Đề án chuyên ngành Thương mại Quốc tế
MỞ ĐẦU
EU là một trong ba trụ cột chính của nền kinh tế thế giới, có tốc độ tăng
trưởng cao và tương đối ổn định, có đồng tiền riêng khá vững chắc. EU có dân
số đông, thu nhập cao, mức độ tiêu thụ hàng hoá lớn. Bởi vậy, EU được xem là
thị trường đầy tiềm năng có vai trò quan trọng trong thương mại thế giới. Đồng
thời, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu của các nước luôn muốn thâm nhập và
chiếm lĩnh được thị trường này.
Mặc dù mới xuất khẩu ra thị trường thế giới trong một vài năm gần đây, song
mặt hàng rau quả ngày càng thể hiện được vai trò của mình trong tỷ trọng hàng
xuất khẩu của Việt Nam ra thế giới. Có lẽ bởi vậy mà Chính phủ đã phê duyệt đề
án đẩy mạnh phát triển xuất khẩu rau quả theo quyết định số 182/1999/QĐ/TTg
giai đoạn từ năm 2001-2010 theo đó đến năm 2010 kim ngạch xuất khẩu sẽ đạt
trên 1 tỷ USD. Đây quả thực là một con số không dễ thực hiện. Hiện nay thị
trường xuất khẩu rau quả lớn nhất của chúng ta là Trung Quốc sau đó là Nhật
Bản và một số nước Châu Á khác còn xuất khẩu sang thị trường EU trong những
năm qua nói chung không nhiều. Mà với tiềm năng của mình, EU sẽ là một thị
trường xuất khẩu quan trọng mang lại hiệu quả kinh tế không nhỏ cho chóng ta.
Chính vì những lý do đó, việc đẩy mạnh nghiên cứu thị trường EU cũng như
khả năng xuất khẩu rau quả sang thị trường EU- một thị trường đầy hứa hẹn là
một công việc hết sức cần thiết. Sự cần thiết đó có ý nghĩa không chỉ đối với
việc phát triển riêng ngành rau quả mà còn có ý nghĩa đối với nền kinh tế trong
trước mắt cũng như trong lâu dài.
Xét về phạm vi nghiên cứu, đề tài được nghiên cứu dưới góc độ của doanh
nghiệp xuất khẩu và doanh nghiệp chế biến, sản xuất để xuất khẩu sang EU.
Dưới đây là nội dung của đề tài nghiên cứu.
Phạm Minh Phương Thương mại Quốctế 43
Th¬ng m¹i QuèctÕ 43
1
Đề án chuyên ngành Thương mại Quốc tế
1- Liên minh Châu Âu EU
1.1 Khái quát về liên minh châu Âu EU:
Liên minh Châu Âu EU là một tổ chức khu vực lớn nhất thế giới hiện nay có
sự liên kết tương đối chặt chẽ và thống nhất, được coi là một trong ba siêu cường
(Mỹ, EU và Nhật Bản). Ra đời năm 1951 với sáu thành viên là Pháp, Đức, Italia,
Bỉ, Hà Lan và Lucxambua, sau 50 năm phát triển EU gồm 15 quốc gia thành
viên trong đó có các nước công nghiệp phát triển hùng mạnh vào loại hàng đầu
thế giới như Anh, Pháp, Italia, Đức
Và chính thức từ ngày 1/5/2004, EU bao gồm 25 nước thành viên, với dân số
lên tới hơn 400 triệu người, GDP đạt xấp xỉ 11000 tỷ USD bằng 27,8% GDP thế
giới, chiếm 30% thương mại toàn cầu. EU (liên minh Châu Âu) không chỉ được
coi là khu vực kinh tế lớn nhất trên thế giới mà còn được xem là một thị trường
đầy hứa hẹn cho các nhà xuất nhập khẩu.(Năm 2002 trị giá xuất khẩu đạt 1.612,2
tỷ USD đứng đầu thế giới, trị giá NK 1581 tỷ USD trong đó NK hàng hoá là
931,3 tỷ USD đứng thứ 2 thế giới.)
Bên cạnh đó, EU còn nổi bật là một thiết chế độc đáo dùa trên cơ sở hiệp ước
nhằm xác định và quản lý các quan hệ hợp tác về chính trị và kinh tế giữa các
quốc gia thành viên. Các quốc gia thành viên EU chia sẻ chính sách chung về
nông nghiệp, chính sách an ninh và đối ngoại, hợp tác tư pháp và nội vụ, và đặc
biệt là EU áp dụng một chế độ thương mại chung. EU cũng nổi bật với các thiết
chế siêu quốc gia như Uỷ ban Châu Âu, Nghị viện Châu Âu, Toà án Châu Âu
EU là một thị trường thống nhất nên hàng hoá, dịch vụ, vốn và sức lao động
có thể được tự do di chuyển giữa các nước thành viên. Hàng hoá được sản xuất
hoặc được NK vào một quốc gia thành viên thì cũng có thể được di chuyển sang
các quốc gia thành viên khác mà không gặp bất kỳ một hạn chế nào.
Phạm Minh Phương Thương mại Quốctế 43
Th¬ng m¹i QuèctÕ 43
2
Đề án chuyên ngành Thương mại Quốc tế
Hiện nay, Liên Minh Châu Âu đang thực hiện nhất thể hoá kinh tế toàn diện,
hướng tới một Liên minh kinh tế và tiền tệ Châu Âu. Euro- đơn vị tiền tệ thống
nhất của EU, chính thức lưu hành ở 12 nước thành viên đã cho thấy sự hội nhập
vững chắc ở đỉnh cao của nền kinh tế Châu Âu.Việc thu hồi vĩnh viễn các đồng
tiền quốc gia của 12 nước đã bước đầu cho thấy một sự nhất trí cao giữa các
nước thành viên giúp cho thị trường EU trở nên minh bạch hơn và việc thanh
toán trở nên thuận lợi hơn.Theo kế hoạch, 25 nước thành viên EU sẽ cùng thống
nhất sử dụng đồng tiền chung từ năm 2006
Tuy có rất nhiều điểm thống nhất song Liên minh Châu Âu khi xét về các
phương diện như địa lý, khí hậu, nhân khẩu học, các nét đặc trưng văn hoá xã
hội, quy mô thị trường, cấu trúc kinh tế, nhu cầu tiêu dùng và hành vi tiêu dùng
thì nó hoàn toàn không phải là một thị trường thống nhất. Trên thực tế mỗi quốc
gia, nhóm thị trường quốc gia hay khu vực có một bản sắc và đặc trưng riêng, tạo
nên nhiều thị trường tiêu dùng với sự đa dạng lớn đang tồn tại trên lục địa Châu
Âu.
1.2 Tập quán, thị hiếu tiêu dùng và kênh phân phối của thị trường EU đối với
mặt hàng rau quả :
1.2.1 Tập quán, thị hiếu tiêu dùng của thị trường EU:
Với dân số đông, hơn 400 triệu người tiêu dùng, thu nhập cao, EU là một thị
trường đầy tiềm năng cho nhiều mặt hàng xuất khẩu trong đó có rau quả. Tuy
nhiên mỗi quốc gia lại có nhu cầu khác nhau về rau quả nhập khẩu. Lý do là: EU
có sự khác biệt nhau về khí hậu. Một số nước vùng Scandinavra như Thuỵ Điển,
Phần Lan có khí hậu lạnh trong khi Ý, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha là những
nước vùng Địa Trung Hải lại có khí hậu cận nhiệt đới còn các nước Tây bắc Âu
như Anh, Pháp, Bỉ, Đức, Hà Lan lại nằm trong vùng khí hậu ôn hoà. Chính sự
khác biệt về thời tiết này đã tạo ra khả năng gieo trồng các loại rau quả khác
nhau và đưa đến nhu cầu nhập các loại rau quả tương đối khác nhau giữa các
Phạm Minh Phương Thương mại Quốctế 43
Th¬ng m¹i QuèctÕ 43
3
Đề án chuyên ngành Thương mại Quốc tế
nước. Vì vậy, EU là thị trường có nhu cầu đa dạng và phong phú đối với các loại
rau quả đặc biệt có nhu cầu cao đối với các sản phẩm rau quả miền nhiệt đới.
Mặc dù có nhu cầu đa dạng song để thâm nhập vào thị trường này không phải
đơn giản bởi EU là thị trường rất khó tính. Các nhà nhập khẩu EU luôn có xu
hướng đòi hỏi cao đối với hàng nhập khẩu từ nước ngoài và họ thường tỏ ra thận
trọng thậm chí hơn cả người Mỹ. Những yêu cầu khắt khe này của người nhập
khẩu xuất phát từ chính đòi hỏi của thị trường EU. Người tiêu dùng là những
người sử dụng sản phẩm cuối cùng, họ tỏ ra rất kỹ lưỡng, chặt chẽ trong việc
mua bán sản phẩm. Chính vì vậy, những mặt hàng nào không đáp ứng các yêu
cầu của họ sẽ không thể tồn tại trên thị trường. Trong Liên minh Châu Âu, 15
quốc gia thành viên cũ vốn là những nước phát triển nhất trên thế giới, nhưng
cũng là những thị trường khắt khe nhất.10 quốc gia còn lại, thị trường tỏ ra dễ
tính hơn nhưng cùng với sự ra nhập Liên Minh, họ sẽ có xu hướng tuân theo các
quy định chung của EU và chắc chắn các yêu cầu trong tiêu dùng rau quả cũng vì
thế mà chặt chẽ hơn. Và thực tế là từ sau ngày 1/5/2004, 10 quốc gia mới gia
nhập đã tuân thủ theo những quy định và mức thuế quan chung của EU.
EU còn là một thị trường bảo vệ người tiêu dùng. Một đặc điểm nổi bật trên
thị trường EU là quyền lợi của người tiêu dùng được bảo vệ khác hẳn với thị
trường của các nước đang phát triển. Để đảm bảo quyền lợi cho người tiêu dùng,
EU tiến hành kiểm tra các sản phẩm ngay từ nơi sản xuất và có các hệ thống báo
động giữa các nước thành viên, bãi bỏ việc kiểm tra các sản phẩm ở biên giới. Vì
vậy, thông thường khi bắt đầu triển khai hoạt động nhập khẩu các sản phẩm rau
quả, các tổ chức, doanh nghiệp EU thường muốn tham quan tìm hiểu quá trình
sản xuất ngay từ khâu trồng trọt,và hệ thống xử lý môi trường trong suốt quá
trình sản xuất và bảo quản của hàng rau quả. Ngoài ra, EU cũng đưa ra các quy
định chuẩn quốc gia hoặc chuẩn Châu Âu để cấm buôn bán các sản phẩm được
sản xuất ra ở các nước có những điều kiện sản xuất chưa đạt mức an toàn ngang
Phạm Minh Phương Thương mại Quốctế 43
Th¬ng m¹i QuèctÕ 43
4
Đề án chuyên ngành Thương mại Quốc tế
với điều kiện sản xuất chưa đạt mức an toàn ngang với tiêu chuẩn của Châu Âu.
Do đó các sản phẩm muốn bán được trên thị trường Châu Âu đều phải bảo đảm
tiêu chuẩn an toàn chung của EU, các luật định và định chuẩn quốc gia.
Đặc biệt, EU có quy chế về nhãn mác sản phẩm rất khắt khe nhất là hàng thực
phẩm trong đó bao gồm các sản phẩm hoa quả tươi, rau quả chế biến, nước Ðp
trái cây Trong hệ thống quy định bảo vệ người tiêu dùng có quy định các
thành phần của sản phẩm, cách bảo quản, việc làm sai quy cách về đóng gói, bao
bì, các sản phẩm nhập lậu, đánh cắp bản quyền bị xử lý rất nghiêm.
25 quốc gia EU hình thành nên một thị trường có yêu cầu cao về vấn đề vệ
sinh an toàn thực phẩm.Từ sau vô tranh cãi về việc có nên sử dụng sản phẩm
biến đổi gen hay không cũng như sau khi nạn thịt bò điên hoành hành khắp Châu
Âu thì dường như yêu cầu về vệ sinh an toàn thực phẩm của các nước EU được
đặt lên hàng đầu. Hiện nay, trên thị trường EU, người ta chia rau quả làm 2 loại
về mặt vệ sinh an toàn thực phẩm như sau : Rau quả sạch thông thường và rau
quả hữu cơ. Trong đó rau quả sạch thông thường được định nghĩa là loại rau quả
có sử dụng hoá chất nhưng theo một hàm lượng cho phép. Còn rau quả hữu cơ là
loại rau quả không sử dụng một loại hoá chất nào tức là sạch tuyệt đối. Người
dân EU nói chung ưa thích sử dụng một sản phẩm an toàn tuyệt đối song điều đó
không có nghĩa là rau qủa thông thường không có khả năng tiêu thụ tại thị
trường EU bởi nếu rau quả thông thường đạt được các tiêu chuẩn của EU về vệ
sinh an toàn thực phẩm thì sản phẩm đó vẫn có thể tiêu thụ được trên thị trường.
Tập quán và thãi quen tiêu dùng của người dân EU là họ thích tiêu thụ các sản
phẩm có nhãn hiệu nổi tiếng và uy tín lâu đời. Người dân EU quan niệm chất
lượng gắn bó với thương hiệu. Một thương hiệu tốt, có uy tín trên thị trường là
nhờ chất lượng khẳng định trong một thời gian dài. Vì vậy khi thương hiệu đã
đứng vững trên thị trường thì đồng nghĩa với việc chất lượng sản phẩm đó đã
được khẳng định. Do đó, với thu nhập cao của mình người dân EU sẵn sàng trả
Phạm Minh Phương Thương mại Quốctế 43
Th¬ng m¹i QuèctÕ 43
5
Đề án chuyên ngành Thương mại Quốc tế
mức giá cao xứng đáng cho sản phẩm có thương hiệu uy tín. Đối với mặt hàng
rau quả cũng vậy, họ sẵn sàng trả giá cao tương đối cho sản phẩm rau quả có
chất lượng tuy nhiên cũng theo một cuộc điều tra mới nhất cho thấy đối với mặt
hàng rau quả, người dân Châu Âu vẫn có những mặc cảm nhất định về giá cả
giữa rau quả sạch và rau quả thông thường. Chỉ có 56% người tiêu dùng EU chịu
trả thêm 10% và 33% người tiêu dùng EU chịu trả thêm 15% để mua sạch. Điều
này được lý giải là do rau quả được sử dụng liên tục trong các bữa an hàng ngày
và vì vậy, các bà nôị trợ EU cũng đôi chút quan tâm đến sự cạnh tranh về giá
giữa các sản phẩm rau quả.
Và cuối cùng khi nói đến thị hiếu và thãi quen tiêu dùng các sản phẩm rau quả
của người dân EU không thể không nói đến xu hướng ngày càng sử dụng lượng
rau quả nhiều hơn trong các bữa an hàng ngày của họ. Điều này càng chứng tỏ
EU là thị trường tiềm năng cho các mặt hàng rau quả. Ngày nay, do nhiều căn
bệnh như béo phì, tim mạch, đường ruột đồng thời do du nhập nền văn hoá Èm
thực, y học Phương Đông, người dân Châu Âu bắt đầu có xu hướng sử dụng
nhiều rau quả tươi để bổ sung vitamin, giảm lượng thịt và bột mú, bơ sữa hơn.
Đây là một xu hướng tiêu dùng thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu rau quả của
Việt Nam. Các sản phẩm rau quả xuất sang EU được ưa chuộng là các sản phẩm
rau quả nhiệt đới bao gồm rau qủa tươi và rau quả đã chế biến, nước Ðp trái cây,
các loại mứt, rau quả muối đóng hộp Các sản phẩm chế biến sẵn, đóng hộp
được người dân EU sử dụng nhiều hơn hẳn (nếu so sánh với các nước Châu Á
khác) do xu hướng phụ nữ tham gia vào lực lượng lao động ngày một tăng và số
lượng người độc thân ngày một nhiều- tình trạng này rất phổ biến ở các nước
Tây Bắc Âu.
Còn một đặc điểm nữa trong tập quán tiêu dùng của người dân EU cần lưu ý
đó là người tiêu dùng ở khu vực Điạ Trung Hải thường có thãi quen mua các
loại rau quả tươi tại các chợ ngoài trời hơn so với các nước Tây Bắc Âu. Tuy
Phạm Minh Phương Thương mại Quốctế 43
Th¬ng m¹i QuèctÕ 43
6
Đề án chuyên ngành Thương mại Quốc tế
nhiên việc sử dụng các sản phẩm rau quả chế biến và thãi quen tiêu thụ ở các
siêu thị đang ngày càng phổ biến hơn. Đây cũng là một điểm rất đáng lưu ý khi
lùa chọn các kênh phân phối cho từng quốc gia cụ thể.
1.2.2 Kênh phân phối
Về cơ bản hệ thống phân phối rau quả của EU khá tập trung bao gồm hệ thống
bán buôn và bán lẻ. Tham gia vào hệ thống này bao gồm các công ty xuất nhập
khẩu, hệ thống các cửa hàng, siêu thị, công ty bán lẻ độc lập, các tổ hợp rau
quả trong đó 50% tổng lượng rau quả nhập khẩu được phân phối tại siêu thị và
đại siêu thị.
Về hình thức phân phối, các doanh nghiệp Việt Nam muốn xúc tiến xuất khẩu
có thể thâm nhập vào thị trường EU qua ba kênh chính sau :
Xuất khẩu trực tiếp : Thông qua các nhà nhập khẩu của EU, bán trực tiếp cho các
nhà nhập khẩu mà không qua trung gian. Xuất khẩu trực tiếp các doanh nghiệp
Việt Nam sẽ tiết kiệm được chi phí và từng bước xây dựng được mối quan hệ
làm ăn với các nhà nhập khẩu EU, cũng như khẳng định rõ chất lượng rau quả
Việt Nam. Song thực tế rất khó thực hiện việc xuất khẩu trực tiếp do các nhà
nhập khẩu EU như các siêu thị lớn hay các công ty bán lẻ độc lập thường có mối
quan hệ làm ăn với các đối tác quen thuộc, lâu năm. Mặt hàng rau quả tuy có
nhu cầu lớn thường xuyên nhưng lại là loại thực phẩm đòi hỏi chất lượng và vệ
sinh an toàn cao vì vậy với doanh nghiệp Việt Nam mới bước chân vào thị
trường EU và chưa thực sự có tên tuổi, uy tín thì rất khó tạo niềm tin đối với các
nhà nhập khẩu EU. Vì thế bước đầu các doanh nghiệp Việt Nam nên hướng vào
hình thức phân phối gián tiếp qua các công ty xuất khẩu của EU
Hình thức xuất khẩu rau quả gián tiếp qua các công ty xuất khẩu của EU:
Thực chất của hình thức phân phối này có thể hiểu là các quốc gia EU có những
công ty kinh doanh về rau quả họ đặt các chi nhánh hay đại diện hoặc công ty tại
các nước và thu gom hàng hoá rồi xuất khẩu ngược trở lại EU. Tham gia vào
Phạm Minh Phương Thương mại Quốctế 43
Th¬ng m¹i QuèctÕ 43
7
Đề án chuyên ngành Thương mại Quốc tế
kênh phân phối này, các doanh nghiệp Việt Nam có thể tận dụng được ưu thế về
thông tin thị trường, về các mối quan hệ của đối tác. Khi đó các doanh nghiệp
Việt Nam chỉ tập trung vào việc thu gom hàng hoá sao cho đúng và đủ về chất
lượng, số lượng và giao hàng đúng ngày quy định còn việc tiêu thụ sản phẩm do
các công ty xuất khẩu EU thực hiện.Hình thức phân phối này rất phù hợp đối với
các công ty xuất rau quả Việt Nam có Ýt vốn và quy mô nhỏ.
Cuối cùng là thông qua các tổ hợp rau quả cũng có tổ hợp rau quả. Những tổ
hợp này hoạt động chặt chẽ và có nguồn gốc lâu đời. Rau quả được tổ hợp nhập
khẩu từ khắp nơi và được cung cấp đến các hệ thống bán lẻ, cửa hàng bán lẻ,
siêu thị và những người chủ quầy hàng bán lẻ rau quả ở các khu chợ xanh.
Phạm Minh Phương Thương mại Quốctế 43
Th¬ng m¹i QuèctÕ 43
8
Đề án chuyên ngành Thương mại Quốc tế
1.3 Chính sách ngoại thương và yêu cầu của thị trường EU đối với rau quả :
1.3.1 Chính sách ngoại thương của EU đối với mặt hàng rau quả :
Các nước thành viên EU đều áp dụng một chính sách ngoại thương chung đối
với các nước ngoài khối. Uỷ ban Châu Âu là cơ quan đại diện duy nhất cho Liên
Minh trong việc đàm phán, ký kết các hiệp định thương mại và dàn xếp các tranh
chấp trong lĩnh vực này. Chính sách ngoại thương của EU gồm : chính sách
thương mại tự trị và chính sách thương mại dùa trên cơ sở Hiệp định xây dựng
trên nguyên tắc: không phân biệt đối xử, minh bạch, có đi có lại và cạnh tranh
công bằng. Để nguyên tắc được thực hiện, EU sử dụng biện pháp đẩy mạnh
thương mại với các nước đang phát triển và chậm phát triển. Đó là hệ thống ưu
đãi phổ cập GSP- công cụ quan trọng của EU để hỗ trợ các nước này, trong đó
có Việt Nam thâm nhập thị trường của mình. Rau quả Việt Nam cũng được
hưởng chính sách đãi ngộ thuế quan phổ cập. Do vậy, hầu hết các mặt hàng rau
quả nhiệt đới, các mặt hàng đặc sản không trồng ở Châu Âu đều được hưởng
thuế suất bằng 0 hoặc không có hạn ngạch. Một số mặt hàng Châu Âu có sản
xuất thì được hưởng thuế suất ưu đãi giảm từ 50-75% có khi 100% giảm so với
quy định MFN, song vẫn phải chịu điều tiết hạn ngạch nhằm mục đích nhập
khẩu vào EU vào những thời điểm mùa đông, trái vụ hay thời điểm giáp hạt.
Trong tương lai khoảng đến năm 2006, hệ thống này sẽ bị điều chỉnh, thu hẹp lại
chỉ áp dụng cho một số nước nhất định.
Ngoài ra còn có hàng rào phi thuế quan khác như tiêu chuẩn kỹ thuật.
1.3.2 Các yêu cầu của EU đối với mặt hàng rau quả:
1.3.2.1 Tiêu chuẩn về chất lượng và phân loại đối với rau quả vào EU:
Như phân tích ở trên, do EU là một thị trường khó tính và rất chú trọng đến
vấn đề bảo vệ người tiêu dùng nên họ đặt ra những tiêu chuẩn về chất lượng rau
quả nhập khẩu rất chặt chẽ. Các tính chất cơ bản của sản phẩm rau quả cần có
là : Rau quả tươi hay chế biến đều phải bảo đảm sạch sẽ, không độc hại đối với
Phạm Minh Phương Thương mại Quốctế 43
Th¬ng m¹i QuèctÕ 43
9
Đề án chuyên ngành Thương mại Quốc tế
sức khoẻ con người, không có các vật lạ nhìn thấy được trên sản phẩm; khi ăn
không có mùi lạ, vị lạ, độ Èm khác thường; các sản phẩm rau quả phải được thu
hoạch cẩn thận, đúng quy trình; rau quả phát triển đúng độ, nhìn phải tươi.
Bên cạnh đó, EU cũng đưa ra tiêu chuẩn phân loại sản phẩm bao gồm 3 cấp độ
như sau : Thứ nhất là phân loại theo độ lớn : xác định theo từng loại sản phẩm,
đối với trái cây có xác định độ lớn tối thiểu. Thứ hai là phân loại theo dung sai :
trong cùng một loại thì dung sai cho phép tối đa là 10%. Và cuối cùng là phân
loại theo độ đồng đều: đảm bảo độ đồng đều về độ lớn trong một gói hàng, để dễ
dàng giúp khách hàng khi lùa chọn sản phẩm.
1.3.2.2 Các vấn đề liên quan đến môi trường, lao động, xã hội, sức khoẻ và an
toàn:
Bảo vệ môi trường cũng là một vấn đề được các nước EU quan tâm xem xét
để chấp nhận nhập hàng hoá của một doanh nghiệp, một quốc gia vào thị trường
mình. Các sản phẩm rau quả để đáp ứng yêu cầu về môi trường phải tuân thủ
theo các quy định về giảm tối đa mức độ các chất dư lượng (MRLs) của hàng
loạt loại thuốc trừ sâu sử dụng ngay từ trong gốc cây trồng , và trong từng thành
phẩm rau quả được đưa ra thị trường theo quyết định số 90/642/EEC. Ngoài ra
các doanh nghiệp khi xuất hàng vào EU cũng cần có chứng chỉ về bảo vệ môi
trường như ISO 14000.
Vấn đề liên quan đến an toàn và sức khoẻ : áp dụng theo các quy định của
EUROGAP được xem là quan trọng nhất đối với rau quả tiêu thụ trên thị trường
EU. Nã quy định quy trình canh tác nông nghiệp bảo đảm đối với các sản phẩm
trồng trọt bao gồm các tiêu chuẩn về quản lý ruộng vườn, sử dụng phân bón, bảo
vệ mùa màng, dùng thuốc trừ sâu, thu hoạch và sau thu hoạch, sức khoẻ và an
toàn của công nhân. Ngoài ra còn có các quy định về vệ sinh dịch tễ và bảo vệ
được tổ chức International Plant Protection Committee nhằm bảo vệ nông phẩm
khỏi bị nhiễm sâu bệnh. Bên cạnh đó, hệ thống HACCP cũng là một tiêu chuẩn
Phạm Minh Phương Thương mại Quốctế 43
Th¬ng m¹i QuèctÕ 43
10
Đề án chuyên ngành Thương mại Quốc tế
mà các công ty nhập khẩu Châu Âu đòi hỏi nhà cung cấp của mình. Nó có hiệu
lực đối với tất cả các công ty chế biến, xử lý, bao bì, vận chuyển, phân phối hay
kinh doanh thực phẩm. Hệ thống này quy định chặt về các nguy cơ liên quan đến
sản xuất thức ăn ở mọi công đoạn từ nuôi trồng, chế biến, sản xuất, phân phối
đến tiêu thụ.
Liên quan đến vấn đề lao động, xã hội các doanh nghiệp cần quan tâm đến bộ
tiêu chuẩn SA8000.
1.3.2.3 Các yêu cầu về bao bì, ký mã hiệu và nhãn mác :
Các nước EU có đưa ra quy định đối với vấn đề này như sau : Nhãn mác thông
tin bao bì yêu cầu phải được ghi đầy đủ, ký hiệu, dấu hiệu rõ ràng. Nội dung bao
bì bao gồm : Nhãn hiệu hàng hoá, nhà sản xuất, nơi sản xuất, hạn sử dụng, thành
phần các chất có trong sản phẩm Bao bì, chai, lọ, hộp đựng sản phẩm cũng
phải đạt tiêu chuẩn vệ sinh và chất lượng.
2. Phân tích khả năng xuất khẩu rau qủa của DNVN vào thị trường EU
2.1 Thực trạng xuất khẩu rau quả của DNVN vào thị trường EU
2.1.1 Xuất khẩu rau quả sang EU nói chung :
EU là một trong hai thị trường trên thế giới (EU và Mỹ) có nhu cầu nhập khẩu
rau quả lớn nhất. Theo ước tính đến năm 2010, nhập khẩu rau quả của EU sẽ
chiếm tới 50% nhập khẩu toàn thế giới. Vì vậy, có thể nói, EU là thị trường lớn
cho hoạt động xuất khẩu rau quả. Trong những năm qua mặc dù kim ngạch xuất
khẩu rau quả của Việt Nam không ổn định, nhìn chung có xu hướng giảm. Cụ
thể là : năm 2000 đạt 200 triệu USD, tăng 90,5% so với năm trước, năm 2001 đạt
330 triệu USD, tăng 65%, năm 2002 đạt 201 triệu USD, giảm 29%, năm 2003
đạt 151,5 triệu USD giảm 24,6% thì cũng trong những năm đó kim ngạch xuất
khẩu vào EU liên tục tăng thể hiện qua các số liệu sau : Năm 2000 đạt 9,2 triệu
USD, 2001 đạt 11 triệu USD, 2002 đạt 19 triệu USD, 2003 đạt trên 21 triệu USD
(theo doanh nghiệp TM sè 45/2004). Trong đó các nhóm sản phẩm tăng trưởng
Phạm Minh Phương Thương mại Quốctế 43
Th¬ng m¹i QuèctÕ 43
11
Đề án chuyên ngành Thương mại Quốc tế
mạnh là dứa, vải, dưa chuột đóng hộp; dứa, vải đông lạnh; nước dứa cô đặc.
Riêng mặt hàng đông lạnh tăng 30-50%, dứa cô đặc tăng 80%, đồ hộp tăng 50%.
Nói chung, rau quả Việt Nam xuất sang EU tương đối đa dạng bao gồm các
sản phẩm đủ loại kiểu muối, đóng hộp hay sấy khô như dưa chuột muối, dưa bao
tử, ngô rau, khoai sọ, khoai lang, khoai mì trắng, cà rốt, bí đỏ vỏ xanh, các loại
đậu rau, hành hương, tỏi tây, rau cải xanh, bó xôi, mướp đắng, cà muối Nước
quả và nước quả cô đặc như dứa hộp, chôm chôm hộp Ngoài ra còn có các loại
vải, nhãn, mít sấy khô, xoài, đu đủ nghiền và mứt quả. Các loại nước Ðp trái cây
xuất không nhiều như nước cam, nước ổi Cuối cùng phải kể tới các loại rau
quả tươi cũng như trái nhiệt đới như xoài, chuôi, thanh long, vải thiều, ổi, khế,
bưởi, măng cụt, chanh, nhãn, dừa Qua đó có thể thấy các sản phẩm rau quả
của Việt Nam xuất sang EU phong phú về chủng loại rau quả, đa dạng về loại
hình sản phẩm. Năm 2002 tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu rau quả tươi chiếm
khoảng 10% kim ngạch xuất khẩu rau quả tươi của Việt Nam còn rau quả chế
biến chiếm khoảng 18% trong tổng kim ngạch xuất khẩu rau quả chế biến.
( Theo cuốn Thị trường EU và khả năng xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam). Nếu
làm một phép so sánh có thể thấy so với các thị trường khác như Trung Quốc,
Nhật Bản rau quả Việt Nam xuất sang EU chưa tương xứng với tiềm năng của
thị trường. Hiện thị trường Trung Quốc chiếm tỷ trọng 45-50% trong khi rau quả
xuất khẩu của Việt Nam sang EU chưa đầy 6%.
Các thị trường xuất khẩu chủ yếu của rau quả Việt Nam trong khối là Pháp,
Đức, Hà Lan và Italia. Ngoài ra còn có từng thị trường chính cho mỗi loại mặt
hàng trái cây cụ thể như sau : Chuối-Anh, Bỉ, Đức; Dứa- Pháp, Italia, Anh, Bỉ,
Đức; Xoài- Hà Lan, Pháp, Đức; Dưa hấu- Đức, Italia.
Tuy số lượng rau quả Việt Nam xuất sang EU gần đây tương đối đa dạng song
chất lượng lại chưa cao, chưa đáp ứng các tiêu chuẩn của người dân Châu Âu.
Đó là do các vấn đề về giống cây trồng phần lớn là giống địa phương chưa phải
Phạm Minh Phương Thương mại Quốctế 43
Th¬ng m¹i QuèctÕ 43
12
Đề án chuyên ngành Thương mại Quốc tế
là giống tốt nhất; do kỹ thuật sản xuất rau quả chưa cao, nông cụ không nhiều
nên việc sản xuất đại trà gặp nhiều trở ngại; do cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ
cho việc bảo quản, lùa chọn, công nghệ chế biến rau quả cũng như bao gói thành
phẩm còn lạc hậu nghèo nàn. Cũng do những nhược điểm trên đã khiến cho sản
phẩm có mẫu mã và chủng loại đơn điệu so với các sản phẩm nhập khẩu khác
trên thị trường EU.
Ngoài ra, số lượng rau quả Việt Nam xuất sang EU còn nhỏ lẻ và thường
không ổn định. Loại rau quả sạch hữu cơ của Việt Nam được xuất sang EU
không nhiều mà chủ yếu là rau sạch thông thường. Các loại rau sạch này đôi khi
chưa đáp ứng được yêu cầu vệ sinh an toàn thực phẩm của EU cũng như thường
vượt quá tỷ lệ hoá chất quy định. Đồng thời, chúng ta cũng chưa có nhiều loại
rau quả mang đặc trưng Việt Nam để có thể giới thiệu với người dân EU.
Nếu đem so sánh với giá rau quả nhập khẩu từ các nước khác thì rau quả của
Việt Nam có giá cao hơn. Đó là do các chi phí như lưu thông, bảo quản, chế
biến, bao bì đặc biệt là vận chuyển thường cao làm tăng giá vốn hàng xuất khẩu
của ta so với giá vốn của các nước khác. Ví dụ như cước phí vận chuyển của
Thái Lan luôn thấp hơn Việt Nam từ 10-30% như vậy giả sử Thái Lan và Việt
Nam có cùng chi phí sản xuất thì giá vốn của ta lớn hơn Thái Lan từ 10-30% giá
trị. Có lẽ bởi vậy mà rau quả Việt Nam sang EU thường có khả năng cạnh tranh
kém hơn so với Trung Quốc, Thái Lan, Nam Mỹ và một số nước Châu Phi có
cùng điều kiện sản xuất tương tự như nước ta.
Thực tế, thị trường EU đã nhập một lượng lớn rau quả từ các nước đang phát
triển khoảng 5,1 tỷ euro/6,8 triệu tấn quả các loại và khoảng 687 triệu euro/612
ngàn tấn rau(năm 2003) song mặt hàng rau quả Việt Nam lại chiếm tỷ lệ % về
thị phần rất nhỏ. Các quốc gia xuất khẩu rau quả chính sang EU phải kể đến các
nước Nam Phi, Châu Mỹ La Tinh, như Coxta Rica, Braxin, Êucado, Chilê,
Côlômbia, Achentina, các nước khác như Cốtđivoa, Thổ Nhĩ Kỳ, Marốc,
Phạm Minh Phương Thương mại Quốctế 43
Th¬ng m¹i QuèctÕ 43
13
Đề án chuyên ngành Thương mại Quốc tế
Camơrun, Ai Cập, Thái Lan. Đây là những nước đã thâm nhập vào thị trường
EU từ lâu và sản phẩm của họ đã có uy tín trên thị trường. Để biết thêm về tỷ lệ
% thị phần của các nước XK sang EU đối với từng loại rau quả xem phụ lục 3.
Qua bảng phụ lục này, có thể thấy được khả năng cạnh tranh của từng nước cũng
như thế mạnh của nước đó đối với từng sản phẩm cụ thể. Đồng thời có thể thấy
được một thực trạng là lượng rau quả Việt Nam xuất sang EU còn quá nhỏ bé và
khả năng cạnh tranh của rau quả Việt Nam trên thị trường EU là rất hạn chế.
Nói chung, rau quả Việt Nam xuất sang EU nhằm phục vụ bà con Việt Kiều là
chủ yếu. Và cũng chính những người Việt Nam định cư tại các nước Châu Âu
này là kênh phân phối hiệu quả nhất cho hoạt động xuất khẩu hàng hoá nói
chung và rau quả nói riêng của nước ta vào thị trường EU.
2.1.2 Giới thiệu 2 thị trường xuất khẩu rau quả chính của Việt Nam là Pháp và
Đức :
Đức và Pháp là 2 trong rất nhiều các quốc gia EU nhập khẩu rau quả từ Việt
Nam với khối lượng lớn và cũng là 2 thị trường rất tiềm năng trong liên minh EU
đối với hoạt động nhập khẩu rau quả từ nước ta.
Thị trường Pháp : Đây là một thị trường nhập khẩu rất đa dạng các sản phẩm
rau quả của ta. Vì vậy, các loại rau quả Việt Nam có mặt trên thị trường Pháp
phong phú và có chất lượng tốt, tuy nhiên số lượng xuất khẩu chưa nhiều.
Nguyên nhân chính là rau quả của ta chưa đáp ứng được các nhu cầu khắt khe
của thị trường như các yêu cầu về độ sạch, đẹp, ngon, an toàn, rẻ cũng như rau
quả phải được canh tác bằng phương pháp hữu cơ và phải có sự ổn định về chất
lượng và số lượng. Sản xuất của ta nói chung còn manh mún, nhỏ lẻ, giống trái
cây và kỹ thuật trồng trọt còn lạc hậu.Vì vậy, không có đủ hàng đủ tiêu chuẩn để
xuất khẩu. Công nghệ sau thu hoạch, chế biến, bảo quản và vận chuyển còn yếu
kém, các tiến bộ kỹ thuật còn chưa được áp dụng. Do đó, rau quả của ta mới chỉ
xuất sang thị trường Pháp với số lượng hạn chế dưới dạng đông lạnh, đồ hộp, sấy
Phạm Minh Phương Thương mại Quốctế 43
Th¬ng m¹i QuèctÕ 43
14
Đề án chuyên ngành Thương mại Quốc tế
khô hay nước cô đặc còn rau quả tươi thì rất hạn chế. Hơn nữa Pháp lại là nước
có vị trí địa lý xa xôi so với chúng ta nên việc vận chuyển nhanh chóng khó thực
hiện nếu được thì chi phí sẽ rất cao không cạnh tranh được với rau quả ở các
nước khác.
Phạm Minh Phương Thương mại Quốctế 43
Th¬ng m¹i QuèctÕ 43
15
Đề án chuyên ngành Thương mại Quốc tế
Dưới đây là các sản phẩm rau quả xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam vào Pháp
xếp theo kim ngạch năm 2003
Bảng 1: Cơ cấu xuất khẩu rau quả của Việt Nam vào Pháp năm 2003
STT Tên Hàng
Khối Lượng
(Tấn)
Kim ngạch
(nghìn euro)
1 Dứa sấy khô 695 557
2 Nhãn, vải 94 298
3 Hạt điều (đã bóc vỏ) 56 220
4 Ổi, xoài và măng cụt 34 219
5 Hạt điều (chưa bóc vỏ) 27 174
6 Nấm tươi 304 160
7 Nấm khô 43 133
8 Dừa tươi 112 72
9 Củ, rễ các loại 62 65
10 Quả sấy khô các loại 3 50
(Nguồn : Báo Ngoại Thương số 27 ngày 21-31/9/2004 )
Thị trường Đức :Đây là thị trường tiêu thụ sản phẩm rau quả rất đa dạng. Hầu
như trên thị trường này có đủ các loại quả từ quả bỏng, nhót, ổi , khế cho đến các
loại quả có giá trị cao như xoài, dừa, mít Hàng Việt Nam được nhập vào do các
doanh nghiệp người Việt với số lượng không đáng kể. Rau quả Việt Nam tiêu
thụ nhiều nhất là rau quả hộp. Gần đây số lượng này đã giảm chủ yếu tập trung
và các mặt hàng rau quả sau :
Rau tươi như rau muống, cải tàu, rau thơm, gừng, giềng, các loại gia vị
Những loại rau này thường được xuất sang Đức để cung cấp cho các khu chợ và
cửa hàng thực phẩm Châu Á cho người Việt sử dụng.
Về quả, các loại như xoài , thanh long, dứa, vải thiều, ổi, khế, mận, chanh
tiêu thụ khá lớn. Ngoài ra, các sản phẩm quả, nước quả đóng hộp như dứa và
nước dứa, nước quả ổi, chôm chôm đều có khả năng tiêu thụ tốt. Dứa đông lạnh
còn được sử dụng để chế biến các loại coctail, gia chế kem.
Phạm Minh Phương Thương mại Quốctế 43
Th¬ng m¹i QuèctÕ 43
16
Đề án chuyên ngành Thương mại Quốc tế
Các quy định nhập khẩu rau quả của thị trường Đức tuân theo những tiêu
chuẩn chung của thị trường EU. Các loại rau quả nhiệt đới của Việt Nam trừ
chuối, dưa chuột đều được hưởng ưu đãi về thuế. Các sản phẩm kể trên khi muốn
vào thị trường Đức phải có giấy phép nhập thậm chí chuối phải chịu chế độ hạn
ngạch.
Rau quả Việt Nam khi thâm nhập vào thị trường Đức chịu sức Ðp cạnh tranh
lớn với các loại quả từ các nước khác như Hoa Kỳ, Trung và Nam Mỹ, vùng
Caribê, Nam Âu và đặc biệt là Thái Lan.
Rau quả Việt Nam tại thị trường Đức
Mặt Hàng Khối Lượng ( Tấn) Trị Giá (Triệu USD)
Rau, quả hộp, nước quả 967 0,907
Rau tươi các loại 104 0,243
Quả nhiệt đới 50 0,186
Quả loại khác 17 0,018
Quả có vỏ cứng (lạc) 21 0,018
(Nguồn báo ngoại thương số 27 ngày 21-31/9/2004)
2.3 Những thuận lợi và khó khăn của DN VN khi xuất rau quả vào thị trường
EU
2.3.1 Những thuận lợi của DN:
2.3.1.1Thuận lợi chủ quan :
Trước hết phải kể tới quyết định số 182/1999 QĐ-TTG ngày 3/9/1999 của
Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt đề án “ Phát triển rau, quả và hoa, cây
cảnh thời kỳ 1999-2010”. Điều này chứng tỏ, Nhà nước đã rất quan tâm đến việc
xuất khẩu rau quả ra thị trường thế giới, xem xét rau quả như mặt hàng tiềm
năng trong hoạt động xuất khẩu của Việt Nam. Cùng với việc phê duyệt đề án rất
nhiều cuộc họp của Bộ Thương Mại đã được tổ chức để triển khai đề án này.
Điều đó đồng nghĩa với việc những khó khăn từ khâu sản xuất, trồng trọt đến các
khâu tiêu thụ sản phẩm của Doanh nghiệp xuất khẩu sẽ được quan tâm giúp đỡ
giải quyết.
Phạm Minh Phương Thương mại Quốctế 43
Th¬ng m¹i QuèctÕ 43
17
Đề án chuyên ngành Thương mại Quốc tế
Lao động ở nông thôn Việt Nam vừa nhiều (25 triệu người), vừa trẻ (phần lớn
ở lứa tuổi 25), lại vừa rẻ ( do nếu xét tổng sản phẩm trong nước GDP tính trên
đầu người của Việt Nam năm 1999 chỉ là 375 USD/ người, Ýt hơn 48% so với
Trung Quốc) nên giá thành của hàng rau quả Việt Nam chắc chắn sẽ rẻ, có thể
cạnh tranh với bất cứ quốc gia nào trên thế giới, kể cả Trung Quốc. Thêm vào
đó, ở khắp các vùng nông thôn nước ta xu hướng chuyển đổi ngành nghề từ
trồng cây lúa sang cây ăn quả đang phát triển mạnh do một thực tế là trồng cây
ăn quả mang lại lợi nhuận cho người nông dân hơn rất nhiều so với cây lúa
truyền thống. Chính xu hướng này đã làm cho diện tích gieo trồng của ta ngày
một tăng. Nếu năm 1985 diện tích mới đạt 218 nghìn ha thì năm 2003 đạt
692.252 ha bình quân tăng 60 nghìn ha mỗi năm. Đây là đặc điểm thuận lợi cho
việc phát triển trồng cây ăn quả xuất khẩu. Hơn nữa, khí hậu và đất đai của Việt
Nam rất thích hợp với nhiều chủng loại rau quả khác nhau, nên ở nước ta sản
xuất được cả rau quả nhiệt đới lẫn ôn đới.
Việt Nam có một thị trường trong nước với hơn 80 triệu dân, hàng năm có
trên 2 triệu du khách tới Việt Nam trong đó có một lượng du khách không nhỏ
đến từ Châu Âu chủ yếu là các nước Pháp, Đức, Ý, Bỉ, Anh Đây là một thị
trường đủ lớn để cho các loại rau quả của Việt Nam được thẩm định chất lượng
trước khi xuất khẩu vào EU.
Ngày nay, các doanh nghiệp nước ta đã có những nhận thức đầy đủ hơn trong
việc xuất khẩu hàng hoá nói chung và rau quả nói riêng. Họ không xuất cái mình
có mà xuất cái thị trường cần. Mặt hàng rau qủa cũng vậy. Các doanh nghiệp
nhận thức được việc họ phải trang bị những dây truyền công nghệ hiện đại để có
thể sản xuất ra các sản phẩm rau quả có chất lượng tốt, mẫu mã đẹp đảm bảo các
yêu cầu đòi hỏi của thị trường và người tiêu dùng. Đồng thời ngày nay, doanh
nghiệp đã có những thuân lợi hơn trong việc tìm kiếm thông tin thị trường cũng
như đối tác làm ăn hơn. Lý do là một mặt các doanh nghiệp đã chủ động tìm
Phạm Minh Phương Thương mại Quốctế 43
Th¬ng m¹i QuèctÕ 43
18
Đề án chuyên ngành Thương mại Quốc tế
kiếm và nghiên cứu thị trường thông qua việc khảo sát thị trường thực tế, tìm các
thông tin qua mạng Internet cũng như thông qua các mối quan hệ khác của
doanh nghiệp. Mặt khác, Bộ Thương Mại, Cục xúc tiến Bộ cũng như các tham
tán thương mại của Việt Nam ở nước ngoài cũng đã hỗ trợ rất lớn cho các doanh
nghiệp trong việc tìm hiểu và nắm bắt thông tin về thị trường một cách hiệu quả.
2.3.1.2 Thuận lợi khách quan :
EU đã và đang trở thành một liên minh kinh tế hùng mạnh của thế giới, một
thực thể thương mại duy nhất. Đây là cơ hội tốt cho hoạt động XK hàng hoá nói
chung và rau quả nói riêng. Các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam sẽ có điều
kiện mở rộng XK vào các nước thành viên còn Ýt giao lưu thương mại với Việt
Nam do sản phẩm vào được một nước thành viên thì sẽ vào được các nước còn
lại của EU. Ngoài ra do EU là một thị trường thống nhất với những chính sách
và quy định chung cho 25 quốc gia thành viên nên khi thâm nhập thị trường này,
các doanh nghiệp Việt Nam chỉ cần nghiên cứu tập trung vào một bộ luật duy
nhất.
EU như đã nói ở trên là một khu vực phát triển kinh tế ổn định đứng vị trí
hàng đầu thế giới và là thị trường có sức mua và dự trữ khá vững chắc. Dân số
đông hơn 400 triệu người với thu nhập cao và đang có xu hướng tiêu thụ rau quả
ngày một tăng. Điều này thể hiện thông qua bảng: Dự báo thị trường rau quả chế
biến của EU tới năm 2006
Bảng 2: Dự báo thị trường rau quả chế biến của EU tới năm 2006
Trị giá (tỷ euro) Lượng (triệu tấn)
2003 2006 %thay đổi 2003 2006 %thayđổi
Rau đông lạnh 2,0 2,1 +5,0 566 597 +5,5
Rau đóng hộp 3,0 3,1 +3,3 1,7770 1,821 +2,9
Quả đóng hộp 1,2 1,2 0 534 530 - 0,1
Mứt quả 1,7 1,8 +5,9 531 515 -3,0
(Nguồn : tạp chí Thương Mại số 36/2004)
Phạm Minh Phương Thương mại Quốctế 43
Th¬ng m¹i QuèctÕ 43
19
Đề án chuyên ngành Thương mại Quốc tế
Chiến lược EU mở rộng với việc 10 nước Trung và Đông Âu mới gia nhập EU
và đến 2007 sẽ có thêm 3 nước nữa là Bungary, Rumani và Thổ Nhĩ Kỳ, Liên
minh Châu Âu sẽ ngày càng trở nên lớn mạnh. Điều này chẳng những không cản
trở, mà còn giúp cho Việt Nam đẩy mạnh hơn nữa XK hàng rau quả sang thị
trường này. Bởi vì đây là những bạn hàng truyền thống của ta và khi tham gia
EU kinh tế của họ sẽ phát triển nhanh, tạo nhu cầu thị trường cho mặt hàng rau
quả vốn không phải là mặt hàng cạnh tranh với chúng ta.
EU đổi mới chính sách kinh tế đối ngoại với Châu Á. Với “sáng kiến thương
mại xuyên khu vực EU-ASEAN “, EU tập trung nhiều nỗ lực để phát triển quan
hệ với ASEAN một cách toàn diện và sâu sắc hơn. Đây là tiền đề có ý nghĩa cho
mét khu vực mậu dịch tự do EU-ASEAN trong tương lai. Từ đây, EU đã có đánh
giá khách quan và đầy đủ hơn về tiềm năng cũng như vai trò của Việt Nam đối
với khu vực. Đặc biệt, trong hội nghị ASEM 5 vừa qua, Việt Nam với tư cách là
nước chủ nhà đã có những đóng góp tích cực, ”tiến tới quan hệ đối tác Á- Âu
sống động và thực chất hơn”. Bên cạnh sự đóng góp hiệu quả của Việt Nam
trong hội nghị, chúng ta còn liên tục có những cuộc gặp gỡ với nguyên thủ quốc
gia của các nước EU. Điều này sẽ tạo thuận lợi cho mối quan hệ hợp tác giữa
Việt Nam và các nước EU đồng thời giúp cho các hoạt động thương mại trong
đó có đẩy mạnh xuất khẩu rau quả.
Sù lớn mạnh của cộng đồng người Việt tại các quốc gia thành viên EU. Tính
đến ngày 1/3/2004 có 350 nghìn người Việt Nam đang sinh sống ở EU, trong đó
riêng tại Đức có tới trên 100 nghìn người. Số doanh nhân người Việt phần lớn là
tiểu thương hiện có ở EU bao gồm: 15 nghìn người ở Đức, 10 nghìn người ở Ba
Lan và hơn 2 nghìn người ở Hungary là lực lượng chủ yếu tham gia vào kênh
phân phối và hệ thống bán lẻ hàng XK Việt Nam tại EU. Khai thác lực lượng
này hàng rau quả của Việt Nam sẽ dễ dàng hơn khi thâm nhập vào EU vì họ là
Phạm Minh Phương Thương mại Quốctế 43
Th¬ng m¹i QuèctÕ 43
20
Đề án chuyên ngành Thương mại Quốc tế
những người có tiềm lực tài chính, rất am hiểu thị trường, có năng lực kinh
doanh trên thị trường.
2.3.2 Những khó khăn của DN:
2.3.2.1 Khó khăn chủ quan
Đa số các doanh nghiệp Việt Nam có quy mô vừa và nhỏ, tiềm lực về vốn rất
hạn chế nên gặp khó khăn không nhỏ trong việc đổi mới công nghệ, nâng cao
chất lượng hàng hoá và giảm giá thành sản phẩm. Ngoài ra còn phải kể tới những
khó khăn của doanh nghiệp trong khâu thu mua nông sản, trong hoạt động chế
biến sản phẩm, trong khi tìm kiếm bạn hàng, định hướng chiến lược mặt hàng
cũng như tiêu thụ sản phẩm ở thị trường EU
Chất lượng rau quả Việt Nam nhìn chung còn thấp, không đồng đều, chưa đáp
ứng được yêu cầu khắt khe của thị trường như tươi, ngon, sạch, đẹp, an toàn
đó là do chóng ta còn gặp một số khó khăn như : Thiếu giống tốt, công nghệ ứng
dụng sau thu hoạch còn kém, hình thức kinh doanh manh mún, lạc hậu Năng
suất trái cây cao hay thấp phụ thuộc vào các yếu tố như giống, phương pháp canh
tác, đất đai, thời tiết trong đó giống cây có vai trò quyết định. Song hiện nay
tình trạng thiếu giống tốt để phục vụ cho sản xuất còn diễn ra phổ biến. Bên cạnh
đó do việc quản lý Nhà nước về sản xuất và kinh doanh vốn chưa thật sự chặt
chẽ nên người sản xuất có khi phải sử dụng giống dởm, giống kém chất lượng
gây thiệt hại tới sản xuất, kinh doanh.
Về công nghệ sau thu hoạch thì ở Việt Nam, những tiến bộ kỹ thuật về lĩnh
vực này được chuyển giao đến người nông dân còn rất Ýt dẫn đến tình trạng tỉ lệ
thất thoát về rau quả sau thu hoạch cao ước tính 25-30%. Các công nghệ và thiết
bị xử lý sau thu hoạch để trừ côn trùng, vi sinh vật hại rau quả trong kho, bảo vệ
mã và chất lượng rau quả cũng như công nghệ bảo quản trái cây tươi không được
ứng dụng rộng rãi. Kho lạnh Ýt, phần lớn không được đặt đúng chỗ dẫn đến việc
Phạm Minh Phương Thương mại Quốctế 43
Th¬ng m¹i QuèctÕ 43
21
Đề án chuyên ngành Thương mại Quốc tế
Ýt phát huy được tác dụng.Trong các công nghệ sau thu hoạch, công nghệ chế
biến rau quả tại các nhà máy được quan tâm trang bị hơn cả. Song công suất sản
xuất thực tế chỉ đạt 20-25% cá biệt có nhà máy chỉ đạt 10% do bị thiếu nguyên
liệu như nhà máy chế biến cà chua Hải Phòng, nhà máy chế biến rau quả Bắc
Giang Một số nhà máy lâu năm, công nghệ chế biến lạc hậu, năng suất thấp,
không đảm bảo vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm cũng như chất lượng rau quả
chế biến. Trái cây chế biến mới chỉ chiếm khoảng 5-7% tổng sản lượng trái cây
và tập trung một số loại trái cây như dứa, dừa, dưa chuột, xoài, ổi, cam
Thêm vào đó, hình thức kinh doanh của ta còn manh mún, lạc hậu thể hiện ở
việc trái cây thu gom từ người sản xuất rất tự phát nên giống, mã và độ chín
không đồng đều dẫn đến hậu qủa là chất lượng kém.
Khả năng thu thập thông tin, phân tích và dự báo về thị trường của các cơ
quan nhà nước cũng như của chớnh cỏc doanh nghiệp cã tiến bộ song còn yếu
kém. Công tác xúc tiến thương mại nhìn chung còn nhỏ lẻ và sơ sài trước yêu
cầu phát triển của thị trường. Hệ thống kênh phân phối rau quả của Việt Nam
vào EU chưa được thiết lập tối ưu cũng như triển khai thực hiện chưa thực sự có
hiệu quả.
Vấn đề vận chuyển rau quả sang thị trường EU cũng là một thách thức không
nhỏ đối với các doanh nghiệp. Không như những thị trường xuất khẩu khác của
Việt Nam như Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản là những nước có vị trí địa lý
thuận lợi ở gần Việt Nam, EU ở rất xa chóng ta. Vì vậy, các doanh nghiệp Việt
Nam khi xuất rau quả sang EU thường mong muốn chọn được loại phương tiện
vận chuyển một cách nhanh nhất, chi phí thấp nhất với các điều kiện chuyên chở
an toàn nhất để làm sao duy trì được chất lượng, độ tươi ngon của rau quả. Nói
chung, hàng hoá rau quả Việt Nam xuất sang EU chỉ có thể vận chuyển bằng
đường biển và đường hàng không. Song thực tế là cước phí vận chuyển của ta
Phạm Minh Phương Thương mại Quốctế 43
Th¬ng m¹i QuèctÕ 43
22
Đề án chuyên ngành Thương mại Quốc tế
quá đắt và chất lượng vận chuyển kém. Do vậy đã gây ra một khó khăn không
nhỏ đối với các doanh nghiệp xuất khẩu rau quả sang thị trường EU xa xôi.
2.3.2.2 khó khăn khách quan:
EU là một trong số những thị trường có yêu cầu cao về các tiêu chuẩn chất
lượng, vệ sinh thực phẩm, an toàn cho người sử dụng, bảo vệ môi trường, tiêu
chuẩn lao động và trách nhiệm đối với xã hội. Trên thực tế, nếu doanh nghiệp vi
phạm và cố tình vi phạm thì sẽ bị EU loại khỏi danh sách xét cấp giấy phép nhập
khẩu hoặc tịch thu các chứng chỉ chất lượng, tiêu chuẩn mà EU đã cấp. Đây thực
sự là một khó khăn lớn đối với các doanh nghiệp Việt Nam do khả năng đạt
được các tiêu chuẩn Châu Âu không phải dễ thực hiện khi mà các doanh nghiệp
Việt Nam vốn Ýt, cơ sở hạ tầng và công nghệ chế biến thiếu thốn và lạc hậu.
Việc sản xuất rau quả tại các địa phương chưa đạt được tiêu chuẩn cao như ở
Châu Âu. Đó là tiêu chuẩn về hàm lượng thuốc trừ sâu, tiêu chuẩn vệ sinh an
toàn thực phẩm Một khi bị mất uy tín, sản phẩm đến từ Việt Nam khó có thể
lấy lại được lòng tin của người dân Châu Âu.
Các hàng rào thuế quan của EU mặc dù có những ưu đãi nhất định cho các
quốc gia đang phát triển như Việt Nam nhưng thực tế cũng còn nhiều khó khăn.
Thực tế là với các mặt hàng do Châu Âu tự sản xuất được,thực hiện đánh thuế
hay chịu điều tiết bằng hạn ngạch, chỉ khuyến khích nhập khẩu vào thời điểm
trái vụ hay giáp hạt. Và trong tương lai, với chương trình mở rộng thương mại
của EU với nội dung là đẩy mạnh tự do hoá thương mại thông qua việc giảm dần
thuế quan, tăng dần các hàng rào phi thuế, xoá dần chế độ hạn ngạch theo lé trình
của WTO, tiến tới bãi bỏ ưu đãi GSP cho một số quốc gia đang phát triển vào
năm 2006. Tất cả những điều này có thể sẽ gây trở ngại cho hàng XK của ta vốn
còn đang yếu về năng lực cạnh tranh.
Mặc dù thị trường EU là thị trường thống nhất song giữa các quốc gia vẫn có
sự khác biệt về văn hoá trong đó phải kể đến là ngôn ngữ. Kênh phân phối giữa
Phạm Minh Phương Thương mại Quốctế 43
Th¬ng m¹i QuèctÕ 43
23
Đề án chuyên ngành Thương mại Quốc tế
từng quốc gia cũng có sự khác biệt nhau rõ rệt. Ví dô : ở khu vực Địa Trung Hải,
người tiêu dùng truyền thống vẫn thích sử dụng việc mua bán các loại rau quả ở
các khu chợ xanh ngoài trời trong khi đó ở Bắc Âu người ta thường mua rau quả
tại các siêu thị Ngoài ra, các nước EU còn có những nét riêng về pháp lý. Bên
cạnh tiêu chuẩn chung, các quốc gia còn có những tiêu chuẩn riêng cho các loại
rau quả nhập khẩu. Và cuối cùng, do có sự khác biệt về mặt khí hậu tạo ra khả
năng sản xuất các loại rau quả ở mỗi quốc gia là khác nhau. Do đó, ở từng thị
trường quốc gia Châu Âu, nhu cầu về rau quả nhập khẩu cũng có những sự khác
biệt đôi chút. Những điểm khác biệt về văn hoá, pháp lý và nhu cầu thị trường
cũng tạo ra những khó khăn nhất định cho các nhà xuất khẩu Việt Nam. Bởi vậy,
để có thể bán được sản phẩm tại thị trường EU, doanh nghiệp cũng cần tìm hiểu
nắm bắt những thông tin riêng ở từng thị trường để đáp ứng cho phù hợp.
Mét khó khăn khác của rau quả Việt Nam trên thị trường EU là phải cạnh
tranh với rau quả đến từ chính các quốc gia EU cũng như sản phẩm của các nước
Châu Phi, Châu Mỹ La Tinh và các nước Châu Á. Đây là một thách thức không
nhỏ đối với việc xuất khẩu của chúng ta. Lý do là so với rau quả Việt Nam, các
sản phẩm này đã thâm nhập vào thị trường EU trước chúng ta một thời gian dài,
giá sản phẩm hợp lý hơn và điều quan trọng là đã gây dựng được uy tín trên thị
trường.
3. Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu rau quả Việt Nam vào thị trường EU:
Để mặt hàng rau quả của Việt Nam có thể cải thiện được hình ảnh, từng bước
khẳng định được vị thế của mình trên thị trường EU chóng ta cần có những giải
pháp đồng bộ từ phía Nhà Nước, Doanh nghiệp, nhà nghiên cứu và cả những
người nông dân sản xuất rau quả. Đó là:
3.1 Nâng cao hiểu biết về thị trường:
Trước hết là những hiểu biết về yêu cầu khắt khe của thị trường EU như vấn
đề về môi trường, chất lượng quy trình sản xuất, an toàn thực phẩm. Để nắm bắt
Phạm Minh Phương Thương mại Quốctế 43
Th¬ng m¹i QuèctÕ 43
24
Đề án chuyên ngành Thương mại Quốc tế
được những yêu cầu này đòi hỏi các nhà DN phải thường xuyên nắm bắt, tìm
hiểu thông tin về những quy định mới của EU qua báo chí, qua các trang web
của EU như : www.cbi.nl ; www.eppo.org ; www.europa.eu.int Đồng thời,
phổ biến những quy định của thị trường về vấn đề gieo trồng cho những người
cung cấp nguyên liệu của mình. Ngoài ra, các cơ quan Nhà nước như Bộ Thương
Mại có nhiệm vụ giúp đỡ, hỗ trợ về thông tin thị trường cho các doanh nghiệp.
Khi đã nắm bắt được các yêu cầu của thị trường, trong quá trình trồng trọt cũng
như chế biến doanh nghiệp và người nông dân cần phải chấp hành đầy đủ các
quy định này. Quá trình trồng trọt ban đầu phải phù hợp với môi trường, việc sử
dông
các thuốc trừ sâu, các loại phân bón, hoá chất cũng cần đúng với các quy định
của EU. Các chất thải bao gồm cả bao bì cần được các nhà máy xử lý, loại bỏ.
Trong quá trình chế biến phải tuân thủ các quy định về an toàn thực phẩm, sản
phẩm phù hợp với môi trường.
Hiểu biết về thị trường còn là hiểu biết về đặc tính tiêu dùng của thị trường
trong đó có 2 đặc điểm cần quan tâm một là chất lượng hàng hoá phải cao và an
toàn, hai là yêu cầu về nhãn mác thông tin phải đầy đủ, ký hiệu phải rõ ràng, tạo
điều kiện cho khâu quản lý và theo dõi hàng hoá được thuận lợi. Để có thể nắm
được những đặc tính này doanh nghiệp cần tham dự nhiều hội chợ của EU( xem
phụ lục 2) cũng như tự mình tổ chức tốt các đoàn khảo sát thị trường.
3.2 Nâng cao chất lượng rau quả sang EU:
Đây là một yếu tố quyết định để rau quả Việt Nam có được chỗ đứng trên thị
trường EU. Muốn nâng cao được chất lượng rau quả ta phải quan tâm đến 2
khâu. Thứ nhất là cải thiện việc sản xuất, trồng trọt ban đầu để có nguồn rau quả
tươi xuất khẩu cũng như nguồn nguyên liệu tốt cho chế biến và thứ hai là nâng
cao chất lượng rau quả được chế biến.
Phạm Minh Phương Thương mại Quốctế 43
Th¬ng m¹i QuèctÕ 43
25