Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

các nguyên nhân và giải pháp kìm chế lạm phát tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (278.61 KB, 31 trang )

Đề án Môn học Lý thuyết tài chính tiền tệ
MỤC LỤC
SVTH: Phạm Thị Thanh Loan –TCDN 21.35
Đề án Môn học Lý thuyết tài chính tiền tệ
DANH MỤC BẢNG VÀ BIỂU ĐỒ
SVTH: Phạm Thị Thanh Loan –TCDN 21.35
Đề án Môn học Lý thuyết tài chính tiền tệ
LỜI MỞ ĐẦU
Trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của các quốc gia trên thế giới nói
chung và ở Việt Nam riêng, lạm phát nổi lên là một vấn đề đáng quan tâm về tác
động của nó đối với sự nghiệp phát triển kinh tế. Lạm phát là một trong những chỉ
tiêu đánh giá trình độ phát triển kinh tế của một quốc gia nhưng cũng là một trong
những trở ngại lớn nhất trong công cuộc phát triển đất nước. Càng ngày, cùng với
sự phát triển đa dạng phong phú của nền kinh tế thì nguyên nhân dẫn đến lạm phát
cũng ngày càng trở nên phức tạp hơn. Đối với nước ta, trong sự nghiệp phát triển
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự điều tiết của nhà nước, cơ chế
mới sẽ là môi trường thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế theo xu hướng hiện đại,
chắt lọc thừa kế những thành tựu và khắc phục những tồn tại đã qua. Trong đó, lạm
pháp nổi lên như là một vấn đề hết sức nghiêm trọng. Vì vậy, việc nguyên cứu về
lạm phát, tìm hiểu nguyên nhân và các biện pháp chống lạm phát là hết sức cần thiết
và có vai trò to lớn góp phần vào sự nghiệp phát triển của đất nước.
Xuất phát từ những lý do trên đây, em chọn thực hiện nghiên cứu đề tài: “Các
nguyên nhân và giải pháp kìm chế lạm phát tại Việt Nam”.
SVTH: Phạm Thị Thanh Loan –TCDN 21.35
1
Đề án Môn học Lý thuyết tài chính tiền tệ
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ LẠM PHÁT
1.1 Tổng quan về lạm phát
1.1.1 Khái niệm lạm phát
Lạm phát là một phạm trù vốn có của nền kinh tế thị trường, nó xuất hiện khi
các yêu cầu của các quy luật kinh tế hàng hoá không được tôn trọng, nhất là quy


luật lưu thông tiền tệ. Ở đâu còn sản xuất hàng hoá, còn tồn tại những quan hệ hàng
hoá tiền tệ thì ở đó còn tiềm ẩn khả năng xảy ra lạm phát và lạm phát chỉ xuất hiện
khi các quy luật của lưu thông tiền tệ bị vi phạm.
Lạm phát đã trở thành mối quan tâm của nhiều nhà kinh tế cũng như các nhà
khoa học khác. Do đó lạm phát đã được đề cập đến rất nhiều trong các công trình
nghiên cứu của các nhà kinh tế. Mỗi người đều đưa ra khái niệm lạm phát theo quan
điểm và phương hướng nghiên cứu của mình.
- Trong bộ tư bản nổi tiếng của mình, Các Mác viết :”Việc phát hành tiền giấy
phải được giới hạn ở số lượng vàng hoặc bạc thực sự lưu thông nhờ các đại diện
tiền giấy của mình “. Điều này có nghĩa là khi khối lượng tiền giấy do Nhà nước
phát hành vào lưu thông vượt qua số lượng vàng mà nó đại diện thì giá trị của tiền
giấy giảm xuống ,giá cả tăng vọt và tình trạng lạm phát xuất hiện .
Từ đây, ông cho rằng lạm phát là “ bạn đường “ của chủ nghĩa tư bản. Không
những chủ nghĩa tư bản bóc lột người lao động bằng giá trị thặng dư mà còn gây ra
lạm phát giảm tiền lương của người lao động.
- Nhà kinh tế học Samuelson cho rằng : “Lạm phát xảy ra khi mức chung của
giá cả và chi phí tăng – giá bánh mì, xăng dầu, xe ô tô tăng, tiền lương, giá đất, tiền
thuê tư liệu sản xuất tăng”. Ông thấy rằng lạm phát là sự biểu thị tăng lên của giá
cả.
- Còn Milton Friedman lại quan niệm khác : “Lạm phát là việc giá cả tăng
nhanh và kéo dài”. Ông cho rằng lạm phát là một hiện tượng tiền tệ. Một số nhà
kinh tế thuộc phái tiền tệ và phái Keynes đều tán thành ý kiến đó của Friedman. Họ
cho rằng khi thị trường tiền tệ phát triển, ảnh hưởng đến nền kinh tế quốc dân của
SVTH: Phạm Thị Thanh Loan –TCDN 21.35
2
Đề án Môn học Lý thuyết tài chính tiền tệ
mỗi nước thì lạm phát có thể xảy ra bất cứ thời điểm nào. Nó chính là một hiện
tượng tất yếu của tài chính tiền tệ.
- Một định nghĩa nữa về lạm phát do các nhà kinh tế học hiện đại đưa ra và nó
được sử dụng rộng rãi trong lĩnh vực nghiên cứu thị trường : “Lạm phát là sự tăng

lên của mức giá trung bình theo thời gian”.
1.1.2 Các chỉ số đo lường lạm phát
Lạm phát được đo lường bằng tỷ lệ lạm phát mà nó là suất tăng của mức giá
chung theo thời gian. Vấn đề đặt ra trước tiên là mức giá chung được tính toán như
thế nào? Hai thước đo thông dụng phản ánh mức gía chung là chỉ số giá tiêu dùng
(CPI) và chỉ số giảm phát hay còn gọi là chỉ số điều chỉnh GDP (GDP deflator).
Chỉ số giá tiêu dùng là một tỷ số phản ánh giá của rổ hàng hoá trong nhiều năm
khác nhau so với giá của cùng rổ hàng hoá đó trong năm gốc. Chỉ số giá này phụ
thuộc vào năm được chọn làm gốc và sự lựa chọn rổ hàng hoá tiêu dùng. Nhược
điểm chính của chỉ số này là mức độ bao phủ cũng như sử dụng trọng số cố định
trong tính toán. Mức độ bao phủ của chỉ số giá này chỉ giới hạn đối với một số hàng
hoá tiêu dùng và trọng số cố định dựa vào tỷ phần chi tiêu đối với một số hàng hoá
cơ bản của người dân thành thị mua vào năm gốc. Những nhược điểm mà chỉ số này
gặp phải khi phản ánh giá cả sinh hoạt là (i) không phản ánh sự biến động của giá
hàng hoá tư bản; (ii) không phản ánh sự biến đổi trong cơ cấu hàng hoá tiêu dùng
cũng như sự thay đổi trong phân bổ chi tiêu của người tiêu dùng cho những hàng hoá
khác nhau theo thời gian.
Chỉ số điều chỉnh GDP là loại chỉ số có mức bao phủ rộng nhất. Nó bao gồm
tất cả các hàng hoá và dịch vụ được sản xuất trong nền kinh tế và trọng số tính toán
được điều chỉnh tuỳ thuộc vào mức độ đóng góp tương ứng của các loại hàng hoá và
dịch vụ vào giá trị gia tăng. Về mặt khái niệm, đây là chỉ số đại diện tốt hơn cho việc
tính toán tỷ lệ lạm phát trong nền kinh tế. Tuy nhiên, chỉ số giá này không phản ánh
trực tiếp sự biến động trong giá hàng nhập khẩu cũng như sự biến động của tỷ giá
hối đoái. Nhược điểm chính của chỉ số giá này là không thể hiện được sự thay đổi
của chất lượng hàng hoá khi tính toán tỷ lệ lạm phát và chỉ số không phản ánh được
sự biến động giá cả trong từng tháng.
Chỉ số giá cả sản xuất (PPI) - chỉ số giá bán buôn cũng hay được sử dụng. Chỉ
số này được xây dựng để tính giá cả trong lần bán đầu tiên do người sản xuất ấn
định. Chỉ sổ này khá hữu ích khi nó tính được chi tiết sát với những thay đổi của
thực tế.

SVTH: Phạm Thị Thanh Loan –TCDN 21.35
3
Đề án Môn học Lý thuyết tài chính tiền tệ
Ngoài ra, một số chỉ số khác cũng được quan tâm, xem xét khi đánh giá mức độ
lạm phát như: Chỉ số giá sinh hoạt (CLI), Chỉ số giá hàng hóa , Chỉ số giá chi phí
tiêu dùng cá nhân (PCEPI)…
1.2 Phân loại lạm phát
Có nhiều cách để phân loại lạm phát. Dựa trên các tiêu thức khác nhau sẽ có
các loại lạm phát khác nhau
1.2.1. Căn cứ vào định lượng
- Lạm phát vừa phải : còn gọi là lạm phát một con số, chỉ số lạm phát dưới
10%. Lạm phát vừa phải làm cho giá cả biến động tương đối. Trong thời kỳ này,
nền kinh tế hoạt động bình thường, đời sống của người dân ổn định. Sự ổn định đó
được biểu hiện là giá cả tăng chậm, lãi suất tiền gửi và tiền vay không tăng cao,
không xảy ra tình trạng mua bán và tích trữ hàng hóa với số lượng lớn.
Có thể nói đây là mức lạm phát mà nền kinh tế có thể chấp nhận được, những
tác động của nó là không đáng kể. Mặt khác lạm phát vừa phải tạo tâm lý an tâm
cho người lao động chỉ trông chờ vào thu nhập. Trong thời gian này các hãng kinh
doanh có khoản thu ổn định, ít rủi ro và sẵn sàng đầu tư cho sản xuất kinh doanh.
- Lạm phát phi mã : Lạm phát xảy ra khi giá cả tăng tương đối nhanh với 2
hoặc 3 con số một năm. Ở mức phi mã lạm phát làm cho giá cả tăng lên nhanh
chóng, gây biến động lớn về kinh tế. Lúc này người dân tích trữ hàng hóa, vàng
bạc, bất động sản và không bao giờ cho vay tiền ở mức lãi suất thông thường. Như
vậy lạm phát phi mã sẽ gây ảnh hưởng xấu đến sản xuất và thu nhập vì những tác
động tiêu cực của nó không nhỏ. Bên cạnh đó lạm phát phi mã còn là sự đe dọa
tới sự ổn định lâu dài của nền kinh tế.
- Siêu lạm phát : Ba con số một năm xảy ra khi lạm phát đột biến tăng lên với
tốc độ rất nhanh, tỷ lệ lạm phát cao .Tốc độ và tỷ lệ siêu lạm phát vượt xa lạm phát
phi mã, nó như một căn bệnh chết người, tốc độ lưu thông tiền tệ tăng, giá cả tăng
nhanh và không ổn định, tiền luơng thực tế của người lao động bị giảm mạnh, tiền

tệ mất giá nhanh chóng, thông tin không còn chính xác, các yếu tố thị trường biến
dạng và hoạt động sản xuất kinh doanh lâm vào tình trạng rối loạn, mất phương
hướng. Tóm lại, siêu lạm phát làm cho đời sống và nền kinh tế suy sụp một cách
nhanh chóng. Tuy nhiên siêu lạm phát rất ít xảy ra .
SVTH: Phạm Thị Thanh Loan –TCDN 21.35
4
Đề án Môn học Lý thuyết tài chính tiền tệ
1.2.2 Căn cứ vào định tính
1.2.2.1. Lạm phát cân bằng và lạm phát không cân bằng .
- Lạm phát cân bằng: Tăng tương ứng với thu nhập thực tế của người lao động,
tăng phù hợp với hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Do đó
không gây ảnh hưởng đến đời sống hàng ngày của người lao động và dến nền kinh
tế nói chung.
- Lạm phát không cân bằng: Tăng không tương ứng với thu nhập của người lao
động. Trên thực tế loại lạm phát này cũng thường hay xảy ra.
1.2.2.2. Lạm phát dự kiến được trước được và lạm phát không dự kiến được
- Lạm phát dự kiến được trước: là loại lạm phát xảy ra hàng năm trong một
thời kì tương đối dài và tỷ lệ lạm phát ổn định đều đặn. Loại lạm phát này có thể dự
đoán trước được tỷ lệ của nó trong các năm tiếp theo. Về mặt tâm lý, người dân đã
quen với tình trạng lạm phát đó và đã có sự chuẩn bị trước. Do đó không gây ảnh
hưởng đến đời sống, đến kinh tế .
- Lạm phát không dự kiến được: xảy ra đột biến mà có thể từ trước chưa xuất
hiện. Loại lạm phát này ảnh hưởng đến tâm lý, đời sống người dân vì họ chưa kịp
thích nghi. Từ đó mà loại lạm phát này sẽ gây ra biến động đối với nền kinh tế và
niềm tin của nhân dân vào chính quyền có phần giảm sút .
1.3 Tác động của lạm phát:
1.3.1 Lạm phát và lãi suất:
Từ thực tế diễn biến lạm phát của các nước trên thế giới các nhà kinh tế học
cho rằng: lạm phát cap triền miên có ảnh hưởng xấu tới mọi mặt của đời sống kinh
tế, chính trị và xã hội của một quốc gia.

Tác động đầu tiên của lạm phát là tác động lên lãi suất.
Để duy trì và ổn định sự hoạt động của mình, hệ thống ngân hàng phải luôn
luôn cố gắng duy trì tính hiệu quả của cả tài sản Nợ và tài sản Có của mình, tức là
luôn luôn phải giữ cho lãi suất thực ổn định. Ta biết rằng, lãi suất thực = lãi xuất
danh nghĩa - tỷ lệ lạm phát. Do đó khi tỉ lệ lạm phát càng tăng cao, nếu muốn giữ
cho lãi suất thực ổn định thì lãi xuất danh nghĩa phải tăng lên cùng với tỷ lệ lạm
phát, Việc tăng lãi suất danh nghĩa sẽ dẫn tới hậu quả là nền kinh tế bị suy thoái và
thất nghiệp gia tăng.
SVTH: Phạm Thị Thanh Loan –TCDN 21.35
5
Đề án Môn học Lý thuyết tài chính tiền tệ
1.3.2 Lạm phát và thu nhập thực tế
Trong trường hợp thu nhập danh nghĩa không đổi lạm phát xảy ra sẽ làm giảm
thu nhập thực tế của người lao động. Với 600.000 đồng tiền lương một tháng như
hiện nay, một công nhân sẽ mua được 2 tạ gạo (với giá 3.000đ/1kg). Vào năm sau,
nếu tiền lương công nhân này không thay đổi nhưng tỷ lệ lạm phát trong nền kinh tế
vào năm sau tăng thêm là 50% so với năm trước, tức là giá gạo tăng lên là
4.500đ/1kg thì với số tiền lương nhận được trong một tháng, người công nhân này
chỉ có thể mua được 133,3kg gạo.
Lạm phát không chỉ làm giảm giá trị thực của tài sản không có lãi (tức là tiền
mặt) mà nó còn làm hao mòn giá trị của những tài sản có lãi, tức là làm giảm thu
nhập thực từ các khoản lãi, các khoản lợi tức. Điều đó xảy ra là do chính sách thuế
của Nhà nước được tính trên cơ sở của thu nhập danh nghĩa. Khi lạm phát tăng cao,
những người đi vay tăng lãi suất dạnh nghĩa để bù đắp vào tỷ lệ lạm phát tăng cao,
điều đó làm cho số tiền thuế thu nhập mà người có tiền cho vay phải nộp tăng cao
(mặc dù thuế suất không thay đổi). Kết quả cuối cùng là thu nhập ròng (thu nhập
sau thuế) sau khi đã loại trừ các tác động của lạm phát mà người cho vay nhận được
bị giảm đi.
Mặt khác, suy thoái kinh tế, thất nghiệp gia tăng, đời sống người lao động trở lên
khó khăn hơn sẽ làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Chính phủ và những hậu

quả về chính trị, xã hội có thể xảy ra.
1.3.3 Lạm phát và thu nhập phân phối không bình đẳng
Trong quan hệ kinh tế giữa người đi vay và người cho vay, khi lạm phát tăng
cao người cho vay sẽ là người bị thiệt và người đi vay là người được lợi. Điều này
tạo nên sự phân phối thu nhập không bình đẳng giữa người cho vay và người đi vay.
Hơn thế nữa, nó con thúc đẩy những người kinh doanh tăng cường thu hút tiền vay để
đầu cơ kiếm lợi. Do vậy càng tăng thêm nhu cầu tiền vay trong nền kinh tế, đẩy lãi suất
lên cao.
Lạm phát tăng cao còn khiến những người thừa tiền và giàu có dùng tiền của
mình vơ vét, thu gom hàng hoá, tài sản…và nạn đầu cơ xuất hiện. Tình trạng này
càng làm mất cân đối quan hệ cung - cầu hàng hoá trên thị trường, giá cả hàng hoá
cũng lên cơn sốt cao hơn. Cuối cùng những người dân nghèo vốn đã nghèo càng trở
lên khốn khó hơn. Họ thậm chí không mua nổi những hàng hoá thiết yếu, trong khi
đó những kẻ đầu cơ đã vơ vét sạch hàng hoá và trở lên càng giàu có hơn. Tình trạng
làm phát như vậy có thể gây ra những rối loạn trong nền kinh tế và tạo ra khoảng
cách lớn về thu nhập, về mức sống giữa người giàu và người nghèo.
SVTH: Phạm Thị Thanh Loan –TCDN 21.35
6
Đề án Môn học Lý thuyết tài chính tiền tệ
1.3.4 Lạm phát và nợ quốc gia
Lạm phát cao làm cho chính phủ được lợi do thuế thu nhập đánh vào người
dân nhưng những khoản nợ nước ngoài sẽ trở lên trầm trọng hơn. Chính phủ được
lợi trong nước nhưng sẽ bị thiệt với nợ nước ngoài. Lý do là vì lạm phát đã làm tỷ
giá tăng cao và đồng tiền trong nước trở lên mất giá nhanh hơn so với đồng tiền
nước ngoài tính trên các khoản nợ.
1.4 Nguyên nhân gây ra lạm phát
Hiện tượng lạm phát là căn bệnh cố hữu của mọi nền kinh tế đang có tốc độ
tăng trưởng dương, để khắc phục hiện tượng này, trước hết ta phải phân tích được
những nguyên nhân trực tiếp và gián tiếp gây ra nó. Bởi vì, lạm phát luôn luôn là
kết quả của sự tác động tổng hợp của các yếu tố kinh tế khác nhau, và thường thì rất

khó nhận ra đâu là nguyên nhân chủ yếu, nên việc chống lạm phát thường gặp nhiều
khó khăn. Từ sự phân tích đúng đắn này, ta mới có thể đề ra các giải pháp quản lí,
sử dụng các công cụ điều tiết vĩ mô (bao gồm: chính sách tài khoá, chính sách tiền
tệ, chính sách kinh tế đối ngoại, chính sách thu nhập) phối hợp thực hiện một cách
đồng bộ với nhau nhằm tạo ra một tác động tổng hợp kiềm chế lạm phát ở mức độ
vừa phải, tạo điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế phát triển một cách bền vững.
1.4.1 Cung ứng tiển
Về cơ bản, lạm phát là một hiện tượng tiền tệ và sự gia tăng giá suy cho cùng
là do sự gia tăng tiền. Milton Friedman đã từng nói: "lạm phát ở mọi lúc, mọi nơi
luôn là một hiện tượng tiền tệ" (Friedman 1991).
Các nhà kinh tế cổ điển (Irving Fisher, 1911) cho rằng mối quan hệ giữa thu
nhập danh nghĩa (PY) và lượng tiền (M) là ổn định và có thể dự đoán được thông
qua phương trình định lượng MV=PY. Trong đó M là lượng tiền, V là vận tốc lưu
thông của tiền được giả thiết là ổn định, P là mức giá chung và Y là GDP thực. Mối
quan hệ giữa tiền và gía được thiết lập bằng cách giả định thêm rằng rằng (1) GDP
thực là khá ổn định và không phụ thuộc vào các yếu tố phi tiền tệ; (2) lượng tiền tệ
là biến ngoại sinh phụ thuộc vào chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương; và
(3) tiền chủ yếu được sử dụng để giao dịch, nghĩa là chỉ có một chức năng trung
gian trao đổi. Cách giải thích này đi đến kết luận rằng cung tiền quyết định giá trong
nền kinh tế, song cách giải thích này quá đơn giản vì nó sử dụng một đồng nhất
thức để xây dựng một lý thuyết.
SVTH: Phạm Thị Thanh Loan –TCDN 21.35
7
Đề án Môn học Lý thuyết tài chính tiền tệ
Cuộc cách mạng về lý thuyết Keynes chống lại lý thuyết cổ điển cho rằng cầu
không nhất thiết bằng với cung. Có thể do tâm lý bi quan vì sự bất ổn của nền kinh
tế trong tương lai nên cầu giảm sút. Lúc này lượng tồn kho tăng và các nhà sản xuất
phải thu hẹp sản xuất cho tới khi cung và cầu gặp nhau ở mức cân bằng thiểu dụng.
Để giải quyết suy thoái, Keynes cho rằng cần phải thực hiện chính sách tài khoá mở
rộng thông qua tăng cầu tiêu dùng của chính phủ. Dựa vào giả thiết đầu tư không

nhạy cảm đối với sự biến động của lãi suất, Keynes cho rằng in tiền và tăng tín
dụng không làm thay đổi cầu. Theo Keynes, lạm phát là do cầu vượt quá mức sản
lượng tiềm năng và thặng dư cầu không thể quy cho thặng dư cung tiền. Tuy nhiên,
nếu phân tích kỹ thì việc chi tiêu của chính phủ và giảm thuế kéo dài là không thể
thực hiện được và cuối cùng phải thừa nhận lạm phát là do tăng cung tiền. Tự thân
chính sách tài khoá không thể gây nên lạm phát nếu không có sự tiếp ứng của Ngân
hàng Trung ương.
1.4.2 Thâm hụt ngân sách
Quan điểm của các nhà kinh tế trọng tiền cho rằng lạm phát là một hiện tượng
tiền tệ và tỷ lệ lạm phát bằng suất tăng cung tiền trong dài hạn. Tỷ lệ lạm phát tăng
cao là hệ quả của việc tăng cao suất tăng cung tiền. Nhưng vấn đề được đặt ra là vì
lẽ gì mà Ngân hàng Trung ương phải tăng suất tăng cung tiền để dẫn đến lạm phát?
Để trả lời câu hỏi này, chúng ta phải đi tìm động cơ của việc tăng suất tăng cung
tiền. Có nhiều nguyên nhân chẳng hạn như theo đuổi mục tiêu tạo công ăn việc làm
khi có cú sốc cung bất lợi hoặc là vấn đề tài chính, nhưng nguyên nhân chính là vấn
đề tài chính: tài trợ thâm hụt ngân sách bằng cách phát hành tiền. Khi ngân sách
thâm hụt lớn do nhu cầu chi tiêu cho chiến tranh, hay vì thu nhập giảm do nền kinh
tế suy thoái gây ra thì thu nhập từ việc in tiền là một nguồn tài trợ cho sự thâm hụt
trong ngân sách đơn giản nhất. Thực ra, có nhiều phương án tài trợ cho sự thâm hụt
này, song chúng ta dễ dàng nhận ra là sự thâm hụt trong ngân sách quá lớn sẽ làm
giảm lòng tin đối với các nhà đầu tư tài chính về khả năng trả nợ của chính phủ, cho
nên họ sẽ từ chối mua trái phiếu của chính phủ phát hành. Điều này làm giới hạn
các phương án tài trợ cho chính phủ khi ngân sách thâm hụt lớn.
Riêng đối với những nước đang phát triển, chính phủ càng gặp khó khăn hơn
khi tìm kiếm phương án tài trợ cho thâm hụt do thị trường tài chính kém phát triển.
Nguồn gốc của khó khăn là do khả năng thay thế giữa tài sản tài chính và tiền
không cao. Thị trường trái phiếu trong những nước đang phát triển chủ yếu là thị
trường trái phiếu của chính phủ với kỳ hạn thường thấp hơn 1 năm. Điều này cho
SVTH: Phạm Thị Thanh Loan –TCDN 21.35
8

Đề án Môn học Lý thuyết tài chính tiền tệ
thấy khi đối diện với sự thâm hụt ngân sách lớn, các nhà chức trách thường phải tài
trợ thông qua việc in tiền.
Ở các nước phát triển, thị trường vốn phát triển, vì vậy một khối lượng lớn trái
phiếu chính phủ có thể được bán ra và nhu cầu trang trải thâm hụt ngân sách nhà
nước được thực hiện từ nguồn vốn vay của chính phủ. Tuy nhiên, nếu chính phủ của
liên tục phát hành trái phiếu ra thị trường, cầu về vốn sẽ tăng, do đó, lãi suất sẽ tăng
cao. Để hạn chế việc tăng lãi suất thị trường, Ngân hàng trung ương sẽ mua vào các
trái phiếu đó, điều này làm cho cung tiền tăng.
Do vậy, trong mọi trường hợp, tình trạng thâm hụt ngân sách nhà nước cao,
kéo dài sẽ là nguồn gốc tăng cung ứng tiền và gây ra lạm phát.
1.4.3 Chỉ tiêu công ăn việc làm cao
Cho mãi đến năm những năm 1970, hầu hết các nhà kinh tế khi nghiên cứu
chu kỳ kinh tế thường tập trung về phía cầu và ít khi bàn đến phía cung như cú sốc
về công nghệ, tăng việc làm. Chính sự tách bạch này làm cho mô hình kinh tế vĩ mô
thời đó trở nên bất lực khi dự đoán những tác động thay đổi đối với sản lượng, giá
cả khi điều kiện kinh tế thay đổi như cú sốc giá dầu lửa vào những thập niên 70.
Kydland và Prescott, hai nhà kinh tế nhận giải thưởng Nobel 2004, đã phối hợp
phân tích chu kỳ kinh tế và tăng trưởng kinh tế nhằm giải thích hiện tượng chu kỳ
kinh tế là do tăng năng suất và tăng việc làm. Điều này có nghĩa là cú sốc về phía
cung cũng gây ra hiện tương chu kỳ. Đây cũng là cơ sở cho ta lý giải việc tăng giá
hiện nay có thể là do cú sốc về phía cung gây ra, song trong trường hợp này lạm
phát chỉ xảy ra khi có sự đáp lại của cú sốc cung thông qua phát hành tiền. Nếu
không, nền kinh tế sẽ tự điều chỉnh về trạng thái ban đầu.
Lạm phát sinh ra khi Chính phủ các nước thực hiện chỉ tiêu này bao gồm:
- Lạm phát chi phí đẩy
- Lạm phát do cầu kéo
1.4.4 Tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái giữa đồng nội tệ so với đơn vị tiền tệ nước ngoài tăng cũng là
nguyên nhân gây ra lạm phát.

Khi tỷ giá tăng, đồng nội tệ mất giá, trước hết nó tác động tới tâm lý của
những người sản xuất trong nước, muốn kéo giá hàng lên theo mức tăng của tỷ giá
hối đoái.
Thứ hai, khi tỷ giá tăng, giá nguyên liệu, hàng hoá nhập khẩu cũng tăng cao,
đẩy chi phí sản xuất tăng dẫn tới tình trạng lạm phát do chi phí đẩy. Việc tăng giá
SVTH: Phạm Thị Thanh Loan –TCDN 21.35
9
Đề án Môn học Lý thuyết tài chính tiền tệ
của nguyên liệu, hàng hoá nhập khẩu thường gây ra phản ứng dây chuyền, làm tăng
giá cả ở các hàng hoá khác, đặc biệt là hàng hoá ở những ngànhcó sử dụng nguyên
liệu nhập khẩu và những ngành có mối liên hệ chặt chẽ với nhau (nguyên liệu của
ngành này là sản phẩm của ngành khác…).
1.5 Các biện pháp khắc phục lạm phát
1.5.1 Biện pháp đối phó với lạm phát
Trước những tác hại của lạm phát và yêu cầu chống lạm phát cao ở nhiều nước,
các nhà kinh tế đã lao vào nghiên cứu, phân tích vấn đề này với mục đích lý giải
được những nguyên nhân gây ra và duy trì lạm phát có hiệu quả. Việc đẩy lùi lạm
phát ở mức độ có thể duy trì đòi hỏi các quốc gia, các tổ chức chính phủ phải sử
dụng các biện pháp hữu hiệu, ngắn hạn hay dài hạn như : Chính sách tài khóa, chính
sách tiền tệ, chính sách giá cả và chính sách thu nhập. Tùy theo phương pháp
nghiên cứu của các nhà kinh tế đưa ra theo nhiều cách lý giải khác nhau, chủ yếu là
bốn lý luận cơ bản như: lạm phát theo thuyết tiền tệ, lạm phát theo nhu cầu, lạm
phát do chi phí đẩy, lạm phát dự kiến. Tuy nhiên đây cũng là những luận điểm lý
thuyết mang tính tương đối có phần sai lệch so với lạm phát xảy ra trong thực tế. Vì
vậy khi tìm hiểu cần đặt vấn đề này trong điều kiện hoàn cảnh của riêng mình từ đó
có những biện pháp sát với thực tế nhằm kiểm soát có hiệu quả lạm phát.
1.5.1.1 Biện pháp tình thế:
Việc sử dụng chính sách tài khóa chính là việc sử dụng thuế khóa và chi tiêu
công cộng để điều tiết mức giá chung của nền kinh tế. Khi nền kinh tế đang trong
giai đoạn phát triển quá nóng tức là nền kinh tế ở quá xa bên phải mức sản lượng

tiềm năng và lạm phát tăng lên. Chính phủ điều tiết bằng cách có thể giảm chi tiêu
và tăng thuế, nhờ đó mức chi tiêu chung giảm đi và mức lạm phát chững lại. Theo
Keynes, chính sách tài khóa có thể coi là phương thuốc hữu hiệu để ổn định nền
kinh tế. Tuy nhiên, trong thực tế chính sách tài khóa lại không đủ sức mạnh đến như
vậy, đặc biệt là trong nền kinh tế hiện đại. Việc áp dụng chính sách tài khóa trong
thực tiễn đòi hỏi cần thiết phải có một cơ chế đặc biệt, đó là cơ chế “ổn định tự
động”.
Một chính sách hữu hiệu nữa cũng rất thường được áp dụng khi có lạm phát xảy
ra, đó là chính sách tiền tệ. Tiền nói chung có ảnh hưởng rất lớn đối với trạng thái
hoạt động của nền kinh tế. Lịch sử cũng đã cho thấy mối quan hệ chặt chẽ giữa lạm
phát và tiền tệ. Lạm phát được coi là một hiện tượng tiền tệ, biểu hiện của nó là sự
gia tăng mức giá trung bình và bất cứ một biến cố tiêu cực nào của hệ thống tiền tệ
SVTH: Phạm Thị Thanh Loan –TCDN 21.35
10
Đề án Môn học Lý thuyết tài chính tiền tệ
cũng có thể gia tăng lạm phát. Khi nghiên cứu lạm phát thực tế cho thấy bất kỳ một
cuộc khủng hoảng lạm phát nào xảy ra đều gắn liền với sự gia tăng khối lượng tiền
tệ và việc giảm mức cung tiền làm giảm tỷ lệ lạm phát. Mức cung tiền tăng có thể
được tiến hành bằng nhiều cách như : tăng lượng tiền cơ sở, ngân hàng trung ương
phát hành thêm tiền, hạ lãi suất chiết khấu, giảm dự trữ bắt buộc, hay các ngân hàng
thương mại tăng khối lượng tín dụng. Đây là những phương pháp phổ biến mà
nhiều nước thường áp dụng trong chính sách tiền tệ. Một mặt tăng tiền tạo ra lượng
tiền nhiều hơn so với chỉ tiêu và kích thích đầu tư mở rộng việc sản xuất làm gia
tăng sản lượng. Điều này đặc biệt có ý nghĩa ngắn hạn trong tình hình thâm hụt
ngân sách và sản lượng còn chưa đạt sản lượng tiềm năng. Việc tăng mức cung tiền
vượt quá mức cầu tiền khiến cho lạm phát gia tăng. Lúc này lạm phát xuất hiện trên
thị trường và việc mức cung tiền tăng là nguyên nhân trực tiếp thúc đẩy lạm phát
leo thang.
1.5.1.2 Biện pháp chiến lược
Biện pháp cơ bản chiến lược nhằm tác động đồng bộ lên mọi mặt hoạt động của

nền kinh tế, với ý tưởng tạo ra một sức mạnh vào tiềm lực nền kinh tế của đất nước.
Một quốc gia có nền kinh tế phát triển tốt và ổn định thì ở đó đồng tiền được ổn
định vững chắc, lạm phát ít có cơ hội để phát triển bộc phát. Những biện pháp cơ
bản chiến lược chưa thể phát huy tác dụng ngay, nhưng nếu không áp dụng biện
pháp đó thì tình trạng lạm phát, tình trạng rối loạn của lưu thông tiền tệ sẽ xảy ra
triền miên không lối thoát.
Những biện pháp cơ bản chiến lược có thể bao gồm những biện pháp như:
• Xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế-xã hội đúng đắn:
Ở Việt Nam, kể từ khi đẩy mạnh phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần, chuyển đổi cơ chế quản lý từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị
trường có điều tiết, đã có tác dụng rất to lớn.
• Điều chỉnh cơ cấu kinh tế, phát triển ngành mũi nhọn:
Ổn định cơ cấu kinh tế nhằm đáp ứng được nhu cầu cơ bản về đời sống và việc
làm của người lao động, do đó tùy hoàn cảnh cụ thể của mỗi quốc gia mà có những
chiến lược điều chỉnh cơ cấu kinh tế khác nhau. Ở Việt Nam cơ cấu kinh tế được
điều chỉnh theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa, trước mắt nông – lâm - ngư
nghiệp vẫn giữ vị trí quan trọng, phát triển mạnh mẽ các ngành dịch vụ (ngân hàng -
bưu điện - du lịch…)
SVTH: Phạm Thị Thanh Loan –TCDN 21.35
11
Đề án Môn học Lý thuyết tài chính tiền tệ
Cơ cấu kinh tế hợp lý sẽ tạo cho nền kinh tế phát triển mạnh và chắc chắn.
Ngoài ra, còn phát triển ngành kinh tế mũi nhọn xuất khẩu, bởi vì trong điều kiện
mở rộng giao lưu kinh tế quốc tế thì hoạt động ngoại thương nói chung và xuất khẩu
nói riêng có vị trí quan trọng, nó vừa tạo ra nguồn thu ngoại tệ cho quốc gia vừa tác
động đến các hoạt động của các ngành kinh tế khác, ổn định lưu thông tiền tệ trong
nước.
• Nâng cao hiệu lực của bộ máy quản lý Nhà nước:
Vai trò của Nhà nước đối với quản lý kinh tế rất to lớn. Nhà nước là người duy
nhất đảm bảo tính công bằng và ổn định kinh tế, đồng thời Nhà nước có thể tác

động thúc đẩy hiệu quả và tăng trưởng kinh tế.
Bằng các công cụ về pháp luật, tài chính, giá cả, tiền tệ…đã tác động đến mọi
mặt hoạt động của nền kinh tế xã hội, do đó việc nâng cao hiệu lực của bộ máy
quản lý Nhà nước được coi như là biện pháp mang tính chiến lược để ổn định tiền
tệ, tinh giảm biên chế, kiện toàn bộ máy quản lý hành chính.
1.5.2.3 Những biện pháp khác
- Tăng quỹ hàng hoá tiêu dùng để cân đối với số lượng tiền có trong lưu thông
bằng cách khuyến khích tự do mậu dịch, giảm nhẹ thuế quan và các biện pháp cần
thiết khác để thu hút hàng hoá từ ngoài vào.
- Đi vay và xin viện trợ từ nước ngoài.
- Cải cách tiền tệ. Đây là biện pháp cuối cùng phải xử lý khi tỷ lệ lạm phát lên
quá cao mà các biện pháp trên đây chưa mang lại hiệu quả mong muốn.
SVTH: Phạm Thị Thanh Loan –TCDN 21.35
12
Đề án Môn học Lý thuyết tài chính tiền tệ
CHƯƠNG 2: CÁC NGUYÊN NHÂN LẠM PHÁT TẠI VIỆT NAM
2.1 Sơ lược tình hình lạm phát
2.1.1 Tình hình 3 tháng đầu năm 2012
Thực tế Việt Nam 3 tháng đầu năm 2012 cho thấy những tín hiệu khả quan nhất
định về kiềm chế lạm phát (so với tháng trước, CPI tháng 1/2012 đã tăng 1% và
tháng 2/2012 tăng 1,37% – tức bằng mức cùng kỳ năm 2009, nhưng là mức thấp
nhất trong vòng 10 năm qua, tháng 3/2012 CPI chỉ tăng 0,16% là mức tăng thấp
nhất trong vòng gần 2 năm qua, tăng 2,55%; so với tháng 12/2011 và tăng 14,15%
so với cùng kỳ năm trước); giảm nhập siêu (nhập siêu khoảng 300 triệu USD, bằng
khoảng 1,2% tổng kim ngạch xuất khẩu, mức thấp hơn nhiều so với cùng kỳ nhiều
năm gần đây), cải thiện cơ cấu chất lượng thu hút FDI cả về nguồn vốn và lĩnh vực
thu hút (FDI giải ngân là 400-600 và 1500 triệu USD), đấu thầu thành công trái
phiếu CP khả quan hơn nhiều so với năm trước (đấu thầu thành công tới 5900/7000
tỉ đồng trái phiếu. Phiên ngày 16/2/2012 và trong quý 1/2012 đã phát hành được
trên 9000 tỉ đồng trái phiếu CP); sản xuất điện (tăng 15,1%), khai thác dầu thô (tăng

10,3%), phát triển nông nghiệp…
Ngoài ra, những dấu hiệu cải thiện về tính thanh khoản ngân hàng và dự trữ ngoại
hối cũng được ghi nhận. Trong 2 tháng đầu năm 2012, theo NHNN, dự trữ ngoại
hối đã tăng 20%, trong khi tỷ giá vẫn ổn định. Những tín hiệu về cải thiện thanh
khoản trên thị trường ngân hàng được phản ánh đậm nét qua việc phát hành thành
công trái phiếu chính phủ trong 2 tháng đầu năm; Lượng trái phiếu chính phủ mà
các tổ chức nắm giữ tăng khoảng 10,5% .
Hơn nữa, cơ hội giảm lãi suất lần này còn được hỗ trợ tích cực bởi động thái mới
của NHNN là chia các ngân hàng thương mại thành 4 nhóm với các mức tăng hạn
mức tín dụng khác nhau, trong đó nhóm 4 (kém nhất về thanh khoản) sẽ không
được phép mở rộng tín dụng ít nhất trong 6 tháng bị xếp hạng.
Đồng thời, NHNN cũng bảo đảm tái cấp vốn cho các NHTM thời hạn từ 3 – 6
tháng, trên cơ sở NHTM đó thế chấp các hồ sơ vay chất lượng tốt để bảo đảm thanh
khoản với mức tối đa bằng vốn điều lệ… Với chính sách “cây gậy và củ cà rốt” này,
các NHTM sẽ được chống lưng khá mạnh và bị răn đe khá nghiêm khắc để không
bị hút vào vòng xoáy ganh đua huy động và cho vay thiếu lành mạnh vốn như thời
gian trước; đồng thời, có động lực cố gắng thể hiện và “khép mình” hơn sao cho
không bị rơi vào nhóm xếp hạng tín nhiệm kém, ‘mất chỗ làm ăn”…
Thực tế cũng cho thấy, thị trường tiền tệ những tháng đầu năm 2012 đang diễn ra
theo chiều hướng thuận lợi, với mức trần huy động về cơ bản không quá 14% và đã
có sự giãn cách lãi suất theo thời hạn, với lãi suất 1-2 tuần chỉ ở mức 6-7%, còn lãi
SVTH: Phạm Thị Thanh Loan –TCDN 21.35
13
Đề án Môn học Lý thuyết tài chính tiền tệ
suất 1-12 tháng cũng chỉ 14%. Đặc biệt, 9 tổ chức tín dụng có tình hình tài chính
yếu kém, đang bị NHNN kiểm soát chặt chẽ để tái cơ cấu lại. Các tổ chức này chỉ
chiếm chưa đến 10% trong họat động của toàn hệ thống ngân hàng. Qua một thời
gian chấn chỉnh, thị phần của họ hiện chỉ khoảng 6%. Nhờ đó, ngày càng nhiều
NHTM ổn định được thanh khoản.
Đặc biệt, CPI bình quân quý 1/2012 thấp xa so với tốc độ tăng bình quân quý 1

trong 8 năm trước (tăng 4,41%). CPI tháng 3/2012 là tháng thứ 7 liên tiếp tăng
chậm lại so với tháng 12/2010 (tháng 8/2011 tăng 23,02%; tháng 9/2011 tăng
22,42%; tháng 10/2011 tăng 21,59%; tháng 11/2011 tăng 19,83%; tháng 12/2011
tăng 18,13%; tháng 1/2012 tăng17,27%; tháng 2/2012 tăng 16,44%, tháng 3/2012
tăng 14,15%).
Điểm mới tích cực nữa là CPI lương thực sau Tết giảm nhẹ (0,41%), cước bưu
chính viễn thông tiếp tục xu hướng liên tục giảm (0,16%). Giá cả một số hàng tiêu
dùng trong siêu thị được giảm bớt nhờ đợt “khuyến mại trái mùa” của một số siêu
thị những tháng sau Tết, giúp người nghèo dễ thở hơn trong gánh nặng cơm áo hàng
ngày.
Thực tế những tháng đầu năm đang cho thấy, khả năng hiện thực hóa mục tiêu kiềm
chế lạm phát năm 2012 xuống 1 con số được xác lập bởi những nhân tố tích cực,
như: nhận thức và quyết tâm chính trị mới từ cấp cao nhất; sự nhất quán chính sách
tài chính-tiền tệ linh hoạt và thận trọng, theo hướng tiếp tục thắt chặt, giảm bớt khối
lượng và nâng cao hiệu quả đầu tư công; xúc tiến đổi mới mô hình và cơ chế phát
triển; sự dồi dào của các nguồn hàng hóa và lao động; sự năng động và bản lĩnh
thương trường của đội ngũ doanh nghiệp; vị thế quốc tế và lòng tin của thế giới đối
với tiềm năng phát triển trung và dài hạn của Việt Nam ngày càng được củng cố.

Biểu đồ 1:Mức tăng bình quân CPI quý 1 hàng năm giai đoạn 2004-2012
SVTH: Phạm Thị Thanh Loan –TCDN 21.35
14
Đề án Môn học Lý thuyết tài chính tiền tệ
2.1.2 Tình hình lạm phát trong năm 2011
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tăng với tốc độ cao (hiện tượng “lạm phát”) đã và đang
có tác động tiêu cực tới ổn định kinh tế vĩ mô tại Việt Nam. Theo thống kê của IMF
và Trading Economics, tỷ lệ lạm phát tại Việt Nam trong năm 2011 thuộc nhóm 05
quốc gia cao nhất thế giới; nếu tính trung bình giai đoạn 2001-2005 thì đứng thứ 67
thế giới, giai đoạn 2006-2010 đứng thứ 24 thế giới. Việt Nam luôn là nước có tỷ lệ
lạm phát cao nhất so với các nước trong khu vực Châu Á trong 05 năm gần đây.

Ngoại trừ năm 2006 và 2009, lạm phát trong giai đoạn 2006-2011 đều ở mức
trên 10%. Bảng 1 dưới đây cho thấy tương quan lạm phát của Việt Nam với các
nước phát triển, các nước có nền kinh tế mới nổi và các nước đang phát triển châu
Á.
Bảng 1: Lạm phát tại Việt Nam và các nước giai đoạn 2006-2011
Năm 2006 2007 2008 2009 2010 2011*
CPI tháng 12 so tháng 12 năm
trước
Việt Nam 6,6 12,6 19,9 6,5 11,8 18-20
Các nước đang phát triển 5,7 7,6 8,1 5,3 6,6 6,5
Các nước đang phát triển C.Á 4,1 6,4 5,7 4,6 5,9 5,6
Các nước phát triển 1,9 3,1 1,6 1,0 1,9 2,1
Việc tăng giá hàng hóa, dịch vụ (đặc biệt giá lương thực và năng lượng) trên phạm
vi toàn cầu có tác động rõ rệt tới lạm phát của các nước nói chung và Việt Nam nói
riêng trong các năm 2008 và 2011. Tuy nhiên, tỷ lệ lạm phát tại Việt Nam luôn cao
hơn các nước có cùng trình độ phát triển, có những năm cao hơn 2 lần (2008 &
2011).
2.2 Các nguyên nhân cơ bản:
2.2.1 Lạm phát do cầu kéo:
2.2.1.1 Nguyên nhân tiền tệ, tín dụng
SVTH: Phạm Thị Thanh Loan –TCDN 21.35
15
Đề án Môn học Lý thuyết tài chính tiền tệ
- Nới lỏng cung tiền (M2) và tăng trưởng tín dụng ở mức cao trong nhiều năm là
một trong những nguyên nhân chính dẫn đến lạm phát cao tại Việt Nam. Trong giai
đoạn 2006 - 2010, M2 của Việt Nam tăng bình quân 30,2%/năm; trong khi dư nợ tín
dụng tăng bình quân 33,3%/năm. Do vậy, tính đến năm 2010, tỷ lệ M2/GDP đã tăng
lên tới 133,8% (Thái Lan: 116,6%; Phillippines: 43,8%; Singapore 132,7%); tỷ lệ
dư nợ tín dụng/GDP lên tới mức 116% (Singapore: 91%; Philippines 50%;
Indonesia 37%).

- Theo dõi diễn biến của cung tiền (M2) và tăng trưởng tín dụng trong 05
năm vừa qua có thể thấy mối quan hệ đồng biến tương đối sát giữa lạm phát và các
chỉ tiêu tiền tệ, với độ trễ chính sách khoảng 6 tháng.
Biểu đồ 2: Tăng trưởng tín dụng và lạm phát 2001-2011
SVTH: Phạm Thị Thanh Loan –TCDN 21.35
16
Đề án Môn học Lý thuyết tài chính tiền tệ
Biểu đồ 3: Tăng trưởng M2 và CPI 2001-2011
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước, Tổng cục thống kê
- Mối quan hệ đồng biến giữa tăng trưởng cung tiền, tín dụng và lạm phát
cũng thể hiện khá rõ khi xem xét sơ bộ số liệu quá khứ (từ 2003 – 2010) của một số
nước phát triển; và đang phát triển trong khu vực Châu Á (Phụ lục đính kèm).
2.2.1.2 Nguyên nhân tài khóa
- Tăng trưởng chi NSNN và bội chi ở mức tương đối cao là một nguyên nhân góp
phần dẫn đến lạm phát cao tại Việt Nam. Trong giai đoạn 2006-2010, chi NSNN
tăng bình quân khoảng 20,6%/năm (nếu loại trừ yếu tố tăng giá thì tăng bình quân
8,3%/năm); bội chi NSNN bình quân trong giai đoạn này là -5,55% GDP, nếu tính
theo thông lệ quốc tế là -5,85%.
2.2.1.3 Nguyên nhân đầu cơ
Bội chi ngân sách nhà nước 2006-2010
TT CHỈ TIÊU 2006 2007 2008 2009 2010
Bình
quân
2006-
2010
1 Theo phân loại Việt
Nam
-
4.99%
-

5,65%
-
4,58%
-
6,9%
-
5,61%
-5,55%
2 Theo phân loại GFS -2,8% -4,2% -4,5% -10% -7,8% -5,85%
SVTH: Phạm Thị Thanh Loan –TCDN 21.35
17
Đề án Môn học Lý thuyết tài chính tiền tệ
- Bản thân tăng chi tiêu của Chính phủ và bội chi ngân sách, về mặt lý
thuyết, không phải là tác nhân lớn dẫn đến lạm phát do đồng thời làm tăng tổng
cung và tổng cầu. Tuy nhiên, việc chi tiêu (đặc biệt trong lĩnh vực đầu tư) kém hiệu
quả lại là một nguyên nhân dẫn đến lạm phát. Do việc đầu tư công kém hiệu quả
nên mức độ tác động tới tổng cầu cao hơn tác động tới tổng cung (tiền đâu tư thất
thoát), do vậy dẫn tới lạm phát.
2.2.2 Lạm phát tiền tệ
Năm 2007, với việc tung một khối lượng lớn tiền để mua ngoại tệ từ các
nguồn đổ vào nước ta đã làm tăng lượng tiền trong lưu thông với mức tăng trên
30%, hạn mức tín dụng cũng tăng cao, mức tăng 38%. Đó là chưa kể sự tăng tín
dụng trong các năm trước đã tạo nên hiện tượng tích phát tác động đến năm 2007,
năm 2008 và có thể cả những năm sau.
Lạm phát tiền tệ thể hiện rõ nhất trong năm 2007. Trong năm, cung tiền (tổng
phương tiện thanh toán) tăng nhanh năm 2005 là 23.4%, năm 2006 là 33.6%, năm
2007 là 53.8%, tổng cộng 3 năm cung tiền tăng 134.2%, trong khi 3 năm GDP chỉ
tăng 25.09%. Chênh lệch giữa cung tiền tăng trong 3 năm qua (134.5%) với tăng
trưởng kinh tế GDP (25.09%) là rất lớn, chắc chắn sẽ đè nặng lên giá cả trong nước,
và cuối năm 2007, đầu năm 2008 nó bộc phát mạnh là do có sự cộng hưởng bởi lạm

phát quốc tế (USD yếu) và thiên tai.
Nếu dựa vào học thuyết “Định lượng tiền tệ- The quantity theory of money”
của Irving Fisher, ta có thể thấy rõ hơn quan hệ của nhân tố: cung tiền (M), tốc độ
vòng quay tiền tệ (V), giá cả (P), tổng sản phẩm quốc nội thực-GDP thực (Y), trong
phương trình: MV= PY. Vì vậy, nếu V, P không thay đổi thì P (giá cả) sẽ tăng
nhanh khi cung tiền M tăng nhanh, hoặc Y (GDP thực) có tăng nhưng tốc độ tăng
chậm hơn cung tiền, thì giá cả cũng tăng cao.
Tổng dư nợ cho vay của toàn hệ thống ngân hàng tăng cao, năm 2006 là
+29.7%, năm 2007 tăng dư nợ cao nhất trong nhiều năm qua 43.7%, một số NHTM
tăng trên 70%. Các NHTM trong thời gian qua đã cung cấp được một lượng vốn lớn
cho các doanh nghiệp trong nền kinh tế để phát triển sản xuất kinh doanh, cho vay
tiêu dùng cao, góp phần tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, cùng với sự tăng trưởng
nóng của thị trường chứng khoán và thị trường bất động sản, các NHTM cũng sẵn
lòng cho vay đối với những nhà đầu cơ trong lĩnh vực này. Nguồn vốn huy động
ngắn hạn của ngân hàng được đổ vào thị trường vốn dài hạn nhiều rủi ro, nếu bong
bóng bất động sản có vấn đề thì rủi ro tín dung là rất lớn (Mỹ đang đau đầu vì tín
dụng bất động sản hiện nay). Điều cần lưu ý, một trong những nguyên nhân dư nợ
SVTH: Phạm Thị Thanh Loan –TCDN 21.35
18
Đề án Môn học Lý thuyết tài chính tiền tệ
tín dụng tăng cao trong năm 2007 là do các ngân hàng thương mại tăng vốn điều lệ
lên nhanh + 56% (tăng 33.737 tỷ đồng), cuối năm 2006 tổng vốn điều lệ của tổ chức
tín dụng là 60.419 tỷ đồng, cuối năm 2007 là 94.156 tỷ đồng, thành lập mới nhiều
ngân hàng, làm tăng khả năng cho vay và áp lực trả lãi cổ đông, áp lực tăng giá cổ
phiếu trên thị trường do năm 2006 giá cổ phiếu đã tăng cao.
2.2.3 Lạm phát do chi phí đẩy
- Việc điều chỉnh tăng giá các nguyên liệu đầu vào cơ bản như xăng, điện, than là
một nguyên nhân dẫn đến lạm phát do chi phí đẩy. Các nhân tố tăng này chỉ có tác
động tới tốc độ tăng CPI trong một giai đoạn nhất định. Tuy nhiên, trong những
năm gần đây, việc điều chỉnh giá các mặt hàng này được thực hiện hàng năm, do

vậy đã có tác động nhất định đến tình trạng lạm phát kéo dài trong nền kinh tế.
- Với độ mở của nền kinh tế lớn (tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu, nhập
khẩu đạt trên 150% GDP trong năm 2010), mặt bằng giá trong nước chịu tác động
của tăng giá hàng hóa thế giới. Ngoài ra, do khoảng 90% hàng nhập khẩu là nguyên
vật liệu dùng cho sản xuất trong nước nên việc đồng Việt Nam mất giá liên tục
trong những năm gần đây đã làm chi phí sản xuất trong nước tăng cao. Đây cũng là
khác biệt giữa Việt Nam và các nước trong khu vực. Trong khi đa số các đồng tiền
trong khu vực tăng giá trong thời gian qua thì đồng Việt Nam lại mất giá. Quan sát
diễn biến tỷ lệ tăng CPI và chỉ số giá USD (Biểu đồ 4) cũng cho thấy rõ mối quan
hệ đồng biến giữa hai chỉ tiêu này.
Biểu đồ 4: Diễn biến Chỉ số Giá USD-CPI 2006 – 2010

Nguồn: Tổng cục Thống kê
SVTH: Phạm Thị Thanh Loan –TCDN 21.35
19
Đề án Môn học Lý thuyết tài chính tiền tệ
2.2.4 Lạm phát do yếu tố kỳ vọng và điều hành chính sách
- Kỳ vọng (tâm lý) lạm phát trong nền kinh tế Việt Nam liên tục ở mức cao
trong những năm gần đây. Tâm lý kỳ vọng này chủ yếu xuất phát tính thiếu nhất
quán trong điều hành chính sách. Mặc dù hàng năm Quốc hội đề ra giới hạn lạm
phát nhưng trên thực tế tốc độ lạm phát thực tế luôn cao hơn giới hạn đề ra trong 05
năm gần đây. Bên cạnh đó, việc thực hiện điều chỉnh tăng lương, giá điện, xăng dầu
theo định kỳ hàng năm cũng khiến gia tăng mức lạm phát kỳ vọng, dẫn đến làm
tăng lạm phát thực tế.

SVTH: Phạm Thị Thanh Loan –TCDN 21.35
20
Đề án Môn học Lý thuyết tài chính tiền tệ
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP KÌM CHẾ LẠM PHÁT
3.1 Giải pháp trong ngắn hạn

- Tiếp tục triển khai triệt để, nhất quán các nhóm giải pháp về kiềm chế lạm
phát, ổn định kinh tế vĩ mô tại Nghị quyết số 11/NQ-CP, trong đó đặt trọng tâm vào
điều hành chính sách tiền tệ, tài khóa chặt chẽ cho tới khi lạm phát bình ổn một
cách bền vững. NHNN xem xét thực hiện các biện pháp bổ sung nhằm hạn chế tăng
trưởng cung tiền và tín dụng, trong đó bao gồm cả việc điều chỉnh tăng dự trữ bắt
buộc đối với đồng Việt Nam và ngoại tệ. Trong năm 2012, xem xét duy trì chỉ tiêu
tăng trưởng tín dụng ở mức dưới 20%, trong đó tín dụng ngoại tệ cần được kiểm
soát đặc biệt chặt chẽ.
- Song song với việc duy trì chính sách tiền tệ thắt chặt, NHNN xem xét rà
soát, sửa đổi các tỷ lệ an toàn nhằm liên thông các nguồn vốn trong hoạt động ngân
hàng, tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng tối ưu hóa được nguồn vốn kinh doanh,
giảm lãi suất ở mức hợp lý.
3.2 Giải pháp trung và dài hạn
3.2.1 Kỷ luật chính sách tiền tệ
- Điều kiện tiên quyết để giảm tốc độ lạm phát là chính sách tiền tệ phải nhất
quán, tạo tín hiệu cho thị trường (người dân, doanh nghiệp) nhận thức rõ việc Chính
phủ quyết tâm duy trì một tốc độ lạm phát ổn định, từ đó giảm lạm phát kỳ vọng và
giảm lạm phát thực tế. Kỷ luật chính sách tiền tệ có thể được thực hiện thông qua
việc (i) ổn định tốc độ tăng cung tiền ở mức phù hợp với tốc độ tăng GDP danh
nghĩa; và/hoặc (ii) áp dụng chính sách lạm phát mục tiêu, theo đó NHNN cam kết
duy trì tốc độ lạm phát ở một mức (hoặc phạm vi hẹp) nhất định.
- Trong trung và dài hạn, NHNN phối hợp với Tổng cục Thống kê xây dựng
chỉ tiêu lạm phát cơ bản (không bao gồm lương thực, thực phẩm và năng lượng) để
làm mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ. Việc đề ra mục tiêu và đạt được mục tiêu
lạm phát sẽ giúp khôi phục lòng tin của thị trường và giảm kỳ vọng lạm phát.
3.2.2 Cải cách hệ thống hành chính
- Cải cách hệ thống tài chính theo hướng giảm dần sự phụ thuộc về vốn đầu
tư của nền kinh tế vào hệ thống ngân hàng. Sự phát triển của thị trường vốn (cổ
phiếu, trái phiếu doanh nghiệp) là điều kiện quan trọng để doanh nghiệp trực tiếp
tiếp cận các nguồn vốn của xã hội với chi phí thấp hơn và kỳ hạn dài, ổn định hơn

so với nguồn vốn tín dụng từ hệ thống ngân hàng.
SVTH: Phạm Thị Thanh Loan –TCDN 21.35
21
Đề án Môn học Lý thuyết tài chính tiền tệ
3.2.3 Giảm tình trạng đô la hóa
- Tiếp tục đổi mới chính sách quản lý ngoại hối theo hướng chuyển dần từ
quan hệ huy động/cho vay sang quan hệ mua/bán nhằm từng bước giảm dần can
thiệp của Chính phủ vào thị trường ngoại hối và tạo điều kiện cho việc thực thi độc
lập chính sách tiền tệ với mục tiêu ổn định lạm phát.
- Xây dựng và triển khai nhanh khuôn khổ pháp lý để doanh nghiệp, ngân
hàng được thực hiện các nghiệp vụ phòng ngừa rủi ro trong điều kiện tỷ giá biến
động theo tương quan cung/cầu của thị trường.
3.2.4 Điều hành tiền lương, giá các mặt hàng thiết yếu
- Thực hiện điều chỉnh tiền lương và các mặt hàng thiết yếu theo lộ trình và
thời điểm rõ ràng, được công bố trước để doanh nghiệp và thị trường tự điều chỉnh
hoạt động sản xuất/kinh doanh, giá cả hàng hóa/dịch vụ, giảm tâm lý kỳ vọng lạm
phát.
3.2.5 Nâng cao hiệu quả đầu tư công
- Tổ chức đánh giá, tìm các nguyên nhân căn bản có ảnh hưởng tới hiệu quả
đầu tư công, trong đó đặc biệt chú trọng tới việc giảm thất thoát trong đầu tư.
- Giảm dần tỷ lệ đầu tư công đi đôi với việc đổi mới, nâng cao hiệu quả đầu
tư công; tăng cường phân cấp và kiểm soát đầu tư công, bao gồm cả vốn ngân sách,
vốn trái phiếu Chính phủ và tín dụng nhà nước.
- Thực hiện cam kết chi đầu tư trong phân bổ vốn đầu tư của nhà nước nhằm
giảm tình trạng đầu tư phân tán, kéo dài, kém hiệu quả trong các dự án đầu tư.
SVTH: Phạm Thị Thanh Loan –TCDN 21.35
22
Đề án Môn học Lý thuyết tài chính tiền tệ
KẾT LUẬN
Tóm lại, kiềm chế lạm phát không phải là bài toán không có lời giải, vấn đề là

cần chấp nhận những thiệt hại nhất định cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế, cho ngân
sách nước nhà. Vì vậy, cần có đồng thuận và chia sẻ của Chính phủ, doanh nghiệp
và nhân dân. Cần đặt nước ta trong nền kinh tế thế giới để có cái nhìn tổng hợp. Các
Bộ, các ban ngành từ trung ương đến địa phường cần làm hết sức mình, bằng những
kế hoạch cụ thể để triển khai các chỉ đạo mà Thủ tướng Chính phủ đã ban hành.
Những kết quả tốt đẹp sẽ đến với kinh tế VN nếu chúng ta đoàn kết và có quyết tâm
cao theo một đường lối thống nhất của Đảng và Nhà nước ta.
Do vậy, giảm thiểu các tác động tiêu cực của lạm phát là một vấn đề mang
tính chất vĩ mô, đặc biệt đối với nền kinh tế mới bước vào ngưỡng cửa hội nhập
quốc tế như nước ta. Trong thời gian tới, nền kinh tế nước ta đang đứng trước rất
nhiều khó khăn và thách thức cần phải vượt qua,và vấn đề lạm phát đang diễn biến
ngày càng xấu đi. Nhiệm vụ nghiên cứu những lý luận cũng như những trải nghiệm
về lạm phát ở nước ta đặt ra cho chúng ta những trách nhiệm nặng nề. Những giải
pháp can thiệp mà em đưa ra trong bài này có thể góp phần gợi mở phần nào những
phương án hữu hiệu, đóng góp vào những chính sách của đất nước.
Việc nghiên cứu đề tài này với hạn chế về mặt thời gian nên thật khó sẽ có thể
đi sâu phân tích và kiến giải đầy đủ vấn đề, và chắc hẳn sẽ không tránh khỏi được
những thiếu sót và hạn chế. Qua đây, em xin bầy tỏ lời cảm ơn đến PGS.TS Nguyễn
Thị Bất đã giúp đỡ và hướng dẫn tận tình trong quá trình em thực hiện nghiên cứu
này.

SVTH: Phạm Thị Thanh Loan –TCDN 21.35
23

×