả thuận giữa ngân
hàng và chủ thẻ.
Ngân hàng và các tổ chức tài chính phát hành thẻ tín dụng cho khách
hàng dựa trên uy tín và khả năng đảm bảo chi trả của từng khách hàng. Khả
năng đảm bảo chi trả được xác định dựa trên các tiêu chí như: thu nhập, tình
hình chi tiêu, uy tín, mối quan hệ sẵn có với các tổ chức tài chính… của khách
hàng. Khi sử dụng thẻ, thay bằng tiền mặt, chủ thẻ xuất trình thẻ của mình tại
các điểm cung ứng hàng hóa dịch vụ có chấp nhận thẻ để thanh toán.
Ngoài các sản phẩm thẻ tín dụng quốc tế thông thường như Visa, Master
(vàng, chuẩn), để đáp ứng tối đa nhu cầu của khách hàng, các TCTQT còn
đưa ra một sản phẩm thẻ tín dụng đặc biệt phục vụ những khách hàng có thu
nhập rất cao, có khả năng tài chính vững vàng và có mức chi tiêu lớn. Khi sử
dụng thẻ này khách hàng được hưởng một hạn mức tín dụng đặc biệt cao hoặc
không bị chi phối bởi hạn mức tín dụng nhưng chủ thẻ sẽ phải thanh toán toàn

bộ số tiền phát sinh cho ngân hàng vào ngày đến hạn.
Thẻ ghi nợ (debit card): Thẻ ghi nợ cho phép khách hàng tiếp cận với số
dư tài khoản của mình qua hệ thống kết nối trực tuyến để thanh toán hàng hoá
dịch vụ tại các ĐVCNT hoặc thực hiện các giao dịch liên quan tới tài khoản
tại các máy ATM. Mức chi tiêu của chủ thẻ phụ thuộc chủ yếu vào số dư
trong tài khoản. Ngân hàng giữ vai trò cung cấp dịch vụ cho chủ thẻ và thu
phí dịch vụ. Đối với thẻ ghi nợ, giữa ngân hàng và khách hàng không diễn ra
quá trình cho vay tín dụng, không có việc phân loại khách hàng nên mọi
9
khách hàng chỉ cần có tài khoản tại ngân hàng đều có thể tiếp cận với sản
phẩm thẻ ghi nợ của ngân hàng. Chính vì vậy về mức độ có thể thay thể tiền
mặt, thẻ ghi nợ chiếm ưu thế vượt trội so với thẻ tín dụng.
Thẻ ATM là hình thức phát triển đầu tiên của thẻ ghi nợ, cho phép khách
hàng có thẻ tiếp cận trực tiếp tới tài khoản tại ngân hàng từ máy rút tiền tự
động. Chủ thẻ có thể thực hiện nhiều giao dịch khác nhau tại máy ATM bao
gồm: rút tiền, chuyển khoản, xem số dư tài khoản, in sao kê, thanh toán hàng
hóa, dịch vụ Hệ thống ATM hiện đại còn cho phép chủ thẻ gửi tiền vào tài
khoản của mình ngay tại các máy ATM, đổi séc, đổi ngoại tệ…cũng như tự
mình thực hiện nhiều dịch vụ ngân hàng khác. Cùng với thẻ ATM, hệ thống
ATM đã cung cấp cho khách hàng sử dụng thẻ khả năng giao dịch ngoài giờ
làm việc, ngoài trụ sở ngân hàng và khả năng tự phục vụ.
Theo thời gian, các tổ chức thẻ đã chủ động kết nối hệ thống ATM với
nhau tạo nên một mạng ATM khu vực, cho phép khách hàng có thể thực hiện
giao dịch tại nhiều máy ATM hơn. Hiện nay hai hệ thống ATM lớn nhất trên
thế giới là Cirrus của MasterCard và Plus của Visa sẵn sàng cho phép thẻ của
ngân hàng và những tổ chức tín dụng khác kết nối, tạo nên một mạng lưới
rộng khắp toàn cầu.
Ngoài hai loại thẻ tín dụng và thẻ ghi nợ nói trên, một hình thức thẻ ngân
hàng đang ngày càng trở nên phổ biến là thẻ liên kết. Thẻ liên kết là sản phẩm
của một ngân hàng hay tổ chức tài chính kết hợp với một bên thứ ba và thông

thường tên, nhãn hiệu thương mại hoặc logo của bên thứ ba này cũng đồng
thời xuất hiện trên tấm thẻ. Ngoài những đặc điểm sẵn có của thẻ ngân hàng
thông thường, thẻ liên kết có sức hấp dẫn hơn với khách hàng bởi chính
những lợi ích phụ trội do bên thứ ba đem lại. Ví dụ thẻ Visa co-brand do ngân
hàng Standard Chartered và tập đoàn thời trang Espirit phát hành mang lại
cho chủ thẻ những tiện ích phụ trội riêng biệt như được chăm sóc sắc đẹp
10
miễn phí, giảm giá 20% cho tất cả các mặt hàng hiệu Espirit trong 3 tháng đầu
tiên….
 Căn cứ vào phạm vi sử dụng của thẻ có thể chia thành thẻ nội địa
và thẻ quốc tế.
Thẻ nội địa là thẻ do các TCPHT sử dụng thay thế tiền mặt để thanh toán
hàng hoá dịch vụ và rút tiền mặt trong phạm vi quốc gia. Thông thường đó là
thẻ ghi nợ nội địa của các TCPHT sử dụng tại hệ thống máy ATM và mạng
lưới các ĐVCNT của TCPHT và ngân hàng đại lý, ngân hàng liên kết với
TCPHT đó trong một nước.
Thẻ quốc tế là thẻ mang thương hiệu của các tổ chức thẻ quốc tế do các
ngân hàng, tổ chức tín dụng làm đại lý phát hành. Thẻ quốc tế có thể được sử
dụng trên phạm vi trong nước và quốc tế, tại bất kỳ các ĐVCNT hoặc máy
ATM có mang biểu tượng chấp nhận thanh toán thẻ đó. Để phát hành thẻ
quốc tế, ngân hàng phát hành thẻ phải đăng ký và được chấp nhận làm thành
viên của TCTQT, tuân thủ chặt chẽ các quy định trong việc phát hành và
thanh toán thẻ do TCTQT đó ban hành. Có 2 loại thẻ quốc tế là thẻ ghi nợ
quốc tế và thẻ tín dụng quốc tế.
1.1.2 Lịch sử hình thành và phát triển thẻ ngân hàng:
Trong quá trình phát triển của nền kinh tế hàng hóa, tiền tệ đã lần lượt
tồn tại dưới nhiều hình thái khác nhau nhằm đáp ứng cho nhu cầu phát triển
của nền kinh tế đặc biệt là của hoạt động sản xuất, lưu thông, trao đổi hàng
hóa. Chúng ta đã có những dạng tiền tệ: tiền tệ hàng hóa – hóa tệ, hóa tệ phi
kim loại, hóa tệ kim loại, tiền giấy. Tuy nhiên, khi trao đổi hàng hóa diễn ra

trên phạm vi rộng đòi hỏi tốc độ thanh toán nhanh, an toàn thì tiền giấy tỏ ra
cồng kềnh, không an toàn khi vận chuyển và có thể bị làm giả. Bên cạnh đó,
ngày nay do sự phát triển của các tổ chức tín dụng, đặc biệt là hệ thống ngân
hàng, một hình thái tiền tệ mới đã xuất hiện dựa trên những hoạt động của các
tổ chức đó là tiền tín dụng. Phổ biến hơn cả là thẻ ngân hàng. Vậy thẻ ngân
11
hàng ra đời như thế nào?
Thẻ ngân hàng được hình thành tại Mỹ từ thói quen cho khách hàng mua
chịu của các chủ tiệm bán lẻ trên cơ sở uy tín của khách đối với cửa hàng.
Thông thường các chủ tiệm theo dõi khách hàng một cách riêng rẽ, ghi rõ các
khoản mà mỗi khách hàng sẽ phải thanh toán và chấp nhận cho khách hàng
trả tiền sau vì họ tin tưởng vào khả năng thanh toán của người mua. Tuy
nhiên vốn của các cửa hàng thường không đủ lớn, dần dần các chủ tiệm nhận
thấy mình không có đủ khả năng cho khách hàng nợ và trả tiền sau liên tục
như vậy. Chính yếu tố này đã góp phần giúp các tổ chức tài chính hình thành
ý tưởng về sản phẩm thẻ. Với năng lực về tài chính, khả năng quay vòng vốn
và kinh nghiệm kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ tín dụng, các tổ chức ngân
hàng tài chính có đủ khả năng cung cấp cho khách hàng những khoản vay
miễn lãi trong một thời gian nhất định.
Vào những năm 1914, tổ chức chuyển tiền Western Union của Mỹ lần
đầu tiên cung cấp cho các khách hàng đặc biệt của mình dịch vụ thanh toán
trả chậm. Công ty này phát hành những tấm kim loại có chứa các thông tin in
nổi thực hiện hai chức năng: Nhận diện và phân biệt khách hàng; Cung cấp và
cập nhật dữ liệu về khách hàng, bao gồm các thông tin về tài khoản và các
giao dịch thực hiện.
Các tổ chức khác cũng nhận ra giá trị của loại hình dịch vụ nói trên và
chỉ trong một thời gian ngắn sau đó rất nhiều đơn vị như nhà ga, khách sạn
cũng như các cửa hàng trên khắp nước Mỹ đã lựa chọn cung cấp dịch vụ trả
chậm cho khách hàng của mình. Trong số đó, tập đoàn xăng dầu của Mỹ cho
ra đời tấm thẻ mua xăng đầu tiên vào năm 1924 cho phép người dân sử dụng

thẻ này để mua xăng dầu tại các cửa hàng trên toàn quốc.
Tiếp theo các tổ chức cung cấp hàng hóa dịch vụ, các ngân hàng nhanh
chóng bước vào thị trường thẻ với mục tiêu nhanh chóng nhân rộng hình thức
thanh toán này trên cơ sở mối quan hệ sẵn có giữa các đơn vị cung cấp hàng
12
hóa dịch vụ trên cả nước với hệ thống đại lý rộng khắp của ngân hàng. Với
tốc độ phát triển rất nhanh chỉ vài năm sau đó hơn 100 ngân hàng trên nước
Mỹ cùng thực hiện cung cấp dịch vụ thanh toán trả chậm, tiền thân của thẻ tín
dụng sau này.
Như vậy, thẻ ngân hàng ra đời từ nhu cầu thanh toán và phát triển dựa
trên nền tảng công nghệ cũng như chiến lược thay thế tiền mặt trong lưu
thông. Thực tế cho thấy, thẻ ngân hàng là sự phát triển tất yếu trong lĩnh vực
tài chính ngân hàng, đồng thời đã và đang phản ánh sự phát triển của khoa
học công nghệ và văn minh xã hội. Tiếp thu và ứng dụng những thành tựu của
thế giới về khoa học kỹ thuật, nhất là về công nghệ thông tin, hệ thống thẻ
ngày càng hoàn thiện và phát triển. Cùng với mạng lưới thành viên và khách
hàng phát triển hàng ngày, các TCTQT đã xây dựng hệ thống xử lý giao dịch
và trao đổi thông tin toàn cầu về phát hành, thanh toán, cấp phép, tra soát,
khiếu kiện và quản lý rủi ro. Với doanh số giao dịch hàng trăm tỷ USD mỗi
năm, thẻ ngân hàng đang cạnh tranh quyết liệt cùng tiền mặt và séc trong hệ
thống thanh toán toàn cầu. Đây là thành công đáng kể đối với một ngành kinh
doanh mới chỉ có vài thập kỷ hình thành và phát triển.
1.1.3 Quy trình phát hành và thanh toán thẻ
1.1.3.1 Quy trình phát hành
Khách hàng có nhu cầu làm thẻ tới ngân hàng phát hành làm thủ tục theo
quy định của ngân hàng. Ngân hàng xét duyệt, thẩm định các thông tin khách
hàng cung cấp và phân loại khách hàng. Sau đó ngân hàng sẽ tạo và cập nhật
hồ sơ quản lý thẻ, mã hóa các thông tin của khách hàng. Sau thời gian theo
quy định, ngân hàng phát hành giao thẻ và số PIN cho khách hàng, hướng dẫn
cho khách hàng cách sử dụng thẻ và những vấn đề liên quan đến thẻ.

1.1.3.2 Quy trình thanh toán
a. Đối với thẻ tín dụng:
Trên thực tế, quy trình thanh toán thẻ (truyền thống) được diễn ra theo
13
các bước như sau: Khi khách mua hàng có nhu cầu thanh toán bằng thẻ (ví dụ
thẻ VISA), cửa hàng sẽ quẹt thẻ của khách hàng vào thiết bị đọc thẻ (gọi là
EDC - Electronic Data Capture Terminal
*
). EDC đọc các thông tin về thẻ của
khách hàng ghi trên băng từ và kết nối tới ngân hàng của cửa hàng
(Merchant's Bank) thông qua modem, đường điện thoại hoặc ISDN line, gửi
kèm theo yêu cầu về số tiền cần thanh toán, ngân hàng này kiểm tra trong cơ
sở dữ liệu của VISA xem thẻ của khách hàng có phải là thẻ hết hạn hoặc bị
mất cắp hay không, số tiền khách hàng muốn trả có vượt quá hạn mức không,
nếu không, ngân hàng sẽ báo lại ngay trong vài giây về EDC là giao dịch
được phê duyệt, khi đó EDC sẽ in ra một tờ giấy nhỏ ghi rõ số tiền, mã số
giao dịch để khách hàng ký vào đó (Sale Slip). Khách hàng được giữ bản
chính của sale slip, cửa hàng sẽ giữ bản sao và gửi về ngân hàng để nhận tiền
sau này. Nhận được sale slip ngân hàng của cửa hàng sẽ ghi có (credit) ngay
số tiền giao dịch vào tài khoản của cửa hàng đồng thời gửi thông báo qua
mạng của VISA yêu cầu ngân hàng của khách hàng (Cardholder's Bank)
thanh toán số tiền. Ngân hàng của khách hàng sẽ thanh toán tiền cho ngân
hàng của cửa hàng và ghi nợ số tiền vào tài khoản của khách hàng. Chi tiết về
giao dịch sẽ được ghi trong thông báo kế tiếp gửi đến cho khách hàng vào
một thời điểm đã quy định trong hợp đồng giữa khách hàng và ngân hàng
phát hành thẻ. Giả sử có người ăn cắp thẻ, giả mạo chữ ký của khách hàng thì
trong thời hạn nhất định (thường là 2 tuần) khách hàng có thể liên hệ với ngân
hàng của khách hàng để đòi lại tiền. VISA đảm bảo rằng nếu ngân hàng của
khách hàng chứng minh được chữ ký không phải là chữ ký của khách hàng thì
họ sẽ trả lại tiền cho khách hàng. Ngân hàng của cửa hàng sẽ lấy lại tiền từ tài

khoản của cửa hàng. Trường hợp này gọi là Chargeback.
Trường hợp khách hàng thanh toán trực tuyến (online), cửa hàng không
có điều kiện quẹt thẻ của khách hàng, cũng không nhìn thấy khách hàng,
nhưng khách hàng cung cấp tên, ngày hết hạn và số thẻ (16 số in trên mặt
14
trước thẻ) thì họ cũng kiểm tra được tương tự như làm qua EDC. Để bảo vệ
thêm cho cửa hàng, phía sau thẻ có một dãy số dài in trên cùng dải băng nơi
có chữ ký của khách hàng. Đa số các cửa hàng yêu cầu khách hàng cung cấp
3-4 số cuối trong dãy số này, gọi là security code, trước khi nhận thanh toán.
Tuy vậy có thể thấy rằng giao dịch này không hoàn toàn an toàn 100%, một
người có bản photocopy cả 2 mặt thẻ của khách hàng là có thể thanh toán trực
tuyến. Nếu chủ thẻ phát hiện giao dịch không đúng trên thông báo của mình,
hãy đến ngay ngân hàng của mình yêu cầu lấy lại tiền. Nếu chủ thẻ chứng
minh được giao dịch không phải do mình thực hiện (ví dụ, chủ thẻ ở Hàn
Quốc mà giao dịch lại do ai đó thực hiện từ máy tính ở Mỹ) hoặc chủ thẻ
tuyên bố là không nhận được hàng, thì ngân hàng của chủ thẻ có cơ sở để đòi
lại số tiền cho khách hàng. Cuối cùng, chỉ có cửa hàng có thể đã gửi hàng đi
mà không được trả tiền, trường hợp muốn khiếu kiện thì khách hàng lại ở quá
xa, chi phí pháp lý cao. Không ít người đã sử dụng kẽ hở này để thực hiện các
giao dịch không trung thực trên internet. Trên thực tế ở Việt Nam không có
nhiều cửa hàng chấp nhận phương pháp thanh toán này.
(
*
)
EDC chấp nhận thẻ thanh toán bằng cách quẹt thẻ (đối với thẻ từ) hoặc đưa thẻ
vào đầu đọc của máy (đối với thẻ Chip). Các thiết bị EDC được đặt tại địa điểm của
ĐVCNT, lúc đó mỗi điểm đặt EDC được gọi là điểm bán hàng (POS -Point of sale).
b. Đối với thẻ ghi nợ:
Ở một số nước trong phạm vi quốc gia có hệ thống thanh toán liên ngân
hàng, khách hàng có thể dùng thẻ ATM mua hàng ở cửa hàng cũng bằng hình

thức quẹt thẻ. Nhưng thay vì ký tên như thẻ tín dụng, chủ thẻ gõ số PIN vào
một cái máy, ngay lập tức tiền được chuyển từ tài khoản của chủ thẻ vào tài
khoản của cửa hàng, không có cơ hội lấy lại tiền bất kỳ kiểu gì, dù là thẻ bị
đánh cắp. Vì thế đây được coi là giao dịch tương đương với trả tiền mặt.
1.1.4 Những rủi ro trong phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ
Trong kinh doanh, dù ở bất cứ lĩnh vực nào cũng có thể gặp phải rủi ro.
Kinh doanh thẻ cũng không nằm ngoài quy luật đó. Vấn đề quan trọng là các
15
ngân hàng phải nghiên cứu, phân tích, từ đó hạn chế tối đa rủi ro có thể gặp
phải.
Đơn xin phát hành thẻ với thông tin giả mạo:
Do không thẩm định kỹ hồ sơ, ngân hàng phát hành thẻ cho khách hàng
mà không biết rằng thông tin trên đơn xin phát hành là giả mạo. Trường hợp
này sẽ dẫn đến rủi ro tín dụng cho ngân hàng phát hành khi đến hạn thanh
toán chủ thẻ không hoặc không có khả năng thanh toán.
Thẻ giả:
Thẻ do các tổ chức tội phạm làm giả căn cứ vào các thông tin có được từ
các giao dịch thẻ hoặc thông tin từ thẻ mất cắp. Thẻ giả được sử dụng tạo ra
các giao dịch giả mạo, gây tổn thất cho các ngân hàng mà chủ yếu là NHPHT
vì theo quy định của tổ chức thẻ quốc tế, NHPHT chịu hoàn toàn trách nhiệm
với mọi giao dịch giả mạo có mã số của NHPHT. Đây là loại rủi ro nguy hiểm
và khó quản lý vì có liên quan đến nhiều nguồn thông tin và nằm ngoài khả
năng kiểm soát của NHPHT.
Thẻ mất cắp, thất lạc:
Chủ thẻ bị mất cắp, thất lạc thẻ và bị người khác sử dụng trước khi chủ
thẻ kịp thông báo cho NHPHT để có các biện pháp hạn chế sử dụng hoặc thu
hồi thẻ. Thẻ này có thể bị các tổ chức tội phạm lợi dụng để in nổi và mã hoá
lại thẻ để thực hiện các giao dịch giả mạo. Rủi ro này có thể dẫn đến tổn thất
cho cả chủ thẻ và NHPHT, thường chiếm tỷ lệ lớn nhất.
Chủ thẻ không nhận được thẻ do NHPH gửi:

NHPHT gửi thẻ cho chủ thẻ bằng đường bưu điện nhưng thẻ bị thất lạc
hoặc bị đánh cắp trên đường gửi. Thẻ bị sử dụng trong khi chủ thẻ chính thức
lại không hay biết gì về việc thẻ đã được gửi cho mình. Trường hợp này rủi ro
sẽ do NHPHT chịu.
Tài khoản của chủ thẻ bị lợi dụng:
16
Đến kỳ phát hành lại thẻ, NHPHT nhận được thông báo thay đổi địa chỉ
của chủ thẻ. Do không kiểm tra tính xác thực của thông báo, thẻ được gửi về
địa chỉ mới không phải là địa chỉ của chủ thẻ đích thực, dẫn đến tài khoản của
chủ thẻ bị lợi dụng. Việc này sẽ chỉ được phát hiện khi chủ thẻ hỏi NHPHT về
thẻ mới của mình hoặc khi nhận được sao kê thanh toán nợ cho những khoản
mà mình không hề chi tiêu. Rủi ro này chủ thẻ và NHPHT cùng phải chịu.
Thẻ giả mạo để thanh toán qua thư, điện thoại:
ĐVCNT cung cấp dịch vụ, hàng hoá theo yêu cầu của chủ thẻ qua thư
hoặc điện thoại dựa vào các thông tin về chủ thẻ: loại thẻ, số thẻ, ngày hiệu
lực, tên chủ thẻ mà không biết rằng khách hàng đó có thẻ không phải là chủ
thẻ chính thức. Khi giao dịch đó bị NHPHT từ chối thanh toán thì ĐVCNT
phải chịu rủi ro.
Nhân viên CSCNT giả mạo hoá đơn thanh toán thẻ:
Khi thực hiện giao dịch, nhân viên ĐVCNT cố tình in ra nhiều bộ hoá
đơn thanh toán cho một giao dịch nhưng lại đưa cho chủ thẻ ký vào một bộ
hoá đơn. Các hoá đơn còn lại sẽ bị giả mạo chữ ký của chủ thẻ để thu đòi tiền
từ ngân hàng thanh toán.
Rủi ro khác:
+ Rủi ro do khách hàng thiếu trung thực: Khách hàng gian dối cố tình sử
dụng thẻ ở các điểm tiếp nhận thẻ khác nhau với mức thanh toán thấp hơn
mức thanh toán cho phép nhưng tổng hạn mức lại cao hơn hạn mức thanh
toán cho phép. Điều này chỉ được phát hiện khi ngân hàng thanh toán kiểm tra
các hoá đơn do ĐVCNT gửi đến và ngân hàng có thẻ chịu rủi ro khi chủ thẻ
mất khả năng thanh toán.

Chủ thẻ cũng có thể lợi dụng tính chất thanh toán toàn cầu của thẻ để
thông đồng với người khác, giao thẻ cho người đó sử dụng ở các nước khác
nhau bằng chữ ký giả mạo của chủ thẻ và từ chối thanh toán khi bị NHPHT
đòi tiền.
17
+ Rủi ro mà ngân hàng thanh toán phải chịu do không kịp thời cung cấp
danh sách thẻ bị cấm lưu hành cho các ĐVCNT khi các giao dịch đã được
ĐVCNT thực hiện.
1.2 Phát hành và thanh toán thẻ của NHTM trong điều kiện hội
nhập quốc tế về tài chính – ngân hàng
1.2.1 Hội nhập quốc tế về tài chính – ngân hàng và hoạt động phát
hành và thanh toán thẻ
a. Nội dung hội nhập quốc tế về tài chính – ngân hàng:
Kể từ thập kỷ 90 đến nay, Việt Nam đã có những bước tiến hết sức quan
trọng trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế: bình thường hoá quan hệ kinh
tế với tất cả các nước, với IMF, WB, ADB, gia nhập ASEAN, AFTA, APEC,
WTO, ký Hiệp nghị thương mại với Mỹ… Những bước tiến này thể hiện thực
tế ở chỗ tỷ trọng kim ngạch thương mại so với GDP và FDI trong tổng đầu tư
xã hội liên tục tăng trong những năm gần đây, Việt Nam đã trở thành nước
xuất khẩu hàng đầu thế giới về cà phê, tiêu, gạo, hạt điều…
Trong sự vươn lên chung của nền kinh tế về mặt đối ngoại, Ngân hàng là
một lĩnh vực hết sự nhạy cảm và hữu hiệu. Với việc mở cửa thị trường tài
chính, các ngân hàng trong nước được tiếp cận với thị trường tài chính quốc
tế, có điều kiện học hỏi, nâng cao trình độ quản trị, điều hành, phát triển các
sản phẩm dịch vụ mới và kỹ năng kinh doanh, nhất là về các hoạt động nghiệp
vụ mà các ngân hàng trong nước chưa hoặc ít có kinh nghiệm như kinh doanh
ngoại hối, thanh toán quốc tế, tín dụng thương mại quốc tế, dịch vụ ngân hàng
điện tử, quản lý quỹ, môi giới tiền tệ, quản lý rủi ro. Bên cạnh đó, khi các
ngân hàng nước ngoài đầu tư mua cổ phần của ngân hàng trong nước, các
ngân hàng trong nước sẽ có điều kiện thuận lợi để tăng vốn, tiếp thu kiến

thức, kinh nghiệm quản lý và công nghệ hiện đại trong hoạt động ngân hàng
với sự tham gia của các đối tác chiến lược là các ngân hàng có danh tiếng trên
thế giới. Ngoài ra, việc mở cửa thị trường dịch vụ ngân hàng sẽ thúc đẩy
18
NHNN nâng cao năng lực và hiệu quả điều hành, thực thi chính sách tiền tệ,
chia sẻ thông tin với các ngân hàng trung ương khác.
b. Phát hành và thanh toán thẻ của NHTM trong điều kiện hội nhập
quốc tế về tài chính – ngân hàng:
Thanh toán qua ngân hàng là bước quan trọng để hỗ trợ cho các doanh
nghiệp Việt Nam trong quá trình tham gia vào các hoạt động thương mại toàn
cầu. Do đó cần xây dựng một cơ chế thanh toán đặt trong mối quan hệ biện
chứng với mở cửa, hội nhập, chủ động tham gia vào thanh toán thương mại
quốc tế, hợp tác và cạnh tranh quốc tế trên cơ sở phát huy tốt nhất nội lực, chủ
động từng bước tiến hành hiện đại hoá công nghệ, tin học hoá các hoạt động
nghiệp vụ và dịch vụ ngân hàng; từng bước xây dựng được cơ sở kỹ thuật
hiện đại cho việc triển khai các ứng dụng nghiệp vụ và dịch vụ mới. Đổi mới
công nghệ, phát triển các dịch vụ ngân hàng điện tử là một nhu cầu tất yếu
trong xu thế mở cửa, hội nhập với khu vực và quốc tế hiện nay. Và thẻ thanh
toán là một trong những giải pháp hữu hiệu cho các NHTM Việt Nam trong
điều kiện hiện nay.
So với lịch sử phát triển của hoạt động thanh toán thẻ trên thế giới, vốn
được hình thành phát triển từ những năm 20 của thế kỷ trước thì hoạt động
thanh toán thẻ tại Việt Nam hãy còn non trẻ, chỉ với gần 20 năm tuổi. Trong
những năm đầu triển khai, các ngân hàng đi tiên phong về dịch vụ thẻ tại Việt
Nam mới chỉ thực hiện vai trò là đại lý thanh toán thẻ quốc tế cho các ngân
hàng nước ngoài là thành viên của các TCTQT như Visa và MasterCard. Lần
lượt năm 1996 và 1997, một số NHTM của Việt Nam trở thành thành viên
chính thức của các TCTQT MasterCard và Visa, thiết lập hệ thống nối mạng
trực tiếp với các TCTQT đó để song song thực hiện dịch vụ thanh toán và
phát hành thẻ quốc tế. Tuy nhiên, trong giai đoạn này, thị trường Việt Nam

còn sơ khai và phần lớn thẻ thanh toán và các phương tiện TTKDTM chỉ
được sử dụng khi mua sắm hàng hóa dịch vụ ở nước ngoài. Sau năm 2000,
19
trên nền tảng hội nhập quốc tế về tài chính ngân hàng, hệ thống ngân hàng
Việt Nam đã hiện đại hóa về công nghệ, hệ thống ngân hàng “lõi” (core
banking) được các ngân hàng đầu tư nâng cấp, các ngân hàng đã lần lượt triển
khai các ứng dụng cụ thể, trong đó nổi bật lên là khi sản phẩm thẻ nội địa đầu
tiên được phát hành tại Việt Nam. Vietcombank đã triển khai hệ thống giao
dịch ATM dựa trên nền tảng kết nối trực tuyến toàn hệ thống, thị trường thẻ
Việt Nam đã thực sự có bước đột phá quan trọng. Theo sau đó, nhiều ngân
hàng khác cũng đã tích cực đầu tư hệ thống công nghệ phục vụ cho việc phát
triển sản phẩm thẻ ghi nợ nội địa. Nhờ đó, người dân đã bắt đầu biết đến và
làm quen với một phương tiện thanh toán tiện lợi, nhanh gọn, dễ phát hành,
dễ sử dụng hoạt động dựa trên cơ sở tài khoản cá nhân. Kể từ đó đến nay, thị
trường thẻ Việt Nam đã có sự phát triển vượt bậc cả về hoạt động thanh toán
và phát hành thẻ, số lượng các ngân hàng tham gia cung ứng dịch vụ thẻ ngày
càng gia tăng với việc cho ra đời hàng loạt các sản phẩm thẻ hiện đại, nhiều
tính năng, tiện ích đáp ứng yêu cầu của khách hàng.
- Những thuận lợi và cơ hội mở rộng thanh toán quốc tế trong điều kiện
hội nhập:
Với ưu điểm hiện đại, nhanh chóng, an toàn, hiệu quả, việc chấp nhận
thanh toán thẻ đã góp phần tạo môi truờng thu hút khách du lịch và các nhà
đầu tư nước ngoài, cải thiện môi trường văn minh thương mại và văn minh
thanh toán, nâng cao hiểu biết của người dân về các ứng dụng công nghệ tin
học phục vụ đời sống. Hơn nữa thanh toán thẻ tạo điều kiện cho sự hoà nhập
của Việt Nam vào cộng đồng quốc tế và nâng cao hệ số an toàn xã hội trong
lĩnh vực tiền tệ, giúp nhà nước quản lý nền kinh tế cả về vi mô và vĩ mô. Gia
tăng giao dịch thẻ tín dụng không ảnh hưởng đáng kể đến lượng tiền tệ lưu
chuyển trên thị trường nhưng sẽ gia tăng lượng tiền gửi tại các tổ chức tín
dụng. Do vậy có thể đẩy mạnh lượng tiền phái sinh. Theo đó, nâng cao khả

năng thanh khoản cho nền kinh tế của một quốc gia và tăng cường quảng bá
20
cho các hoạt động kinh tế, tạo điều kiện cho việc hội nhập nền kinh tế Việt
Nam với nền kinh tế thế giới. Bên cạnh đó, với tư cách là ngân hàng đại lý
của các ngân hàng có danh tiếng trên thế giới hoặc là thành viên của các
TCTQT, Ngân hàng sẽ có điều kiện thuận lợi để tiếp thu kiến thức, kinh
nghiệm quản lý, công nghệ hiện đại cũng như tranh thủ nguồn tài trợ về tài
chính.
- Những bất cập của thanh toán thẻ Việt Nam trong hội nhập quốc tế về
tài chính – ngân hàng:
Một trong những bất cập lớn nhất của Việt Nam trong việc phát triển
TTKDTM nói chung và thanh toán thẻ nói riêng đó là do một số nguyên
nhân, thẻ tín dụng do các NHTM Việt Nam phát hành - mặc dù đã là thành
viên của TCTQT - ít được chấp nhận thanh toán tại các nước phát triển. Điều
này gây trở ngại cho chủ thẻ cũng như chủ trương phát triển thanh toán thẻ
của Chính phủ Việt Nam và ảnh hưởng lớn đến ngân hàng phát hành về số
lượng giao dịch và doanh thu.
- Các rủi ro trong thanh toán quốc tế của thẻ:
Với xu thế toàn cầu hóa, thẻ thanh toán nói riêng và các phương tiện
TTKDTM đang trở nên phổ biến và ngày càng được nhiều quốc gia khuyến
khích sử dụng. Đi liền với những tiện ích của thanh toán thẻ và thanh toán
điện tử, các vi phạm, tội phạm sử dụng công nghệ cao cũng ngày càng phát
triển và diễn biến phức tạp với nhiều thủ đoạn tinh vi. Hoạt động gian lận, giả
mạo trong thanh toán thẻ, hoạt động trộm cắp thông tin thẻ tín dụng của người
nước ngoài để mua hàng trực tuyến gửi về Việt Nam tiêu thụ kiếm lời do một
số đối tượng người nước ngoài câu kết với đối tượng Việt Nam.v.v…Trong
thời gian tới tội phạm công nghệ cao trên thế giới tiếp tục phát triển và có sự
gắn kết chặt chẽ về quy mô, tính chất, phương thức với tội phạm trong nước,
nếu không có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và
tư pháp với các TCTQT, các NHPHT, NHTTT và ĐVCNT sẽ gây hậu quả

21
nghiêm trọng không chỉ về kinh tế mà còn ảnh hưởng tới uy tín của Việt Nam
trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới và khu vực.
1.2.2 Các thành phần tham gia phát hành và thanh toán thẻ
Hoạt động phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ ngân hàng trong nước có
sự tham gia chặt chẽ của 04 thành phần cơ bản là: tổ chức phát hành thẻ, tổ
chức thanh toán thẻ, chủ thẻ và các đơn vị chấp nhận thẻ. Đối với thẻ quốc tế
còn thêm một thành phần nữa là các tổ chức thẻ quốc tế. Mỗi chủ thể đóng vai
trò quan trọng khác nhau trong việc phát huy tối đa tính năng phương tiện
thanh toán hiện đại không dùng tiền mặt của thẻ ngân hàng.
Tổ chức thẻ quốc tế (TCTQT) là đơn vị đứng đầu quản lý mọi hoạt động
và thanh toán thẻ trong mạng lưới của mình. Đây là hiệp hội các tổ chức tài
chính, tín dụng lớn có mạng lưới hoạt động rộng khắp và đạt được sự nổi
tiếng với thương hiệu và sản phẩm đa dạng như: tổ chức thẻ Visa, tổ chức thẻ
MasterCard, công ty thẻ American Express, công ty thẻ JCB, công ty thẻ
Diners Club TCTQT đưa ra những quy định cơ bản về phát hành, sử dụng
và thanh toán thẻ, đóng vai trò trung gian giữa các tổ chức và các công ty
thành viên trong việc điều chỉnh và cân đối các lượng tiền thanh toán giữa các
công ty thành viên.
Tổ chức phát hành thẻ (TCPHT) là ngân hàng, tổ chức được phép phát
hành thẻ theo quy định (Ở Việt Nam hiện là Quyết định 20 của Ngân hàng
Nhà nước), phát hành thẻ mang thương hiệu riêng hoặc được tổ chức thẻ quốc
tế, công ty thẻ trao quyền phát hành thẻ mang thương hiệu của những tổ chức
và công ty này.
TCPHT quy định các điều khoản, điều kiện sử dụng thẻ đối với khách
hàng. Tổ chức có quyền ký kết hợp đồng đại lý với bên thứ ba là một ngân
hàng hoặc một tổ chức tài chính tín dụng khác trong việc thanh toán và phát
hành thẻ tín dụng. Trong trường hợp này, TCPHT tận dụng được ưu thế của
bên thứ ba về kinh nghiệm, khả năng thâm nhập thị trường và những ưu thế
22

về vị trí địa lý. Tuy nhiên cũng phải chịu chấp nhận rủi ro về tài chính bởi tổ
chức đứng ra bảo lãnh cho bên thứ ba làm đại lý của mình trong việc phát
hành thẻ. Bên thứ ba khi ký kết hợp đồng đại lý với TCPHT được gọi là đại lý
phát hành. Nếu tên của đại lý xuất hiện trên tấm thẻ của khách hàng thì nhất
thiết đại lý đó phải là thành viên chính thức của tổ chức thẻ hoặc công ty thẻ
quốc tế.
Tổ chức thanh toán thẻ (TCTTT) là ngân hàng, tổ chức được phép thực
hiện dịch vụ thanh toán thẻ theo quy định, chấp nhận các loại thẻ như một
phương tiện thanh toán thông qua việc ký kết hợp đồng chấp nhận thẻ với các
điểm cung ứng hàng hoá dịch vụ trên địa bàn. TCTTT sẽ cung cấp cho các
ĐVCNT thiết bị phục vụ cho việc thanh toán thẻ, hướng dẫn đơn vị cách thức
vận hành, chấp nhận thanh toán thẻ cũng như quản lý và xử lý những giao
dịch thẻ tại các đơn vị này. Thông thường TCTTT sẽ thu từ các ĐVCNT một
mức phí chiết khấu cho việc chấp nhận thanh toán thẻ của đơn vị, nó có thể
tính phần trăm trên giá trị mỗi giao dịch hoặc tính theo tổng giá trị giao dịch
thẻ. Mức chiết khấu cao hay thấp phụ thuộc vào từng tổ chức và vào mối quan
hệ chiến lược của tổ chức với ĐVCNT.
Trên thực tế rất nhiều tổ chức vừa là TCPHT vừa là TCTTT. Với tư cách
là TCPHT, khách hàng của họ là chủ thẻ còn với tư cách là TCTTT, khách
hàng là các đơn vị cung ứng hàng hoá dịch vụ có ký kết hợp đồng chấp nhận
thẻ.
Chủ thẻ là những cá nhân hoặc tổ chức được TCPHT cung cấp thẻ để sử
dụng. Theo thông lệ, mỗi chủ thẻ chính có thể phát hành thêm thẻ phụ, cả thẻ
chính và thẻ phụ cùng chi tiêu chung một tài khoản. Chủ thẻ phụ cũng có
trách nhiệm thanh toán các khoản phát sinh trong kỳ nhưng chủ thẻ chính là
người có trách nhiệm thanh toán cuối cùng đối với TCPHT. Chủ thẻ sử dụng
thẻ của mình để thanh toán hàng hoá, dịch vụ tại các đơn vị cung ứng hàng
hoá, dịch vụ có chấp nhận thẻ (ĐVCNT), các điểm ứng tiền mặt thuộc hệ
23
thống các tổ chức phát hành thẻ hoặc sử dụng thẻ để thực hiện các giao dịch

tại máy ATM. Đối với thẻ tín dụng, sau một khoảng thời gian nhất định tuỳ
theo quy định của từng tổ chức phát hành, chủ thẻ sẽ nhận được sao kê
(statement). Sao kê là bảng thông báo chi tiết các giao dịch chi tiêu sử dụng
thẻ của chủ thẻ trong kỳ sao kê, số dư nợ cuối kỳ, ngày đến hạn thanh toán
cũng như số tiền thanh toán tối thiểu mà khách hàng phải thanh toán trong kỳ
cho TCPHT và các thông báo liên quan đến việc sử dụng thẻ. Căn cứ vào các
thông tin trên sao kê, nếu không có gì thắc mắc chủ thẻ sẽ thực hiện việc
thanh toán sao kê cho TCPHT, ngược lại chủ thẻ có quyền khiếu nại đối với
các thông tin, các giao dịch không chính xác hoặc không thực hiện gửi tới
TCPHT yêu cầu được giải đáp.
Đơn vị chấp nhận thẻ (ĐVCNT): Là tổ chức, cá nhân chấp nhận thanh
toán hàng hóa và dịch vụ, cung cấp dịch vụ nạp, rút tiền mặt bằng thẻ. Các
ngành kinh doanh của ĐVCNT trải rộng từ những cửa hiệu bán lẻ đến các nhà
hàng ăn uống, khách sạn, sân bay Tại nhiều nước trên thế giới khi thẻ ngân
hàng đã trở thành một phương thức thanh toán thông dụng, chúng ta có thể
nhìn thấy những biểu trưng của thẻ xuất hiện rộng rãi tại các cửa hàng. Mặc
dù phải trả cho tổ chức thanh toán một tỷ lệ phí chiết khấu nhất định nhưng
bù lại các ĐVCNT thông qua đó thu hút được một khối lượng khách hàng
lớn, bán được nhiều hàng hơn qua đó góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất
kinh doanh cũng như lợi nhuận của đơn vị.
Để trở thành ĐVCNT của một tổ chức nhất thiết đơn vị đó phải có tình
hình tài chính tốt và có năng lực kinh doanh. Cũng như các TCPHT thẩm định
khách hàng trước khi phát hành thẻ, TCTTT cũng tiến hành đánh giá lựa chọn
ĐVCNT. Chỉ có những đơn vị có hiệu quả kinh doanh cao, có khả năng thu
hút được nhiều giao dịch thanh toán thẻ thì tổ chức mới có thể thu hồi được
vốn đầu tư cho các đơn vị đó và có lãi.
1.2.3 Mở rộng phát hành và thanh toán thẻ của NHTM
24
1.2.3.1 Mở rộng phát hành thẻ
Hoạt động phát hành của NHTM bao gồm việc quản lý và triển khai toàn

bộ quá trình phát hành thẻ, sử dụng thẻ và thu nợ khách hàng. Ba quá trình
này có vai trò quan trọng như nhau, có liên quan chặt chẽ đến việc phục vụ
khách hàng và quản lý rủi ro cho ngân hàng. Các TCPHT phải xây dựng các
quy định về việc sử dụng thẻ và thu hồi nợ: số tiền thanh toán tối thiểu, ngày
sao kê, thời gian ân hạn, các loại phí và lãi, hạn mức tín dụng tối đa, tối thiểu,
các chính sách ưu đãi đối với chủ thẻ…
Về cơ bản hoạt động phát hành thẻ gồm các nội dung chính sau đây:
 Tổ chức các hoạt động tiếp thị để đưa sản phẩm vào thị trường
 Thẩm định khách hàng phát hành thẻ
 Cấp hạn mức tín dụng đối với thẻ tín dụng
 Thiết kế và tổ chức mua thẻ trắng
 In nổi, mã hóa thẻ và tạo số PIN cho khách hàng
 Quản lý thông tin khách hàng
 Quản lý hoạt động sử dụng thẻ của khách hàng
 Quản lý tình hình thu nợ của khách hàng
 Cung cấp dịch vụ khách hàng
 Tổ chức thanh toán bù trừ với các tổ chức thẻ quốc tế.
Mở rộng phát hành thẻ là tổ chức triển khai tốt các nội dung trên đây
nhằm phát triển, đa dạng hóa sản phẩm thẻ và đối tượng khách hàng sử dụng
thẻ. Triển khai mở rộng phát hành thẻ, ngoài việc hưởng phí phát hành thẻ thu
được từ chủ thẻ, các ngân hàng phát hành còn được hưởng khoản phí trao đổi
do ngân hàng thanh toán chia sẻ từ phí thanh toán thông qua các TCTQT. Đây
là phần lợi nhuận cơ bản của các TCPHT. Trên cơ sở nguồn thu này, các
TCPHT đưa ra được những chế độ miễn lãi và ưu đãi khác cho khách hàng
nhằm thu hút khách hàng cũng như khuyến khích chi tiêu thẻ.
1.2.3.2 Mở rộng thanh toán thẻ
25
Cùng với phát hành, mở rộng thanh toán thẻ đóng vai trò quyết định đến
sự phát triển của dịch vụ thẻ. Việc mở rộng triển khai hoạt động thanh toán
thẻ của một ngân hàng không chỉ là thu lợi nhuận từ nguồn phí chiết khấu tính

trên giá trị giao dịch thanh toán bằng thẻ từ các ĐVCNT mà còn là mong
muốn cung cấp cho khách hàng một dịch vụ hoàn chỉnh, tạo cơ sở thuận lợi
cho việc sử dụng thẻ. Đối với TCTQT và các thành viên, việc khuyến khích
mở rộng thanh toán thẻ thông qua mở rộng ĐVCNT có ý nghĩa rất quan
trọng.
Thứ nhất, mở rộng thanh toán một loại thẻ nhất định nào đó trên thị
trường, điều đó có nghĩa là chủ thẻ có thể sử dụng thẻ một cách dễ dàng và
thuận tiện hơn. Khi mà nhu cầu học tập, du lịch, giải trí của người dân ngày
càng tăng thì việc phát triển thị trường thanh toán thẻ ra nước ngoài càng trở
nên cấp thiết. Số lượng ĐVCNT lớn, có mặt tại khắp các thị trường tiềm năng
và các ngành hàng kinh doanh đồng nghĩa rằng thẻ ngân hàng được chấp nhận
thanh toán tại nhiều nơi hơn, dễ dàng hơn, thuận tiện hơn và mang lại lợi ích
nhiều hơn cho cả chủ thẻ, các ĐVCNT và sau đó là các ngân hàng phát hành
và thanh toán thẻ.
Thứ hai, không chỉ mở rộng thị trường thanh toán bằng cách ký kết hợp
đồng thanh toán với các ĐVCNT mới, một NHTTT đặc biệt quan tâm tới việc
duy trì mối quan hệ với các ĐVCNT sẵn có, thể hiện trong công tác chăm sóc
khách hàng. Nếu không có những chính sách thích hợp, những dịch vụ hỗ trợ
tốt, tạo điều kiện cho các ĐVCNT có thể chấp nhận thanh toán thẻ một cách
dễ dàng, được ngân hàng báo có đúng cam kết sau khi đã trừ đi tỷ lệ phí chiết
khấu, các ngân hàng khác sẽ tranh thủ cơ hội này để chào những dịch vụ hoàn
hảo hơn tới các ĐVCNT. Như vậy, khách hàng thanh toán thẻ sẽ giảm đi, mục
tiêu thu lợi của các ngân hàng sẽ bị ảnh hưởng sâu sắc.
Hiện nay hoạt động thanh toán thẻ trên thị trường quốc tế đã phát triển ở
mức độ rất cao với trên hàng trăm nghìn ĐVCNT tại hơn 200 quốc gia, chấp

×