Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

Phân tích thực trạng bội chi Ngân sách Nhà nước ở Việt Nam giai đoạn 2010 2012

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (215.68 KB, 27 trang )

Lời mở đầu
Nhà nước là một chủ thể quan trọng trong nền kinh tế. Trong lịch sử xã hội
loài người, chỉ trừ thời kỳ công xã nguyên thủy, Nhà Nước luôn được coi là công
cụ của giai cấp thống trị để duy trì trật tự và quản lý xã hội cho phù hợp với lợi ích
của chính xã hội đó. Do đó, Nhà Nước có vai trò hết sức quan trọng trong việc điều
tiết nền kinh tế vĩ mô từ xưa tới nay.
Có một thời kỳ trong chủ nghĩa tư bản, trường phái tự do cạnh tranh rất được
ủng hộ, và thực tế nó đã mang lại hiệu quả rất cao cho nền kinh tế trong một thời
gian, một trong số những người ủng hộ trường phái này là Adam Smith, đã đưa ra
thuyết bàn tay vô hình và nguyên lý Nhà Nước không can thiệp vào hoạt động của
nền kinh tế. Đến những năm 30 của thế kỷ XX, những cuộc khủng hoảng kinh tế
nổ ra thường xuyên đã chứng tỏ bàn tay vô hình không thể đảm bảo những điều
kiện ổn định cho kinh tế thị trường phát triển. Như vậy, sự can thiệp của Nhà nước
vào nền kinh tế là một điều kiện tất yếu, giúp duy trì và ổn định nền kinh tế.
Để thực hiện các chức năng điều tiết nền kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô, an
sinh xã hội, phát triển kinh tế,…, Nhà nước cần phải có các công cụ bao gồm các
chính sách, luật lệ,…, trong đó có Ngân sách Nhà nước. Theo Luật Ngân sách Nhà
nước của Việt Nam đã được Quốc hội Việt Nam thông qua ngày 16/12/2002 định
nghĩa: “Ngân sách Nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước trong dự
toán đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong
một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của nhà nước”.
Trong những năm qua, Ngân sách Nhà nước (NSNN) đã thể hiện rõ vai trò
giúp nhà nước hình thành quan hệ thị trường, góp phần kiềm chế lạm phát, tỷ lệ lãi
suất thích hợp,… làm lành mạnh cho tài chính quốc gia, đảm bảo sự ổn định và
phát triển bền vững của nền kinh tế. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn những mặt
1
hạn chế trong việc sử dụng ngân sách nhà nước như chưa xây dựng được khuôn
khổ tài chính trung hạn, bố chí ngân sách còn bị động, co kéo với mục tiêu ngắn
hạn,… dẫn đến một số thực trạng xấu trong nền kinh tế, tiêu biểu là thực trọng bội
chiNgân sách Nhà nước.
Vậy bội chi NSNN là gì? Thực trạng bội chi NSNN hiện nay ra sao? Nó tác


động như thế nào đến nền kinh tế? Biện pháp nào cho tình trạng đó hiện nay?
Đó là những câu hỏi cần phải được giải đáp.
Trước thực tế trên, Nhóm 13 xin được trình bày ý kiến của mình với vấn đề
trên trong đề tài: “Phân tích thực trạng bội chi Ngân sách Nhà nước ở Việt Nam
giai đoạn 2010 - 2012”. Kết cấu đề tài gồm 3 phần:
Phần 1: Cơ sở lý luận về bội chi NSNN
Phần 2: Thực trạng bội chi ngân sách Nhà nước ở Việt Nam giai đoạn 2010-2012
Phần 3: Các biện pháp xử lí bội chi ngân sách Nhà nước
Phần 1: Cơ sở lý luận về bội chi NSNN
1.1.Khái niệm bội chi NSNN
1.2.1.Khái niệm NSNN
Ngân sách nhà n c:ướ là toàn bộ các kho nả thu chi c aủ nhà n cướ
trong dự toán ãđ cđượ cơ quan nhà n cướ có th mẩ quy nề quy tế nhđị và cđượ
th cự hi nệ trong m tộ n mă để mđả b oả th cự hi nệ các ch cứ n ngă và nhi mệ vụ
2
c aủ Nhà n cướ (Lu tậ Ngân sách Nhà n cướ CHXHCN Vi tệ Nam). Ngân sách
nhà n cướ là m tộ kế ho chạ tài chính cơ b nả c aủ m tộ qu cố gia.
1.2.2.Khái niệm bội chi NSNN
Bội chi NSNN (hay còn gọi là thâm hụt NSNN) là tình trạng chi NSNN vượt
quá số thu của NSNN trong một năm.
1.2.Nguyên nhân bội chi NSNN
1.2.1.Nhóm nguyên nhân khách quan
-Do điều hành NSNN không hợp lý: dẫn đến tình trạng hạn chế khả năng
khai thác nguồn thu NSNN gây thất thu, cơ cấu chi tiêu bất hợp lý, quản lý lỏng
lẻo gây thất thoát, lãng phí.
-Do quá trình phân cấp NSNN còn nhiều bất cập: làm cho NSĐP luôn rơi
vào tình trạng không tự cân đối, chi hỗ trợ từ NSTW cho NS quá nhiều.
-Do chủ trương chuyển đổi nền kinh tế: nảy sinh nhu cầu điều chỉnh cơ caais
kinh tế sao cho phù hợp => Tăng khoản trợ cấp, ưu đãi,… ảnh hưởng tới cơ cấu
thu chi NSNN.

1.2.2.Nhóm nguyên nhân chủ quan
-Do biến động của chu kỳ kinh tế: nguồn thu NSNN giảm đi do sự biến động
của chu kỳ kinh tế, chi NSNN lại tăng vọt để đáp ứng nhu cầu phục hồi phát triển
kinh tế, an ninh quốc phòng, khắc phục hậu quả thiên tai.
-Do cơ cấu dân số mất cân đối: tỷ lệ người trong độ tuổi lao động giảm trong
khi số người đến tuổi nghỉ hưu ngày càng tăng => khoản chi cho an ninh xã hội
luôn là áp lực chi NSNN hàng năm.
3
1.3.Ảnh hưởng của bội chi NSNN đến nền kinh tế vĩ mô
Tình trạng bội chi NSNN có những ảnh hưởng hết sức rộng lớn trên tất cả
các lĩnh vực, các hoạt động kinh tế xã hội. Bội chi NSNN với một mức cao và triền
miên sẽ làm cho Nhà nước phải tìm cách tăng các khoản thu, điều này ảnh hưởng
không nhỏ đến đời sống của người dân, hơn nữa khi đó các nguồn vốn trong các
ngân hàng sẽ trở nên khan hiếm hơn; Điều đó sẽ dẫn đến tình trạng lãi suất tăng
cao, gây những trở ngại trong việc vay vốn của nhà đầu tư. Về lâu về dài sẽ dẫn
đến tình trạng đầu tư giảm sút nghiêm trọng, sẽ có nhiều doanh nghiệp bị phá sản
do không tìm được những khoản vay thích hợp, sản xuất trong nước bị thu nhỏ. Từ
đó sẽ tạo điều kiện thúc đẩy quá trình nhập siêu, cán cân thương mại quốc tế mất
cân bằng. Những điều này dẫn đến tình trạng thất nghiệp ngày càng gia tăng, thu
nhập thực tế của người dân giảm sút và ngày càng gặp nhiều khó khăn trong cuộc
sống.
Mặt khác thì khi xảy ra tình trạng bội chi NSNN cũng là nguyên ngân chủ
yếu dẫn đến lạm phát cao. Bởi lẽ khi có thâm hụt NS thì một biện pháp mà chính
phủ hay dùng là phát hành tiền để bù đắp ngân sách, mà khi tiền được tạo ra một
cách quá mức như thế sẽ dẫn đến lạm phát tăng cao, mà nếu như Chính phủ phát
hành trái phiếu ra công chúng để thu hút vốn, bù đắp cho phần thiếu thì trong một
thời gian dài sẽ làm cho cầu về vốn tăng, do đó lãi suất tăng và cung tiền tệ sẽ tăng.
Hơn nữa khi mà hiện nay nước ta đang trong quá trình xây dựng và phát
triển, rất cần sự ủng hộ, giúp đỡ của người dân trong nước cũng như bạn bè thế
giới. Nếu chúng ta không biết cách quản lý nguồn vốn, nền tài chính cũng như

ngân sách quốc gia cho tốt thì dần dần sẽ gây mất lòng tin của người dân cũng như
các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Họ đầu tư càng ngày càng ít hơn, dẫn đến
nước ta đã thiếu vốn để xây dựng đất nước nay lại càng thiếu hơn, những mục tiêu
tốt đẹp mà chúng ta đề ra sẽ khó mà có thể trở thành hiện thực được.
4
1.4.Các giải pháp cân đối NSNN
1.4.1.Tăng thu NSNN
Tăng thuế và kiện toàn hệ thống thuế:
-Tăng thuế bằng cách cải cách hệ thống các sắc thuế, mở rộng diện chịu
thuế.
-Kiện toàn và nâng cao hiệu quả bộ máy hành thu nhằm chống thất thu
thuế…
1.4.2.Tiết kiệm chi NSNN
Cắt giảm những khoản chi không tác động trực tiếp tới sự phát triển kinh tế
trong tương lai: xóa bỏ chi bao cấp, chi lãng phí, thực hành tiết kiệm chi tiêu qua
việc nâng cao hiệu quả của quá trình kiểm soát chi tiêu công, cơ cấu lại hệ thống
chi nhằm giảm nguy cơ tham ô trong quá trình sử dụng vốn NSNN.
1.4.3.Tìm nguồn bù đắp thâm hụt NSNN
• Vay nợ:
Nguồn vay nợ của chính phủ khá phong phú:
-Vay nợ qua phát hành các giấy tờ có giá trên thị trường vốn trong và ngoài
nước (phát hành công trái, phát hành trái phiếu Chính phủ…)
-Vay qua NHTW.
-Vay từ các tổ chức tài chính – tiền tệ quốc tế.
-Vay từ Chính phủ các nước.
• Viện trợ:
-Viện trợ không hoàn lại 100%.
5
-Viện trợ ưu đãi: cho vay với mức lãi suất thấp, trong một khoảng thời gian
dài.

• Phát hành thêm tiền vào lưu thông:
Biện pháp này được coi là một ngoại lệ để tìm nguồn bù đắp thâm hụt cho
NSNN. Nhà nước sẽ chủ yếu chỉ phát hành tiền căn cứ vào tốc độ tăng của GDP
hàng năm.
Phần 2: thực trạng bội chi NSNN ở Việt Nam giai đoạn 2010-1012
2.1. Thực trạng bội chi NSNN
Bảng cân đối NSNN 2010-2012 (Đơn vị: Tỷ đồng)
STT Nội dung Quyết
toán
2010
Quyết
toán
2011
Ước
thực
hiện
2012
A TỔNG THU NGÂN SÁCH NHÀ
NƯỚC
777,283 962,982 765,590
6
I Thu cân đối ngân sách nhà nước 588,428 721,804 743,190
1 Thu nội địa 377,030 443,731 467,430
2 Thu từ dầu thô 69,179 110,205 140,107
3 Thu từ xuất khẩu, nhập khẩu 130,351 155,765 127,828
4 Thu viện trợ không hoàn lại 11,868 12,103 7,825
II Thu huy động đầu tư theo khoản 3
Điều 8 Luật NSNN
8,012 4,678
III Thu kết chuyển 180,843 236,500 22,400

B TỔNG CHI CÂN ĐỐI NGÂN
SÁCH NHÀ NƯỚC
850,874 1,034,24
4
905,790
1 Chi đầu tư phát triển 183,166 208,306 195,054
2 Chi thường xuyên 403,151 498,122 655,331
3 Chi chuyển nguồn 202,041 246,690
4 Chi trả nợ gốc 62,516 81,126 55,405
C CÂN ĐỐI NGÂN SÁCH NHÀ
NƯỚC
-109.191 -112,034 -140,200
1 Bội chi ngân sách nhà nước 109.191 112,034 140,200
2 Tỷ lệ bội chi so với GDP 5,5% 4,4% 4,8%
-Năm 2010: bội chi ngân sách cả năm là 109,191 tỷ VNĐ, bằng 5,5% GDP.
Kết quả thực hiện ngân sách nhà nước năm 2010 đã góp phần hoàn thành các mục
tiêu nhiệm vụ của tài chính - ngân sách theo Nghị quyết Đại hội X và Kế hoạch 5
năm 2006 -2010 với cơ cấu thu được cải thiện, tỷ trọng thu nội địa trong tổng thu
NSNN tăng từ mức 52-53% năm 2006 lên trên 63% năm 2010 góp phần tăng tính
chủ động và ổn định của NSNN; cơ cấu chi đang thay đổi theo hướng tăng chi
mạnh hơn cho con người, thực hiện các chính sách an ninh xã hội, tăng đầu tư cho
phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn, tiềm lực dự trữ quốc gia được tăng
cường. Kết quả thực hiện ngân sách nhà nước năm 2010 tạo đà thuận lợi cho việc
xây dựng và triển khai thực hiện Kế hoạch tài chính - ngân sách nhà nước 5 năm
2011-2015 và Chiến lược tài chính 10 năm 2011-2020.
7
-Năm 2011: bội chi NSNN năm 2011 Quốc hội quyết định là 112,034 tỷ
đồng, bằng 4,4% GDP. Các kết quả đạt được là tích cực, thu ngân sách đạt và vượt
dự toán ở tất cả các lĩnh vực; chi ngân sách được điều hành chặt chẽ, đảm bảo thực
hiện tốt các nhiệm vụ chính trị quan trọng và tăng cường công tác an sinh xã hội;

bội chi NSNN giảm so với dự toán; góp phần tích cực kiềm chế lạm phát, ổn định
kinh tế vĩ mô, duy trì mức tăng trưởng kinh tế hợp lý, bảo đảm trật tự an toàn xã
hội, củng cố niềm tin của xã hội vào sự lãnh đạo của Đảng và Chính phủ.
-Năm 2012: Ước thực hiện bội chi NSNN là 140.200 tỷ đồng, bằng 4,8%
GDP. Dư nợ công tính đến hết năm 2012 bằng 55,7% GDP, dư nợ Chính phủ bằng
43,5% GDP và dư nợ quốc gia bằng 42,0% GDP, nằm trong giới hạn an toàn an
ninh tài chính quốc gia. Trong điều kiện phát sinh nhiều khó khăn và thách thức,
các hoạt động tài chính – NSNN năm 2012 cơ bản hoàn thành dự toán Quốc hội
quyết định. Trong đó: thu ngân sách thực hiện đạt dự toán; chi ngân sách đc điều
hành theo đúng chủ trương thắt chặt chính sách tài khóa để kiềm chế lạm phát, ổn
định kinh tế vĩ mô và đảm bảo an sinh xã hội.
2.2. Nguyên nhân bội chi ngân sách nhà nước
2.2.1.Nguyên nhân khách quan:
-Do điều hành NSNN không hợp lý:
+Do hệ thống pháp luật ta còn nhiều bất cập, sự quản lý chưa chặt chẽ đã tạo
kẽ hở cho các cá nhân, tổ chức lợi dụng để trốn thuế, gây thất thu một lượng đáng
kể cho NSNN.
+Đầu tư công kém hiệu quả: tình trạng đầu tư dàn trải, gây lãng phí, tiến độ
thi công các dự án trọng điểm quốc gia còn chậm và thiếu hiệu quả gây lãng phí
NSNN.
8
+Quy mô chi tiêu của chính phủ quá lớn: Tăng chi tiêu của chính phủ một
mặt giúp nền kinh tế tăng trưởng tạm thời trong thời gian ngắn hạn, nhưng lại tạo
ra những nguy cơ gây bất ổn lâu dài như lạm phát và rủi ro tài chính do sự thiếu
hiệu quả của các khoản chi tiêu công và thiếu cơ chế giám sát đảm bảo sự hoạt
động lành mạnh của hệ thống tài chính.
+Nhà nước huy động vốn để kích cầu: chính phủ kích cầu qua 3 nguồn tài
trợ chính: phát hành trái phiếu Chính phủ, miễn giảm thuế và sử dụng quỹ dự trữ
nhà nước. Sử dụng gói giải pháp kích cầu một mặt làm kích thích tiêu dùng, tăng
trường kinh tế. Tuy nhiên sẽ làm mức thâm hụt NSNN tăng rất cao.

-Do quá trình phân cấp nhà nước còn nhiều bất cập: ngân sách địa phương
được phân cấp nguồn thu ứng với các nhiệm vụ chi cụ thể và được xác định cụ thể
trong dự toán ngân sách hàng năm. Vì vậy, khi các địa phương vay vốn để đầu tư
sẽ đòi hỏi bảo đảm nguồn chi thường xuyên để bố chí cho việc vận hành các công
trình khi hoàn thành và đi vào hoạt động cũng như chi phí duy tu, bảo dưỡng.
Chính điều đó luôn tạo sự căng thẳng về ngân sách. Để có nguồn kinh phí hoặc
phải đi vay để duy trì hoạt động hoặc yêu cầu cấp trên bổ sung ngân sách, cả 2
trường hợp đều tạo áp lực bội chi NSNN.
-Do chủ trương chuyển đổi nền kinh tế:
+Tình trạng hoạt động trì trệ của thị trường tài chính và bất động sản -> ưu
đãi thuế giúp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh gây ra giảm thu ngân sách
nhà nước.
2.2.2.Nguyên nhân chủ quan:
-Do biến động của chu kỳ kinh tế: khủng hoảng lạm chi làm cho thu nhập
của nhà nước co lại, nhưng nhu cầu chi lại tăng lên để giải quyết khó khăn mới về
kinh tế xã hội; đồng thời đáp ứng cho an ninh quốc phòng, khắc phục hậu quả do
9
thiên tai gây ra. Điều đó làm cho mức độ bội chi ngân sách ngân sách nhà nước
tăng lên. Trong giai đoạn kinh tế phồn thịnh, thu của nhà nước sẽ tăng lên, trong
khi chi không phải tăng tương ứng. Điều đó làm giảm mức bội chi ngân sách nhà
nước. Mức bội chi do tác động của chu kỳ kinh doanh gây ra được gọi là bội chi
chu kỳ. Trong những năm 2008-2011, đất nước ta cũng chịu ảnh hưởng chung từ
khủng hoảng kinh tế từ Mỹ và nợ ở Châu Âu. Vì vậy, để giải quyết các khó khăn
trong nước và kích cầu kinh tế thì việc Nhà nước sử dụng NSNN là điều tất yếu ->
mức độ bội chi NSNN tăng lên. Thực tế là năm 2011 lạm phát lên đến 18,58%.
-Do cơ cấu dân số mất cân đối: độ tuổi lao động giảm trong khi số người đến
tuổi nghỉ hưu ngày càng tăng -> chi cho an sinh xã hội luôn là áp lực chi NSNN
hàng năm.
2.3.Tác động của bội chi NSNN đến nền kinh tế.
2.3.1. Ảnh hưởng đến tổng cầu nền kinh tế

Trong bối cảnh NSNN bội chi, chính phủ phải tìm cách bù đắp bội chi bằng
cách vay trong nước hoặc nước ngoài. Vay trong nước làm cho tiết kiệm tư nhân
giảm -> tổng đầu tư giảm, để duy trì được mức tổng đầu tư thì chính phủ phải lựa
chọn phương án đi vay nước ngoài. Mỗi khi chính phủ cho tiêu quá một đồng vượt
số thu ngân sách thì buộc phải tài trợ bằng cách tăng nợ công một đồng.
2.3.2. Ảnh hưởng lạm phát
Bội chi NSNN ở mức cao đều có nguy cơ gây ra lạm phát. Bởi vì, khi ngân
sách bị bội chi có thể được bù đắp bằng phát hành tiền hoặc vay nợ, đều gây nên
nguy cơ lạm phát tăng.
Thứ nhất, việc phát hành tiền trực tiếp làm tăng cung tiền tệ trên thị trường
sẽ gây lạm phát cao, đặc biệt khi việc tài trợ thâm hụt lớn và diễn ra liên tục thì nền
kinh tế phải trải qua lạm phát cao và kéo dài như giai đoạn 1986 - 1990. Sự gia
10
tăng cung tiền có thể không làm tăng lạm phát nếu nền kinh tế đang đà tăng
trưởng, mức cầu tiền giao dịch tăng lên phù hợp với mức tăng của cung tiền. Tuy
nhiên, trong trường hợp khu vực tư nhân đã thỏa mãn với lượng tiền họ đang nắm
giữ thì sự gia tăng của cung tiền làm cho lãi suất thị trường giảm, nhu cầu tiêu
dùng về hàng hóa dịch vụ, nhu cầu đầu tư sẽ tăng lên kéo theo sự tăng của tổng cầu
nền kinh tế, mặt bằng giá cả sẽ tăng lên gây áp lực lạm phát. Người ta gọi trường
hợp khi chính phủ tài trợ thâm hụt ngân sách bằng cách tăng cung tiền là hiện
tượng chính phủ đang thu "thuế lạm phát" từ những người đang nắm giữ tiền.
Thứ hai, bù đắp thâm hụt bằng nguồn vay nợ trong nước hoặc nước ngoài,
việc vay nợ trong nước bằng cách phát hành trái phiếu ra thị trường vốn, nếu việc
phát hành diễn ra liên tục thì sẽ làm tăng lượng cầu quỹ cho vay, do dó, làm lãi suất
thị trường tăng. Để giảm lãi suất, Ngân hàng Trung ương phải can thiệp bằng cách
mua các trái phiếu đó, điều này làm tăng lượng tiền tệ gây lạm phát. Hay vay nợ
nước ngoài để bù đắp bội chi ngân sách bằng ngoại tệ, lượng ngoại tệ phải đổi ra
nội tệ để chi tiêu bằng cách bán cho Ngân hàng Trung ương, điều này làm tăng
lượng tiền nội tệ trên thị trường tạo áp lực lên lạm phát.
Thực tế những năm qua, thâm hụt ngân sách Việt Nam được tài trợ phần lớn

bằng cách vay nợ thông qua phát hành trái phiếu Chính phủ. Lượng trái phiếu này
có thể được mua bởi Ngân hàng Nhà nước (hình thức cấp tín dụng trực tiếp cho
Chính phủ) sẽ làm tăng lượng tiền cơ sở. Hoặc lượng trái phiếu được mua bởi các
ngân hàng thương mại, sau đó các ngân hàng thương mại đem cầm cố chúng tại
Ngân hàng Nhà nước thông qua nghiệp vụ thị trường mở hoặc nghiệp vụ tái cấp
vốn (cấp tín dụng gián tiếp cho Chính phủ). Điều này cũng làm tăng lượng tiền cơ
sở và tăng cung tiền gây lạm phát. Ví dụ như lạm phát cao ở Việt Nam trong những
năm 2007 - 2008 và 2010 - 2011.
11
2.3.3 Nợ quốc gia và những bất ổn trong nền kinh tế
Tình trạng thâm hụt ngân sách cao xảy ra trong thời kỳ kinh tế khó khăn
khiến Chính phủ buộc phải tìm cách bù đắp thông qua vay nợ, phát hành thêm trái
phiếu bổ sung.
Vay nợ của Chính phủ gia tăng cũng khiến tỷ lệ nợ công tăng nhanh. Tính
đến 31/12/2012, tỷ lệ nợ công so với GDP đã là 57,3%. Mặc dù nợ công hiện tại
chưa vượt qua ngưỡng 65% GDP mà Quốc hội đã thông qua, song hệ số an toàn
nợ của Việt Nam đang giảm do phần trả lãi và chi phí ngày càng lớn, trong khi quy
mô dự trữ ngoại hối so với tổng nợ thấp.
Quy mô nợ công của chính phủ tùy thuộc vào số nợ vay là để tài trợ cho tiêu
dùng hay đầu tư và hiệu quả của việc đầu tư đó đến đâu. Nếu chính phủ chấp nhận
bội chi để tài trợ cho các dự án có hiệu quả, có khả năng sinh lời trong dài hạn thì
chính lợi tức từ dự án đó lại tạo ra và làm tăng nguồn thu trong dài hạn cho NSNN,
giúp NSNN trả được gốc và lãi cho các khoản vay tài trợ bội chi trong quá khứ.
Trường hợp bội chi NSNN được sử dụng cho mục đích tiêu dùng tức thời thì phần
lớn ảnh hưởng của nó chỉ tác động đến tổng cầu ngắn hạn (tại thời điểm bội chi
xảy ra), và trong dài hạn nó không tạo ra một nguồn thu tiềm năng cho NSNN mà
chính nó làm nặng nề hơn khoản nợ công trong tương lai.
2.3.4. Thâm hụt cán cân thương mại và tỉ giá
Thâm hụt cán cân thương mại: bù đắp bội chi NSNN bằng cách vay nợ góp
phần làm tăng lãi suất. Lãi suất thị trường của nước này tăng lên cao so với đồng

tiền các nước khác trên thế giới thì người nước ngoài sẽ tìm kiếm đồng nội tệ của
nước có bội chi để mua các chứng khoán chính phủ và các tài sải tài chính khác.
Dẫn đến tình trạng nhập siêu ở nước có ngân sách bội chi lớn.
12
Dân cư một nước có thể có chi tiêu vượt mức giá trị hàng hóa và dịch vụ mà
họ sản xuất ra thông qua nhập khẩu hàng hóa từ nước khác. Do vậy, chính phủ phải
sử dụng các chính sách hạn chế chi tiêu của khu vực tư nhân thì sẽ làm tăng cầu
nhập khẩu và gây thâm hụt thương mại. Việc nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ cũng
sẽ dẫn đến sự dịch chuyển ngược của dòng tài sản ra nước ngoài. Khi nhập khẩu
nhiều hơn xuất khẩu, ban đầu chúng ta phải trả ngoại tệ cho người nước ngoài. Sau
đó, lượng ngoại tệ này có thể được người nước ngoài mua cổ phiếu, trái phiếu công
ty, trái phiếu chính phủ hoặc bất động sản. Do vậy, khi thâm hụt ngân sách xảy ra,
Việt Nam trở thành nước nhập khẩu ròng hàng hóa và dịch vụ, đồng thời cũng là
nước xuất khẩu ròng tài sản. Lượng tài sản trong nước nắm giữ bởi người nước
ngoài sẽ càng nhiều hơn.
2.3.5. Tăng trưởng
Chính sách tài khóa có thể tác động đến tăng trưởng sản lượng của một nền
kinh tế. Thứ nhất, nó có thể làm thay đổi tiết kiệm và đầu tư, và do vậy là năng lực
sản xuất trong dài hạn của một quốc gia. Thứ hai, nó có thể làm thay đổi hiệu quả
sử dụng nguồn lực, và do vậy làm thay đổi cả sản lượng hiện tại lẫn tăng trưởng
trong tương lai. Trong thời kì suy thoái kinh tế, mở rộng tài khóa và chấp nhận
thâm hụt ngân sách ở một mức độ nhất định có thể giúp sản lượng trong nước tăng
trở lại nhờ kích thích tổng cầu. Tuy nhiên, nếu nền kinh tế đã ở gần mức sản lượng
tiềm năng và trước đó nền kinh tế liên tục thâm hụt tài khóa thì hiệu quả của chính
sách là hạn chế, có thể dẫn đến lạm phát cao, thâm hụt vãng lai và bất ổn tài chính.
Bài học kích thích tổng cầu Việt Nam trong 2009 và hậu quả của nó trong năm
2010-2011 là ví dụ điển hình.
13
2.4. Những ưu điểm và hạn chế trong quản lí bội chi NSNN
2.4.1. Ưu điểm và kết quả

Quản lí bội chi ngân sách trong thời
gian qua đã đáp ứng được nhu cầu điều hành vĩ mô, góp phần ổn định và lành mạ
nh hoá nền tài chính quốc gia. Mức độ bội chi ngân sách nhà nước trên tổng GDP
được kiểm soát trong giới hạn cho phép (khoảng 5%/GDP/năm), góp phần quan
trọng giúp nhà nước kiểm soát tốt hơn công việc thu chi của mình hơn.
-Nhà nước đã áp dụng nhiều biện pháp nhằm mở rộng thêm nguồn thu như
thu hút nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước từ đó góp phần kích thích hoạt động
sản xuất, đổi mới công nghệ cũng như tăng kim ngạch xuất khẩu tạo thêm đáng
kể việc làm cho người lao động.
+Từ năm 2010 trở lại đây mặc dù chịu ảnh hưởng của việc kinh tế suy thoái
nhưng tốc độ tăng thu trung bình hằng năm vẫn đạt 13%.Trong đó, thu từ dầu thô
vẫn chiếm tỉ trọng khá lớn trong tổng thu NSNN(11-18%) kết quả này đạt được
chủ yếu là do giá dầu và sản lượng tăng mạnh. Thu từ hoạt động xuất nhập khẩu
đưa vào cân đối ngân sách có xu hướng giảm từ năm 2010 chiếm 22% giảm còn
17% vào năm 2012, một phần là do lộ trình cắt giảm thuế xuất nhập khẩu khi Việt
Nam gia nhập vào WTO.
+Thuế đã được xem xét đúng như vai trò cơ bản của nó trong cơ chế thị
trường là tạo nguồn thu cho ngân sách kích thích tăng trưởng, điều chỉnh và phân
phối lại thu nhập. Ngày càng đóng cai trò quan trọng trong tổng thu NSNN ( năm
2010 chiếm 68%, 2011 là 77,9%, 2012 là 81,7%) và tỉ lệ tăng bình quân hằng năm
đạt 21,4% vào năm 2011 và 12,4% vào năm 2012. Kết quả này có được là do các
biện pháp đẩy mạnh tiến trình cải cách hiện đại hóa hệ thống thuế theo hướng mở
rộng cơ sở thu thuế, bên cạnh đó nhà nước tiếp tục thực hiện các chương trình
14
phòng chống tham nhũng, tập trung thực hiện quyết liệt các biện pháp chống gian
lận thương mại, chống thất thu, nợ đọng thuế, chống chuyển giá, trốn thuế…
-Trong lĩnh vực chi NSNN, hằng năm quốc hội đều họp để thảo luận về hoạt
động chi tiêu ngân sách đã thể hiện rõ định hướng của nhà nước trong kế hoạch
phát triển kinh tế xã hội. Từ đó đã giảm thiểu một cách tối đa sự thất thoát lãng
phí trong xây dựng cơ bản, tiến hành đầu tư có trọng điểm, tránh tình trạng

dàn trải không có mục đích rõ ràng…
Bên cạnh đó Ngân sách địa phương và những quan điểm cụ thể về quản lí
bội chi ngân sách Nhà nước được cụ thể hoá trong luật ngân sách. Ngân sách Nhà
nước đã từng bước cơ cấu lại theo hướng giảm thiểu tối đa tình trạng bao cấp tràn
lan, Nhà nước chỉ quản lí nền kinh tế ở tầm vĩ mô chứ không can thiệp, trợ cấp cho
các doanh nghiệp như trước đây, để cho họ tự chủ hơn trong công việc làm ăn kinh
doanh của mình … Do đó,bội chi ngân sách trong thời gian qua về cơ bản được
cân đối ở mức 5% GDP.
Việc quản lí tốt bội chi ngân sách trong những năm qua cũng đã góp
phần tích cực trong việc kiềm chế lạm phát. Bởi vì khi tình trạng bội chi được giảm
xuống một cách đáng kể thì Nhà nước sẽ không phải bù đắp các khoản thâm hụt
bằng cách đi vay trong dân chúng, tăng thuế, phát hành tiền hay các biện pháp tiền
tệ khác… mà tất cả những biện pháp này là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình
trạng lạm phát của một quốc gia.
2.4.2.Hạn chế và thách thức
Đất nước ta vẫn còn nghèo, nền kinh tế vẫn đang trong quá trình
bước đầu phát triển, quy mô nền kinh tế vẫn còn nhỏ, trong khi đó nhu cầu chi tiêu
cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng, vật chất kỹ thuật, tiến hành công nghiệp hoá hiện
đại hóa… rất lớn. Nhu cầu vốn lớn đòi hỏi chúng ta phải đi vay để bù đắp vào ngân
sách vay để đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, các công trình trọng điểm quốc gia
15
phục vụ cho phát triển đất nước. Nhưng trên thực tế, việc sử dụng các khoản vay
chưa được quản lý chặt chẽ. Tình trạng đầu tư dàn trải ở các địa phương vẫn chưa
được khắc phục triệt để, tiến độ thi công các công trình trọng điểm quốc gia còn
chậm và thiếu hiệu quả.
Trong việc thu NSNN thì tình trạng thất thu còn khá phổ biến, hiệu quả kiểm
soát nguồn thu ngân sách còn nhiều hạn chế. Nguồn thu ngân sách của chúng ta
không thực sự vững chắc, bị động, một số nguồn thu lớn lại phụ thuộc vào giá cả
thị trường thế giới (thu từ dầu thô, thuế xuất nhập khẩu …) điều đó đã gây khó
khăn không nhỏ, tác động mạnh mẽ đến tình hình bội chi ngân sách ở nước ta hiện

nay.
Hiện nay trên thế giới đang diễn ra quá trình hội nhập kinh tế quốc tế hết sức
mạnh mẽ, xu thế toàn cầu hoá đang có những ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống
kinh tế -xã hội của các nước trên thế giới. Việc tham gia vào khu vực mậu dịch tự
do ASEAN hay gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, điều đó sẽ dẫn đến
việc chúng ta sẽ phảỉ tiến hành cắt giảm thuế của rất nhiều mặt hàng mà ta đã cam
kết khi tham gia vào những tổ chức, diễn đàn này.
Trong lĩnh vực chi ngân sách thì bên cạnh những nhiệm vụ chi sát với dự
toán, một số tăng so với dự toán là cần thiết như tăng chi khắc phục hậu quả của
thiên tai, hỗ trợ người dân chăn nuôi gia súc gia cầm do dịch bệnh khôi phục sản
suất chăn nuôi; tăng chi đầu tư phát triển… thì nguồn ngân sách của nhiều địa
phương còn bố trí phân tán; sử dụng ngân sách lãng phí, việc sử dụng vốn trái
phiếu chính phủ công trái đầu tư xây dựng trường học chưa hiệu quả, vốn huy
động phi lãi suất chưa được sử dụng kịp thời, thường xuyên bị tồn đọng. Ngoài ra,
Ủy ban Tài chính Ngân sách cũng chỉ rõ những bất cập, lãng phí, mặt trái trong
việc tổ chức lễ hội và cho rằng “nhiều nơi chi phí cho lễ hội đã gây tốn kém, lãng
phí lớn cho cả xã hội và ngân sách Nhà nước, nhưng hiệu quả đem lại không cao”.
16
Thực tế trong cơ cấu chi NSNN hiện nay, chi thường xuyên chiếm tỷ trọng
rất lớn, tới 67% tổng chi trong khi chi đầu tư phát triển chỉ chiếm khoảng 18%.
Chính phủ cần xây dựng kế hoạch để dần chuyển dịch cơ cấu chi NSNN, thiết lập
sự cân bằng giữa chi thường xuyên và chi đầu tư phát triển nhằm tăng thêm khả
năng bố trí vốn đầu tư ngân sách cho tăng trưởng kinh tế, hướng tới mục tiêu ổn
định lâu dài.
Phần 3: Các biện pháp xử lý bội chi NSNN trong giai đoạn 2010-2012
Như chúng ta đã biết, bội chi NSNN là một vấn đề mà các quốc gia đều phải
gặp phải. Việc xử lý bội chi ngân sách nhà là một vấn đề nhạy cảm, bởi nó không
chỉ tác động trước mắt đối với nền kinh tế quốc gia mà còn tác động đến sự phát
triển bền vững của mỗi quốc gia. Vì vậy mỗi quốc gia phải có những biện pháp
thích hợp nhằm khác phục bội chi ngân sách nhà nước đưa bội chi đến mức nhất

định. Mỗi giải pháp bù đắp đều làm ảnh hưởng đến cân đối kinh tế vĩ mô và đây là
một số giải pháp cơ bản mà chính phủ Việt Nam sử dụng để kiềm chế bội chi ngân
sách hiện nay:
17
3.1.Tăng thu NSNN
Biện pháp tăng thu hiệu quả nhất là tăng thuế. Việc tăng thuế trực tiếp có
nhiều tác động khi việc tăng thuế nằm trong vùng có thể chịu đựng được thì sẽ làm
tăng nguồn thu ngân sách nhà nước, kích thích các đối tượng nộp thuế mở rộng
kinh doanh. Trong trường hợp này thuế có các dụng kích thích nền kinh tế phát
triển, nhưng khi vượt quá giới hạn chịu đựng nền kinh tế thì tăng thuế lại làm giảm
nguồn thu từ ngân sách, mặt khác nó còn thúc đẩy tình trạng trốn thuế, kìm hãm
hoặc không kích thích được kinh tế phát triển.
Trên thực tế tăng thuế là biện pháp không mấy dễ áp dụng và tốn kém. Tăng
thuế có khả thi hay không còn phụ thuộc vào sức chịu đựng của nền kinh tế, sự
hiệu quả của hệ thống thi, phụ thuộc vào hiệu suất từng sắc thuế. Trong thời kì nền
kinh tế suy thoái, hoạt động kinh tế mờ nhạt thì việc tăng thuế sẽ không những
không khả thi mà còn làm cản trở hoạt động sản xuất kinh doanh, tăng số lượng nợ
đọng thuế của các doanh nghiệp, đẩy các doanh nghiệp vào tình trạng tài chính suy
yếu giảm nguồn thu ngân sách.
Theo tình hình thực tế của nước ta thấy muốn tăng nguồn thu từ thuế cho
NSNN thì cần triển khai mạnh mẽ các giải pháp nhằm làm hợp lý hóa và nâng cao
hiệu quả của hệ thống thuế, mở rộng lĩnh vực thu thuế phù hợp có tính khả thi cao
hơn các giải pháp nhằm tăng thuế ban hành thêm các sắc thuế mới.
3.2.Tiết kiệm chi NSNN
Như chúng ta thấy cắt giảm chi tiêu là biện pháp giảm bội chi ngân sách tiêu
cực. Chính phủ sẽ cắt giảm chi thường xuyên, thậm chí sẽ trì hoãn hoặc cắt giảm
chi đầu tư phát triển, như vậy sẽ thu hẹp khả năng tiêu thụ sản phẩm và dịch vụ của
khu vực mang lại, doanh nghiệp sẽ không tiêu thụ thì sản phẩm sẽ tồn đọng, kinh
tế sẽ gặp khó khăn, sản xuất đình đốn.
18

Một trong những biện pháp quan trọng được nhà nước thông qua là cơ cấu
lại chi ngân sách nhà nước theo hướng ưu tiên chi an sinh xã hội, tăng chi có trọng
điểm phát triển nông nghiệp, nông thôn và những vùng khó khăn.
Triệt để tiết kiệm các khoản đầu tư công và chi thường xuyên từ ngân sách
nhà nước . Đây là một giải pháp tuy mang tính tình thế, nhưng vô cùng quan trọng
với mỗi quốc gia khi xảy ra bội chi NSNN và xuất hiện lạm phát. Triệt để tiết kiệm
các khoản đầu tư công có nghĩa là chi đầu tư vào những dự án mang tính chủ đạo ,
hiệu quả nhằm tạo ra những đột phá cho sự phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt
những dự án chưa hoặc không hiệu quả thì phải cắt giảm, thậm chí không đầu tư.
Mặt khác bên cạnh việc triệt để tiết kiệm các khoản thu đầu tư công, những khoản
chi thường xuyên của nhưng cơ quan nhà nước cũng phải cắt giảm nếu những
khoản chi này không hiệu quả và chưa thực sự cần thiết.
3.3.Tìm nguồn bù đắp thâm hụt NSNN
3.3.1.Vay nợ
Sự thiếu hụt ngân sách do nhu cầu vốn tài trợ cho sự phát triển nền kinh tế
quá lớn đòi hỏi phải đi vay để bù đắp. Điều này được thể hiện qua việc chúng ta
chỉ vay để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng và các công trình trọng điểm quốc gia
phục vụ lợi ích phát triển đất nước. Nhưng trên thực tế số tiền vay, đặc biệt của
nước ngoài chưa được quản lý chặt chẽ. Đồng thời, tổng lượng tiền mà nhân dân
có thể có để cho chính phủ vay bị giới hạn trong tổng lượng tiền tiếc kiệm của xã
hội. Nếu chính phủ huy động được nhiều thì đương nhiên phần tiền còn lại dành
cho đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh ở ngoài khu vực quốc doanh sẽ bị giảm
đi.
-Vay trong nước: Vay trong nước được chính phủ thực hiện dưới hình thức
phát hành công trái, trái phiếu. Công trái, trái phiếu là những chứng chỉ ghi nhận
19
nợ của nhà nước, là một loại chứng khoán hay trái khoán do nhà nước phát hành để
vay các dân cư ,các tổ chức kinh tế xã hội, ngân hàng. Ở việt nam chính phủ
thường ủy nhiệm cho kho bạc nhà nước phát hành trái phiếu dưới các hình thức tín
phiếu kho bạc và trái phiếu kho bạc, trái phiếu công trình.

+Ưu điểm: Đây là biện pháp cho phép Chính phủ có thể duy trì việc thâm
hụt ngân sách mà không cần phải tăng cơ sở tiền tệ hoặc giảm dự trữ quốc tế. Vì
vậy, biện pháp này được coi là một cách hiệu quả để kiềm chế lạm phát. Tập chung
được khoản tiền tạm thời nhàn rỗi trong dân cư, tránh được nguy cơ khủng hoảng
nợ nước ngoài, dễ triển khai.
+Nhược điểm: Việc tài trợ thâm hụt NSNN bằng nợ tuy không gây ra lạm
phát trước mắt nhưng nó lại có thể làm tăng áp lực lạm phát trong tương lai nếu
như tỷ lệ nợ trong GDP liên tục tăng. Hơn nữa, việc vay từ dân trực tiếp sẽ làm
giảm khả năng của khu vực tư nhân trong việc tiếp cận tín dụng và gây sức ép làm
tăng lãi suất trong nước. Đặc biệt ở những nước trải qua giai đoạn lạm phát cao
(như nước ta), giá trị thực của trái phiếu chính phủ giảm nhanh chóng.
-Vay nợ nước ngoài: Chính phủ vay nợ nước ngoài để bù đắp thâm hụt NS
dành cho chi đầu tư phát triển kinh tế khi mà vay trong nước không đáp ứng đủ.
Vay nợ nước ngoài của Chính phủ có 3 loại: vay nợ từ nguồn viện trợ phát triển
chính thức (ODA), vay ưu đãi của các tổ chức tài chính, tiền tệ quốc tế (Ngân hàng
thế giới, ngân hàng phát triển Châu Á, Quỹ tiền tệ quốc tế) và vay bằng cách phát
hành trái phiếu Chính phủ ra nước ngoài (ít được sử dụng và kém hiệu quả hơn so
với những phương thức khác). Dối với vay nước ngoài, chúng ta thực hiện chính
sách chỉ vay ưu đãi nước ngoài, không vay thương mai nước ngoài cho đầu tư phát
triển.
20
+Ưu điểm: Nó là một biện pháp tài trợ ngân sách hữu hiệu, có thể bù đắp
được các khoản bội thâm hụt mà lại không gây sức ép lạm pháp cho nền kinh tế.
Đây cũng là một nguồn vốn quan trọng bổ sung cho nguồn vốn thiếu hụt trong
nước, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
+Nhược điểm: Nó sẽ khiến cho gánh nặng nợ nần, nghĩa vụ trả nợ tăng lên,
giảm khả năng chi tiêu cho chính phủ. Đồng thời, nó cũng dễ khiến cho nền kinh tế
trở nên bị phụ thuộc vào nước ngoài. Thậm chí, nhiều khoản vay, khoản viện trợ
còn đòi hỏi kèm theo đó là nhiều các điều khoản về chính trị, quân sự, kinh tế
khiến cho các nước đi vay bị phụ thuộc nhiều.

Đối với vay nước ngoài thì lại phụ thuộc vào đối tác cho vay thường được
thực hiện dưới các hình thức ODA và vay trên thị trường tài chính quốc tế. Dù vay
dưới hình thức nào đi chăng nữa thì việc đi vay nước ngoài luôn phải chịu những
rằng buộc, áp đặt điều kiện từ nước ngoài. Hiện nay nước ta đang bù đắp bội chi
ngân sách bằng nguồn vay ưu đãi, lãi xuất thấp, thời gian dài. Vay nước ngoài
chúng ta có nhiều cơ hội đổi mới công nghệ kỹ thuật và quản lý, có thời hạn đủ dài
để vốn vay phát huy hiệu quả. Do đó cũng cần quan tâm đúng mức đến biện pháp
vay nước ngoài để bù đắp bội chi ngân sách.
3.3.2.Phát hành thêm tiền vào lưu thông
Chính phủ khi bị thâm hụt ngân sách sẽ đi vay Ngân hàng Trung ương để bù
đắp. Để đáp ứng nhu cầu này, tất nhiên, Ngân hàng trung ương sẽ tăng việc in tiền.
Điều này sẽ tạo ra thêm cơ sở tiền tệ. Chính vì vậy, nó được gọi là tiền tệ hoá thâm
hụt.
+Ưu điểm: nhu cầu bù tiền để bù đắp ngân sách nhà nước được đáp ứng một
cách nhanh chóng, không phải trả lãi, không phải gánh thêm các gánh nặng nợ nần.
+Nhược điểm: của biện pháp này lại lớn hơn rất nhiều lần. Việc in thêm và
21
phát hành thêm tiền sẽ khiến cho cung tiền vượt cầu tiền. Nó đẩy cho việc lạm phát
trở nên không thể kiểm soát nổi.
Trong những năm 80 của thế kỷ 20, nước ta đã bù đắp thâm hụt ngân sách
nhà nước bằng cách in thêm tiền đưa vào lưu thông. Việc này đã đẩy tỷ lệ lạm phát
đỉnh điểm lên tới hơn 600%, nền kinh tế bị trì trệ Chính vì những hậu quả đó,
biện pháp này rất ít khi được sử dụng. Và từ năm 1992, nước ta đã chấm dứt hoàn
toàn việc in tiền để bù đắp thâm hụt ngân sách nhà nước.
Vậy biện pháp phát hành tiền để bù đắp bội chi ngân sách có 2 mặt của nó.
Nếu như biết sử dụng kéo léo, linh hoạt sao chi thật phù hợp trong từng tình huống
cụ thể của nền kinh tế thì sẽ làm giảm bớt những ảnh hưởng của bội chi ngân sách,
kích thích nền kinh tế phát triển nhanh hơn nữa. Nhưng nếu chúng ta quá lạm dụng
vào phương pháp này thì sẽ gây ra những hậu quả khó lường đến sự ổn định và
phát triển của nền kinh tế cũng như nguy hại đến những giá trị mà chúng ta đã đạt

được trong những năm qua.
Kết luận
Thâm hụt ngân sách không phải là hiện tượng mới mẻ mà nó phổ biến ở hầu
hết các nước trên thế giới, từ những nước công nghiệp phát triển đến những nước
đang phát triển; song mức thâm hụt của mỗi nước là khác nhau. Trong giai đoạn
2010-2012, tỷ lệ bội chi trên GDP ở nước ta vẫn còn cao chiếm trên dưới 5%. Theo
lý thuyết đây không hẳn là vấn đề tiêu cực đối với nền kinh tế mà nó còn có thể
kích thích được sản xuất, cho nên việc ở các nước đang phát triển như nước ta
cũng chỉ cố gắng thu hẹp thâm hụt ngân sách chứ chưa thể loại bỏ hoàn toàn. Tuy
22
vậy vẫn có những hạn chế trong quản lý thu chi ngân sách nhà nước cần được giải
quyết.
Có nhiều giải pháp cho vấn đề bội chi NSNN những mỗi giải pháp đều có
những ưu điểm và nhược điểm riêng. Không một giải pháp nào chỉ có toàn ưu
điểm và cũng không tồn tại giải pháp nào thuần túy là nhược điểm. Do vậy cần
phối hợp sử dụng đồng thời các giải pháp với những “liều lượng” hợp lý, phù hợp
với từng giai đoạn phát triển và bối cảnh nền kinh tế nhằm phát huy tối đa tác dụng
của mỗi giải pháp.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. />2.”Bội chi và cách xử lý bội chi ngân sách ở Việt Nam hiện nay” – Tạp chí
Ngân hàng số 5 – 2004
3.Luận văn “Bội chi NSNN tại Việt Nam hiện nay” – sưu tầm.
4.Slide bài giảng môn “Tài chính công” – Ths. Nguyễn Thanh Huyền.
23
Mục lục
24
25

×