Tải bản đầy đủ (.doc) (118 trang)

từ ngữ chỉ công cụ sản xuất nông, lâm nghiệp của người tày ở tỉnh bắc giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.35 MB, 118 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
HOÀNG THỊ KHÁNH QUYÊN
TỪ NGỮ CHỈ CÔNG CỤ SẢN XUẤT NÔNG, LÂM NGHIỆP
CỦA NGƯỜI TÀY Ở TỈNH BẮC GIANG


CHUYÊN NGÀNH: NGÔN NGỮ HỌC
MÃ SỐ: 60220240
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA NƯỚC NGOÀI
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. ĐOÀN VĂN PHÚC
Huế, 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công
bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận văn
Hoàng Thị Khánh Quyên
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS. Đoàn Văn
Phúc, là người thầy đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo, giúp đỡ
tôi trong suốt thời gian tôi thực hiện và hoàn thành luận văn
này.
Xin trân trọng cảm ơn Quý thầy cô giáo Viện ngôn
ngữ học, thầy cô giáo Khoa Ngữ văn và Phòng Sau Đại
học, trường Đại học Khoa học Huế đã trang bị những
kiến thức bổ ích cũng như góp ý, định hướng cho tôi
trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.


Tôi cũng xin được cảm ơn sự giúp đỡ của UBND các xã
thuộc huyện Lục Nam, huyện Sơn Động tỉnh Bắc Giang,
cảm ơn các anh chị, bạn bè đã hỗ trợ một số tư liệu cho
luận văn và tạo mọi điều kiện cho tôi trong suốt thời gian
học tập, nghiên cứu.
Cuối cùng, tôi xin dành sự biết ơn sâu sắc tới gia đình
đã luôn ủng hộ, động viên và luôn là hậu phương vững
chắc để hỗ trợ, tạo mọi điều kiện tốt nhất để tôi có thể
yên tâm học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn này.
Tác giả luận văn
Hoàng Thị Khánh Quyên
MỤC LỤC
- Trang phụ bìa
- Lời cam đoan
- Lời cảm ơn
- Mục lục
- Danh mục các bảng
LỜI CAM ĐOAN 2
LỜI CẢM ƠN 3
MỤC LỤC 4
DANH MỤC CÁC BẢNG 6
MỞ ĐẦU 1
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 1
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ 3
3. MỤC ĐÍCH CỦA ĐỀ TÀI 6
4. ĐỐI TƯỢNG, NHIỆM VỤ VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU 6
4.1. Đối tượng nghiên cứu 6
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu 7
4.3. Phạm vi nghiên cứu 7
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ NGUỒN TƯ LIỆU NGHIÊN CỨU 7

5.1. Phương pháp nghiên cứu 7
5.2. Tư liệu nghiên cứu 8
6. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 9
6.1. Ý nghĩa khoa học 9
6.2. Ý nghĩa thực tiễn 10
7. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN 10
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 11
1.1. Khái niệm hình vị, từ, ngữ và nghĩa 11
1.1.1. Hình vị 11
1.1.2. Từ 13
1.1.3. Ngữ (cụm từ/ từ tổ) 16
1.1.4. Nghĩa của từ, ngữ 17
1.1.5. Trường nghĩa và vốn từ chỉ công cụ sản xuất 20
1.2. Vấn đề định danh 22
1.2.1. Khái niệm định danh 22
1.2.2 Đơn vị định danh và đơn vị miêu tả 23
1.3. Vài nét về người Tày và tiếng Tày 23
1.3.1. Về người Tày 23
1.3.2. Vài nét về tiếng Tày 25
1.4. Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa 31
1.4.1. Khái niệm văn hóa 31
1.4.2. Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa 33
1.5. Tiểu kết 34
CHƯƠNG 2. ĐẶC ĐIỂM CẤU TẠO VÀ NGỮ NGHĨA CỦA TỪ NGỮ CHỈ CÔNG CỤ SẢN XUẤT NÔNG, LÂM
NGHIỆP CỦA NGƯỜI TÀY Ở TỈNH BẮC GIANG 35
2.1. Dẫn nhập 35
2.2. Kết quả khảo sát, thống kê hệ thống từ ngữ chỉ công cụ sản xuất nông, lâm nghiệp của người
Tày ở tỉnh Bắc Giang 36
2.3. Đặc điểm cấu tạo từ ngữ chỉ công cụ sản xuất nông, lâm nghiệp của người Tày ở tỉnh Bắc Giang
38

2.3.1. Từ đơn 39
2.3.2. Từ phức 40
2.3.3. Ngữ (cụm từ/ từ tổ) 46
2.4. Đặc điểm ngữ nghĩa các từ ngữ chỉ công cụ sản xuất nông, lâm nghiệp của người Tày ở tỉnh Bắc
Giang 48
2.4.1 Đặc điểm ngữ nghĩa của nhóm từ đơn 48
2.4.2. Đặc điểm ngữ nghĩa của nhóm từ phức 48
2.4.3. Đặc điểm ngữ nghĩa của các ngữ (cụm từ/từ tổ) 53
2.5. Tiểu kết 55
CHƯƠNG 3. ĐẶC ĐIỂM VĂN HÓA CỦA TỪ NGỮ CHỈ CÔNG CỤ SẢN XUẤT NÔNG, LÂM NGHIỆP CỦA NGƯỜI
TÀY Ở TỈNH BẮC GIANG 57
3.1. Dẫn nhập 57
3.2. Giá trị biểu đạt của phương thức định danh trong từ ngữ chỉ công cụ sản xuất nông, lâm của
người Tày ở tỉnh Bắc Giang 58
3.2.1. Định danh công cụ sản xuất dựa vào hình dáng 60
3.2.2 Định danh công cụ sản xuất dựa vào chức năng (công dụng) 61
3.2.3 Định danh dựa vào nguyên liệu chế tạo công cụ 63
3.3. Đặc điểm văn hóa của từ ngữ chỉ công cụ sản xuất nông, lâm nghiệp của người Tày ở tỉnh Bắc
Giang 63
3.3.1. Phản ánh địa điểm cư trú 64
3.3.2. Phản ánh phương thức kiếm sống 65
3.3.3. Phản ánh cách ứng xử của con người với môi trường sống (rừng, rẫy, ruộng ) 69
3.3.4. Phản ánh tâm linh 71
3.4. Tiểu kết 74
KẾT LUẬN 76
TÀI LIỆU THAM KHẢO 80
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu bảng Tên bảng Trang
2.1

Kết quả khảo sát, thống kê nhóm từ ngữ chỉ
công cụ sản xuất nông, lâm nghiệp trong tiếng
Tày
36
2.2
Bảng ví dụ về một số từ ngữ chỉ công cụ sản
xuất trong nông nghiệp
37
2.3
Bảng ví dụ về một số từ ngữ chỉ công cụ sản
xuất trong lâm nghiệp
37
2.4
Kết quả phân loại các từ ngữ chỉ công cụ sản
xuất nông, lâm nghiệp trong tiếng Tày xét về
đặc điểm cấu tạo
39
2.5
Bảng ví dụ về một số từ ghép chính phụ chỉ
công cụ sản xuất nông, lâm nghiệp do hai yếu
tố ( âm tiết/ hình vị) tạo thành
42
2.6
Sơ đồ mô hình hóa mối quan hệ của từ ghép
chính phụ do hai (âm tiết/ hình vị) tạo thành
43
2.7
Bảng ví dụ về một số từ ghép chính phụ chỉ
công cụ sản xuất nông, lâm nghiệp do ba yếu
tố (âm tiết/ hình vị) cấu tạo thành

44
2.8
Sơ đồ mô hình hóa mối quan hệ của từ ghép
chính phụ do ba yếu tố (âm tiết/ hình vị) tạo
thành
44
2.9
Các kiểu quan hệ cơ bản giữa các yếu tố trong
từ ghép chính phụ chỉ công cụ sản xuất nông,
lâm nghiệp của người Tày ở tỉnh Bắc Giang
45
2.10
Bảng ví dụ về một số ngữ chỉ công cụ sản
xuất nông, lâm nghiệp của người Tày ở tỉnh
Bắc Giang
46
3.1
Kết quả khảo sát thống kê một số phương
thức định danh các từ ngữ chỉ công cụ sản
xuất nông, lâm nghiệp của người Tày ở tỉnh
Bắc Giang
58
3.2
Bảng ví dụ về một số từ ngữ chỉ công cụ sản
xuất nông, lâm nghiệp định danh dựa vào
hình dáng
60
3.3
Bảng ví dụ về một số từ ngữ chỉ công cụ sản
xuất nông, lâm nghiệp định danh dựa vào

công dụng/ chức năng
62
3.4
Bảng ví dụ về một số từ ngữ chỉ công cụ sản
xuất nông, lâm nghiệp định danh dựa vào
nguyên liệu chế tạo công cụ
63

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngôn ngữ có vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống xã hội của con
người. Đó là phương tiện giao tiếp chủ yếu, nhờ nó mà con người có thể trao
đổi kinh nghiệm lẫn nhau, truyền đạt và chia sẻ tri thức cho nhau trong quá
trình khám phá và chiếm lĩnh thế giới tự nhiên, xã hội và bản thân con người
một cách nhanh nhất, chính xác nhất. Ngôn ngữ sinh ra, tồn tại, đồng hành
cùng với xã hội loài người và là công cụ giao tiếp quan trọng nhất của con
người. Mỗi quốc gia, dân tộc trên thế giới đều có ngôn ngữ riêng của mình.
Việt Nam là quốc gia đa dân tộc, đa ngôn ngữ và có nền văn hóa đa dạng
trong sự thống nhất các nền văn hóa của cộng đồng các dân tộc. Các dân tộc
anh em sống trên các địa bàn phân bố rộng khắp trên lãnh thổ hình chữ S, mỗi
dân tộc có phong tục, tập quán; có truyền thống văn hóa và có tiếng nói riêng.
Đặc biệt, chính tiếng nói riêng ấy của các dân tộc đã và đang góp phần tạo
nên sự đa dạng và phong phú cho vốn từ ngữ tiếng Việt. Theo tinh thần của
nghị quyết Trung ương 5, khóa VIII, Việt Nam đang phấn đấu để xây dựng
một quốc gia có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, mà nền văn
hóa đó được tạo nên từ bản sắc riêng của mỗi dân tộc anh em, trong đó có
ngôn ngữ, thành tố chủ yếu của văn hóa. Tiếng Tày là một trong những thành
tố góp phần vào bản sắc văn hóa của người Tày và cộng đồng quốc gia dân
tộc Việt Nam.
Dân tộc Tày là một cộng đồng có số dân đông nhất trong số 53 dân tộc ít

người ở Việt Nam. Người Tày thường sống khá tập trung ở các tỉnh miền núi
phía bắc như: Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà
Giang, Bắc Giang, v.v Trong giao tiếp gia đình và thôn bản, người Tày
thường sử dụng tiếng mẹ đẻ của mình. Đã có một thời, tiếng Tày đã từng là
1
ngôn ngữ phổ thông của vùng Trung du và miền núi phía Bắc trong nhiều thế
kỉ. Hầu hết các giao dịch giữa các dân tộc khác nhau ở đó đều sử dụng tiếng
Tày, nó được xem là ngôn ngữ thứ 2 của các dân tộc Dao, Mông, Sán Chỉ, Sán
chay Biết tiếng Tày đã từng là điều hiển nhiên của các cư dân những vùng
này. Tuy nhiên, trong điều kiện tiếp xúc ngôn ngữ, văn hóa đa chiều hiện nay,
có những đặc điểm về ngôn ngữ và văn hóa của người Tày đã có sự tiếp biến
của cư dân các dân tộc, đặc biệt là từ ngôn ngữ và văn hóa của người Kinh. Và
kết quả của sự tiếp xúc và tiếp biến văn hóa đó được phản ánh trong tiếng Tày.
Người Tày gắn bó cuộc sống của mình với vùng thung lũng, sườn đồi,
rừng núi. Và chính môi trường sống ở núi rừng, thung lũng đó đã tạo cho người
Tày có những phương thức kiếm sống của riêng mình để phù hợp với môi
trường. Người Tày cũng có nền kinh tế nông nghiệp khá phát triển. Đây là đặc
điểm văn hoá vật chất lớn nhất của người Tày (mang đậm dấu ấn nền văn minh
lúa nước của dân tộc Việt Nam hàng ngàn năm qua). Ngoài ra, địa hình đất đai
chủ yếu là đồi núi và rừng nên việc khai thác lâm thổ sản để tạo thêm nguồn
thu nhập cho cuộc sống của người dân cũng là vấn đề đặc biệt quan trọng.
Ngoài thời gian đi làm nương rẫy, họ vào rừng khai thác và tự túc vận chuyển
bằng các phương tiện chuyên chở thô sơ như ngựa, trâu, bò Đó là cuộc sống
lao động vất vả của bà con người Tày, song chìm sâu trong sự vất vả ấy là cả
một kho tàng từ vựng. Chính vì vậy mà trong vốn từ vựng của người Tày, số
lượng các từ ngữ chỉ công cụ sản xuất được ghi nhận và phản ánh chiếm một tỉ
lệ không nhỏ. Việc tiếp tục nghiên cứu đặc điểm của tiếng Tày, nhất là nghiên
cứu từ vựng - ngữ nghĩa ngôn ngữ này sẽ góp phần để xây dựng nền văn hóa
Tày trong vườn hoa văn hóa đa sắc tộc ở Việt Nam là điều cần thiết.
Là người bản ngữ, chúng tôi muốn tìm hiểu thêm về vốn từ ngữ chỉ công

cụ sản xuất nông, lâm nghiệp để khám phá thêm những đặc trưng văn hóa của
dân tộc mình. Vì vậy, chúng tôi chọn nghiên cứu “Từ ngữ chỉ công cụ sản xuất
2
nông, lâm nghiệp của người Tày ở tỉnh Bắc Giang” làm đề tài của luận văn.
2. Lịch sử vấn đề
Đến nay đã có khá nhiều công trình của các tác giả trong và ngoài nước
nghiên cứu về tiếng Tày trên các phương diện cấu trúc, quan hệ cội nguồn,
xã hội ngôn ngữ học. Với các tác giả trong nước, người nghiên cứu tiếng
Tày (và cả Tày - Nùng) nhiều nhất và nổi bật nhất là Hoàng Ma, một
PGS.TS người Tày, nguyên cán bộ của Viện Ngôn ngữ học. Có thể nói,
ngoài những công trình được kể ra dưới đây, ông còn có tập bài viết Ngôn
ngữ dân tộc thiểu số Việt nam: một số vấn đề về quan hệ cội nguồn và loại
hình học (KHXH., H., 2002). Nhìn lại, về nghiên cứu tiếng Tày, có thể thấy:
* Về cấu trúc ngôn ngữ
Qua sự tìm hiểu của chúng tôi, hiện nay chưa có một công trình nghiên
cứu chuyên sâu, hệ thống, toàn diện về ngữ âm tiếng Tày. Song ngay từ
những năm bảy mươi của thế kỉ XX đã có một số bài viết nghiên cứu về ngữ
âm tiếng Tày (Tày - Nùng). Chẳng hạn, trong Ngữ pháp tiếng Tày Nùng
(1971), các tác giả Hoàng Văn Ma, Lục Văn Pảo đã trình bày sơ lược hệ
thống ngữ âm của tiếng Tày – Nùng. Hoặc điều này có thể được biết rõ ràng
hơn qua công trình Hệ thống ngữ âm tiếng Tày Nùng (1972) của tác giả Đoàn
Thiện Thuật trong Tìm hiểu ngôn ngữ các dân tộc thiểu số ở Việt Nam, Viện
Ngôn ngữ học, Hà Nội). Gần đây, trong giáo trình giảng dạy tiếng Tày cũng
có đề cập và giới thiệu hết sức sơ lược về hệ thống ngữ âm tiếng Tày (chẳng
hạn cuốn Slon Phuối Tày của Lương Đức Bèn (Chủ biên), Ma Ngọc Dung.
Nxb Đại học Thái Nguyên, 2009) hoặc một số bài viết. Ví dụ: bài viết Bản
sắc riêng trong tiếng nói của người Tày ở Nghĩa Đô, Lào Cai trên trang web
của Cục văn thư lưu trữ Nhà nước [45] đã chỉ ra điểm độc đáo ở một số chữ,
âm vần, thanh lửng, phụ âm lắc trong tiếng Tày Nghĩa Đô so với tiếng Tày ở
các vùng khác. Đặc biệt, năm 2010 tại Đại học Sư phạm Hà Nội, với luận văn

3
cao học Nghiên cứu ngữ âm tiếng Tày ở xã Na Hối và Tà Chải (Bắc Hà, Lào
Cai) của mình, tác giả Nông Thị Nhung, cũng đã miêu tả hết sức chi tiết
những đặc điểm ngữ âm của tiếng Tày ở hai xã Nà Hối và Tà Chải [24].
* Trên phương diện từ vựng – ngữ nghĩa
Có thể nói, đây là phương diện được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm
hơn cả. Điều này được thể hiện qua số bài viết và công trình dưới đây:
Bài viết Xây dựng và phát triển hệ thống từ vựng Tày – Nùng (1969)
của Nguyễn Hàm Dương đã chỉ ra một cách khái quát đặc điểm hệ thống từ
vựng Tày – Nùng, từ đó đưa ra những giải pháp nhằm xây dựng và phát triển
hệ thống từ vựng Tày – Nùng. Trong Báo Văn nghệ Độc lập số 1441, năm
1970 có bài Đẩy mạnh việc giảng dạy và học chữ Tày - Nùng xen kẽ với chữ
quốc ngữ nói đến vai trò của tiếng Tày và sự cần thiết phải học chữ Tày tại
thời điểm đó. Các tác giả Hoàng Văn Ma, Lục Văn Pảo với các bài Vài nét về
sự phát triển của tiếng Tày - Nùng sau Cách mạng Tháng Tám, và Một vài ý
kiến về các từ mượn trong tiếng Tày – Nùng (1970); Nguyễn Thiện Giáp
(1970) với bài Cách làm giàu vốn từ vựng Tày – Nùng, báo Việt Nam Độc
lập. Bên cạnh đó, có thể kể đến Lạc Dương (1971) với bài Tính phong phú
của tiếng Tày - Nùng, báo Việt Nam Độc lập, hay Đoàn Thiện Thuật (1986)
với bài Về kho từ vựng chung Việt – Tày. Ngoài ra, cũng phải kể tới các cuốn
Từ điển Tày Nùng – Việt, Việt – Tày Nùng của nhóm tác giả Hoàng Văn Ma,
Lục Văn Pảo, hay Từ điển thành ngữ, tục ngữ Tày Nùng của Triều An, Hoàng
Quyết, Nxb VHDT, 1996. Đây là công trình công phu, hệ thống, bổ ích về
vốn từ vựng tiếng Tày trong sự đối chiếu với tiếng Nùng và tiếng Việt mà
những người quan tâm đến tiếng Tày không thể bỏ qua.
Vài năm gần đây, tại Đại học sư phạm Thái Nguyên đã có một số luận
văn Thạc sĩ nghiên cứu tiếng Tày (Tày Nùng) theo hướng liên ngành ngôn
ngữ - văn hóa. Chẳng hạn, Ngôn Thị Bích (2009) với Từ ngữ chỉ lúa gạo và
4
sản phẩm làm từ lúa gạo trong tiếng Tày (có so sánh với tiếng Việt);

Nguyễn Thị Hằng với Từ ngữ chỉ người trong tiếng Tày Nùng. Ngoài ra,
cũng năm 2009, còn có luận văn thạc sĩ Đặc điểm cấu trúc hình thức và
ngữ nghĩa của tục ngữ dân tộc Tày của Hà Huyền Nga. Có thể nói, các công
trình này cũng là sự gợi mở cho chúng tôi tiếp tục khai thác vấn đề từ vựng
tiếng Tày không chỉ dưới góc độ ngôn ngữ học mà còn nhằm tìm ra những giá
trị văn hóa tiềm ẩn trong các lớp từ đó [4], [6].
* Trên phương diện ngữ pháp
Đó là công trình Ngữ pháp Tày – Nùng (1971) của Hoàng Văn Ma, Lục
Văn Pảo. Gần đây (2010) một số luận văn thạc sĩ tại Đại học sư phạm Thái
Nguyên nghiên cứu về một số khía cạnh trên bình diện ngữ pháp của tiếng
Tày như: Câu hỏi trong tiếng Tày của Vũ Huyền Nhung, Phương thức láy
trong tiếng Tày của Hà Thị Bạch [4], [25], [26].
* Trên phương diện xã hội ngôn ngữ học
Mấy chục năm gần đây, những vấn đề về xã hội ngôn ngữ học được các
nhà ngôn ngữ học ở nước ta tập trung nghiên cứu, đặc biệt đối với các ngôn
ngữ dân tộc thiểu số ở Việt Nam, trong đó có tiếng Tày. Chẳng hạn, Tiếp xúc
ngôn ngữ Việt (Kinh) - Tày ở vùng Đông Bắc Việt Nam, của Đặng Thanh
Phương, Luận án tiến sĩ lịch sử, H., 2004; Tình hình sử dụng ngôn ngữ ở hai xã
Hưng Đạo và Hoàng Trung (Huyện Hòa An - tỉnh Cao Bằng), của Tô Phương
Chi (2006), Khóa luận tốt nghiệp, HN; Cảnh huống ngôn ngữ ở Hà Giang của
Nguyễn Thị Thanh Huyền (2010); Nguyễn Thị Thanh Huyền, Bình Thành
(2010), Một số đặc điểm của cảnh huống ngôn ngữ ở Hà Giang, Ngôn ngữ;
Cảnh huống ngôn ngữ ở Thái Nguyên, của Dương Thị Thanh Hoa (2010); Mấy
nét về cảnh huống ngôn ngữ ở Thái Nguyên, của Dương Thị Thanh Hoa, Lan
Hương (2010), Ngôn ngữ; Cảnh huống đa ngữ ở huyện Hòa An, tỉnh Cao
Bằng, của Nguyễn Hoàng Lan (2010). Hoặc bài viết Vị thế, chức năng của các
5
ngôn ngữ dân tộc ở vùng Đông Bắc của Hoàng Văn Ma và Phan Lương Hùng
trong Bức tranh toàn cảnh về các ngôn ngữ ở Việt Nam, đề tài cấp Bộ, Viện
ngôn ngữ học (đã nghiệm thu 3/2011), [8], [19], [20], [21], [27], [30].

Nhìn lại các công trình, bài viết như đã nêu trên, chúng tôi thấy các nhà
nghiên cứu thường đề cập đến một số vấn đề về ngữ âm, từ vựng – ngữ nghĩa,
ngữ pháp, xã hội ngôn ngữ học… trong tiếng Tày Nùng. Tuy vậy, những vấn
đề về tiếng Tày vẫn còn là mảnh đất hứa mong chờ các nhà nghiên cứu tiếp
tục tìm hiểu, đặc biệt là nghiên cứu theo hướng liên ngành: Ngôn ngữ - văn
hóa; ngôn ngữ - văn học, ngôn ngữ - văn học - văn hóa; ngôn ngữ - xã hội…
Với những tư liệu hiện có và sự hiểu biết của mình, chúng tôi nhận thấy
chưa có công trình, bài viết nào nghiên cứu một cách đầy đủ, hệ thống, toàn
diện về nhóm từ ngữ chỉ công cụ sản xuất nông, lâm nghiệp của người Tày
ở tỉnh Bắc Giang. Do đó, chọn và thực hiện đề tài như trên đã đưa ra, chúng
tôi mong muốn đóng góp thêm những nghiên cứu mới mẻ về khía cạnh ngôn
ngữ vừa quen thuộc vừa thú vị này.
3. Mục đích của đề tài
Luận văn nhằm chỉ ra đặc điểm cấu tạo và ngữ nghĩa, cùng phương thức
định danh của các từ ngữ (đặc biệt là các danh từ) gọi tên công cụ sản xuất
nông, lâm nghiệp trong tiếng Tày. Trên cơ sở đó chỉ ra những nét văn hóa đặc
sắc cũng như mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa thể hiện qua lớp từ ngữ
thú vị này.
4. Đối tượng, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nhóm từ ngữ chỉ công cụ sản xuất nông, lâm nghiệp trên các khía cạnh
về cấu tạo, ngữ nghĩa và văn hóa trong tiếng Tày.
6
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn có ba nhiệm vụ:
Thứ nhất, khái quát những vấn đề lý luận liên quan đến: hình vị, từ
ngữ, và nghĩa của từ, trường từ vựng ngữ nghĩa và vốn từ chỉ công cụ sản
xuất nông, lâm nghiệp cũng như đặc điểm của tiếng Tày về các phương diện
cội nguồn, loại hình cấu trúc…
Thứ hai, miêu tả đặc trưng cấu tạo hình thức và ngữ nghĩa của các từ ngữ

chỉ công cụ sản xuất nông, lâm nghiệp của người Tày ở tỉnh Bắc Giang.
Thứ ba, trình bày giá trị biểu đạt của phương thức định danh từ ngữ chỉ
công cụ sản xuất, từ đó tìm hiểu và chỉ ra đặc điểm văn hóa của cư dân Tày
nói chung, cư dân Tày trên địa bàn tỉnh Bắc Giang nói riêng qua các từ chỉ
công cụ sản xuất.
4.3. Phạm vi nghiên cứu
Với đề tài Từ ngữ chỉ công cụ sản xuất nông, lâm nghiệp của người Tày
ở tỉnh Bắc Giang, luận văn nghiên cứu về đặc điểm vốn từ ngữ chỉ công cụ
sản xuất nông, lâm nghiệp, chứ người viết chưa có ý định nghiên cứu trường
nghĩa về công cụ sản xuất nông, lâm nghiệp. Khi nghiên cứu trường nghĩa về
công cụ sản xuất nông, lâm nghiệp, người nghiên cứu sẽ phải nghiên cứu
không chỉ các từ ngữ chỉ công cụ sản xuất, mà còn phải nghiên cứu các từ ngữ
chỉ thao tác, phương thức, hành động, tính chất. Trong luận văn này, chúng
tôi chỉ dừng lại khảo sát các danh từ gọi tên công cụ sản xuất trong nông, lâm
nghiệp và nghiên cứu đặc điểm về cấu tạo, ngữ nghĩa, phương thức định danh
và văn hóa riêng của lớp từ (vốn từ) đó.
5. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu nghiên cứu
5.1. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành được đề tài trên, người viết luận văn có sử dụng phương
pháp nghiên cứu dưới đây:
7
- Phương pháp nghiên cứu điền dã:
Để thu thập và bổ sung tư liệu. Phương pháp này áp dụng khi chúng tôi
tiến hành thống kê vốn từ ngữ chỉ công cụ sản xuất nông, lâm nghiệp trong
tiếng Tày nói chung qua Từ điển Tày – Nùng – Việt và Từ điển Việt – Tày –
Việt của các tác giả Hoàng Ma, Lục Văn Pảo. Sau đó, trên thực địa tại các
vùng cư trú của người Tày ở Bắc Giang, chúng tôi bổ sung thêm vốn từ của
địa phương mang đặc điểm của môi trường sống của cư dân Tày tại Bắc
Giang, cụ thể là hai huyện Lục Nam và Sơn Động của tỉnh Bắc Giang. Trong
khi điều tra bổ sung, chúng tôi sẽ chụp ảnh lại các loại công cụ đó và tìm hiểu

rõ hơn đặc điểm về cấu tạo, ngữ nghĩa và phương thức định danh, đặc điểm
văn hóa của các loại công cụ này.
- Phương pháp miêu tả:
Các thủ pháp được áp dụng là các thủ pháp luận giải bên trong và luận
giải bên ngoài. Với các thủ pháp luận giải bên trong chính là việc phân loại,
hệ thống hóa các tư liệu về từ ngữ chỉ công cụ để phân chúng thành các
nhóm, loạt vốn từ đó theo các tiêu chí về cấu trúc, ngữ nghĩa, phương thức
định danh, về văn hóa Bên cạnh đó, thủ pháp phân tích; thủ pháp đối lập;
được áp dụng để miêu tả đặc điểm của đối tượng nghiên cứu. Cùng với các
thủ pháp luận giải ở trên, chúng tôi cũng vận dụng là các thủ pháp luận giải
bên ngoài: văn hóa, tâm lí tộc người, thống kê để làm rõ thêm các đặc điểm
cấu trúc, ngữ nghĩa, định danh và văn hóa của người Tày ở Bắc Giang.
Trong quá trình viết, chúng tôi còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu
của các ngành khoa học khác: quy nạp, diễn dịch, mô hình hóa để làm rõ các
mục tiêu của đề tài.
5.2. Tư liệu nghiên cứu
- Nguồn tư liệu thành văn: Là một số công trình nghiên cứu của các tác
giả như: “Từ điển Tày Nùng – Việt” của Hoàng Văn Ma, Lục Văn Pảo”;
8
“Ngữ pháp tiếng Tày – Nùng” của Lục Văn Pảo, Hoàng Văn Ma; “Văn hóa
Tày – Nùng” của Lã Văn Tô, Hà Văn Thư; “Văn hóa truyền thống Tày –
Nùng” của Hoàng Văn Quyết, Ma Văn Bằng…
- Nguồn tư liệu điền dã:
+ Thu thập tư liệu từ cuộc sống thực tiễn, thông qua các đợt điền dã tại
một số bản làng, nơi người Tày sinh sống ở huyện Lục Nam, Sơn Động của
tỉnh Bắc Giang.
+ Các tài liệu truyền miệng do các cụ cao niên kể lại về cách gọi tên từ
ngữ chỉ công cụ sản xuất nông, lâm nghiệp của người Tày ở tỉnh Bắc Giang,
đặc điểm văn hóa tâm linh của người Tày thông qua các từ ngữ đó.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài

6.1. Ý nghĩa khoa học
Những kết quả nghiên cứu về đặc điểm cấu tạo, ngữ nghĩa, văn hóa và
phương thức định danh các từ ngữ chỉ công cụ sản xuất nông, lâm nghiệp sẽ
là sự bổ sung thêm lí luận và vấn đề cấu tạo từ trong các ngôn ngữ đơn lập
thuộc tiểu loại hình cổ (như tiếng việt, tiếng Thái, tiếng Tày ), cũng như
phương thức định danh các tên gọi sự vật liên quan đến văn hóa tộc người và
mối quan hệ ngôn ngữ - văn hóa tộc người của các dân tộc ở Việt Nam và
thế giới. Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu của đề tài còn là sự bổ sung thêm
những tư liệu và lí luận về vấn đề cấu tạo từ ngữ trong tiếng Tày.
Luận văn sẽ có thể cung cấp thêm những tư liệu mới về sự tiếp xúc ngôn
ngữ - văn hóa giữa tiếng Tày với các ngôn ngữ khác, đặc biệt là việc vay
mượn từ vựng của người Việt, hay phương thức căn-ke trong cấu tạo từ của
người Tày ở Bắc Giang khi vay mượn từ vựng hay phương thức tạo từ mới từ
các yếu tố vay mượn từ bên ngoài.
9
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Qua công trình nghiên cứu này, người viết cũng muốn góp chút công sức
nhỏ vào việc tôn vinh giá trị văn hóa của dân tộc Tày vào nền văn hóa chung
của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, gom góp vốn từ ý nghĩa này vào kho từ
vựng Tiếng Việt phong phú của dân tộc. Hơn nữa, chúng tôi hi vọng sẽ cung
cấp thêm vào tài liệu tham khảo cho những ai yêu thích tiếng Tày và những ai
quan tâm đến giá trị của nó trong hệ thống ngôn ngữ của các tộc người Việt
Nam. Đồng thời, luận văn sẽ giúp cho các cộng đồng tộc người người khác
hiểu rõ hơn về người Tày và tiếng Tày, góp phần vào củng cố khối đại đoàn
kết dân tộc ở nước ta trong bối cảnh vấn đề dân tộc và tôn giáo đang nóng
bỏng trên thế giới.
- Những tư liệu thu nhận được và sự lý giải của chúng tôi sẽ góp phần
soi sáng thêm mối quan hệ giữa các ngôn ngữ cùng thuộc nhóm Tày Thái nói
chung và sự vay mượn từ ngữ trong tiếng Tày với các ngôn ngữ khác riêng
trong tiến trình lịch sử.

- Cung cấp thêm tư liệu trong việc tìm hiểu, biện giải những nét văn hóa
của cư dân Tày nói chung và cộng đồng người Tày trên địa bàn tỉnh Bắc
Giang nói riêng.
- Góp phần vào việc giữ gìn, bảo tồn, phát huy những giá trị văn hóa
truyền thống của dân tộc Tày cũng như các dân tộc thiểu số ở Việt Nam.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài Phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Phụ lục, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn
Chương 2: Đặc điểm cấu tạo và ngữ nghĩa của từ ngữ chỉ công cụ sản
xuất nông, lâm nghiệp của người Tày ở tỉnh Bắc Giang
Chương 3: Phương thức định danh và đặc điểm văn hóa của từ ngữ chỉ
công cụ sản xuất nông, lâm nghiệp của người Tày Tày ở tỉnh Bắc Giang
10
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Khái niệm hình vị, từ, ngữ và nghĩa
1.1.1. Hình vị
Hình vị hay còn được gọi là “moocphem” (morpheme), “từ tố”, “nguyên
vị”, “hình tố”….
Hiện nay, trong giới Việt ngữ học, số đông các nhà nghiên cứu cho rằng
thành tố cấu tạo từ của tiếng Việt là hình vị. Một số khác, ít hơn, thấy có
những khó khăn khi vận dụng khái niệm hình vị để phân tích cấu trúc từ tiếng
Việt, nên có xu hướng tìm một khái niệm khác để thay thế. Đó là những khái
niệm như: tiếng (Nguyễn Thiện Giáp, 1984; Nguyễn Tài Cẩn, 1975), nguyên
vị ( Hồ Lê, 1976), hình vị (Đỗ Hữu Châu (1981); Đái Xuân Ninh, 1986) v.v…
Song, xu hướng chung vẫn thấy vận dụng khái niệm hình vị để phân tích
cấu trúc từ là có thể chấp nhận được, tuy rằng có những khó khăn nhất định.
Các nhà nghiên cứu coi hình vị là đơn vị (hay thành tố, yếu tố) gốc, đơn vị tế
bào của ngữ pháp, là đơn vị có tổ chức tối đơn giản, trực tiếp hoặc gián tiếp
gắn liền với một ý nghĩa nhất định. Đặc biệt được chú ý là giá trị ngữ pháp

của nó, với tư cách yếu tố cấu tạo từ.
Khi nghiên cứu các ngôn ngữ, các nhà ngôn ngữ học ít tranh luận về các
đặc tính chung của hình vị nhưng những dạng thức cụ thể của một hình vị
trong một ngôn ngữ cụ thể là thế nào, hiểu ra sao về “nghĩa” của hình vị trong
ngôn ngữ này, thì lại được thảo luận khá kĩ và sôi nổi. Chẳng hạn, trong tiếng
Việt từng có cuộc tranh luận rất sôi nổi về bản chất các đơn vị được gọi là
“tiếng” (với vai trò nhất thể ba ngôi, vừa là “âm tiết”, vừa là “từ”, vừa là
“hình vị”). Dưới đây là một số quan niệm của các tác giả định nghĩa về hình
vị, dựa trên đặc điểm về hình thái, cấu trúc, chức năng của hình vị:
11
“Hình vị là đơn vị hình thái học không thể phân chia thành những đơn vị
hình thái học nhỏ hơn, nó là yếu tố cấu tạo từ” [Nguyễn Tài Cẩn (1975), Ngữ
pháp tiếng Việt, tiếng – từ ghép – đoản ngữ, Nxb ĐH và THCN, Hà Nội. tr.23).
“Hình vị là những đơn vị có nghĩa nhỏ nhất có thể kết hợp với nhau để
tạo các từ” [Đỗ Hữu Châu, Bùi Minh Toán (2001), Đại cương ngôn ngữ học,
tập 1, Nxb GD, Hà Nội, tr.8];
“Hình vị cũng là đơn vị có nghĩa, cũng được tái hiện như các từ, nhưng
hình vị chỉ được phân xuất ra nhờ phân tích bản thân các từ, chúng không
tồn tại độc lập mà nhập hẳn vào từ, không tách rời khỏi từ” [Nguyễn Thiện
Giáp (1985), Từ vựng học tiếng Việt, Nxb ĐH và THCN, Hà Nội, tr.13];
“Hình vị là đơn vị ngôn ngữ, nhỏ nhất, có nghĩa, có chức năng làm thành
tố trực tiếp tạo nên từ” [Hoàng Văn Hành (chủ biên, 1998), Từ tiếng Việt hình
thái - cấu trúc - từ ghép - từ láy - chuyển loại, Nxb KHXH, Hà Nội, tr.40].
Từ những định nghĩa trên, ta thấy “hình vị” có một số đặc điểm đáng
lưu ý là:
- Là đơn vị có kích thước vật chất - âm thanh nhất định, là mặt biểu thị,
hình thức;
- Là đơn vị có ý nghĩa nhất định, là mặt được biểu thị, nội dung;
- Là đơn vị có cấu trúc nội tại tương đối ổn định, vững chắc, không thể
phân tách thành các đơn vị nhỏ hơn về nghĩa;

- Là đơn vị có chức năng cấu tạo nên các đơn vị lớn hơn nó, chủ yếu là
dùng để cấu tạo nên từ
Tuy nhiên, ở đây cần có sự phân biệt giữa hai khái niệm nhiều khi không
trùng khớp: “hình vị” và “thành tố cấu tạo từ”. Hình vị có thể trực tiếp cấu tạo
nên từ (một mình nó hoặc kết hợp với các hình vị khác) hoặc không trực tiếp
cấu tạo nên từ, mà gián tiếp, bằng cách kết hợp với các hình vị khác để tạo
thành một thành tố có nghĩa lớn hơn hình vị. Thành tố này mới được dùng để
12
trực tiếp cấu tạo nên từ. Thành tố cấu tạo từ có thể trùng hoặc không trùng
khớp với hình vị. Cách nhìn nhận như vậy, giúp ta giải thích có lôgíc đối với
những trường hợp các hình vị kết hợp với nhau, nhưng sản phẩm của sự kết
hợp này không thể được đánh giá là từ (không tái hiện được tự do trong lời
nói để tạo nên câu), mà chỉ nên xem là thành tố cấu tạo từ.
“Thành tố cấu tạo từ” được hiểu là yếu tố bên trong từ, yếu tố hợp thành
nên từ. Như vậy, cách hiểu này còn giúp phân biệt nó với đơn vị được gọi là
“đơn vị gốc”, đơn vị ở bên ngoài từ đang nói, đơn vị được lấy làm cơ sở để
tác động và chuyển hoá thành ra thành tố cấu tạo từ.
Có nhiều cách để phân loại hình vị, nếu phân loại hình vị theo cách
truyền thống ta có căn tố và phụ tố, nó đảm bảo được hai yếu tố là chức năng
và ngữ nghĩa.
L. Bloomfield thì lại phân loại hình vị thành hình vị tự do và hình vị hạn
chế. Với cách phân loại này ta phát hiện ra một đặc tính quan trọng của hình
vị là tính chất hoạt động trên trục tuyến tính nhưng nó lại làm mất đi phương
diện ngữ nghĩa, chức năng quyết định sự tồn tại của hình vị trong ngôn ngữ.
1.1.2. Từ
Cho đến nay, trong ngôn ngữ học, các định nghĩa về từ đã được đưa ra
không ít. Chẳng hạn, trong cuốn “Từ điển thuật ngữ ngôn ngữ học”, Nguyễn
Như Ý đã dẫn ra 36 quan niệm về từ và từ tiếng Việt. Các định nghĩa ấy, ở
mặt này hay mặt kia đều đúng, nhưng đều không đủ và không bao gồm hết
được tất cả các sự kiện được coi là từ trong ngôn ngữ và ngay cả trong một

ngôn ngữ cũng vậy. Ví dụ:
- Đỗ Hữu Châu: “Từ của Tiếng Việt là một hoặc một số âm tiết cố định,
nằm trong những kiểu tạo câu nhất định, tất cả ứng với một kiểu ý nghĩa nhất
định, lớn nhất trong Tiếng Việt và nhỏ nhất để tạo câu”.
13
(Đỗ Hữu Châu (1999), Các bình diện của từ và từ tiếng Việt, Nxb
ĐHQG Hà Nội, tr.122).
- Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến nêu định nghĩa về
từ tiếng Việt: “Từ là đơn vị nhỏ nhất có nghĩa, có kết cấu vỏ ngữ âm bền
vững, hoàn chỉnh có chức năng gọi tên, được vận dụng độc lập, tái hiện tự do
trong lời nói để tạo câu”.(Mai Ngọc Chừ,Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng
Phiến (1990), Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt, Nxb Đại học và giáo dục
chuyên nghiệp, H.).
- Nguyễn Văn Tu: Từ là đơn vị nhỏ nhất và độc lập, có hình thức vật
chất (vỏ âm thanh là hình thức) và có nghĩa, có tính chất biện chứng và lịch
sử. (Nguyễn Văn Tu (1976), Từ và vốn từ tiếng Việt hiện đại. Nxb ĐH và
THCN, H.).
- Nguyễn Kim Thản: Từ là đơn vị cơ bản của ngôn ngữ có thể tách khỏi
đơn vị khác của lời nói để vận dụng một cách độc lập và là một khối hoàn
chỉnh về ngữ âm, ý nghĩa (từ vựng, ngữ pháp) và chức năng ngữ pháp.
(Nguyễn Kim Thản (T1, 1963 – T2,1964), Nghiên cứu về ngữ pháp
tiếng Việt, H).
Qua các định nghĩa, chúng tôi nhận thấy từ có những đặc điểm cơ bản
giúp phân biệt nó với các đơn vị khác trong hệ thống ngôn ngữ như sau:
- Là một khối thống nhất, hoàn chỉnh của hình thức và nội dung hay nói
cách khác, từ bao gồm hai mặt: âm thanh và ý nghĩa. Tính hoàn chỉnh và
thống nhất giữa hai mặt này giúp cho từ có khả năng hoạt động độc lập để tạo
câu theo những quy tắc kết hợp nhất định.
- Mang tính sẵn có, tồn tại độc lập: Chúng có thể tách ra khỏi câu mà
vẫn có ý nghĩa như vậy, chúng có thể được dùng để đặt câu khác.

- Về mặt nội dung (mặt được biểu thị), từ là đơn vị có ý nghĩa biểu thị
các sự vật, hiện tượng…nhất định
14
- Có cấu trúc cố định - bắt buộc: Từ không thể chia nhỏ ra nữa mà vẫn
giữ nguyên ý nghĩa cũ. Hay nói cách khác, từ là đơn vị có cấu trúc nội tại
tương đối vững chắc, ổn định, có nghĩa mà không thể phân tách thành đơn vị
nhỏ hơn.
- Là đơn vị nhỏ nhất trực tiếp tạo câu, tạo lời nói.
Trong rất nhiều quan niệm về từ được nêu trên đây, chúng tôi chấp nhận
quan niệm của Đỗ Hữu Châu được trình bày ở trên đây, trong cuốn “Các bình
diện của từ và từ tiếng Việt” và cách phân loại từ tiếng Việt của ông. Đỗ Hữu
Châu phân loại từ trong tiếng Việt dựa trên nguyên tắc ngữ nghĩa. Cụ thể, các
bước phân loại như sau:
+ Bước thứ nhất, các từ sẽ được phân chia theo số lượng các hình vị tạo
nên chúng. Kết quả của các bước này sẽ cho ra các từ đơn và các từ phức. Từ
đơn là những từ được cấu tạo theo phương thức từ hóa, là những từ chỉ có một
hình vị. Từ phức là những từ do hơn một hình vị tạo nên theo các phương
thức phức hóa hiện hành trong tiếng Việt.
+ Ở bước thứ hai, các từ phức sẽ được phân chia theo phương thức đã
tạo ra chúng. Ở bước này, chúng ta có các từ láy và từ ghép.
+ Ở bước thứ ba, lần lượt các từ láy và từ ghép được phân chia thành
những kiểu nhỏ hơn tùy theo sự đồng nhất về kiểu loại hình thức và cơ chế
ngữ nghĩa chung cho những từ trong cũng kiểu nhỏ.
Quan điểm và cách hiểu về từ như trên sẽ là cơ sở để chúng tôi tiến hành
khảo sát, thống kê và phân loại những ngữ liệu có liên quan đến đặc điểm cấu
tạo, ngữ nghĩa và giá trị biểu đạt của phương thức định danh để từ đó hiểu rõ
hơn văn hóa của người Tày qua các từ ngữ chỉ công cụ sản xuất nông, lâm
nghiệp một cách chính xác nhất.
15
1.1.3. Ngữ (cụm từ/ từ tổ)

Bên cạnh đơn vị “từ”, trong ngôn ngữ người ta còn đề cập đến một đơn
vị cũng cùng chức năng nhưng cấu tạo khác đơn vị “từ” có là “ngữ” hay còn
được gọi là cụm từ, từ tổ.
Cũng theo “Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học” của Nguyễn
Như Ý: “Ngữ là sự kết hợp hai hoặc nhiều thực từ (không hoặc có cùng với
các hư từ có quan hệ với chúng gắn bó về ý nghĩa và ngữ pháp), diễn đạt một
khái niệm thống nhất, và là tên gọi phức tạp biểu thị các hiện tượng của thực
tại khách quan”, [35, tr.176].
Hay quan niệm về ngữ của nhóm tác giả Hoàng Văn Ma – Lục Văn Pảo
trong cuốn “Ngữ pháp tiếng Tày – Nùng”: “Cụm từ là hai hay trên hai từ kết
hợp với nhau theo những quan hệ ngữ pháp nhất định” [13].
Về cấu tạo, ngữ là một kết cấu cú pháp được tạo thành bởi hai hoặc
nhiều thực từ trên cơ sở liên hệ ngữ pháp phụ thuộc – theo quan hệ phù hợp,
chi phối hay liên hợp. Trong một số ngữ có từ đóng vai trò chủ yếu về mặt
ngữ nghĩa và ngữ pháp, gọi là thành tố chính, các từ phụ thuộc vào thành tố
chính gọi là các thành tố phụ. Thành tố chính của ngữ có thể là danh từ (tạo
nên ngữ danh từ), động từ (tạo nên ngữ động từ), tính từ (tạo nên ngữ tính từ).
Về chức năng và đặc điểm: Cũng giống như từ, ngữ cũng là phương tiện
định danh, biểu thị sự vật, hiện tượng quá trình, phẩm chất. Ý nghĩa ngữ pháp
của ngữ được tạo nên bằng quan hệ nảy sinh giữa các thực từ kết hợp lại trên
cơ sở của một kiểu liên hệ nào đó giữa chúng.
Về phân loại: Ngữ thường chia thành hai kiểu: Ngữ tự do (cụm từ tự do)
và ngữ không tự do (ngữ/cụm từ cố định)
+ Ngữ tự do/ Cụm từ tự do: Bao gồm những ý nghĩa từ vựng độc lập của
tất cả các thực từ tạo thành ngữ. Mối liên hệ cú pháp của các yếu tố trong ngữ
tự do là mối liên hệ linh loạt và có sức sản sinh.
16
+ Ngữ không tự do/Ngữ cố định/cụm từ cố định: Tính độc lập về mặt từ
vựng của một hoặc cả hai thành tố bị yếu đi hoặc bị mất và ý nghĩa từ vựng
của ngữ trở nên giống như ý nghĩa của một từ riêng biệt.

Tóm lại, ngữ giống từ về bản chất (cố định, có nghĩa, có chức năng định
danh, trực tiếp tham gia tạo câu…) nhưng khác từ về mặt cấu tạo và phân
loại. Chúng tôi chấp nhận quan niệm về “ngữ” của Nguyễn Như Ý , để từ cơ
sở đó xác định ngữ trong tiếng Tày.
1.1.4. Nghĩa của từ, ngữ
Khi nói về hình vị, từ, ngữ ở trên, chúng ta đã xác nhận đặc tính quan
trọng nhất của các đơn vị này là “có nghĩa”. Vậy nghĩa (hay ý nghĩa) là gì?
Việc xem xét nghĩa thoát li khỏi dạng vật chất biểu thị nó là không thể.
Bởi lẽ, nghĩa thuộc về tinh thần, không thể cảm nhận được một cách trực tiếp.
Nghĩa của từ thuộc về bình diện tinh thần nên là một khái niệm khó có được
một định nghĩa chính xác, dễ dàng nắm bắt. Hiện nay có khá nhiều định nghĩa
về khái niệm này.
Theo GS. TS Lê Quang Thiêm: “Nói đến hình thức, biểu thức, từ, ngữ,
câu, lời, văn bản, diễn ngôn…là nói đến những hiện tượng, đơn vị, thực thể
của ngôn ngữ trong ngôn ngữ học. Nghĩa của những đơn vị thực thể đó là
nghĩa của ngôn ngữ, thuộc ngôn ngữ. Thuật ngữ gọi thứ nghĩa này là ngữ
nghĩa. Nhưng có sự khác nhau giữa nghĩa trong ngôn ngữ, nghĩa của ngôn
ngữ với nghĩa của các tồn tại khác” [33, tr.5].
Quan niệm nghĩa của từ như kết quả của một quá trình nhận thức thực tại
được nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước tán thành. Tuy nhiên, bên
cạnh các yếu tố liên quan đến nhận thức, các nhà khoa học còn bổ sung các
yếu tố liên quan đến quá trình tâm lí. Hoàng Văn Hành cho rằng: “ Nghĩa của
từ không phải chỉ là hệ quả của quá trình nhận thức, mà còn là hệ quả của các
quá trình có tính chất tâm lí xã hội, có tính chất lịch sử nữa”. [22, tr.9]
17
Chúng ta đều biết từ là một đơn vị quan trọng của ngôn ngữ. Nó có hai
mặt: mặt hình thức vật chất âm thanh và mặt nội dung ý nghĩa. Hai mặt này
gắn bó với nhau như hai mặt của một tờ giấy, nếu không có mặt này thì cũng
không có mặt kia. Vậy nghĩa của từ tồn tại trong từ, nói rộng ra là trong hệ
thống ngôn ngữ. Nó là cái phần nửa làm cho ngôn ngữ nói chung và từ nói

riêng, trở thành những thực thể vật chất - tinh thần.
Nghĩa của từ không tồn tại trong ý thức, trong bộ óc của con người.
Trong ý thức, trong tư duy của con người chỉ có những hoạt động nhận thức,
hoạt động tư duy mà thôi. Điều này ngụ ý rằng: Trong ý thức, trong bộ óc trí
tuệ của con người chỉ tồn tại sự hiểu biết về nghĩa của từ chứ không phải là
nghĩa của từ. Từ những điều trên đây, suy tiếp ra rằng những lời trình bày,
giải thích trong từ điển, cái mà ta vẫn quen gọi là của từ trong từ điển, thực
chất là những lời trình bày tương đối đồng hình với sự hiểu biết của ta về
nghĩa của từ mà thôi.
Từ có liên hệ với nhiều nhân tố, nhiều hiện tượng. Bởi thế nghĩa của từ
cũng không phải chỉ có một thành phần, một kiểu loại. Tùy theo các chức
năng mà từ chuyên đảm nhiệm, trong ý nghĩa của từ có những thành phần ý
nghĩa sau đây:
- Ý nghĩa từ vựng gồm:
+ Ý nghĩa biểu vật (denotative meaning): Ý nghĩa biểu vật là thành phần
nghĩa của từ liên quan đến sự vật hoặc phạm vi sự vật trong thế giới mà từ gợi
ra khi ta tiếp xúc với nó (sản sinh và tiếp nhận).
+ Ý nghĩa biểu niệm (significative meaning): Là thành phần nghĩa của từ
liên quan đến hiểu biết về ý nghĩa biểu vật, tức về cách dùng từ. Hay nói một
cách khác ý nghĩa biểu niệm là tập hợp của một số nét nghĩa chung và riêng,
khái quát và cụ thể theo một tổ chức, một trật tự nhất định.
18

×