Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

Chính sách thuế và ưu đãi đầu tư trong ĐTNN tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (431.81 KB, 31 trang )

Đề tài: chính sách thuế và ưu đãi đầu tư trong ĐTNN tại Việt Nam.
Đầu tư nước ngoài:
- Đầu tư trực tiếp
- Đầu tư gián tiếp
Đề tài là:
“Chính sách thuế” và “ưu đãi đầu tư” trong ĐTNN tại VN
MỞ ĐẦU
Những năm đầu của chặng đường 25 năm thu hút đầu tư nước ngoài chúng ta đã
gặt hái được những thành công đáng kể. Trong bối cảnh đó, Việt Nam đã đưa ra
nhiều biện pháp thay đổi chính sách mở cửa, cải thiện nhanh môi trường thu hút
đầu tư nước ngoài nhằm đối phó với tình trạng sụt giảm của luồng vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài và những diễn biến mới của tiến trình toàn cầu hoá. Việc thay đổi
chính sách tài chính, đặc biệt là chính sách thuế theo hướng tăng quyền lợi cho các
nhà đầu tư đã được Chính phủ Việt Nam thực hiện được xem như là một biện pháp
cấp thiết nhằm tăng sức hấp dẫn cho môi trường Đầu tư. Mặc dù đã đạt được
những kết quả nhất định, nhiều ý kiến cho rằng Việt Nam vẫn chưa tận dụng tối ưu
cơ hội thu hút FDI và chưa tối đa được lợi ích mà đầu tư trực tiếp nước ngoài có
thể mang lại; Việc áp dụng chính sách tài chính trong thu hút Đầu tư trực tiếp nước
ngoài tại Việt Nam, đặc biệt là chính sách thuế còn nhiều hạn chế, vướng mắc và
chưa đạt được như mong muốn. Việc nghiên cứu chính sách tài chính, đặc biệt là
chính sách thuế trong thu hút Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam là rất cần
thiết giúp cho chúng ta trước hết để lý giải những vướng mắc trên, sau góp phần
làm sáng rõ, bổ sung cơ sở khoa học và thực tiễn về chính sách thuế và ưu đãi đầu
tư nhằm tăng cường thu hút Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam.
Vì vậy để có thể thu hút nguồn vốn FDI vào VN ngày càng nhiều thì chúng ta cần
phải có những chính sách thuế ưu đãi phù hợp nhất để nền kinh tế của đất nước
tiếp tục phát triển. Đề tài “Chính sách thuế” và “ưu đãi đầu tư” trong ĐTNN
tại VN của nhóm 3 sẽ nêu rõ những vấn đề trên.
Phần 2:Chính sách thuế và những ưu đãi đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước
ngoài tại việt namChính sách thuế và tác động của nó trong ĐTTTNN tại Việt
Nam.


1.Tổng quan về sự thay đổi chính sách thuế qua một số thời kì :
a) Cải cách thuế bước I (1990-1995):
- Hệ thống thuế Việt Nam về cơ bản bao gồm 12 sắc thuế lớn và một số loại phí,
lệ phí; trong đó, nguồn thu chủ lực là thuế doanh thu, thuế xuất khẩu, thuế nhập
khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế lợi tức.
Cải cách Thuế bước I đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, được nhận định rằng:
Thuế bước đầu đã phát huy vai trò điều tiết vĩ mô nền kinh tế, tạo nguồn thu ngày
càng to lớn cho Ngân sách Nhà nước. Cải cách Thuế bước I đã làm cho thuế có cơ
sở pháp luật vững chắc, áp dụng bình đẳng cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành
phần kinh tế, thay thế hẳn hệ thống thu cũ. Tuy nhiên, vẫn còn những bất cập nhất
định: Chưa bao quát các nguồn thu phát sinh trong nền kinh tế thị trường; hệ thống
chính sách thuế còn chưa phù hợp với thông lệ quốc tế, chưa đảm bảo được tính
tương thích với các nền kinh tế thị trường trong khu vực; các sắc thuế dù đã được
sửa đổi, bổ sung vẫn chưa đạt được mục tiêu đơn giản và rõ ràng.
b) Cải cách thuế bước II (1996-2000):
Mục tiêu của đợt cải cách này là củng cố hiệu lực thu bằng cách tăng cường quản
lý và chống thất thu; xây dựng nền ngân sách dựa vào nội lực; chuẩn bị hội nhập
kinh tế khu vực.
Giai đoạn II của chiến lược cải cách thuế được tiến hành trong bối cảnh tình hình
kinh tế có nhiều thay đổi, lúc này Việt Nam đã bắt đầu tham gia vào các Hiệp định
thương mại quốc tế và song phương. Thực hiện đường lối đổi mới toàn diện của
Đảng, trong đó có chính sách mở cửa hợp tác kinh tế với các nước để góp phần
nâng cao khả năng cạnh tranh, nâng cao năng lực sản xuất, khả năng xuất khẩu và
hiệu quả phát triển kinh tế, Việt Nam bắt đầu tiến hành đàm phán các thỏa thuận
quốc tế về thuế:
Hiệp định tránh đánh thuế hai lần: nhằm loại bỏ việc đánh thuế trùng, bên cạnh
đó, Hiệp định còn tạo khuôn khổ pháp lý cho việc hợp tác và hỗ trợ lẫn nhau giữa
cơ quan thuế Việt Nam và các nước trong công tác quản lý thuế quốc tế nhằm ngăn
ngừa việc trốn lậu thuế đối với các loại thuế đánh vào thu nhập và vào tài sản.
Cam kết về giảm thuế nhập khẩu với ASEAN: đây là thỏa thuận quốc tế cam kết

với ASEAN với nội dung giảm thuế nhập khẩu theo Hiệp định về chương trình ưu
đãi về thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) kể từ khi Việt Nam trở thành thành
viên của ASEAN ngày 28/07/1995.
Các thoả thuận quốc tế khác về thuế: tiếp tục thực hiện chủ trương của Đảng về
mở cửa, hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới, Tổng cục thuế đã nghiên cứu xây
dựng trình Bộ Tài chính và Chính phủ những phương án cam kết giảm thuế với các
tổ chức quốc tế và quốc gia, tiêu biểu là:
- Chương trình hành động của quốc gia (IAP) để thực hiện tự do hoá thương mại
vào năm 2000 với mức thuế nhập khẩu là 0% theo cam kết để trở thành thành viên
của Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC) ngày
14/11/1998.
- Những cam kết ràng buộc các mức thuế nhập khẩu và giảm dần theo hướng mở
cửa thị trường khi gia nhập WTO.
Mức độ cam kết của các thỏa thuận này là khác nhau, nhưng đều có điểm chung
là cắt giảm hàng rào thuế quan để hướng tới mục tiêu tự do hoá thương mại.
Nhìn chung, cải cách Thuế bước II về cơ bản đã đạt được những mục tiêu đề ra ban
đầu. Tuy nhiên, hệ thống chính sách thuế vẫn chưa thực sự phát huy được sức
mạnh của một công cụ quản lý và điều tiết chủ đạo của nhà nước đối với nền kinh
tế. Những nhược điểm chủ yếu tập trung vào mặt kỹ thuật và quy trình quản lý thu
thuế; bên cạnh đó, Việt Nam đang bước những bước chủ động trên hành trình hội
nhập quốc tế, đây chính là tiền đề bắt đầu chặng đường cải cách Thuế bước III.
c) Cải cách Thuế giai đoạn 2001 – 2010 (Cải cách Thuế bước III)
Chương trình cải cách thuế giai đoạn này được thực hiện trong bối cảnh thế giới đi
vào kỷ nguyên công nghệ thông tin, khoảng cách giữa các nước được thu lại gần
nhau hơn trong một thị trường rộng mở, điều này tất yếu có nhiều tác động đến
chính sách thuế của từng nước. Do đó, xu hướng vận động của hệ thống thuế thế
giới buộc chính sách thuế Việt Nam phải cải cách để duy trì sự ổn định. Bên cạnh
đó, những chủ trương của Đảng và Nhà nước hướng đến thiết lập tiến trình công
nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước cũng ảnh hưởng nhiều đến bước cải cách thuế
lần này.

Ngày 06/12/2004 Thủ tướng Chính phủ ra quyết định số 201/2004/QĐ-TTg về
việc phê duyệt chương trình cải cách hệ thống thuế đến năm 2010. Mục tiêu của
cải cách thuế giai đoạn này là: “Xây dựng hệ thống chính sách thuế đồng bộ, có cơ
cấu hợp lý phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, gắn với
hiện đại hoá công tác quản lý thuế nhằm đảm bảo chính sách động viên thu nhập
quốc dân, đảm bảo nguồn lực tài chính phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước; góp phần thực hiện bình đẳng, công bằng xã hội và chủ động
trong hội nhập kinh tế quốc tế”.
Ở giai đoạn này, nền kinh tế đã có những bước phát triển đặc biệt, việc thực hiện
các cam kết quốc tế đa phương và song phương dẫn đến sự cắt giảm đáng kể nguồn
thu từ thuế nhập khẩu, hiện chiếm tỷ trọng khoảng 30% trên tổng số thu về thuế,
nên nội dung cụ thể của cải cách Thuế bước III hướng đến việc sửa đổi các sắc
thuế hiện hành và ban hành những loại thuế mới như thuế thu nhập cá nhân, theo
xu hướng tăng dần tỷ trọng thuế trực thu, tương ứng giảm dần tỷ trọng thuế gián
thu; phù hợp với giai đoạn hội nhập và thực hiện các cam kết quốc tế.
Theo đó, hệ thống chính sách thuế trong giai đoạn này có những bước cải cách như
sau:
Công tác quản lý thuế:
Luật quản lý thuế ra đời, có hiệu lực từ ngày 01/01/2007 (Quốc hội khóa XI, kỳ
họp thứ 10 ngày 29/11/2006) quy định đầy đủ các nội dung của công tác quản lý
thuế, có phạm vi điều chỉnh thống nhất đối với toàn bộ các loại thuế (thuế nội địa
và thuế đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu), các khoản thu khác thuộc ngân
sách nhà nước do cơ quan quản lý thuế quản lý thu theo quy định của pháp luật.
Thuế giá trị gia tăng:
Ban hành Luật thuế giá trị gia tăng ngày 03/06/2008 (số 13/2008/QH12), có hiệu
lực từ ngày 01/01/2009 trên cơ sở thống nhất các văn bản luật trước đây (Luật thuế
giá trị gia tăng năm 1997, Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật thuế giá trị
gia tăng năm 2003, Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật thuế tiêu thụ đặc
biệt và Luật thuế giá trị gia tăng năm 2005) và đưa ra một số quy định mới nhằm
phù hợp với thực tiễn nền kinh tế trong giai đoạn này.

Thuế thu nhập doanh nghiệp:
Luật thuế thu nhập doanh nghiệp số 14/2008/QH12 được ban hành ngày
03/06/2008, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/04/2009 thay thế cho Luật thuế thu
nhập doanh nghiệp năm 2003; có nhiều điểm mới phù hợp với thông lệ quốc tế.
Thuế thu nhập cá nhân:
Luật thuế thu nhập cá nhân số 04/2007/QH12 ra đời ngày 21/11/2007, có hiệu lực
thi hành từ ngày 01/01/2009 bãi bỏ Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu
nhập cao trước đây, tạo khuôn khổ pháp luật vững chắc thực hiện thuế thu nhập cá
nhân.
Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu:
Ban hành Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu số 45/2005/QH11 ngày 14/06/2005,
có hiệu lực từ ngày 01/01/2006, thay thế cho Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
năm 2001 để phù hợp với các cam kết quốc tế về cắt giảm thuế nhập khẩu.
Thuế tiêu thụ đặc biệt:
Luật thuế tiêu thụ đặc biệt số 27/2008/QH12 ngày 14/11/2008, có hiệu lực từ ngày
01/04/2009 được ban hành thay thế cho Luật thuế tiêu thụ đặc biệt năm 1998 và
các văn bản có liên quan, tạo cơ sở pháp lý thống nhất và hoàn thiện hơn để thực
hiện sắc thuế này.
Thuế tài nguyên:
Ban hành Luật thuế tài nguyên số 45/2009/QH12 ngày 25/11/2009, có hiệu lực từ
ngày 01/07/2010, thay thế cho Pháp lệnh thuế tài nguyên trước đây, đây là khuôn
khổ pháp lý vững chắc để thuế tài nguyên được thực hiện.
Như vậy, trong giai đoạn này, chương trình cải cách thuế đến năm 2010 cơ bản
hoàn thành định hướng ban hành những loại thuế mới; và sửa đổi, bổ sung các sắc
thuế chủ yếu hiện hành để phù hợp với giai đoạn hội nhập kinh tế, thực hiện các
cam kết quốc tế hướng đến thương mại tự do thông qua tỷ trọng các loại thuế trực
thu trong tổng thu thuế.

d) Cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2011 – 2020
Ngày 17/05/2011 Thủ tướng Chính phủ ra quyết định số 732/QĐ-TTg về việc phê

duyệt chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2011-2020. Mục tiêu tổng quát
của chiến lược được xác định là: “Xây dựng hệ thống chính sách thuế đồng bộ,
thống nhất, công bằng, hiệu quả, phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa; mức động viên hợp lý nhằm tạo điều kiện thúc đẩy sản
xuất trong nước và là một trong những công cụ quản lý kinh tế vĩ mô có hiệu quả,
hiệu lực của Đảng và Nhà nước. Xây dựng ngành thuế Việt Nam hiện đại, hiệu lực,
hiệu quả; công tác quản lý thuế, phí và lệ phí thống nhất, minh bạch, đơn giản,dễ
hiểu, dễ thực hiện dựa trên ba nền tảng cơ bản: thể chế chính sách thuế minh bạch,
quy trình thủ tục hành chính thuế đơn giản, khoa học phù hợp với thông lệ quốc tế;
nguồn nhân lực có chất lượng, liêm chính; ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại,
có tính liên kết, tích hợp, tự động hóa cao.”
Trong giai đoạn này, có hai sắc thuế mới bắt đầu hiệu lực thi hành từ ngày
01/01/2012:
- Luật thuế sử dụng đất phi nông nghiệp được Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ 7
ngày 17/06/2010 thông qua.
- Luật thuế bảo vệ môi trường được Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ 8 ngày
15/11/2010 thông qua. Đây là loại thuế mới trong hệ thống thuế hiện hành, thay thế
cho việc áp dụng một số loại phí (như phí bảo vệ môi trường đối với nước thải, phí
bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn,…).
Hệ thống chính sách thuế bao gồm các sắc thuế, phí và lệ phí:
(1) Thuế giá trị gia tăng
(2) Thuế tiêu thụ đặc biệt
(3) Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
(4) Thuế thu nhập doanh nghiệp
(5) Thuế thu nhập cá nhân
(6) Thuế tài nguyên
(7) Thuế sử dụng đất nông nghiệp
(8) Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp
(9) Thuế bảo vệ môi trường
(10) Các khoản phí và lệ phí

Yêu cầu cụ thể về cải cách thuế giai đoạn 2011-2020:
- Ban hành mới Luật phí, lệ phí thay thế cho Pháp lệnh phí, lệ phí hiện hành;
chuyển thuế môn bài thành một khoản thu lệ phí quản lý hoạt động kinh doanh
hàng năm.
- Hoàn thiện các chế độ, chính sách thu ngân sách nhà nước từ tài nguyên, khoáng
sản quốc gia như: thu tiền sử dụng đất, thu tiền thuê đất, thu đấu giá quyền khai
thác khoáng sản từ thu dầu khí.
- Sửa đổi bổ sung Luật quản lý thuế và các văn bản hướng dẫn thi hành luật.
- Cải cách theo nội dung cụ thể đối với từng sắc thuế như: Thuế giá trị gia tăng,
thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, thuế thu nhập doanh nghiệp,
thuế thu nhập cá nhân, thuế tài nguyên, thuế sử dụng đất nông nghiệp, thuế sử
dụng đất phi nông nghiệp, thuế bảo vệ môi trường, các khoản thu từ đất, các khoản
thu từ thăm dò, khai thác và sử dụng tài nguyên, phí, lệ phí.
Sau trên hai mươi năm thực hiện cải cách, trải qua nhiều lần điều chỉnh, sửa đổi và
bổ sung để phù hợp với tình hình phát triển kinh tế, đến nay, các luật thuế nhìn
chung đã phát huy cao tác dụng. Trong chủ trương hoàn thiện hệ thống pháp luật
của Việt Nam, ngành thuế vẫn tiếp tục hành trình cải cách để xây dựng hệ thống
thuế khóa Việt Nam theo hướng hiện đại và phù hợp với thông lệ quốc tế.
2/ Thực trạng của chính sách ưu đãi thuế đối với thu hút vốn FDI:
2.1 Vai trò của chính sách ưu đãi thuế trong thu hút FDI
Ưu đãi đầu tư là một công cụ chính sách nhằm thu hút đầu tư hoặc định hướng đầu
tư theo những mục tiêu phát triển nhất định, đang được áp dụng tương đối phổ biến
trên thế giới, đặc biệt là ở các nước đang phát triển.
Tác động kích thích của các ưu đãi thuế vừa mang tính chất như giảm nhẹ gánh
nặng thuế, vừa mang tính chất áp dụng các mức thuế suất phân biệt.
Chính sách thuế có tác dụng rất quan trọng trong việc khuyến khích các thành phần
kinh tế phát triển. Thuế là một trong những yếu tố quan trọng tạo ra môi trường
đầu tư.
2.2 Các loại ưu đãi thuế để thu hút FDI
- Miễn thuế TNDN đối với việc chuyển nhượng vốn

- Miễn, giảm thuế đối với thuế thu nhập doanh nghiệp
- Miễn, giảm các loại thuế thu nhập khác
- Miễn hoặc giảm thuế hàng tư liệu sản xuất nhập khẩu (vốn)
- Miễn thuế đối với việc chuyển nhượng bản quyền
- Miễn hoặc giảm thu được do chiếm giữ lợi tức thu được từ các khoản vay nước
ngoài
- Miễn các loại thuế và chi phí khác
Tùy theo phạm vi sử dụng rộng hay hẹp, có thể chia các loại ưu đãi thuế thành hai
nhóm khác nhau: mang tính chất ngành và mang tính chất cá biệt.
2.2.1Thuế thu nhập doanh nghiệp
Câu chuyện sửa đổi Luật Thuế TNDN, tất nhiên phải bắt đầu từ việc giảm dần thuế
suất thuế TNDN, mà theo đề xuất của Bộ Tài chính, là có thể theo hai hướng: giảm
xuống 20% hoặc 22-23%, từ mức 25% hiện hành. Giảm thuế suất thuế TNDN là
để vừa tạo thuận lợi cho DN phát triển sản xuất - kinh doanh, vừa tăng năng lực
cạnh tranh của Việt Nam.
Thực tế, không chỉ cộng đồng DN trong nước, mà các nhà đầu tư nước ngoài cũng
rất quan tâm tới lộ trình giảm thuế TNDN. Chính sách thuế ở quốc gia nhận đầu tư
có tác động rất lớn tới việc ra quyết định đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài. Bởi
thế, giảm thuế TNDN cũng là một trong những động thái được cho là sẽ tác động
tích cực tới thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tại Việt Nam, nhất là khi Việt
Nam đang phải cạnh tranh quyết liệt với Thái Lan, Indonesia, Myanmar Để
không mất lợi thế, theo khuyến nghị của các nhà đầu tư, mức giảm thuế TNDN nên
được dựa trên việc xem xét cả mức giảm thuế của các quốc gia khác trong khu vực.
Cùng với việc giảm thuế TNDN, một vấn đề các được các nhà đầu tư quan tâm. Đó
là mức khống chế đối với chi phí quảng cáo và khuyến mãi của các doanh nghiệp
FDI. Điều mà các nhà đầu tư trông chờ, là Việt Nam công bố một lộ trình cụ thể
việc bãi bỏ hoàn toàn quy định mức khống chế này. Nếu tiếp tục trì hoãn, có thể
cũng sẽ ảnh hưởng đến khả năng thu hút đầu tư của Việt Nam, cũng như niềm tin
của nhà đầu tư.
Nhưng giảm thuế suất thuế TNDN, hay bãi bỏ các quy định về hạn chế chi phí

quảng cáo, khuyến mãi là một chuyện, điều mà cộng đồng DN và các nhà đầu tư
trông chờ còn ở việc các chính sách thuế phải được quy định một cách minh bạch,
rõ ràng và ổn định.
Thực tế cho thấy, đã có không ít trường hợp, ưu đãi thuế ghi trên giấy chứng nhận
đầu tư một kiểu, áp dụng lại là một kiểu khác. Đành rằng vẫn có những trường hợp
vì địa phương cấp ưu đãi vượt khung, hay thậm chí là, đó là những ưu đãi có điều
kiện, nên hậu kiểm, DN không được hưởng những ưu đãi đã ghi trên giấy chứng
nhận đầu tư, song việc “chiết giảm” mức ưu đãi về thuế của DN không phải không
có. Trong trường hợp này, nhà đầu tư đòi hỏi quyền “được bảo vệ” và đó là những
đòi hỏi chính đáng.
Tương tự, những khuyến nghị về việc phải cho các dự án đầu tư mở rộng cũng
được hưởng ưu đãi đầu tư, hay đầu tư trong các khu công nghiệp cũng được ưu đãi
đầu tư… đã được đề cập. Việc Việt Nam cắt giảm các ưu đãi này đã ảnh hưởng
khá lớn tới hoạt động của các DN, cũng như tình hình thu hút đầu tư FDI.
Luật Thuế TNDN Việt Nam đang được xem xét sửa đổi và theo chương trình xây
dựng luật, thì nó có thể được thông qua trong năm 2013. Và đây là điều mà cộng
đồng DN và các nhà đầu tư mong chờ, làm sao để Việt Nam có một chính sách
thuế minh bạch, vẫn đảm bảo thu ngân sách nhà nước, nhưng đồng thời cũng tạo
điều kiện thúc đẩy hoạt động sản xuất - kinh doanh và đầu tư, cũng như tăng năng
lực cạnh tranh cho Việt Nam.
Có thể là hơi sớm để nói điều này, nhưng khi Luật đã được thông qua, thì cũng cần
sớm có nghị định và thông tư hướng dẫn một cách đầy đủ, rõ ràng, minh bạch và
dễ hiểu, để Luật được triển khai trong thực tế mà không gặp phải những vướng
mắc, bất cập khiến phải bổ sung các văn bản có cấp hiệu lực thấp hơn.
(Theo Báo Đầu tư Online)
2.2.2Thuế xuất khẩu, nhập khẩu
Mức thuế suất ưu đãi:
- Luật thuế XK, thuế NK năm 1991: mức thuế suất ưu đãi theo từng mặt hàng
không thấp hơn quá 50% so với thuế suất thông thường của từng mặt hàng. Mức
này được tăng lên thành 70% theo Nghị định số 110-HĐBT ngày 31-3-1992.

- Đến Luật thuế XK, NK số 04/1998/QH10 ngày 20/5/1998 quy định thuế suất
thông thường được áp dụng không quá 150% - 170% thuế suất ưu đãi và theo Luật
Thuế XK, Thuế NK số 45/2005/QH11 ngày 14 tháng 6 năm 2005, áp dụng mức
thuế suất thông thường bằng 150% thuế suất ưu đãi.
Ban hành Biểu thuế xuất khẩu, Biểu thuế nhập khẩu 2014
Triển khai thực hiện cam kết WTO năm 2014, Chỉ thị số 09/CT-TTg của Thủ
tướng Chính phủ về việc tăng cường chỉ đạo điều hành thực hiện nhiệm vụ tài
chính ngân sách năm 2013 và kết luận của Thủ tướng Chính phủ tại Thông báo
302/TB-VPCP của Văn phòng Chính phủ và sau khi trao đổi với các Bộ ngành,
Hiệp hội có liên quan, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 164/2013/TT-BTC
ngày 15/11/2013 ban hành Biểu thuế xuất khẩu, Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi theo
danh mục mặt hàng chịu thuế, với hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2014.
Về Biểu thuế xuất khẩu, nhằm tạo điều kiện thuận lợi trong việc thực hiện cho
cả người nộp thuế và cơ quan hải quan, Biểu thuế xuất khẩu năm 2014 đã được
điều chỉnh về danh mục hàng hoá chịu thuế xuất khẩu cho phù hợp với danh mục
hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu của Việt Nam và sửa đổi mức thuế suất thuế xuất
khẩu đối với một số nhóm mặt hàng. Cụ thể:
Đối với về danh mục biểu thuế xuất khẩu, danh mục Biểu thuế xuất khẩu đã
được chi tiết mã hàng hoá của các nhóm mặt hàng đến cấp độ 8 số. Đối với những
nhóm hàng đã được định danh như trong Biểu nhập khẩu thì được ghi mã hàng và
tên mô tả hàng hoá giống như trong Biểu nhập khẩu. Đối với những mặt hàng chưa
được định danh trong Biểu thuế nhập khẩu thì tuỳ tính chất mặt hàng, quy tắc phân
loại hàng hoá mà được chi tiết tên riêng và áp mã hàng theo mã hàng của Biểu
thuế nhập khẩu.
Về thuế suất thuế xuất khẩu: Thuế suất thuế xuất khẩu có sự thay đổi đối với
một số nhóm hàng (vàng, cao su, sản phẩm chế biến từ tinh quặng titan ) cho phù
hợp với tình hình thực tế phát triển kinh tế, xã hội của trong nước và bối cảnh kinh
tế quốc tế.
Về Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi, thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi áp dụng từ ngày
01/01/2014 có thay đổi so với thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi 2013 như: điều

chỉnh giảm thuế suất thuế nhập khẩu của một số dòng thuế cho phù hợp với cam
kết WTO năm 2014 và sửa đổi bất hợp lý về thuế suất thuế nhập khẩu giữa sản
phẩm nguyên chiếc với vật tư, linh kiện nhập khẩu để sản xuất, lắp ráp các sản
phẩm nguyên chiếc; Đồng thời cũng điều chỉnh tăng thuế suất thuế nhập khẩu ưu
đãi của một số dòng thuế theo Chỉ thị số 09/CT-TTg nhằm khuyến khích sản xuất
và tăng sức cạnh tranh của sản phẩm sản xuất trong nước
2.2.3 Thuế thu nhập cá nhân
(Tài chính) Năm 2013 là năm có nhiều chính sách thuế sửa đổi, bổ sung
trong đó có chính sách thuế Thu nhập cá nhân (TNCN). Nhằm hỗ trợ cho người
nộp thuế quyết toán thuế TNCN năm 2013,Tổng cục Thuế lưu ý người dân một số
vấn đề như sau:
Áp dụng quyết toán thuế theo 02 chính sách cũ và mới đã sửa đổi bổ
sung.Chính sách cũ áp dụng cho 06 tháng đầu năm 2013 gồm những quy định tại
Luật thuế TNCN năm 2007; Nghị định số 100/2008/NĐ-CP ngày 08/09/2008 và
các Thông tư của Bộ Tài chính như Thông tư số 84/2008/TT-BTC ngày 30/9/2008;
Thông tư số 62/2009/TT-BTC ngày 27/03/2009;…
Chính sách mới áp dụng cho 06 tháng cuối năm 2013 gồm: Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật thuế TNCN; Nghị định số 65/2013/NĐ-CP ngày
27/06/2013; Thông tư số 111/2013/TT-BTC ngày 15/08/2013 và một số văn bản
hướng dẫn của Bộ Tài chính, Tổng cục Thuế.Đối tượng quyết toán thuế là các tổ
chức, cá nhân chi trả thu nhập, cá nhân nộp thuế trực tiếp với cơ quan thuế thuộc
diện quyết toán thuế. Công văn hướng dẫn rõ phải quyết toán thuế TNCN trong
trường hợp tổ chức cá nhân chi trả thu nhập chia tách, hợp nhất, sát nhập, chuyển
đổi, giải thể, phá sản theo quy định của Luật Doanh nghiệp; Cá nhân cư trú có thu
nhập từ tiền lương, tiền công thu nhập từ kinh doanh; Thu nhập từ hoạt động xổ số,
đại lý bảo hiểm, bán hàng đa cấp thuộc diện quyết thuế TNCN thì phải quyết toán
thuế theo quy định.Ngoài ra, hướng dẫn quyết thuế TNCN lần này có đề cập đến cá
nhân có thu nhập từ chuyển nhượng chứng khoán.Về ủy quyền quyết toán thuế
TNCN năm 2013, cơ bản không có khác so hướng dẫn của những năm trước đây.
Riêng năm 2013 có trường hợp cá nhân có hợp động lao động từ 03 tháng trở lên,

có thu nhập từ tiền lương tiền công nếu có thu nhập vãng lai đã nộp thuế 10% hay
20% mà bình quân khoản thu nhập vãng lai theo tháng không quá 10 triệu đồng
nếu không có yêu cầu quyết toán thuế đối với thu nhập vãng lai thì được ủy quyền
quyết thuế thay cho tổ chức cá nhân chi trả thu nhập ký hợp động lao động từ 03
tháng trở lên.
Tương tự như đã nêu trên nếu có thu nhập từ cho thuê nhà, cho thuê quyền
sử dụng đất có doanh thu bình quân không quá 20 triệu đồng/ tháng nếu không có
yêu cầu quyết toán thuế đối với thu nhập cho thuê nhà, cho thuê quyền sử dụng đất
thì cũng được ủy quyền quyết toán thuế.
( Theo khanhhoa.gdt.gov.vn)
2.2.4 Thuế giá trị gia tăng
- Thuế suất thuế GTGT qua các lần điều chỉnh đã bổ sung thêm các mặt hàng áp
dụng mức thuế suất 0%.
- Mức thuế suất từ 5% - 20% giảm xuống thành 5-10% và có điều chỉnh danh sách
các mặt hàng chịu mức thuế suất trên.
Đối tượng không chịu thuế GTGT Theo Luật thuế GTGT năm 1997 quy định bao
gồm 27 nhóm hàng hóa, dịch vụ tăng lên thành 28 nhóm hàng hóa, dịch vụ (năm
2003). Luật thuế GTGT năm 2008 đã thu hẹp đối tượng không chịu thuế GTGT từ
28 nhóm hàng xuống còn 25 nhóm hàng.
-Từ ngày 01/01/2014, hộ cá nhân kinh doanh thuộc đối tượng áp dụng thuế GTGT
theo phương pháp trực tiếp - không thuộc đối tượng áp dụng phương pháp khấu
trừ, kể cả trường hợp có doanh thu hàng năm trên 1 tỷ.
Đây là nội dung sửa đổi có tính chất căn bản của Luật thuế GTGT lần này làm cho
Luật thuế GTGT của Việt Nam theo đúng chuẩn mực của thông lệ quốc tế.
Thực hiện giảm 50% mức thuế suất thuế GTGT từ ngày 01/7/2013 đến hết ngày
30/6/2014 đối với bán, cho thuê, cho thuê mua nhà ở thương mại là căn hộ hoàn
thiện có diện tích sàn dưới 70 m2 và có giá bán dưới 15 triệu đồng/m2.
- Luật có hiệu lực thi hành từ 1/1/2014. Quy định về áp dụng thuế suất 5% đối với
bán, cho thuê, cho thuê mua nhà ở xã hội theo quy định của Luật nhà ở thực hiện
từ 1/7/2013.

( T.Tr)
2.2.5 Thuế tiêu thụ đặc biệt
Thuế suất có xu hướng tăng đối với những mặt hàng nhà nước không khuyến khích
sản xuất và tiêu dùng như thuốc hút, rượu, bài lá, vàng mã.
Qua các lần điều chỉnh đã thay đổi danh mục những mặt hàng chịu thuế TTĐB
theo hướng các mặt hàng có giá trị cao, phục vụ tiêu dùng cá nhân, và kinh doanh
ngành dịch vụ với mức thuế suất từ 20-70% thành 15-70%.
Thuế TTĐB áp dụng thống nhất đối với hàng hoá nhập khẩu và hàng hoá sản xuất
trong nước. Không thu thuế TTĐB đối với hàng hoá xuất nhập khẩu. Đây là một
bước tiến của hệ thống thuế nước ta trong việc thực hiện nguyên tắc đối sử quốc
gia đã cam kết khi tham gia vào các tổ chức quốc tế. Thuế suất được điều chỉnh
giảm so với trước đây để phù hợp và đồng bộ với Luật thuế GTGT và Luật thuế
XK, thuế NK khi thực hiện chương trình cắt giảm thuế quan.
2.2.6 Thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài (CLNRNN)
Mức thuế suất thuế CLNRNN là 5-10% ban đầu, qua các lần điều chỉnh và hiện
tại Luật thuế CLNRNN đã quy định tất cả các trường hợp CLNRNN đều không
phải nộp thuế CLNRNN.
- Căn cứ Thông tư số 186/2010/TT-BTC ngày 18/11/2010 của Bộ Tài chính hướng
dẫn thực hiện việc chuyển lợi nhuận ra nước ngoài của các tổ chức, cá nhân nước
ngoài có lợi nhuận từ việc đầu tư trực tiếp tại Việt Nam theo quy định của Luật
Đầu tư:
+ Tại khoản 1 Điều 4 quy định : “Chuyển lợi nhuận ra nước ngoài hàng năm.
Nhà đầu tư nước ngoài được chuyển lợi nhuận ra nước ngoài hàng năm số lợi
nhuận được chia hoặc thu được từ các hoạt động đầu tư trực tiếp tại Việt Nam ra
nước ngoài khi kết thúc năm tài chính, sau khi doanh nghiệp mà nhà đầu tư nước
ngoài tham gia đầu tư đã hoàn thành nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước Việt
Nam theo quy định của pháp luật, đã nộp báo cáo tài chính đã được kiểm toán và
tờ khai quyết toán thuế thu nhập doanh nghiệp năm tài chính cho cơ quan quản lý
thuế trực tiếp”.
+ Tại khoản 3 Điều 4 quy định : “Trách nhiệm của doanh nghiệp nơi nhà đầu tư

nước ngoài tham gia đầu tư vốn:
Doanh nghiệp nơi nhà đầu tư nước ngoài tham gia đầu tư vốn có trách nhiệm thực
hiện đầy đủ nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước Việt Nam theo quy định của pháp
luật liên quan đến thu nhập hình thành nên khoản lợi nhuận mà nhà đầu tư nước
ngoài chuyển ra nước ngoài"
+ Tại Điều 5 quy định : " Thông báo chuyển lợi nhuận ra nước ngoài:
Nhà đầu tư nước ngoài trực tiếp hoặc uỷ quyền cho doanh nghiệp mà nhà đầu tư
nước ngoài tham gia đầu tư thực hiện thông báo việc chuyển lợi nhuận ra nước
ngoài theo mẫu ban hành kèm theo Thông tư này gửi cho cơ quan thuế trực tiếp
quản lý doanh nghiệp mà nhà đầu tư nước ngoài tham gia đầu tư, trước khi thực
hiện chuyển lợi nhuận ra nước ngoài ít nhất là 07 ngày làm việc.”
- Căn cứ khoản 1 Mục II Phần B Thông tư số 84/2008/TT-BTC ngày 30/9/2008
của Bộ Tài Chính hướng dẫn về thuế TNCN:
“Căn cứ tính thuế đối với thu nhập từ đầu tư vốn là thu nhập tính thuế và thuế suất.
1.1. Thu nhập tính thuế
Thu nhập tính thuế từ đầu tư vốn là thu nhập chịu thuế mà cá nhân nhận được theo
hướng dẫn tại khoản 3 mục II phần A Thông tư này.
1.2. Thuế suất đối với thu nhập từ đầu tư vốn áp dụng theo biểu thuế toàn phần với
thuế suất là 5%.
1.3. Thời điểm xác định thu nhập tính thuế
Thời điểm xác định thu nhập tính thuế đối với thu nhập từ đầu tư vốn là thời điểm
tổ chức, cá nhân trả thu nhập cho đối tượng nộp thuế.
Trường hợp cá nhân nhận được thu nhập do việc đầu tư vốn ra nước ngoài dưới
mọi hình thức thì thời điểm xác định thu nhập tính thuế là thời điểm cá nhân nhận
thu nhập.
1.4. Cách tính thuế
Số thuế thu nhập
cá nhân phải nộp
=
Thu nhập

tính thuế
x
Thuế suất
5%
.”
Trường hợp Công ty có nhà đầu tư là doanh nghiệp nước ngoài tham gia đầu tư
vốn thì Công ty (nếu được ủy quyền) lập thông báo theo mẫu quy định gửi cơ quan
thuế về việc chuyển lợi nhuận ra nước ngoài cho nhà đầu tư ra nước ngoài sau khi
đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước Việt Nam theo quy định
của pháp luật.
Trường hợp Công ty chia lợi nhuận cho nhà đầu tư là cá nhân Ông Nguyễn Trường
Sơn thì Công ty phải tính khấu trừ, kê khai và nộp thuế TNCN từ đầu tư vốn theo
thuế suất 5% trên lợi nhuận được chia theo quy định nêu trên.
Cục Thuế TP thông báo Công ty biết để thực hiện theo đúng quy định tại các văn
bản quy phạm pháp luật đã được trích dẫn tại văn bản này.
2.2.7 Điều chỉnh chính sách ưu đãi thuế tại các địa phương
Quá trình điều chỉnh chính sách ưu đãi thuế trong thu hút FDI vào Việt Nam giai
đoạn từ 1997 – 2011 được thực hiện khá linh hoạt, thể hiện qua việc thực hiện giữa
các địa phương. Mỗi địa phương với cơ chế quản lý thuế khác nhau sẽ áp dụng
chính sách ưu đãi thuế khác nhau nhằm thu hút FDI vào địa phương mình, cạnh
tranh với những địa phương khác
*Doanh nghiệp sẽ tiếp tục được thụ hưởng nhiều chính sách ưu đãi thuế
Giới thiệu đến bạn bè quốc tế xu hướng cải cách nền kinh tế, tài chính của Việt
Nam, đặc biệt là cải cách hệ thống chính sách thuế, quản lý thuế nhằm tạo thuận
lợi cho doanh nghiệp, ưu đãi thu hút đầu tư … là một nội dung quan trọng tại Hội
nghị thường niên AOTCA đang diễn ra tại Hà Nội.
So sánh ưu đãi đầu tư của Việt Nam với một số nước khác từ, bà Nguyễn Thị Cúc,
Chủ tịch VCTA cho rằng, chúng ta đang có nhiều chính sách ưu đãi cho doanh
nghiệp hơn. Chẳng hạn, thuế thu nhập doanh nghiệp của Malaixia là 25%, Việt
Nam hiện nay là 25% nhưng đầu năm 2014 xuống còn 22%, và ngoài ra còn có ưu

đãi miễn thuế, giảm thuế và áp dụng thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp 10%
trong suốt quá trình hoạt động.
Theo ông Nguyễn Văn Nam, thành viên điều hành của VCTA, bên cạnh các nhân
tố như thị trường và nền kinh tế phát triển mạnh với hơn 90 triệu người tiêu dùng
có thu nhập tăng đều đặn; lực lượng lao động trẻ chi phí thấp, có trình độ cao; tài
nguyên thiên nhiên phong phú…thì các chính sách ưu đãi thuế là một trong những
nhân tố để thu hút nhà đầu tư nước ngoài tới Việt Nam.
Giới thiệu đến hội nghị những chính sách mới về ưu đãi thuế tại Việt Nam, ông
Nam cũng cho biết, từ ngày 1/1/2014, DN trong nước và nước ngoài sẽ thụ hưởng
nhiều chính sách ưu đãi thuế. Quốc hội Việt Nam đã thông qua Luật Thuế thu nhập
doanh nghiệp sửa đổi số 32/2013/QH13, có hiệu lực từ ngày 1/1/2014, trong đó bổ
sung nhiều quy định nhằm tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, thu hút và khuyến khích
đầu tư.
Chẳng hạn, giảm nghĩa vụ thuế cho DN, mức thuế suất phổ thông là 22% từ
1/1/2014 và tiếp tục xuống 20% từ 1/1/2016. Đồng thời mở rộng diện ưu đãi thuế
và điều chỉnh miễn giảm, ưu đãi thuế nhất là đối với lĩnh vực nông nghiệp – nông
dân – nông thôn, lĩnh vực xã hội hóa, lĩnh vực hoạt động không vì mục đích lợi
nhuận, các địa bàn có điều kiện KT-XH khó khăn, bổ sung ưu đãi đối với đầu tư
mở rộng, ưu đãi thuế với khu công nghiệp.
Chi phí để tính thuế thu nhập DN cũng được nới rộng hơn. Ví dụ chi phí tuyên
truyền, quảng cáo, chương trình khuyến mại, trước đây DN mới thành lập được
15% trong 3 năm còn tất cả các đối tượng DN khác là 10%, nhưng hiện nay tất cả
đều được tính là 15% không có khống chế 3 năm.
Ngoài ra, hiện nay Việt Nam cũng đã phê duyệt chiến lược cải cách hệ thống thuế
giai đoạn 2011-2020, với mục tiêu đẩy mạnh đơn giản hóa thủ tục hành chính thuế,
tạo thuận lợi cho người nộp thuế, chuẩn hóa quy trình quản lý thuế trên cơ sở ứng
dụng công nghệ thông tin đảm bảo tính thống nhất, liên kết cao chống các hành vi
chuyển giá, gian lận thuế…
Đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng vai trò quan trọng trong sự thành công của nền
kinh tế Việt Nam trong hai thập kỷ qua. Vì thế chính phủ ngày càng nhận thức

được tầm quan trọng của nhân tố này và ban hành nhiều ưu đãi hấp dẫn cho nhà
đầu tư nước ngoài – ông Nam nhấn mạnh.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam có 15.100 dự án với
tổng số vốn đăng ký là 220 tỷ USD, đã giải ngân 107 tỷ USD.
Tỷ trọng đóng góp vào GDP của khu vực FDI tăng dần và bổ
sung nguồn vốn quan trọng cho nền kinh tế (hiện chiếm 25%
tổng vốn đầu tư xã hội); đóng góp đáng kể vào nguồn thu
ngân sách (năm 2012 đóng góp khoảng 3,7 tỷ USD). (Nguồn
Bộ Kế hoạch và Đầu tư)

( TrungNinh)
( thoibaotaichinhvietnam.vn)
1.3. Chính sách ưu đãi thuế của một số nước và bài học cho Việt Nam:
1.3.1. Trung Quốc :
Nhằm thu hút đầu tư nước ngoài, Trung Quốc đã đề ra nhiều chính sách ưu đãi
thuế và luật pháp hoá chúng: Ưu đãi về kỳ hạn kinh doanh; Ưu đãi đối với khu vực
đầu tư; Đãi ngộ dành cho hành vi tái đầu tư; Ưu đãi cho người đầu tư nước ngoài
Biện pháp miễn, giảm hoặc hoàn trả thuế doanh thu cũng được chính phủ áp dụng
để khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào ngành, vùng ưu tiên. Trọng tâm cải
cách về thuế được tập trung ở một số điểm:
- Thực hiện một chính sách thuế thống nhất đối với mọi thành phần kinh tế nhằm
đảm bảo sự bình đẳng về thuế, thuế đánh không phân biệt giữa các doanh nghiệp
trong nước và doanh nghiệp có vốn FDI
- Thay thế thuế doanh nghiệp bằng thuế giá trị gia tăng và đơn giản hoá cơ cấu
thuế suất
- Giảm thuế thu nhập đánh vào doanh nghiệp để kích thích sản xuất kinh doanh
phát triển, mở rộng diện thu thuế thu nhập cá nhân v.v…
Thuế quan: từ 1979 đến nay, Trung Quốc đã tiến hành giảm thuế quan 8 lần để tạo
môi trường thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài. Tỷ lệ thuế quan hiện nay ở
Trung Quốc là 16,5%.

Điều chỉnh Luật đầu tư từ dựa vào luật pháp trong nước là chủ yếu sang dựa vào
luật pháp và qui định của thế giới.
=>Kinh nghiệm vừa qua cho thấy thủ tục pháp lý phiền hà, chồng chéo là một nhân
tố cản trở rất lớn đối với thu hút FDI.
1.3.2. Malaysia
Chính sách thu hút FDI nói chung và chính sách thuế trong thu hút FDI của
Malaysia nói riêng về cơ bản là tương đối đồng bộ và nhất quán đối với các nhà
đầu tư nước ngoài.
Malaysia đã xây dựng và không ngừng hoàn thiện hệ thống chính sách thu hút FDI
tương đối đồng bộ, thông thoáng, nhất quán và minh bạch đối với các nhà đầu tư
nước ngoài.
Bên cạnh những cam kết bảo đảm sở hữu; tạo lập môi trường chính trị - xã hội ổn
định; nâng cấp cơ sở hạ tầng kinh tế - kỹ thuật; chú trọng đào tạo phát triển nguồn
nhân lực; thúc đẩy hoạt động nghiên cứu và chuyển giao công nghệ… Malaysia
còn có những chính sách khuyến khích ưu đãi về thuế. Qua đó, đã tạo được môi
trường đầu tư hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài.
Chính sách thuế thu hút FDI của Malaixia ngoài tính ổn định, minh bạch, chính
sách thuế thu hút FDI của Malaysia cũng thể hiện tính linh hoạt, kịp thời bổ sung,
điều chỉnh phù hợp với tình hình thực tiễn trong nước và quốc tế.
Chính sách thuế thu hút FDI đã hướng vào một số lĩnh vực ưu tiên trong chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội của Malaysia, từ đó góp phần tạo lập cơ cấu ngành kinh
tế năng động và hiệu quả hơn.
Nhằm khuyến khích đầu tư vào lĩnh vực sản xuất của Malaysia giai đoạn từ năm
2006 đến nay, Malaysia đã có những ưu đãi trong chính sách thuế dành cho lĩnh
vực sản xuất bao gồm 2 loại: ưu đãi dành cho doanh nghiệp đi tiên phong và hỗ trợ
cho hoạt động đầu tư.
1.3.3. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam :
- Bài học về mở cửa và điều chỉnh chính sách thuế thu hút FDI: Các nước đang
phát triển đều có những chiến lược dài hạn để thu hút đầu tư nước ngoài. Chính
sách thuế là một trong những biểu hiện của chiến lược nói trên.

- Sự thay đổi nhanh chóng của môi trường trong nước và quốc tế cũng bắt buộc
chính phủ phải có những biện pháp điều chỉnh ngắn hạn đối với dòng vốn đầu tư
nước ngoài, chẳng hạn như thực hiện nới lỏng ưu đãi về thuế.
- Sự điều chỉnh chính sách theo từng thời điểm không bị chồng chéo, từ đó chính
phủ tạo ra được sự minh bạch trong chính sách, khiến các nhà đầu tư không gặp
phiền hà, rắc rối khi đầu tư.
2.3 Tích cực và hạn chế của c/s thuế đối với việc khuyến khích hoạt động
ĐTTTNN.
*Tích cực:
-Việc sửa đổi, bổ sung Luật thuế TNDN đã phát huy các ưu điểm của Luật
cũ, đồng thời, khắc phục các hạn chế, tồn tại ảnh hưởng đến phát triển sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp.
Nếu như, trước đây Luật Thuế TNDN của năm 1997 có thuế suất là 32%; Luật
Thuế TNDN năm 2003 được điều chỉnh giảm từ 32% xuống 28%; Luật Thuế
TNDN năm 2008 tiếp tục được điều chỉnh giảm từ 28% xuống 25% áp dụng thống
nhất cho các loại hình DN, thì đến Luật thuế TNDN năm 2013, tiếp tục được giảm
sâu theo lộ trình áp dụng từ 1/1/2014 từ 25% xuống 22%, từ 1/1/2016 giảm tiếp từ
22% xuống 20%. Còn thuế suất áp dụng cho DN nhỏ và vừa từ 1/1/2014 giảm từ
25% xuống 20%, từ 1/1/2016 giảm tiếp từ 20% xuống 17%.
Việc áp dụng thuế suất riêng đối với DN có quy mô nhỏ và vừa là một bước
đột phá của Luật Thuế TNDN sửa đổi, thể hiện sự quan tâm đặc biệt của Nhà nước
đối với đối tượng này, tạo điều kiện cho DN tăng tích tụ nhiều hơn, tiếp tục mở
rộng, phát triển sản xuất kinh doanh.
- Mặt khác, chính sách ưu đãi thuế TNDN đối với đầu tư mở rộng của DN.
Những quy định này phần nào đáp ứng được kỳ vọng của DN có thêm nguồn vốn
để đầu tư lắp đặt dây chuyền sản xuất mới, mở rộng quy mô sản xuất, đổi mới công
nghệ SXKD như: áp dụng thuế suất 20% đối với DN có tổng doanh thu năm
không quá 20 tỷ đồng. Theo đó, DN được thành lập theo quy định của pháp luật
Việt Nam, kể cả hợp tác xã, đơn vị sự nghiệp có thu có tổng doanh thu năm không
quá 20 tỷ đồng được áp dụng thuế suất 20% kể từ ngày 1/7/2013. Tổng doanh thu

năm làm căn cứ xác định DN thuộc đối tượng được áp dụng thuế suất 20% quy
định tại khoản này là tổng doanh thu bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ của DN của
năm trước liền kề.
Trường hợp DN có tổng thời gian hoạt động sản xuất kinh doanh kể từ khi
thành lập đến hết kỳ tính thuế TNDN năm 2012 không đủ 12 tháng hoặc kỳ tính
thuế nhiều hơn 12 tháng theo quy định hoặc mới thành lập trong 6 tháng đầu năm
2013 thì doanh thu làm căn cứ xác định DN được áp dụng thuế suất 20% quy định
tại khoản này là doanh thu bình quân tháng của năm 2012 hoặc bình quân của các
tháng trong năm 2013 tính đến hết ngày 30/6/2013 không vượt quá 1,67 tỷ đồng.
Bên cạnh đó, Nghị định cũng nêu rõ, thuế suất 20% nêu trên không áp dụng
đối với các khoản thu nhập sau: thu nhập từ chuyển nhượng vốn, chuyển nhượng
quyền góp vốn; thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản, thu nhập từ chuyển
nhượng dự án đầu tư, chuyển nhượng quyền tham gia dự án đầu tư, chuyển nhượng
quyền thăm dò, khai thác khoáng sản; thu nhập nhận được từ hoạt động sản xuất,
kinh doanh ở ngoài Việt Nam; thu nhập từ hoạt động tìm kiếm, thăm dò, khai thác
dầu, khí, tài nguyên quý hiếm khác và thu nhập từ hoạt động khai thác khoáng sản;
thu nhập từ kinh doanh dịch vụ thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt theo quy định
của Luật thuế Tiêu thụ đặc biệt.
*Nhược điểm: Từ khi bắt đầu chuyển sang kinh tế thị trường Việt Nam đã tiến
hành hai lần cải cách thuế, đó là cải cách thuế bước một (1991-1995) và cải cách
thuế bước hai (1996-2004). Kết quả đạt được của hai cuộc cải cách này khá tốt,
tuy nhiên hệ thống thuế của nước ta đến nay đã 22 năm cải cách, nhưng vẫn còn
nhiều nhược điểm, chưa phát huy được hiệu quả thực sự.
Bốn nhược điểm lớn
-Một là, hệ thống chính sách thuế còn nhiều bất cập, chưa đồng bộ, phù hợp và sát
với thực tế gây không ít khó khăn trong quá trình thực hiện. Đối với các quốc gia
trên thế giới, khi xây dựng một sắc thuế, họ đều chú trọng đến yếu tố ổn định. Bởi,
điều đó sẽ tạo điều kiện cho người nộp thuế có kế hoạch và chiến lược phát triển
sản xuất, kinh doanh phù hợp.
Tuy nhiên, ở nước ta, chính sách về thuế nhìn chung còn thiếu tính ổn định và

đồng bộ. Ví dụ như Luật Quản lý thuế có hiệu lực từ 01/7/2007, nhưng các văn bản
hướng dẫn lại được xây dựng rải rác từ cuối năm 2007 đến năm 2008 và trong 6
tháng đầu năm 2009 mới tạm coi là đủ. Tương tự, Luật Doanh nghiệp mặc dù có
hiệu lực từ năm 2005, nhưng mãi tới năm 2008 mới có nghị định hướng dẫn thực
hiện. Chính sự không đồng bộ này đã dẫn đến hiện tượng chồng chéo trong chỉ đạo
và tổ chức thu thuế, do vừa phải theo cái mới, vừa theo cái cũ, làm giảm hiệu quả
của hoạt động quản lý thu thuế.
Bên cạnh đó, hệ thống các chính sách thuế cũng chưa đạt mục tiêu “đơn giản, rõ
ràng, thống nhất” được đặt ra trong quá trình cải cách. Cụ thể như Luật thuế Thu
nhập doanh nghiệp quy định đối tượng nộp thuế bao gồm cả các cá nhân có hoạt
động sản xuất, kinh doanh, nhưng theo quy định của Luật Doanh nghiệp, thì cá
nhân kinh doanh không phải là doanh nghiệp.
-Hai là, hệ thống chính sách thuế chưa bao quát và điều tiết hết các nguồn thu
trong nền kinh tế và chưa thật sự đảm bảo bình đẳng, công bằng về nghĩa vụ nộp
thuế và phù hợp với thông lệ quốc. Điều đó đã dẫn đến những bất cập khi đất nước
trở thành thành viên chính thức của WTO, gây khó khăn cho người nộp thuế và
người thu thuế, cụ thể là:
- Trong khi các nước trên thế giới khi tính thuế giá trị gia tăng chỉ sử dụng một
phương pháp tính thuế (phương pháp khấu trừ), thì ở nước ta hiện nay vẫn sử dụng
hai phương pháp (khấu trừ và trực tiếp). Việc áp dụng phương pháp tính thuế trực
tiếp đã gây ra nhiều bất hợp lý, không thể hiện tính ưu việt và thống nhất của thuế
giá trị gia tăng, đồng thời gây khó khăn, giảm hiệu quả cho công tác quản lý thu
thuế.
- Thuế giá trị gia tăng vẫn bao gồm nhiều mức thuế suất (0%, 5%, 10%) tạo điều
kiện cho người nộp thuế lợi dụng để, gian lận và trốn lậu thuế gây thất thu cho
ngân sách nhà nước, thậm chí “chạy chọt”, hối lộ để được cán bộ ngành thuế
“nương tay”.
- Việc tính thuế thu nhập cá nhân đối với người có thu nhập cao còn phân biệt giữa
người Việt Nam và người nước ngoài đang sinh sống và làm việc tại Việt Nam.
-Ba là, sự hiểu biết và ý thức chấp hành chính sách thuế của người dân chưa đồng

đều và sâu sắc. Hầu hết người nộp thuế không thấy được những đóng góp của họ
đối với sự phát triển chung của xã hội, của cộng đồng, của địa phương. Do đó,
nhiều trường hợp chây ỳ hoặc cố tình vi phạm các quy định hiện hành; chưa có sự
chuyển biến rõ rệt về tính tuân thủ, tự nguyện, nâng cao trách nhiệm pháp luật về
thuế và nghĩa vụ nộp thuế đối với Nhà nước.
Bốn là, chưa chú trọng ứng dụng những tiến bộ về khoa học, công nghệ trong
công tác thuế. Mặc dù các quy trình hoạt động thu thuế, quản lý thuế đều được sử
dụng các ứng dụng tin học, nhưng do chưa được triển khai một cách đồng bộ nên
hiệu quả chưa cao. Những vướng mắc, bất cập giữa các quy trình, các cơ quan từ
Trung ương đến địa phương trong sử dụng ứng dụng tin học chưa được giải quyết
một cách triệt để do môi trường làm việc, hạ tầng công nghệ thông tin, trình độ cán
bộ quản lý còn chưa đáp ứng yêu cầu.
2.4 Những ưu đãi về đầu tư trong hoạt động ĐTTTNN tại việt nam.
(DĐDN) - Với mong muốn thực hiện các hoạt động đầu tư tại Việt Nam, các nhà
đầu tư trong và ngoài nước cần có một cái nhìn tổng thể về những chính sách ưu
đãi, hỗ trợ của nhà nước mà họ có thể được hưởng.
Ưu đãi đầu tư, tạo lực hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam
-Chính sách ưu đãi đầu tư đóng vai trò quan trọng trong thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài (FDI) của nước ta. Tuy nhiên, việc thực hiện các chính sách này thời
gian qua đã bộc lộ một số bất cập cần nhanh chóng khắc phục để tăng tính hấp dẫn
cho môi trường đầu tư cũng như nâng cao khả năng cạnh tranh thu hút FDI của
Việt Nam.
Nguồn vốn FDI thời gian qua hướng nhiều vào các ngành thâm dụng lao động, sử
dụng nhiều tài nguyên, tận dụng chính sách bảo hộ công nghiệp, trong khi FDI vào
các ngành sử dụng công nghệ cao, tạo ra nhiều giá trị gia tăng, thân thiện với môi
trường còn chưa nhiều. Tỷ lệ các dự án FDI đầu tư vào các lĩnh vực định hướng
như kết cấu hạ tầng, công nghiệp chế biến sau thu hoạch, dịch vụ trung gian, dịch
vụ có giá trị gia tăng cao còn nhỏ Ðây là một trong những mặt hạn chế của hoạt
động đầu tư nước ngoài được Bộ Kế hoạch và Ðầu tư nhận định. Một trong những
nguyên nhân hạn chế dòng vốn FDI vào Việt Nam theo đúng định hướng là do các

chính sách ưu đãi đầu tư tuy thường xuyên được rà soát, sửa đổi, bổ sung nhưng
còn dàn trải, chưa đủ sức hấp dẫn, chưa tập trung đúng mức vào những ngành, lĩnh
vực và đối tác cần thu hút.
Thực tế cho thấy, việc thực hiện các chính sách ưu đãi đầu tư đã bộc lộ nhiều bất
cập. Chẳng hạn như chính sách ưu đãi theo quy định của Luật Thuế thu nhập
doanh nghiệp (TNDN) đã bỏ ưu đãi cho các dự án sản xuất thuộc lĩnh vực công
nghiệp và nông nghiệp. Trong khi đó, mức ưu đãi theo quy định lại chưa đủ sức
hấp dẫn với ngành nghề, lĩnh vực khuyến khích đầu tư (thí dụ như công nghiệp hỗ
trợ), lại thiếu linh hoạt và sự phân loại ưu tiên đối với các dự án FDI như dự án có
tính lan tỏa cao, ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của địa phương, vùng
Không chỉ vậy, Luật Thuế TNDN đã bãi bỏ quy định ưu đãi thuế TNDN đối với dự
án đầu tư mở rộng quy định tại Luật Ðầu tư. Ưu đãi thuế TNDN chỉ áp dụng đối
với những doanh nghiệp mới thành lập từ dự án đầu tư. Quy định này đã khiến
nhiều dự án đầu tư mở rộng như Samsung, Kumho, Rober Bosh, Formosa không
được hưởng ưu đãi thuế TNDN như dự án đầu tư mới trong khi dự án đầu tư mở
rộng còn có quy mô vốn lớn hơn nhiều so với vốn đăng ký ban đầu. Trên thực tế,
một số nhà đầu tư đã tìm cách chuyển hướng đầu tư sang các nước khác để có thể
được hưởng ưu đãi đầu tư hấp dẫn. Theo Bộ Kế hoạch và Ðầu tư, quy định này
không phù hợp với chủ trương khuyến khích nhà đầu tư dùng lợi nhuận để tái đầu
tư, đổi mới công nghệ mở rộng sản xuất, đặc biệt trong bối cảnh việc thu hút đầu tư
mới gặp nhiều khó khăn. Kết quả thu hút FDI năm 2012 vừa qua đã cho thấy,
lượng vốn FDI đăng ký mới tuy giảm nhưng lượng vốn đăng ký tăng thêm của
những dự án đã thực hiện tăng tới 58,5% so với năm 2011, chứng tỏ các nhà đầu tư
nước ngoài đã làm ăn ở Việt Nam vẫn tin tưởng vào môi trường đầu tư của Việt
Nam cũng như triển vọng trong tương lai nên sẵn sàng tăng vốn đầu tư mở rộng
sản xuất. Ðây là những nhà đầu tư có ý định làm ăn lâu dài tại Việt Nam nên cần
có chính sách khuyến khích ưu đãi về thuế TNDN.
Bên cạnh đó, quy định trong Luật Thuế TNDN chỉ áp dụng ưu đãi thuế TNDN đối
với DN mới thành lập từ dự án đầu tư cũng chưa thật sự phù hợp với thực tế DN có
thể đầu tư đa lĩnh vực, ngành nghề theo Luật Ðầu tư và Luật Doanh nghiệp.

Trong bối cảnh cạnh tranh quốc tế và khu vực trong thu hút FDI ngày càng trở nên
gay gắt thì việc bổ sung, sửa đổi chính sách ưu đãi đầu tư càng trở nên cấp bách.
Theo Bộ Kế hoạch và Ðầu tư, về dài hạn, cần thay đổi căn bản việc xây dựng chính
sách ưu đãi đầu tư theo hướng cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư chủ trì, phối
hợp với các bộ chuyên ngành, địa phương xây dựng chính sách ưu đãi đầu tư như
thuế, đất đai, xuất nhập khẩu nhằm bảo đảm tính thống nhất và xuyên suốt với
định hướng thu hút đầu tư và các hỗ trợ khác ngoài hàng rào, trong hàng rào, bảo
lãnh, đào tạo Chính sách ưu đãi đầu tư cần xây dựng trên nguyên tắc hậu kiểm
có điều kiện và thời hạn, thay vì phương thức tiền kiểm như hiện nay với định
hướng là tập trung ưu tiên vào ngành, lĩnh vực cần phát triển, vào các dự án đầu tư
trong khu công nghiệp, khu kinh tế. Bên cạnh hệ thống ưu đãi chuẩn, cần quy định
thêm cơ chế ưu đãi thỏa thuận để áp dụng đối với các dự án đặc thù. Tuy nhiên, để
có cơ sở xem xét, quyết định ưu đãi thỏa thuận một cách rõ ràng, minh bạch, tránh
cơ chế "xin cho" cũng như giám sát thực hiện đối với các dự án này, cần nghiên
cứu xây dựng bộ tiêu chí (công nghệ cao, giá trị gia tăng, liên kết, đầu tư cho
nghiên cứu và phát triển, sử dụng công nghệ xanh, đóng góp cho ngân sách ) thay
vì chỉ dựa vào tiêu chí lĩnh vực và địa bàn như hiện nay.
2.4.1 Ưu đãi về chính sách tài chính
-Ưu đãi về thuế là chính sách được các nhà đầu tư nước ngoài quan tâm nhất
khi thực hiện hoạt động đầu tư trực tiếp tại Việt Nam. Lộ trình điều chỉnh thuế Thu
nhập doanh nghiệp (TNDN) từ 32% (1997) cho đến 25% (2009) và gần đây nhất là
22%(hiệu lực 01.01.2014), 20% (hiệu lực 01.01.2016)đã tạo một bước tiến lớn
giúp các doanh nghiệp trong và ngoài nước “hào hứng” hơn với việc tiến hành kinh
doanh trong bối cảnh kinh tế hiện nay. Luật Thuế thu nhập doanh nghiệpcũng quy
định về mức thuế suất ưu đãi, thời gian miễn thuế giảm thuế đối với các doanh
nghiệp thành lập mới từ dự án đầu tư tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc
biệt khó khăn, khu kinh tế, khu công nghệ cao; sản xuất sản phẩm phần mềm, hoạt
động trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo, dạy nghề, y tế, văn hoá…nhằm thu hút và
tạo điều kiện cho các nhà đầu tư quan tâm đến các lĩnh vực này.
-Bên cạnh đó, thuế xuất nhập khẩu (XNK) cũng góp phần tạo nên một môi

trường thuận lợi, hấp dẫn cho các nhà đầu tư. Theo đó, Luật thuế XNK cho phép
miễn thuế trong các trường hợp: hàng hóa nhập khẩu để tạo tài sản cố định của dự
án khuyến khích đầu tư; dự án đầu tư bằng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức
(ODA);nguyên liệu, vật tư, linh kiện nhập khẩu để sản xuất của các dự án thuộc
danh mục lĩnh vực đặc biệt khuyến khích đầu tư… cùng với đó là sự ra đời những
hiệp định về ưu đãi thuếxuất nhập khẩu trong phạmvi các nước ASEAN, WTO đã
giúp các nhà đầu tư giảm chi phí đầu vào, tăng năng suất sản xuất, xuất khẩu, nâng
cao sức cạnh tranh ở thị trường trong nước cũng như quốc tế.
-Về chính sách tín dụng, Ngân hàng nhà nước Việt Nam đã đưa ra những
chính sách hỗ trợ về mức lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng VND ở mức 9%
đối với nhu cầu vốn trong 5 lĩnh vực sau: phục vụ nông nghiệp, nông thôn; xuất
khẩu; công nghiệp hỗ trợ; doanh nghiệp nhỏ và vừa; doanh nghiệp ứng dụng công
nghệ cao.
2.4.2 Ưu đãi về chính sách đất đai:
Nghị định 121/2010/NĐ-CP sửa đổi bổ sung của Nghị định 142/2005/NĐ-CP,
Chính phủ đã thông qua việc miễn giảm tiền thuê đất, thuê mặt nước và tiền sử
dụng đất; đối tượng miễn nộp tiền thuê đất trong các trường hợp: Dự án đầu tư
thuộc lĩnh vực đặc biệt khuyến khích đầu tư được đầu tư tại địa bàn kinh tế - xã hội
đặc biệt khó khăn; Dự án sử dụng đất xây dựng nhà chung cư cho công nhân của
các khu công nghiệp; Dự án sử dụng đất xây dựng ký túc xá sinh viên bằng tiền từ
ngân sách nhà nước
Ngoài ra, để kêu gọi đầu tư, Nhà nước cũng đưa ra nhiều chính sách hỗ trợ về
chuyển giao công nghệ, đào tạo, dạy nghề, hỗ trợ đầu tư phát triển và dịch vụ đầu
tư, hỗ trợ đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng ngoài hàng rào khu công nghiệp, khu
chế xuất, khu công nghệ cao.
Bên cạnh những chính sách chung theo quy định của pháp luật, các nhà đầu tư có
thể tham khảo các chính sách khuyến khích về mặt bằng thực hiện dự án, chi phí
quảng cáo, thưởng môi giới đầu tư… từ các địa phương mà mình tiến hành kinh
doanh, tạo dựng cơ sở.


Phần 3: Những vấn đề, yêu cầu đang đặt ra và giải pháp nhằm thực hiện chính
sách thuế và ưu đãi đầu tư nhằm hướng tích cực cho công tác tăng cường,
khuyến khích hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài.
-Quan điểm và định hướng của Đảng và Nhà nước Việt Nam đối với chính sách ưu
đãi thuế thu hút FDI trong thời gian tới:
*Đường lối chính sách:
-Mục tiêu và định hướng thu hút FDI giai đoạn tới được Đảng và Nhà nước xác
định trong Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI. Theo đó, nước ta tiếp tục cải thiện
môi trường đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi để thu hút mạnh các nguồn vốn quốc tế;
thu hút các nhà đầu tư lớn, có công nghệ cao, công nghệ nguồn; mở rộng thị trường
xuất khẩu.
Định hướng thu hút vốn đầu tư
- Định hướng ngành
Ngành Công nghiệp-Xây dựng: Các ngành đặc biệt khuyến khích đầu tư gồm
công nghệ thông tin, điện tử, vi điện tử, công nghệ sinh học…; chủ yếu từ Hoa Kỳ,
EU, Nhật Bản; hết sức coi trọng thu hút FDI gắn với nghiên cứu phát triển và
chuyển giao công nghệ. Đồng thời khuyến khích thu hút FDI vào ngành công
nghiệp phụ trợ nhằm giảm chi phí đầu vào về nguyên - phụ liệu của các ngành
công nghiệp, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm sản xuất trong
nước.
Ngành Dịch vụ: Từng bước mở cửa các lĩnh vực dịch vụ theo các cam kết quốc tế,
tạo động lực thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển như dịch vụ ngân hàng, tài
chính; dịch vụ vận tải, bưu chính - viễn thông, y tế, văn hoá, giáo dục, đào tạo và
các lĩnh vực dịch vụ khác.
Ngành Nông – Lâm - Ngư nghiệp: Khuyến khích các dự án đầu tư về công nghệ
sinh học để tạo ra các giống cây, con có năng suất, chất lượng cao đưa vào sản xuất
đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu; đầu tư cho công nghệ chế biến thực
phẩm, bảo quản sau thu hoạch để nâng giá trị sản phẩm, tạo ra thị trường tiêu thụ
nông sản ổn định, đặc biệt xuất khẩu; tham gia đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ
thuật phục vụ nông, lâm nghiệp như các công trình thủy lợi, sản xuất phân bón,

thuốc bảo vệ thực vật, hệ thống giao thông nội đồng
-Định hướng vùng

×