Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

phân tích vai trò của phân tích tài chính tới tăng trường kinh tế. chứng minh vai trò đó ở việt nam trong 20 năm qua

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (208.52 KB, 22 trang )

MỤC LỤC
a. Nghiệp vụ thị trường mở 18
b. Chính sách lãi suất chiết khấu 18
LỜI MỞ ĐẦU
Tài chính – một lĩnh vực trọng yếu của nền kinh tế, có vai trò trong việc ổn định và
tăng trường kinh tế. Các đặc điểm, quy mô, tính chất của tài chính ngày nay đã khác rất nhiều
so với hơn chục năm về trước. Đặc biệt, khi nền kinh tế thế giới năm 2012 được dự báo là sẽ
u ám, thậm chí tồi tệ hơn rất nhiều so với năm 2011. Hai điểm nhấn quan trọng nhất là sự sụt
giảm tốc độ tăng trưởng của kinh tế toàn cầu, nhất là của các trung tâm tăng trưởng (Mỹ, EU,
Nhật, Trung Quốc) và sự bất ổn gia tăng, có khả năng xảy ra cuộc chiến tranh tiền tệ và chiến
tranh thương mại (thậm chí nguy cơ suy thoái kép).
Bên cạnh đó, do độ mở cửa cao, nền kinh tế Việt Nam chắc chắn sẽ chịu tác động tiêu
cực từ xu hướng nói trên của kinh tế thế giới. Các năm trước, trong một bối cảnh quốc tế như
nhau, các chỉ số kinh tế cơ bản của Việt Nam (tăng trưởng, lạm phát, giá trị đồng tiền, nợ…)
đã kém hơn so với nhiều nền kinh tế khác. Khả năng này có thể lại diễn ra trong năm 2012,
thậm chí ở cấp độ gay gắt hơn vì nền kinh tế đang khó khăn, thực lực lại bị yếu đi hơn nhiều
so với những năm trước.
Do đó yêu cầu nhìn nhận và tìm hiểu sâu thêm về tài chính trong giai đoạn hiện nay là
rất cần thiết. Chính vì vậy, việc phân tích tài chính sẽ trở nên quan trọng hơn lúc nào hết vì
bất cứ ngành nghề nào trong nền kinh tế cũng đòi hỏi phải có sự tham gia của phân tích tài
chính.
Với tầm quan trọng của việc phân tích tài chính như vậy, em đã hoàn thành đề tài:
“Phân tích vai trò của phân tích tài chính tới tăng trường kinh tế. Chứng minh vai trò đó ở
Việt Nam trong 20 năm qua.” Với vốn kiến thức còn nhiều hạn hẹp bài viết của em chắc
chắn còn nhiều yếu kém và thiếu sót. Em kính mong được sự xem xét giúp đỡ của thầy để có
thể hoàn thiện đề án của mình.
2
PHẦN I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ
PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH
A. Cở sở lý luận chung về tăng trưởng kinh tế
1. Khái niệm về tăng trưởng kinh tế


Qui mô của một nền kinh tế thể hiện bằng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hoặc tổng
sản phẩm quốc gia (GNP), hoặc tổng sản phẩm bình quân đầu người hoặc thu nhập bình quân
đầu người (Per Capita Income, PCI).
Tổng sản phẩm quốc nội (Gross Domestic Products, GDP) hay tổng sản sản phẩm
trong nước là giá trị tính bằng tiền của tất cả sản phẩm và dịch vụ cuối cùng được sản xuất,
tạo ra trong phạm vi một nền kinh tế trong một thời gian nhất định (thường là một năm tài
chính).
Tổng sản phẩm quốc gia (Gross National Products, GNP) là giá trị tính bằng tiền của
tất cả sản phẩm và dịch vụ cuối cùng được tạo ra bởi công dân một nước trong một thời gian
nhất định (thường là một năm). Tổng sản phẩm quốc dân bằng tổng sản phẩm quốc nội cộng
với thu nhập ròng.
Tổng sản phẩm bình quân đầu người là tổng sản phẩm quốc nội chia cho dân số. Tổng
thu nhập bình quân đầu người là tổng sản phẩm quốc gia chia cho dân số.
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng của GDP hoặc GNP hoặc thu nhập bình quân đầu
người trong một thời gian nhất định. Tăng trưởng kinh tế thể hiện sự thay đổi về lượng của
nền kinh tế. Tuy vậy ở một số quốc gia, mức độ bất bình đẳng kinh tế tương đối cao nên mặc
dù thu nhập bình quân đầu người cao nhưng nhiều người dân vẫn sống trong tình trạng nghèo
khổ.
2. Các nhân tố ảnh hưởng tới tăng trưởng kinh tế
Sau khi nghiên cứu về tăng trưởng kinh tế của các nước phát triển lẫn các nước đang
phát triển, những nhà kinh tế học đã phát hiện ra rằng động lực của phát triển kinh tế phải
được đi cùng trên bốn bánh xe, hay bốn nhân tố của tăng trưởng kinh tế là nguồn nhân lực,
nguồn tài nguyên, tư bản và công nghệ. Bốn nhân tố này khác nhau ở mỗi quốc gia và cách
phối hợp giữa chúng cũng khác nhau đưa đến kết quả tương ứng.
a. Nguồn nhân lực: chất lượng đầu vào của lao động tức là kỹ năng, kiến thức và kỷ
luật của đội ngũ lao động là yếu tố quan trọng nhất của tăng trưởng kinh tế. Hầu hết các yếu
tố khác như tư bản, nguyên vật liệu, công nghệ đều có thể mua hoặc vay mượn được nhưng
nguồn nhân lực thì khó có thể làm điều tương tự. Các yếu tố như máy móc thiết bị, nguyên
vật liệu hay công nghệ sản xuất chỉ có thể phát huy được tối đa hiệu quả bởi đội ngũ lao động
có trình độ văn hóa, có sức khỏe và kỷ luật lao động tốt.

3
b. Nguồn tài nguyên thiên nhiên: là một trong những yếu tố sản xuất cổ điển, những
tài nguyên quan trọng nhất là đất đai, khoáng sản, đặc biệt là dầu mỏ, rừng và nguồn nước.
Tài nguyên thiên nhiên có vai trò quan trọng để phát triển kinh tế, có những nước được thiên
nhiên ưu đãi một trữ lượng dầu mỏ lớn có thể đạt được mức thu nhập cao gần như hoàn toàn
dựa vào đó. Tuy nhiên, các nước sản xuất dầu mỏ là ngoại lệ chứ không phải quy luật, việc sở
hữu nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú không quyết định một quốc gia có thu nhập cao.
Nhật Bản là một nước gần như không có tài nguyên thiên nhiên nhưng nhờ tập trung sản xuất
các sản phẩm có hàm lượng lao động, tư bản, công nghệ cao nên vẫn có nền kinh tế đứng thứ
hai trên thế giới về quy mô.
c. Tư bản: là một trong những nhân tố sản xuất, tùy theo mức độ tư bản mà người lao
động được sử dụng những máy móc, thiết bị nhiều hay ít (tỷ lệ tư bản trên mỗi lao động) và
tạo ra sản lượng cao hay thấp. Để có được tư bản, phải thực hiện đầu tư nghĩa là hy sinh tiêu
dùng cho tương lai. Điều này đặc biệt quan trọng trong sự phát triển dài hạn, những quốc gia
có tỷ lệ đầu tư tính trên GDP cao thường có được sự tăng trưởng cao và bền vững. Tuy nhiên,
tư bản không chỉ là máy móc, thiết bị do tư nhân dầu tư cho sản xuất nó còn là tư bản cố định
xã hội, những thứ tạo tiền đề cho sản xuất và thương mại phát triển. Tư bản cố định xã hội
thường là những dự án quy mô lớn, gần như không thể chia nhỏ được và nhiều khi có lợi suất
tăng dần theo quy mô nên phải do chính phủ thực hiện. Ví dụ: hạ tầng của sản xuất (đường
giao thông, mạng lưới điện quốc gia ), sức khỏe cộng đồng, thủy lợi
d. Công nghệ: trong suốt lịch sử loài người, tăng trưởng kinh tế là quá trình không
ngừng thay đổi công nghệ sản xuất. Công nghệ sản xuất cho phép cùng một lượng lao động
và tư bản có thể tạo ra sản lượng cao hơn, nghĩa là quá trình sản xuất có hiệu quả hơn. Công
nghệ phát triển ngày càng nhanh chóng và ngày nay công nghệ thông tin, công nghệ sinh học,
công nghệ vật liệu mới có những bước tiến như vũ bão góp phần gia tăng hiệu quả của sản
xuất. Tuy nhiên, thay đổi công nghệ không chỉ thuần túy là việc tìm tòi, nghiên cứu; công
nghệ có phát triển và ứng dụng một cách nhanh chóng được là nhờ "phần thưởng cho sự đổi
mới" - sự duy trì cơ chế cho phép những sáng chế, phát minh được bảo vệ và được trả tiền
một cách xứng đáng.
B. Cơ sở lý luận chung về phân tích tài chính

1. Khái niệm, đối tượng phân tích tài chính
1.1. Khái niệm
Phân tích tài chính là một tập hợp các khái niệm, phương pháp, công cụ theo một hệ
thống nhất định cho phép thu thập và xử lý các thông tin kế toán cũng như các thông tin khác
trong quản lý doanh nghiệp nhằm đưa ra những đánh giá chính xác, đúng đắn về tình hình tài
chính, khả năng và tiềm lực của doanh nghiệp, giúp nhà quản lý kiểm soát tình hình kinh
doanh của doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cũng như dự đoán trước những rủi ro
có thể xảy ra trong tương lai để đưa các quyết định xử lý phù hợp tuỳ theo mục tiêu theo đuổi.
4
1.2. Đối tượng của phân tích tài chính
Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp cần có các hoạt động trao
đổi điều kiện và kết quả sản xuất thông qua những công cụ tài chính và vật chất. Chính vì vậy,
bất kỳ doanh nghiệp nào cũng phải tham gia vào các mối quan hệ tài chính đa dạng và phức
tạp. Các quan hệ tài chính đó có thể chia thành các nhóm chủ yếu sau:
Thứ nhất: Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với Nhà nước. Quan hệ này biểu hiện
trong quá trình phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân giữa ngân sách Nhà
nước với các doanh nghiệp thông qua các hình thức:
- Doanh nghiệp nộp các loại thuế vào ngân sách theo luật định.
- Nhà nước cấp vốn kinh doanh cho các doanh nghiệp (DNNN) hoặc tham gia với tư
cách người góp vốn (Trong các doanh nghiệp sở hữu hỗn hợp).
Thứ hai: Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với thị trường tài chính và các tổ chức
tài chính. Thể hiện cụ thể trong việc huy động các nguồn vốn dài hạn và ngắn hạn cho nhu
cầu kinh doanh:
- Trên thị trường tiền tệ đề cập đến việc doanh nghiệp quan hệ với các ngân hàng, vay
các khoản ngắn hạn, trả lãi và gốc khi đến hạn.
- Trên thị trường tài chính, doanh nghiệp huy động các nguồn vốn dài hạn bằng cách
phát hành các loại chứng khoán (Cổ phiếu, trái phiếu) cũng như việc trả các khoản lãi, hoặc
doanh nghiệp gửi các khoản vốn nhàn rỗi vào ngân hàng hay mua chứng khoán của các doanh
nghiệp khác.
Thứ ba: Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với các thị trường khác huy động các

yếu tố đầu vào (Thị trường hàng hoá, dịch vụ lao động ) và các quan hệ để thực hiện tiêu thụ
sản phẩm ở thị trường đầu ra (Với các đại lý, các cơ quan xuất nhập khẩu, thương mại )
Thứ tư: Quan hệ tài chính phát sinh trong nội bộ doanh nghiệp. Đó là các khía cạnh
tài chính liên quan đến vấn đề phân phối thu nhập và chính sách tài chính cuả doanh nghiệp
như vấn đề cơ cấu tài chính, chính sách tái đầu tư, chính sách lợi tức cổ phần, sử dụng ngân
quỹ nội bộ doanh nghiệp. Trong mối quan hệ quản lý hiện nay, hoạt động tài chính của các
DNNN có quan hệ chặt chẽ với hoạt động tài chính của cơ quan chủ quản là Tổng Công Ty.
Mối quan hệ đó được thể hiện trong các quy định về tài chính như:
- Doanh nghiệp nhận và có trách nhiệm bảo toàn vốn của Nhà nước do Tổng Cty giao.
- Doanh nghiệp có nghĩa vụ đóng góp một phần quỹ khấu hao cơ bản và trích một
phần lợi nhuận sau thuế vào quỹ tập trung của Tổng Công Ty theo quy chế tài chính của Tổng
Công Ty và với những điều kiện nhất định.
- Doanh nghiệp cho Tổng Công Ty vay quỹ khấu hao cơ bản và chịu sự điều hoà vốn
trong Tổng Công Ty theo những điều kiện ghi trong điều lệ của tổng Công ty.
5
Như vậy, đối tượng của phân tích tài chính, về thực chất là các mối quan hệ kinh tế
phát sinh trong quá trình hình thành, phát triển và biến đổi vốn dưới các hình thức có liên
quan trực tiếp đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
2. Tổ chức công tác phân tích tài chính
Quá trình tổ chức công tác phân tích tài chính được tiến hành tuỳ theo loại hình tổ
chức kinh doanh ở các doanh nghiệp nhằm mục đích cung cấp, đáp ứng nhu cầu thông tin
cho quá trình lập kế hoạch, công tác kiểm tra và ra quyết định. Công tác tổ chức phân tích
phải làm sao thoả mãn cao nhất cho nhu cầu thông tin của từng loại hình quản trị khác nhau.
- Công tác phân tích tài chính có thể nằm ở một bộ phận riêng biệt đặt dưới quyền
kiểm soát trực tiếp của ban giám đốc và làm tham mưu cho giám đốc. Theo hình thức này thì
quá trình phân tích được thể hiện toàn bộ nội dung của hoạt động kinh doanh. Kết quả phân
tích sẽ cung cấp thông tin thường xuyên cho lãnh đạo trong doanh nghiệp. Trên cơ sở này các
thông tin qua phân tích được truyền từ trên xuống dưới theo chức năng quản lý và quá trình
giám sát, kiểm tra, kiểm soát, điều chỉnh, chấn chỉnh đối với từng bộ phận của doanh nghiệp
theo cơ cấu từ ban giám đốc đến các phòng ban.

- Công tác phân tích tài chính được thực hiện ở nhiều bộ phận riêng biệt theo các
chức năng của quản lý nhằm cung cấp thông tin và thoả mãn thông tin cho các bộ phận của
quản lý được phân quyền, cụ thể:
+ Đối với bộ phận được phân quyền kiểm soát và ra quyết định về chi phí, bộ phận
này sẽ tổ chức thực hiện thu nhập thông tin và tiến hành phân tích tình hình biến động chi phí,
giữa thực hiện so với định mức nhằm phát hiện chênh lệch chi phí cả về hai mặt động lượng
và giá để từ đó tìm ra nguyên nhân và đề ra giải pháp.
+ Đối với bộ phận được phân quyền kiểm soát và ra quyết định về doanh thu (Thường
gọi là trung tâm kinh doanh), là bộ phận kinh doanh riêng biệt theo địa điểm hoặc một số sản
phẩm nhóm hàng riêng biệt, do đó họ có quyền với bộ phạn cấp dưới là bộ phận chi phí. ứng
với bộ phận này thường là trưởng phòng kinh doanh, hoặc giám đốc kinh doanh tuỳ theo
doanh nghiệp. Bộ phận này sẽ tiến hành thu nhập thông tin, tiến hành phân tích báo cáo thu
nhập, đánh giá mối quan hệ chi phí – khối lượng – lợi nhuận làm cơ sở để đánh giá hoàn vốn
trong kinh doanh và phân tích báo cáo nội bộ.
3. Các loại hình phân tích tài chính
3.1. Căn cứ theo thời điểm kinh doanh
Căn cứ theo thời điểm kinh doanh thì phân tích chia làm 3 hình thức:
- Phân tích trước khi kinh doanh.
- Phân tích trong kinh doanh.
- Phân tích sau khi kinh doanh.
6
a. Phân tích trước khi kinh doanh.
Phân tích trước khi kinh doanh còn gọi là phân tích tương lai, nhằm dự báo, dự toán
cho các mục tiêu trong tương lai.
b. Phân tích trong quá trình kinh doanh.
Phân tích trong quá trình kinh doanh còn gọi là phân tích hiện tại (hay tác nghiệp) là
quá trình phân tích diễn ra cùng quá trình kinh doanh. Hình thức này rất thích hợp cho chức
năng kiểm tra thường xuyên nhằm điều chỉnh, chấn chỉnh những sai lệch lớn giữa kết quả
thực hiện với mục tiêu đề ra.
c. Phân tích sau kinh doanh.

Là phân tích sau khi kết thúc quá trình kinh doanh (hay phân tích quá khứ). Quá trình
này nhằm định kỳ đánh giá kết quả giữa thực hiện so với kế hoạch hoặc định mức đề ra. Từ
kết quả phân tích cho ta nhận rõ tình hình thực hiện kế hoạch của các chỉ tiêu đề ra và làm căn
cứ để xây dựng kế hoạch tiếp theo.
3.2. Căn cứ theo thời điểm lập báo cáo
Căn cứ theo thời điểm lập báo cáo, phân tích được chia làm phân tích thường xuyên
và phân tích định kỳ.
a. Phân tích thường xuyên.
Phân tích thường xuyên được đặt ra ngay trong quá trình kinh doanh. Kết quả phân
tích giúp phát hiện ngay ra sai lệch, giúp doanh nghiệp đưa ra được các diều chỉnh kịp thời và
thường xuyên trong quá trình hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên biện pháp này thường công
phu và tốn kém.
b. Phân tích định kỳ.
Được đặt ra sau mỗi chu kỳ kinh doanh khi cáo báo cáo đã đựoc thành lập. Phân tích
định kỳ là phân tích sau quá trình kinh doanh, vì vậy kết quả phân tích nhằm đánh giá tình
hình thực hiện, kết quả hoạt động kinh doanh của từng kỳ và là cơ sở cho xây dựng kế hoạch
kinh doanh kỳ sau.
3.3. Căn cứ theo nội dung phân tích
a. Phân tích chỉ tiêu tổng hợp.
Phân tích theo chỉ tiêu tổng hợp là việc tổng kết tất cả các kết quả phân tích để đưa ra
một số chỉ tiêu tổng hợp nhằm đánh giá toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh trong mối
quan hệ nhân quả giữa chúng cũng như dưới tác động Của các yếu tố thuộc môi trường.
VD: - Phân tích các chỉ tiêu phản ánh kết quả khối lượng, chất lượng sx kinh doanh.
- Phân tích các chỉ tiêu phản ánh kết quả doanh thu và lợi nhuận.
7
b. Phân tích chuyên đề.
Còn được gọi là phân tích bộ phận, là việc tập trung vào một số nhân tố của quá trình
kinh doanh tác động, ảnh hưởng đến những chỉ tiêu tổng hợp.
VD: - Các yếu tố về tình hình sử dụng lao động; các yếu tố về sử dụng nguyên vật
liệu.

4. Phương pháp phân tích tài chính
4.1. Các bước trong quá trình tiến hành phân tích tài chính
a. Thu nhập thông tin
Phân tích hoạt động tài chính sử dụng mọi nguồn thông tin có khả năng lý giải và
thuyết minh thực trạng hoạt động tài chính, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp,
phục vụ cho quá trình dự đoán, đánh giá, lập kế hoạch. Nó bao gồm với những thông tin nội
bộ đến những thông tin bên ngoài, những thông tin kế toán và thông tin quản lý khác, những
thông tin về số lượng và giá trị Trong đó các thông tin kế toán là quan trọng nhất, được
phản ánh tập trung trong các báo cáo tài chính doanh nghiệp, đó là những nguồn thông tin đặc
biệt quan trọng. Do vậy, phân tích hoạt động tài chính trên thực tế là phân tích các báo cáo tài
chính doanh nghiệp.
b. Xử lý thông tin
Giai đoạn tiếp theo của phân tích hoạt động tài chính là quá trình xử lý thông tin đã
thu thập. Trong giai đoạn này, người sử dụng thông tin ở các góc độ nghiên cứu, ứng dụng
khác nhau phục vụ mục tiêu phân tích đã đặt ra. Xử lý thông tin là quá trình sắp xếp các thông
tin theo những mục tiêu nhất định nhằm tính toán, so sánh, giải thích, đánh giá, xác định
nguyên nhân của các kết quả đã đạt được nhằm phục vụ cho quá trình dự đoán và quyết định.
c. Dự đoán và ra quyết định
Thu thập và xử lý thông tin nhằm chuẩn bị những tiền đề và điều kiện cần thiết để
người sử dụng thông tin dự đoán nhu cầu và đưa ra các quyết định hoạt động kinh doanh. Đối
với chủ doanh nghiệp, phân tích hoạt động tài chính nhằm đưa ra các quyết định liên quan tới
mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp là tăng trưởng, phát triển, tối đa hoá lợi nhuận, tối đa
hoá doanh thu. Đối với cho vay và đầu tư vào doanh nghiệp thì đưa ra các quyết định về tài
trợ đầu tư, đối với cấp trên của doanh nghiệp thì đưa ra các quyết định quản lý doanh nghiệp.
d. Các thông tin cơ sở để phân tích hoạt động tài chính
Các thông tin cơ sở được dùng để phân tích hoạt động Tài chính trong các doanh
nghiệp nói chung là các báo cáo tài chính, bao gồm:
8
Bảng cân đối kế toán: Là một báo cáo tài chính, mô tả tình trạng tài chính của doanh
nghiệp tại một thời điểm nhất định nào đó. Nó được thành lập từ 2 phần: Tài sản và nguồn

vốn.
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh: Là một báo cáo tài chính tổng hợp, phản ánh
một cách tổng quát tình hình và kết quả kinh doanh trong một niên độ kế toán, dưới hình thái
tiền tệ. Nội dung của báo kết quả hoạt động kinh doanh có thể thay đổi nhưng phải phản ánh
được 4 nội dung cơ bản là: doanh thu, giá vốn hàng bán, chi phí bán hàng và chi phí quản lý
doanh nghiệp, lãi, lỗ. Số liệu trong báo cáo này cung cấp những thông tin tổng hợp nhất về
phương thức kinh doanh của doanh nghiệp trong thời kỳ và chỉ ra rằng, các hoạt động kinh
doanh đó đem lại lợi nhuận hay lỗ vốn, đồng thời nó còn phản ánh tình hình sử dụng các tiềm
năng về vốn, lao động, kỹ thuật và kinh nghiệm quản lý kinh doanh của doanh nghiệp.
4.2. Phương pháp phân tích tài chính
Phương pháp phân tích tài chính bao gồm một hệ thống các công cụ và biện pháp
nhằm tiếp cận, nghiên cứu các sự kiện, hiện tượng, các mối quan hệ bên trong và bên ngoài,
các luồng dịch chuyển và biến đổi tài chính, các chỉ tiêu tài chính tổng hợp và chi tiết, nhằm
đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp.
Về lý thuyết có nhiều phương pháp phân tích tài chính doanh nghiệp, nhưng trên thực
tế người ta thường sử dụng các phương pháp sau.
a. Phương pháp so sánh
- So sánh giữa số thực hiện kỳ này với số thực hiện kỳ trước để thấy rõ xu hướng thay
đổi về tài chính của doanh nghiệp, thấy được tình hình tài chính được cải thiện hay xấu đi như
thế nào để có biện pháp khắc phục trong kỳ tới.
- So sánh giữa số thực hiện với số kế hoạch để thấy rõ mức độ phấn đấu của doanh
nghiệp.
- So sánh giữa số thực hiện kỳ này với mức trung bình của ngành để thấy tình hình tài
chính doanh nghiệp đang ở trong tình trạng tốt hay xấu, được hay chưa được so với doanh
nghiệp cùng ngành.
- So sánh theo chiều dọc để thấy được tỷ trọng của từng tổng số ở mỗi bản báo cáo và
qua đó chỉ ra ý nghĩa tương đối của các loại các mục, tạo điều kiện thuận lợi cho việc so sánh.
- So sánh theo chiều ngang để thấy được sự biến động cả về số tuyệt đối và số tương
đối của một khoản mục nào đó qua các niên độ kế toán liên tiếp.
Khi sử dụng phương pháp so sánh phải tuân thủ 2 điều kiện sau:

- Điều kiện một: Phải xác định rõ “gốc so sánh” và “kỳ phân tích”.
9
- Điều kiện hai: Các chỉ tiêu so sánh (hoặc các trị số của chỉ tiêu so sánh) phải đảm
bảo tính chất có thể so sánh được với nhau. Muốn vậy, chúng phải thống nhất với nhau về nội
dung kinh tế, về phương pháp tính toán, thời gian tính toán.
b. Phương pháp tỷ lệ
Phương pháp này dựa trên các ý nghĩa chuẩn mực các tỷ lệ của đại lượng tài chính
trong các quan hệ tài chính. Về nguyên tắc, phương pháp này yêu cầu phải xác định được các
ngưỡng, các định mức để nhận xét, đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp, trên cơ sở so
sánh các tỷ lệ của doanh nghiệp với giá trị các tỷ lệ tham chiếu.
Đây là phương pháp có tính hiện thực cao với các điều kiện được áp dụng ngày càng
được bổ sung và hoàn thiện hơn. Vì:
- Nguồn thông tin kế toán và tài chính được cải tiến và cung cấp đầy đủ hơn là cơ sở
để hình thành những tham chiếu tin cậy nhằm đánh giá một tỷ lệ của một doanh nghiệp hay
một nhóm doanh nghiệp.
- Việc áp dụng tin học cho phép tích luỹ dữ liệu và thúc đẩy nhanh quá trình tính toán
hàng loạt các tỷ lệ.
- Phương pháp này giúp các nhà phân tích khai thác có hiệu quả những số liệu và phân
tích một cách hệ thống hàng loạt tỷ lệ theo chuỗi thời gian liên tục hoặc theo từng giai đoạn.
c. Phương pháp Dupont
Dupont là tên của một nhà quản trị tài chính người Pháp tham gia kinh doanh ở
Mỹ.Dupont đã chỉ ra được mối quan hệ tương hỗ giữa các chỉ số hoạt động trên phương diện
chi phí và các chỉ số hiệu quả sử dụng vốn. Từ việc phân tích:
ROI=
Lợi nhuận ròng
=
Lợi nhuận ròng
x
Doanh thu
Tổng số vốn Doanh thu Tổng số vốn

Dupont đã khái quát hoá và trình bày chỉ số ROI một cách rõ ràng, nó giúp cho các
nhà quản trị tài chính có một bức tranh tổng hợp để có thể đưa ra các quyết định tài chính hữu
hiệu.
10
PHẦN II: VAI TRÒ CỦA PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH TỚI TĂNG TRƯỞNG
KINH TẾ VÀ THỰC TẾ Ở VIỆT NAM TRONG 20 NĂM QUA
1. Vai trò của tài chính tới tăng trưởng kinh tế
Trong các nhân tố ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế như đã đề cập trong phần I thì
việc dân số gia tăng, diện tích đất đai và nguồn tài nguyên thiên nhiên có hạn, rốt cuộc sẽ hạn
chế sự tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, tài nguyên thiên nhiên đã không còn quan trọng ở
nhiều nước thu nhập cao. Ví dụ ở Anh, giá trị đất đai và khoáng sản đã từng chiếm tới 60%
tổng tài sản hữu hình năm 1688 nhưng chỉ còn chiếm 15% năm 1977. Trên thực tế, tài nguyên
thiên nhiên không quyết định sự thịnh vượng. Năm 1870, Úc – một quốc gia giàu tài nguyên,
có thu nhập đầu người gấp đôi so với Thuỵ Sỹ - một nước nghèo tài nguyên, đến nay thu nhập
tính theo đầu người của Thuỵ Sỹ vượt hơn một lần rưỡi so với Úc. Trong 3 thập kỷ qua, Hồng
Kong, Nhật Bản, Hàn Quốc và Singapore nằm trong số những nước có tốc độ tăng trưởng thu
nhập theo đầu người cao nhất thế giới, mặc dù nguồn tài nguyên thiên nhiên của họ khá nghèo
nàn. Khác biệt lớn nhất giữa những nước giàu và nghèo là hiệu quả sử dụng nguồn lực của
mỗi nước. Đóng góp của hệ thống tài chính cho sự tăng trưởng chính là khả năng tăng cường
hiệu quả. Cụ thể như sau:
1.1. Tài chính có vai trò quan trọng trong việc huy động và cung cấp các nguồn lực
tài chính phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế và xã hội
Bất kỳ nền kinh tế nào cũng có nhu cầu về nguồn lực tài chính cho sự phát triển của
nền kinh tế thị trường lại càng đòi hỏi một nguồn lực tài chính lớn liên tục… do sự năng động
của các chủ thể kinh tế trong xã hội. Hoạt động của thị trường tài chính là huy động và tích
luỹ các nguồn lực tài chính nhàn rỗi, nhỏ lẻ và phân tán thành nguồn tài chính to lớn tài trợ
kịp thời cho nhu cầu đầu tư phát triển kinh tế xã hội. Trên bình diện vĩ mô thị trường tài chính
vận động không ngừng thúc đẩy nhanh quá trình vận động của tiền (T- H - T
'
- H

'
) từ đó thúc
đẩy sự phát triển của nền kinh tế. Sự hoạt động của thị trường tài chính là sự tuân thủ các quy
tắc quy định nhằm tối ưu hoá những lợi thế hạn chế những rối loạn nền kinh tế. Khi một nền
kinh tế ổn định người dân, người dân có xu hướng đầu tư chứng khoán tiét kiệm của mình vào
thị trường tài chính để có được một khoản thu nhập ổn định. Do đó nhu cầu cần tiêu dùng của
người dân sẽ bị ảnh hưởng cụ thể là nhu cầu về tiêu dùng cao cấp sẽ bị hạn chế rất nhiều.
Hoạt động của thị trường tài chính đã đưa được nguồn tài chính từ dạng tích trữ không sinh
lời sang nguồn lực phục vụ cho sự phát triển kinh tế xã hội đồng thời gián tiếp khuyến khích
tiết kiệm của nhân dân.
1.2. Tài chính là công cụ trọng yếu để điều hành vĩ mô của nhà nước
Trong kinh tế thị trường, mọi hoạt động kinh tế diễn ra trên thị trường tuân theo
những qui luật kinh tế khách quan. Tuy nhiên, nền kinh tế cũng chứa đựng hàng loạt các
khuyết tật mà bản thân nó không thể tự giải quyết. Chính vì vậy, nhà nước vẫn cần có sự can
11
thiệp nhất định vào nền kinh tế thị trường – chủ yếu ở tầm vĩ mô. Sự điều chỉnh này được
thực hiện bằng các biện pháp kinh tế, chủ yếu thông qua chính sách tài chính và tiền tệ - tín
dụng. Thực tế các nước xã hội chủ nghĩa, kinh tế thị trường cho thấy thiếu cơ chế tài chính –
tiền tệ hoàn thiện thì dứt khoát không thể tạo ra nền kinh tế hiệu quả, có cơ cấu hợp lý, phát
triển nhịp nhàng.
Trước hết nhà nước thông qua quan hệ tài chính để xây dựng một chính sách tài chính
quốc gia có tính chiến lược nhằm:
a. Điều tiết kinh tế
Để điều tiết kinh tế nhà nước phải kết hợp cả hai chức năng của tài chính: phân phối
và giám đốc. Trên cơ sở kiểm tra, giám sát bằng đồng tiền, nhà nước nắm được thực tế hoạt
động của nền kinh tế, từ đó phát hiện ra những vấn đề cần can thiệp, điều tiết. Bằng các chính
sách phân phối, nhà nước điều tiết nền kinh tế theo kế hoạch đã định sao cho tạo vốn, huy
động vốn, sử dụng vốn một cách có hiệu quả làm tăng giá thị tài sản quốc gia. Của cải quốc
gia xét về mặt hiện vật như máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ có thể vẫn hoạt động ở
một chỗ nhất định… trái lại, xét về mặt tiền tệ của mọi của cải thì nó có thể tuần hoàn di động

nhanh hơn, linh hoạt hơn, tạo ra những khả năng mới to lớn hơn thông qua quỹ khấu hao, quỹ
bảo hiểm, quỹ cổ phần…
Chẳng hạn thiết bị máy móc nhà máy sản xuất đường A vẫn hoạ động ở địa điểm A.
Nhưng vốn bằng tiền của thiết bị máy móc đó thông qua quỹ khấy hao, quỹ bảo hiểm đã tái
hiện lại dưới hình thức đổi mới tiên tiến và hiện đại ở nhiều nơi khác. Nhà nước có thể thông
qua tài chính để đầu tư thiết bị nhà máy ở tỉnh B, nhưng thông qua cổ phần hoá nhà nước có
thể vừa duy trì nhà máy cũ hoạt động và rút vốn ra xây dựng một nhà máy mới với hai tác
dụng:
- Gây áp lực cạnh tranh để thúc đẩy nhà máy cũ, nhà máy tương tự phải không ngừng
vươn lên.
- Tạo lập những dây chuyền công nghệ mới, nhà máy mới ở địa điểm mới…
Tóm lại, thông qua đầu tư của tài chính nhằm giữ thế cân bằng động cho toàn bộ nền
kinh tế. Đồng thời, thông qua công ty di chuyển và mới ra đời tạo động lực cạnh tranh lành
mạnh trong nền kinh tế. Mặt khác, thông qua đầu tư tài chính mà nhà nước góp phần làm cho
cạnh tranh luôn sống động và có tác dụng tích cực.
Nhà nước cũng có thể thông qua việc nâng cao hoặc hạ thấp thuế suất để điều tiết hoạt
động đầu tư kinh doanh giữa các ngành.
Với tác dụng điều tiết kinh tế, tài chính là công cụ trọng yếu thúc đẩy nền kinh tế quốc
dân phát triển cân đối.
b. Tăng hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh
12
Thông qua chính sách tài chính quốc gia như tính ổn định tiền tệ, tính sinh lãi của các
bất động sản, của vốn nhà mỗi, của các vị trí lợi thế so sánh… mà làm cho mọi người dân có
ý thức bảo vệ, sử dụng và đưa nhanh các tài sản đó vào kinh doanh. Như vậy nhờ chính sách
sinh lợi của tài chính mà biến bất động sản thành vốn kinh doanh, biến tiền nằm im thành tiền
kinh doanh… Điều này ở nước ta đã thể hiện ở một phần ở mối liên hệ kinh doanh với nước
ngoài như: đất, đồi trọc, sông suối… trở thành vốn kinh doanh. Các lợi thế so sánh trở thành
lực lượng kinh doanh, một số tư liệu sinh hoạt trở thành vốn kinh doanh.
c. Tài chính góp phần điều hành thực hiện mục tiêu: tiết kiệm, tích luỹ tăng đầu tư đi
đến tăng việc làm chống thất nghiệp và góp phần tăng thu nhập tăng trưởng kinh tế.

d. Hình thành quan hệ tích luỹ, tiêu dùng hợp lí
Trong nền kinh tế thị trường, việc phân phối thu nhập được thực hiện theo nhiều hình
thức khác nhau. Tương ứng với từng khu vực kinh tế – xã hội là một hệ thống tiền lương và
thu nhập riêng, tương ứng với từng thành phần kinh tế là một hình thức kinh doanh riêng, có
quỹ tiêu dùng riêng. Chính vì thế, mà tiền lương và thu nhập của người lao động ở các thành
phần kinh tế khác nhau có sự chênh lệch cao. Sự chênh lệch quá mức về thu nhập và tiền
lương giữa các tầng lớp dân cư dẫn đến mức tiêu dùng hết sức khác nhau và đương nhiên có
sự phân hoá trong xã hội. Từ đó tạo nên sự mất công bằng xã hội. VD như sự phân hoá giàu
nghèo giữa thành thị- nông thôn. Do đó việc điều tiết thu nhập và tiền lương giữa những
người làm công ăn lương, người hưởng theo chế độ, chính sách xã hội và ưu đãi của nhà nước
trong phạm vi toàn xã hội là vấn đề cấp thiết hiện nay. Trong đó, tài chính giữ vai trò đặc biệt
quan trọng thông qua các chức năng của mình. VD: thông qua thuế, quỹ xoá đói giảm nghèo,
nâng lương cho các ngành có thu nhập thấp… Việc điều chỉnh này không chỉ là điều tiết thu
nhập quá cao mà cả việc điều tiết phần thu nhập quá thấp đến mức trung bình để người lao
động đảm bảo cuộc sống.
2. Vai trò của phân tích tài chính tới tăng trưởng kinh tế
Kết quả của phân tích tài chính đóng một vai trò quan trọng trong việc tăng cường
hiệu quả hoạt động của toàn bộ các lĩnh vực, ngành nghề trong nền kinh tế. Từ đó, thông qua
việc nâng cao chất lượng phát triển của thị trường tài chính, phân tích tài chính góp phần thúc
đấy tăng trưởng kinh tế.
a. Vai trò đầu tiên và rất quan trọng phân tích tài chính là tạo ra giá trị khổng lồ cho
các nhà đầu tư, cung cấp các phân tích, lời khuyên đầu tư cho doanh nghiệp và các nhà đầu tư.
Có nhiều đối tượng quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp như: chủ doanh
nghiệp, nhà tài trợ, nhà cung cấp, khách hàng Mỗi đối tượng quan tâm với các mục đích
khác nhau nhưng thường liên quan với nhau.
Đối với chủ doanh nghiệp và các nhà quản trị doanh nghiệp, mối quan tâm hàng đầu
của họ là tìm kiếm lợi nhuận và khả năng trả nợ. Ngoài ra, các nhà quản trị doanh nghiệp còn
13
quan tâm đến mục tiêu khác như tạo công ăn việc làm, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng
doanh thu, giảm chi phí Tuy nhiên, doanh nghiệp chỉ có thể thực hiện các mục tiêu này nếu

họ kinh doanh có lãi và thanh toán được nợ. Một doanh nghiệp bị lỗ liên tục rút cục sẽ bị cạn
kiệt các nguồn lực và buộc phải đóng cửa, còn nếu doanh nghiệp không có khả năng thanh
toán các khoản nợ đến hạn trả cũng buộc phải ngừng hoạt động.
Đối với các chủ ngân hàng và các nhà cho vay tín dụng, mối quan tâm của họ hướng
chủ yếu vào khă năng trả nợ của doanh nghiệp. Vì vậy họ đặc biệt chú ý đến số lượng tiền và
các tài sản khác có thể chuyển đổi thành tiền nhanh, từ đó so sánh với số nợ ngắn hạn để biết
được khả năng thanh toán tức thời của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, họ cũng rất quan tâm đến
số lượng vốn chủ sở hữu vì đó là khoản bảo hiểm cho họ trong trường hợp doanh nghiệp gặp
rủi ro.
Đối các nhà đầu tư, họ quan tâm đến lợi nhuận bình quân vốn của Công ty, vòng quay
vốn, khả năng phát triển của doanh nghiệp Từ đó ảnh hưởng tới các quyết định tiếp tục đầu
tư và Công ty trong tương lai.
Bên cạnh những nhóm người trên, các cơ quan tài chính, cơ quan thuế, nhà cung cấp,
người lao động cũng rất quan tâm đến bức tranh tài chính của doanh nghiệp với những mục
tiêu cơ bản giống như các chủ ngân hàng, chủ doanh nghiệp và nhà đầu tư.
Tất cả những cá nhân, tổ chức quan tâm nói trên đều có thể tìm thấy và thoả mãn nhu
cầu về thông tin của mình thông qua hệ thống chỉ tiêu do phân tích báo cáo tài chính cung
cấp.
b. Phân tích tài chính làm giảm bớt các nhận định chủ quan, dự đoán và những trực
giác trong kinh doanh, góp phần làm giảm bớt tính không chắc chắn cho các hoạt động kinh
doanh.
c. Phân tích tài chính cung cấp những cơ sở mang tính hệ thống và hiệu quả trong
phân tích các hoạt động kinh doanh.
d. Phân tích tài chính cũng giúp kết nối và cố vấn đầu tư cho chính doanh nghiệp của
mình thông qua sự phân tích và đánh giá các dự án hay kế hoạch.
3. Vai trò của phân tích tài chính tới tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong 20
năm qua
3.1. Bức tranh tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong thời gian qua
Sau 26 năm đổi mới kể từ Đại hội Đảng VI năm 1986, nền Việt Nam đã ra khỏi khủng
hoảng kinh tế, đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh, tăng cường cơ sở vật chất và tạo tiền đề

cho giai đoạn phát triển mới công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, sớm đưa nước ta ra
khỏi tình trạng kém phát triển, phấn đấu đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại.
14
1986 – 1990: GDP tăng 4,4%/năm. Đây là giai đoạn chuyển đổi cơ bản cơ chế quản lý
cũ sang cơ chế quản lý mới, thực hiện một bước quá trình đổi mới đời sống KTXH và giải
phóng sức sản xuất.
1991 – 1995: Nền kinh tế khắc phục được tình trạng trình trệ, suy thoái, đạt được tốc
độ tăng trưởng tương đối cao liên tục và toàn diện. GDP bình quân năm tăng 8,2%. Đất nước
ra khỏi thời kỳ khủng hoảng kinh tế, bắt đầu đẩy mạnh CNH – HĐH đất nước.
Từ năm 1996 - 2000, là bước phát triển quan trọng của thời kỳ mới, đẩy mạnh CNH,
HĐH đất nước. Chịu tác động của khủng hoảng tài chính - kinh tế khu vực cùng thiên tai
nghiêm trọng xảy ra liên tiếp đặt nền kinh tế nước ta trước những thử thách. Tuy nhiên, giai
đoạn này, Việt Nam duy trì được tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước 7%/năm.
Năm 2000 - 2005, nền kinh tế đạt được tốc độ tăng trưởng cao, liên tục, GDP bình
quân mỗi năm đạt 7,5%. Năm 2005, tốc độ tăng trưởng đạt 8,4%, GDP theo giá hiện hành, đạt
838 nghìn tỷ đồng, bình quân đầu người đạt trên 10 triệu đồng, tương đương với 640 USD.
Từ một nước thiếu ăn, mỗi năm phải nhập khẩu 50 vạn - 1 triệu tấn lương thực, Việt Nam đã
trở thành nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới. Năm 2005, nước ta đứng thứ 2 trên thế giới về
xuất khẩu gạo, thứ 2 về cà phê, thứ 4 về cao su, thứ 2 về hạt điều, thứ nhất về hạt tiêu.
Giai đoạn 2006 – 2011: Tốc độ GDP bình quân 6 năm ước đạt 7%, thấp hơn so với kế
hoạch (7,5-8%) nhưng cao hơn mức bình quân khu vực.
Xuất khẩu bình quân 6 năm tăng 17,3% một năm, vượt kế hoạch đề ra. Tuy nhiên, do
nhập khẩu (chủ yếu là nguyên liệu sản xuất) tăng nên nhập siêu bình quân cũng tăng lên
22,4% tổng kim ngạch xuất khẩu mỗi năm. Thu ngân sách đạt kết quả tốt, tỷ lệ huy động thuế
và phí vào ngân sách đạt 22,4% GDP. Bội chi bình quân 6 năm khoảng 5,5% GDP, cao hơn
giai đoạn trước do chi mạnh để chống suy giảm kinh tế giai đoạn 2009 - 2011.
Cán cân thanh toán quốc tế trong giai đoạn 2006-2008 thặng dư cao nhưng thâm hụt
vào năm 2009 - 2011 do xuất khẩu giảm và vốn đầu tư từ bên ngoài giảm. Tổng nguồn vốn
đầu tư toàn xã hội 6 năm gấp 2,5 lần so với giai đoạn 2001-2005, đạt 42,7% GDP. Cũng trong

khoảng thời gian này, vốn FDI thực hiện đạt gần 45 tỷ USD, vượt 77% so với kế hoạch đề ra.
ODA cam kết đạt trên 31 tỷ USD (gấp hơn 1,5 lần mục tiêu), giải ngân đạt 13,8 tỷ USD, vượt
16% kế hoạch.
Qua 26 năm đổi mới, hệ thống pháp luật, chính sách và cơ chế vận hành của nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xây dựng tương đối đồng bộ. Từng bước phát
triển đồng bộ và quản lý sự vận hành các loại thị trường cơ bản, theo cơ chế mới. Thị trường
hàng hoá phát triển với quy mô lớn, tốc độ nhanh.
15
3.2. Vai trò của phân tích tài chính tới tăng trưởng kinh tế Việt Nam thể hiện qua
sự phát triển của một số lĩnh vực
3.2.1. Sự phát triển của Thị trường chứng khoán Việt Nam
Thị trường chứng khoán (TTCK) đang trở thành một điểm nóng thu hút sự quan tâm
rất lớn của mọi đối tượng trong xã hội. Việc ứng dụng các kỹ thuật phân tích chứng khoán đã
giúp các Nhà đầu tư có những quyết định đầu tư đúng đắn, từ đó góp phần thúc đẩy sự phát
triển của TTCK Việt Nam.
Sau nhiều năm chuẩn bị và chờ đợi, ngày 11-7-1998 Chính phủ đã ký Nghị
định số 48/CP ban hành về chứng khoán và TTCK chính thức khai sinh cho TTCK
Việt Nam ra đời.
Trong 5 năm đầu tiên, dường như thị trường không thực sự thu hút được sự quan tâm
của đông đảo công chúng và các diễn biến tăng giảm của thị trường chưa tạo ra tác động xã
hội mở rộng để có thể ảnh hưởng tới sự vận hành của nền kinh tế cũng như tới cuộc sống của
mỗi người dân.
Theo thống kê của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước, tính đến hết năm 2005, tổng giá
trị TTCK việt Nam đạt gần 40.000 tỷ đồng, chiếm 0,69% tổng thu nhập quốc nội (GDP).
TTCK Việt Nam hiện có 4.500 tỷ đồng cổ phiếu, 300 tỷ đồng chứng chỉ quỹ đầu tư và gần
35.000 tỷ đồng trái phiếu chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phương, thu hút 28.300 tài
khoản giao dịch. Trong năm 2005, tốc độ tăng trưởng của thị trường chứng khoán gấp đôi so
với năm 2004, huy động được 44,600 tỷ đồng, hiện giờ giá trị cổ phiếu so với GDP của cả
nước đạt gần 1%.
Giai đoạn 2006: Sự phát triển đột phá của TTCK Việt Nam.

Mốc thời gian kể từ đầu năm 2006 được coi là mang tính chất phát triển “đột phá”, tạo
cho TTCK Việt Nam một diện mạo hoàn toàn mới với hoạt động giao dịch sôi động tại cả 3
“sàn”: Sở giao dịch Tp.Hồ Chí Minh, Trung tâm Giao dịch Hà Nội và thị trường OTC.
Với mức tăng trưởng đạt tới 60% từ đầu đến giữa năm 2006 TTCK Việt Nam trở thành
"điểm" có tốc độ tăng trưởng nhanh thứ 2 thế giới, chỉ sau Dim-ba-buê. Và sự bừng dậy của
thị trường non trẻ này đang ngày càng "hút hồn" các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Không thể phủ nhận năm 2006 TTCK Việt Nam non trẻ đã có “màn trình diễn” tuyệt vời và
có thể sẽ không bao giờ có lại được với khối lượng vốn hoá tăng gấp 15 lần trong vòng 1
năm.
Năm 2006 , TTCK Việt Nam có sự phát triển vượt bậc, chỉ số Vn-Index tại sàn giao
dịch TP. Hồ Chí Minh tăng 144% năm 2006, tại sàn giao dịch Hà Nội tăng 152,4%. Tổng giá
trị vốn hóa đạt 13,8 tỉ USD cuối năm 2006 (chiếm 22,7% GDP) giá trị cổ phiếu do các nhà
đầu tư nước ngoài đang nắm giữ đạt khoảng 4 tỉ USD, chiếm 16,4% mức vốn hóa của toàn thị
trường. Số công ty niêm yết tăng gần 5 lần, từ 41 công ty năm 2005 đã lên tới 193 công ty, số
16
tài khoản giao dịch đạt hơn 10 vạn gấp 3 lần năm 2005 và 30 lần so với 6 năm trước. Trong
vòng một năm, chỉ số Vn-Index tăng hơn 500 điểm, từ hơn 300 điểm cuối 2005 lên 800 điểm
cuối 2006.
Giai đoạn 2007: Giai đoạn thị trường chứng khoán bùng nổ.
Luật Chứng khoán có hiệu lực từ ngày 01/01/2007 đã góp phần thúc đẩy thị trường
phát triển và tăng cường khả năng hội nhập vào thị trường tài chính quốc tế. Tính công khai,
minh bạch của các tổ chức niêm yết được tăng cường. VNIndex đạt đỉnh 1.170,67 điểm
HASTC-Index (bây giờ là HNX-Index) chạm mốc 459,36 điểm. Nhìn chung diễn biến của thị
trường và giá cả chứng khoán trong các phiên giao dịch có nhiều biến động, Index của cả 2
sàn giao dịch đều có biên độ giao động mạnh. Kết thúc phiên giao dịch cuối năm, VNIndex
đạt 927,02 điểm, Hastc-Index dừng ở mức 323,55 điểm, như vậy sau 1 năm hoạt động
VNIndex đạt được mức tăng trưởng là 23,3%; Hastc-Index tăng 33,2% so với mức điểm thiết
lập vào cuối năm 2006. Tính đến ngày 28/12/2007, SGDCK TP.HCM đã thực hiện được 248
phiên giao dịch với tổng khối lượng giao dịch đạt hơn 2,3 tỷ chứng khoán tương đương với
tổng giá trị giao dịch toàn thị trường đạt 224.000 tỷ đồng, gấp 2 lần khối lượng và 2,8 lần giá

trị giao dịch so với năm 2006. Bình quân mỗi phiên giao dịch có 9,2 triệu chứng khoán được
chuyển nhượng tương đương với 980 tỷ đồng. TTGDCK Hà Nội thực hiện thành công 248
phiên giao dịch, với tổng khối lượng giao dịch toàn thị trường đạt 616,3 triệu chứng khoán
tương đương với tổng giá trị giao dịch toàn thị trường đạt 63.859 tỷ đồng, tăng gấp 6 lần về
khối lượng và 15,8 lần về giá trị giao dịch so với năm 2006. Quy mô giao dịch tăng trưởng
mạnh khi mức giao dịch bình quân năm 2007 đạt 255 tỷ đồng/phiên trong khi năm 2006 chỉ
đạt 19 tỷ đồng/phiên.
Giai đoạn 2008 đến nay: Đây là giai đoạn sụt giảm trầm trọng của TTCK Việt Nam.
Năm 2011 chứng kiến sự khó khăn tột cùng của TTCK Việt Nam, khi HNX-Index đã xuống
mức thấp nhất trong lịch sử là 58,4 điểm vào ngày 22/12. Vn-Index hiện cũng ở mức thấp
nhất trong một năm qua. Thị trường đi xuống dẫn đến hệ quả là thanh khoản sụt giảm, thị giá
nhiều cổ phiếu xuống rất thấp. Không ít cổ phiếu đã mất 80-90% giá trị so với đầu năm. Đây
cũng là giai đoạn bùng nổ hàng loạt vụ bê bối chưa có tiền lệ và hệ quả là niềm tin của thị
trường đã bị đánh cắp ít nhiều. Trước tình trạng đó, Thông tư 226 được ban hành với nội dung
về việc giám sát an toàn tài chính cho công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ đã được Bộ
Tài chính ban hành và có hiệu lực từ ngày 1/4/2011. Theo đó, những trường hợp không đáp
ứng chỉ tiêu an toàn tài chính (tính theo tỷ lệ vốn khả dụng) sẽ bị cơ quan quản lý đưa vào tình
trạng kiểm soát hoặc kiểm soát đặc biệt.
Với tình hình căng thẳng trên TTCK như vậy ngày càng sàng lọc các đối tượng tham
gia trên thị trường như công ty chứng khoán, nhà đầu tư… Chỉ những thành viên nào có
những kiến thức hiểu biết nhất định về thị trường, có khả năng phân tích, nhìn nhận về xu
hướng TTCK hay đầu tư vào các công ty niêm yết có hoạt động kinh doanh hiệu quả… thông
qua kỹ năng phân tích tài chính mới có thể tồn tại trong TTCK Việt Nam hiện nay. Từ đó, có
17
thể thấy vai trò quan trọng của việc phân tích tài chính tới sự phát triển của TTCK nói chung
và ở Việt Nam nói riêng.
3.2.2. Chính sách tỷ giá, lãi suất và lạm phát tác động tích cực đến tăng trưởng kinh
tế
Không có cơ chế tỷ giá hối đoái nào là tối ưu trong mọi trường hợp. Nhưng thực tế
cho thấy, giữ được tỷ giá ổn định dựa trên việc tìm kiếm thường xuyên sự cân đối tối ưu giữa

tính chất tự thân thị trường với sự can thiệp nhà nước là điều kiện tốt cho tăng trưởng kinh tế
trong từng thời kỳ nhất định.
Việc điều chỉnh tỉ giá linh hoạt đã tạo điều kiện thuận lợi cho các NHTM và NHNN
tăng mua ngoại tệ từ thị trường, đáp ứng phần lớn các nhu cầu ngoại tệ của khách hàng và
đảm bảo mục tiêu tăng dự trữ ngoại hối nhà nước, kích thích đầu tư và tăng trưởng.
Hoạt động can thiệp của Ngân hàng Trung ương (NHTW) đến tỷ giá thường được
thực hiện dưới các hình thức sau:
a. Nghiệp vụ thị trường mở
Nghiệp vụ thị trường mở được thực hiện thông qua các nghiệp vụ mua bán ngoại tệ
điều chỉnh tỷ giá hối đoái và đây là một trong những biện pháp rất quan trọng nhằm giữ vững
sự ổn định sức mua của đồng tiền quốc gia. Biện pháp này tác động trực tiếp vào tỷ giá hối
đoái.
Có hai dạng can thiệp của NHTW lên thị trường ngoại hối là: (1) can thiệp hữu hiệu,
và (2) can thiệp vô hiệu. Việc mua bán ngoại tệ được thực hiện trên nguyên tắc diễn biến giá
cả ngoại tệ trên thị trường và ý đồ can thiệp chủ quan của nhà nước. Do vậy việc lựa chọn
thời điểm cần mua bán ngoại tệ trên thị trường với tỷ giá nào để đạt mục tiêu điều chỉnh có ý
nghĩa quyết định. Để nắm được một cách đầy đủ tình hình cung cầu ngoại tệ trê thị trường,
ngày nay nhiều nước trên thế giới đã và đang tổ chức các thị trường ngoại tệ liên ngân hàng.
b. Chính sách lãi suất chiết khấu
Đây là phương pháp thường được sử dụng để điều chỉnh tỷ giá trên thị trường. Khi tỷ
giá hối đoái (e) cao ở mức báo động cần phải can thiệp thì NHTW nâng cao lãi suất chiết
khấu. Do lãi suất chiết khấu tăng làm lãi suất cho vay trên thị trường cũng tăng lên, kết quả là
vốn vay ngắn hạn trên thị trường thế giới sẽ dồn vào để thu lãi cao hơn. Nhờ đó, sự căng
thẳng về nhu cầu ngoại tệ sẽ bớt đi, tỷ giá hối đoái không có cơ hội tăng nữa.
Kể từ năm 2008 đến nay, tỷ giá luôn là một vấn đề nóng của nền kinh tế. Chỉ trong
vòng 3 năm tiền đồng đã mất giá hơn 20% so với đồng USD. Đặc biệt đợt điều chỉnh ngày
11/02/2011, tỷ giá liên ngân hàng tăng từ 18,932 lên 20,693 VND/USD, tăng 9.3%, đây là
mức điều chỉnh 1 lần cao nhất kể từ năm 1994 đến nay. Cùng với quyết định này, NHNN
quyết định giảm biên độ giao động từ +/-3% xuống còn +/-1%, cho nên thực chất tỷ giá niêm
18

yết chỉ tăng thêm 7.2%. Trước thực trạng đó, Chính phủ buộc phải thực hiện các biện pháp
nhằm giữ ổn định tỷ giá. Trong đó Chính phủ yêu cầu các doanh nghiệp nhà nước bán ngoại
tệ cho ngân hàng và ”siết” lại các hoạt động mua bán ngoại tệ trên thị trường tự do
Những biện pháp này đã phát huy hiệu quả khi hiện tại tỷ giá trên thị trường tự do
giảm xuống chỉ còn quanh mức 21,000 VND/USD.
Số liệu thống kê cho thấy, nước ta đã có một thời gian dài nằm trong tình trạng lạm
phát với tốc độ tăng giá bình quân hàng năm từ trên 140% đến 600%. Đặc biệt tình trạng siêu
lạm phát gần như liên tục suốt 6 năm liền (1982-1982 và 1985-1988) đã thực sự là một thảm
hoạ mà nhân dân ta phải gánh chịu. Có nhiều cách nhìn nhận và đánh giá khác nhau về
nguyên nhân gây ra lạm phát. Ở nước ta, sau quá trình nghiên cứu và phân tích tình hình kinh
tế – tài chính hơn một thập kỉ qua đã cho thấy nguyên nhân chính của tình trạng lạm phát là
sự mất cân đối về kinh tế, song nguyên nhân thúc đẩy lạm phát lên mức cao và ngày càng
trầm trọng lại thuộc về lĩnh vực tài chính. Tới năm 1988, bên cạnh một số chính sách về kinh
tế chung ta bắt đầu sử dụng công cụ tài chính để tấn công trở lại cơn sốt lạm phát. Đó là chính
sách sử dụng tỷ giá linh doạt, phù hợp với sự biến động giá cả trên thị trường và đặc biệt là
chính sách lãi suất tiết kiệm đảm bảo cho người gửu tiền không bị mất vốn do yếu tố lạm phát
gây ra. Việc đưa trần lãi suất tíêt kiệm có kì hạn lên 14%/ tháng là một liều thuốc cực mạnh
về mặt tâm lý để đánh vào lạm phát. Lượng tiền gửi vào tiết kiệm lập tức tăng vọt và lạm phát
giảm dần.
Đến nay với chính sách lãi suất hợp lý, tỷ lệ lạm phát ở nước ta đã giảm hẳn và ở mức
cho phép.
3.2.3. Sự phát triển của hệ thống ngân hàng Việt Nam
Hoạt động ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế và
phát triển các ngành kinh tế chủ chốt. Bên cạnh việc cho vay thương mại đối với các tổ chức
và cá nhân, hệ thống Ngân hàng còn là nguồn tài chính quan trọng để thực hiện các chủ
trương, chính sách của Đảng và Chính phủ như cho vay đối với hộ nghèo, vùng sâu, vùng xa,
góp phần hạn chế đáng kể sự chênh lệch phát triển giữa các nhóm thu nhập và giữa các vùng
trong nước, từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa.
Trong điều kiện thị trường tài chính còn sơ khai, tín dụng ngân hàng vẫn là kênh chủ yếu
cung ứng vốn cho chuyển dịch cơ cấu và phát triển kinh tế trong suốt những năm qua.

Căn cứ vào định hướng phát triển kinh tế – xã hội của Đảng và Chính phủ, nhiệm vụ
của ngành Ngân hàng, từng ngân hàng đã xây dựng và thực thi chính sách tín dụng riêng phù
hợp, góp phần đáng kể vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Cùng với nguồn vốn ngân sách,
tín dụng ngân hàng đã góp phần vào việc thực hiện thành công nhiều chương trình, dự án lớn
trọng điểm của quốc gia và của các ngành kinh tế mũi nhọn, nhất là khu vực công nghiệp –
xây dựng và khu vực nông nghiệp. Đây là hai nhóm ngành đóng góp lớn nhất cho tăng trưởng
kinh tế của đất nước.
19
Nhận thức sâu sắc quan điểm kinh tế nhiều thành phần và vai trò của các khu vực kinh
tế, hệ thống Ngân hàng Việt Nam đã có những chuyển biến căn bản về hoạt động tín dụng, tỉ
trọng cho vay khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đã tăng từ khoảng 20% năm 1989 lên khoảng
trên 60% trong giai đoạn hiện nay. Nhờ đó, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã mở rộng
sản xuất kinh doanh, đóng góp ngày càng nhiều cho tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm và thu
nhập cho người lao động.
Thông qua đổi mới hoạt động tín dụng, hệ thống ngân hàng Việt Nam đã biến quan
điểm, đường lối đổi mới của Đảng, Chính phủ và NHNN thành hiện thực. Những quan điểm
đổi mới này được thể hiện trong các văn kiện của Đảng, các văn bản pháp quy, trong đó có
đổi mới tín dụng ngân hàng. Những ý tưởng quan trọng này được khởi nguồn từ Quyết định
32/1977/CP của Hội đồng Chính phủ về chủ trương cải tiến và mở rộng tín dụng ngân hàng,
các văn bản của Nhà nước và của ngành Ngân hàng ban hành sau năm 1986, trong đó có
Quyết định số 1300/1990/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng thử nghiệm xóa bỏ bao cấp trong
xây dựng cơ bản.
Đáng chú ý, ngành Ngân hàng đã coi đổi mới hoạt động tín dụng ngân hàng là khâu
quan trọng trong đổi mới quản lý kinh tế, từng bước xóa bỏ phương thức quản lý bao cấp sang
quản lý theo chế độ hạch toán kinh tế, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và sử dụng vốn
ngân hàng. Các doanh nghiệp đã phát huy tinh thần tự chủ và tự chịu trách nhiệm trong sản
xuất kinh doanh, giảm dần sự ỷ lại và trông chờ vào sự bao cấp của Chính phủ. Ngành Ngân
hàng cũng đóng góp đáng kể vào việc phát huy nội lực, huy động các nguồn vốn trong nước
cho sản xuất kinh doanh và đầu tư phát triển, góp phần chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch
hóa tập trung sang kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, từ nền kinh tế khép

kín và phụ thuộc vào nhập khẩu sang nền kinh tế mở định hướng xuất khẩu, tăng dần khả
năng cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế của các doanh nghiệp Việt Nam.
Bên cạnh đó, ngành Ngân hàng đã hỗ trợ có hiệu quả trong việc tạo việc làm mới và
thu hút lao động, góp phần cải thiện thu nhập và giảm nghèo bền vững. Thông qua nguồn vốn
tín dụng cho các chương trình và dự án phát triển sản xuất kinh doanh, hàng năm hệ thống
Ngân hàng đã góp phần tạo thêm được hàng triệu việc làm mới, nhất là tại các vùng nông
thôn. Việc sử dụng nguồn vốn ngân hàng cho mục đích này ngày càng có tính chuyên nghiệp,
minh bạch và hiệu quả, nhất là từ khi tín dụng chính sách được tách bạch với tín dụng thương
mại và giao cho Ngân hàng Chính sách xã hội đảm nhiệm.
Ở Việt Nam đã hình thành hệ thống ngân hàng hai cấp, nhờ đó đã thiết lập được một
mạng lưới cung cấp dịch vụ ngân hàng phong phú, phục vụ mọi thành phần kinh tế. Tính đến
nay, hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD) Việt Nam bao gồm 5 NHTMNN ( có 2 ngân hàng
đã hoàn thành cổ phần hoá là Ngân hàng ngoại thương Việt Nam và Ngân hàng Công thương
VN), 1 Ngân hàng Chính sách xã hội, 37 NHTMCP, 45 chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 5
ngân hàng 100% vốn nước ngoài, 5 ngân hàng liên doanh, 47 văn phòng đại diện TCTD nước
ngoài tại Việt Nam, 17 công ty tài chính, 13 công ty cho thuê tài chính, 01 quỹ tín dụng nhân
20
dân trung ương và hơn 1000 quĩ tín dụng nhân dân cơ sở. Mạng lưới hoạt động của các ngân
hàng đã trải rộng tới nhiều tỉnh, thành phố trên cả nước. Đa số các TCTD vẫn tiếp tục có nhu
cầu mở rộng mạng lưới. Giữa trụ sở và các chi nhánh về cơ bản đã được kết nối trực tuyến, do
đó chất lượng quản lý trong hệ thống của nội bộ từng TCTD đã có sự cải thiện đáng kể.
Ngoài ra, ngành Ngân hàng góp phần tích cực vào việc bảo vệ môi trường sinh thái,
đảm bảo phát triển bền vững. Đóng góp này được thể hiện qua công tác thẩm định dự án,
quyết định cho vay vốn ngân hàng đối với các dự án và giám sát quá trình thực hiện một cách
chặt chẽ sau khi cho vay, các TCTD luôn chú trọng yêu cầu các khách hàng đảm bảo an toàn
và hiệu quả trong việc sử dụng vốn vay, tuân thủ các cam kết quốc tế và các qui định về bảo
vệ môi trường.
=> Qua phân tích trên có thể đi đến kết luận:
- Nhà nước có vai trò quyết định trong việc điều hành kinh tế vĩ mô thực hiện các mục
tiêu chiến lược kinh tế – xã hội. Trong đó, tài chính là một công cụ đắc lực giúp nhà nước

trong việc ổn định và phát triển kinh tế. Do đó, nó có vai trò quan trọng trong nền kinh tế.
- Tài chính có vị trí hai mặt: vừa là công cụ trọng yếu để Nhà nước điều hành vĩ mô có
hiệu quả, vừa là sức mạnh với các quĩ tiền tệ hoạt động sinh lời, hoạt động theo quy luật
thông qua ngân sách nhà nước.
21
KẾT LUẬN
Trong nền kinh tế thị trường, sự tồn tại và phát triển của thị trường tài chính là yếu tố
khách quan. Thị trường tài chính ra đời đã làm đa dạng hoá và phức tạp hoá mọi hoạt động tài
chính. Nó không chỉ nhận ra một cách thụ động các ảnh hưởng của nền kinh tế mà còn gây ra
nhiều tác động đáng kể đến sự phát triển và tăng trưởng của nền kinh tế. Và như thế nó có vai
trò nhất định đối với sự vận hành kinh tế và trở thành công cụ đắc lực giúp nhà nước quản lý
hiệu quả nền kinh tế.
Chính vì vậy mỗi chúng ta đặc biệt là các nhà kinh tế tương lai luôn phải ý thức tìm
tòi, nghiên cứu các phạm trù về thị trường tài chính, tiền tệ, không ngừng học hỏi nâng cao
nghiệp vụ để có thể tham gia và đóp góp nhiều năng lực của mình vào việc phát triển va hoàn
thiện thị trường tài chính của Việt Nam. Trước mắt cần phải tìm cách để dưa các hoạt động tài
chính vào các phương tiện thông tin đại chúng, vào cuộc sống hàng ngày của dân chúng làm
cơ sở, tiền đề để có thể huy động tối đa nguồn lực con người cho sự phát triển.
22

×