Tải bản đầy đủ (.doc) (47 trang)

đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và kết quả điều trị ở những sản phụ doạ sẩy thai trong 3 tháng đầu tại bệnh viện pstư từ tháng 01 đến tháng 06 năm 2009

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (297.47 KB, 47 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ
Sẩy thai là hiện tượng thai bị tống ra khỏi buồng tử cung trước khi thai
có thể sống được. Theo tổ chức y tế thế giới (WHO) – 1977, giới hạn tuổi thai
bị sẩy là dưới 20 tuần hay cân nặng dưới 500gr (Dương Thị Cương (1993). Ở
Việt Nam , theo chuẩn quốc gia về chăm sóc sức khỏe sinh sản, tuổi thai bị
sẩy được tớmh là dưới 22 tuần theo ngày kinh cuối cùng.
Sẩy thai tự nhiên thường diễn ra qua hai giai đoạn: doạ sẩy và sẩy thực
sự. Ở giai đoạn doạ sẩy thai trứng còn sống, chưa bị bong khỏi niêm mạc tử
cung. Điều trị sớm, tiên lượng tốt, có khả năng giữ được thai.
Tỷ lệ sẩy thai ở các nước phát triển chiếm 6-10% so với tổng số phụ nữ
có thai (Nguyễn Thìn – Thanh Kỳ (1978). Tỷ lệ sẩy thai ở các nước đang phát
triển là 10-12% so với tổng số phụ nữ có thai (Nguyễn Thìn - Thanh Kỳ
(1978).
Ở Việt Nam theo thống kê của Nguyễn Thìn – Thanh Kỳ 1978, tỷ lệ
sẩy thai là 10-12% (Nguyễn Thìn – Thanh Kỳ (1978), tương đương với tỷ lệ
sẩy thai của các nước đang phát triển.
Xác định nguyên nhân doạ sẩy và sẩy thai rất quan trọng, nhưng
thường khó khăn. Phải hỏi kỹ tiền sử, quá trình sẩy, khám toàn thân, phụ
khoa, kết hợp các xét nghiệm cận lâm sàng như huyết học, sinh hoá nội tiết, tế
bào, và giải phẫu bệnh lý tổ chức sẩy thai, chụp buồng tử cung ngoài thời kỳ
có thai, xác định nhiễm sắc đồ Ở Việt Nam còn rất nhiều hạn chế về phương
tiện kỹ thuật, kinh tế để chẩn đoán nguyên nhân sẩy thai.
Hậu quả của sẩy thai là giảm sút sức khoẻ người mẹ, ảnh hưởng tới
nguồn lao động của gia đình và xã hội, nguy hiểm đến tính mạng người mẹ
nếu như trong và sau sẩy thai không xử trí kịp thời và đúng đắn như băng
1
huyết, nhiễm trùng tử cung gây tình trạng vô sinh thứ phát do viêm dính tử
cung, phần phụ.
Nguyên tắc điều trị chủ yếu đối với dọa sẩy thai là để thai phụ nằm
nghỉ tuyệt đối, dùng thuốc giảm co cơ tử cung và nếu tỡm được nguyên nhõn
thì điều trị nguyên nhõn. (Bộ môn sản Trường ĐHY Hà Nội, Bài giảng sản


phụ khoa tập 1, (2002); Dương Thị Cương, (2004)
Việc chẩn đoán xác định doạ sẩy thai không gặp khó khăn. Nhưng việc
xác định thai khoẻ hay yếu, sống hay chết để tiên lượng thai nghén, đánh giá
và theo dừi quá trình điều trị, từ đó có thái độ xử trí đúng đắn thì phải dựa vào
vào cả lõm sàng và cận lõm sàng.
Xuất phát từ vấn đề trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:
“Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và kết quả điều trị ở những sản phụ
doạ sẩy thai trong 3 tháng đầu tại Bệnh viện PSTƯ từ tháng 01 đến tháng
06 năm 2009.” với mục tiêu sau:
1. Các đặc điểm lâm sàng doạ sẩy thai trong 3 tháng đầu tại BVPSTƯ
từ tháng 01-06/2009.
2. Các đặc điểm cận lâm sàng: siêu âm, βhCG, tế bào âm đạo doạ sẩy
thai trong 3 tháng đầu tại BVPSTƯ từ tháng 01-06/2009.
3. Kết quả điều trị doạ sẩy thai trong 3 tháng đầu tại BVPSTƯ từ tháng
01 - 06/2009.
2
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. ĐẠI CƯƠNG VỀ SẨY THAI
1.1.1. Khái niệm
Doạ sảy thai, với triệu chứng ra máu âm đạo trong giai đoạn 20 tuần
đầu tiên của thời kỳ mang thai – là một biến chứng phổ bớến nhất của thai
nghén, xảy ra trong khoảng một phần năm số trường hợp có thai (Makrydimas
G và cs (2003). Sảy thai có khả năng gấp 2,6 lần tỷ lệ nói trên, (Makrydimas
G và cs (2003) và 17% trong số các trường hợp doạ sảy được dự đoán là sẽ có
các biến chứng trong giai đoạn muộn hơn của thời kỳ thai nghén. (Johns J và
cs (2003)
Theo Charles R.B. Beckmann, tất cả những chảy mỏu từ tử cung trong
nửa đầu của thai kỳ, không có nguyên nhõn thực thể thì đều gọi là doạ sẩy
thai.(Charles R.B. Beckmann, 2006).

Sơ đồ diễn biến của sẩy thai:
Có thai
Thai phát triển
bất thường
Doạ sẩy
thai
Bất thường
khác
Thai phát triển
bình thường
Sẩy thai
hoàn toàn
Sẩy thai hoàn
toàn
Thai chết
lưu
1.1.2. Nguyên nhân
1.1.2.1. Yếu tố di truyền
3
Nguyên nhân này đã được đề cập từ trước đến nay. Trước đây người ta
cho rằng những bất thường nhiễm sắc thể là nguyên nhân chớnh gõy sẩy thai
tự phát và sẩy thai liên tiếp. Trong những năm gần đây với những nghiên cứu
mới về di truyền - tế bào, người ta thấy rằng nguyên nhân này ngày càng thu
hẹp đặc biệt là sẩy thai liên tiếp. Theo M.H.Howert (M.H.Howert – de – jong
1998) có khoảng 9,5-15,4% những cặp vợ chồng bị sẩy thai liên tiếp có NST
bất thường.
Khi xem nhóm sẩy thai do nguyên nhân di truyền tế bào, người ta
thường thấy những bất thường về số lượng NST trong quá trình thụ tinh, phân
chia tạo phôi như hiện tượng lệch bội hay đa bội bộ NST là nguyên nhân
sẩy thai tự phát, trong khi những bất thường về cấu trúc là những nguyên

nhân gây sẩy thai liên tiếp. Bất thường cấu trúc NST gồm: mất đoạn, đảo
đoạn, chuyển đoạn NST.
Việc thực hiện xét nghiệm thường quy khảo sát về NST ở bệnh nhân
gây sẩy thai liên tiếp cho đến nay vẫn ít được áp dụng do giá trị chẩn đoán và
dự báo thấp, về khả năng kiểm soát và kết quả điều trị không cao, giá thành
các xét nghiệm đắt, quy trình xét nghiệm phức tạp nhất là do tình trạng tạp
nhiễm bệnh phẩm.
Trong tương lai, áp dụng tiến bộ kỹ thuật về phân tích ADN có thể
mang lại khả năng giải quyết những tồn tại, hạn chế của kỹ thuật phân tích
kiểu nhân kinh điển.
1.1.2.2. Yếu tố giải phẫu
Những bất thường về giải phẫu ở tử cung gây sẩy thai liên tiếp là
nguyên nhân đã biết rõ. Theo E Malcolm Symonds và E. Ian Symonds (1998)
nguyên nhân này chiếm tỷ lệ 15-35% STLT ( Malcolm Symonds -1998).
Ngoài ra yếu tố này còn liên quan tới sinh non tháng, thai chậm phát triển,
ngôi thai bất thường
4
Các bất thường về giải phẫu tử cung bẩm sinh bao gồm: tử cung hai
sừng, tử cung đôi, tử cung có vách ngăn, tử cung kém phát triển, tử cung gấp
và ngả sau, hở eo tử cung, bất thường ở động mạch tử cung (Cook C.L 1995)
Những tổn thương mắc phải cũng gây biến đổi về giải phẫu tử cung
như: u xơ tử cung, dính buồng tử cung, lạc nội mạc tử cung, hở eo tử cung là
nguyên nhân hay gặp trong sẩy thai đặc biệt là STLT.
1.1.2.3. Yếu tố nội tiết
Những yếu tố nội tiết đề cập tại đây chủ yếu là nội tiết tố sinh dục. Mặc
dù khác bệnh lý nội tiết (đái tháo đường, bệnh lý tuyến giáp trạng ) cũng có
khả năng ảnh hưởng đến tình trạng bệnh lý sẩy thai nhưng nay ít được đề cập
tới do tỷ lệ gặp ít, bằng chứng về mối liên quan không rõ ràng ngoại trừ
những trường hợp bệnh lý nặng do ảnh hưởng tới toàn thân (nhiễm độc giáp
trạng, xuất hiện kháng thể khỏng giỏp rõ rệt) (Byrne J.L.B 1994)

Theo D. Mushell (1993) yếu tố nội tiết sinh dục được xem là liên quan
nhiều đến sẩy thai là tình trạng thiểu năng hoàng thể ( Byrne J.L.B, 1994;
Gall S.A -1983; Hervet C.D 1942; Jennifer R 1997) Sự phát triển không đầy
đủ của các nang trứng có lẽ là do sự kích thích yếu của các nội tiết tố hướng
sinh dục tuyến yên làm cho hoàng thể không cung cấp đủ Progesteron, khiến
nội mạc tử cung không phát triển đầy đủ để giữ thai. Các nguyên nhân thiểu
năng hoàng thể có thể là:
- Bất thường trục dưới đồi - tuyến yên - buồng trứng do thiếu nội tiết tố
hướng sinh dục FSH, tăng tiết Prolactin, LH (Byrne J.L.B, 1994; Jennifer R 1997).
- Sự tăng cao nội tiết tố nam như Testosterone, đặc biệt là
Dehydroepiandrosteron (DHEA). Các nội tiết tố nam tăng cao vừa tác động
làm thoái triển hoàng thể vừa tác động ức chế sự phát triển của nội mạc tử
cung. Biểu hiện của sự tăng cao nội tiết tố nam thường là chứng rậm lông ,
mụn trứng cá, thiểu kinh hay vô kinh.
5
Chẩn đoán tình trạng thiểu năng hoàng thể có thể dựa vào các yếu tố sau:
- Theo dõi biểu đồ thân nhiệt: nhiệt độ tăng ít ở pha hoàng thể, dạng
biểu đồ có hình thấp hay thời gian tăng nhiệt độ ngắn hơn 10 ngày, gợi ý thiểu
năng hoàng tuyến.(Byrne J.L.B, 1994)
- Nồng độ Progesteron huyết thanh thấp, thường <10micro gam /ml
- Sinh thiết nội mạc tử cung thấy hình ảnh tăng sinh tuyến và chế tiết ít
- Siêu âm thấy niêm mạc tử cung mỏng (< 5mm)
1.1.2.4. Yếu tố nhiễm khuẩn
Các yếu tố nhiễm khuẩn gây tổn thương tại tử cung ảnh hưởng đến kết
quả thai nghén ở giai đoạn sớm đã được chứng minh ở một vài loài động vật.
Tuy nhiên mối liên hệ này ở người vẫn chưa được chứng minh rõ ràng. Nhiều
tác giả đến nay vẫn lưu ý rằng những tác động do nhiễm khuẩn gây sẩy thai
vẫn sẩy ra nhưng chúng ta không chẩn đoán ra hay chưa tìm được mối liên hệ
rõ rệt. Trần Phương Mai và CS (2002) cho rằng : một tác nhân nhiễm trùng
được coi là nguyên nhân gây sẩy thai liên tiếp khi đủ 3 điều kiện:

- Vi khuẩn hiển diện ít nhất một đến nhiều năm trong cơ thể bệnh nhân
(nhiễm trùng mạn tính)
- Vi sinh vật phải gây nhiễm trong mô thai: màng rụng, nguyên bào nuụi,
phụi.
- Sự nhiễm trùng không gây bệnh cho người bệnh, không ảnh hưởng tới
sự phúng noón và khả năng tình dục.
Một tình trạng nhiễm trùng dù tác nhân là vi khuẩn, siêu vi, ký sinh
trùng hay nấm đều có thể là nguyên nhân gây sẩy thai. Viêm màng ối, thường
là hậu quả của nhiễm trùng ngược dòng từ viờm õm đạo hay viêm cổ tử cung
đi lên là một nguyên nhân gây sẩy thai muộn trong 3 tháng giữa thai kỳ. Tỡnh
trạng sốt cao > 39
0
C trong các nhiễm trùng cấp tính là yếu tố có thể gây dị
dạng thai và có hại cho bào thai.(Smith và cs 1978; Milunsky và cs, 1992)
6
Tác nhân vi khuẩn hay gặp phối hợp với sẩy thai là Mycoplasma
hominis và Ureaplasma urealyticum. Ngoài ra nhiễm khuẩn âm đạo do
Garderella vaginalis cũng thường thấy ở những trường hợp sẩy thai hơn là các
trường sinh đủ tháng.
Nhiễm Herpes simplex virus gia tăng nguy cơ sẩy thai. Human
papilloma được tìm thấy ở mô rau thai bị sẩy nhiều hơn mô rau thai sinh
đủ ngày.
Toxoplasma gondii, một loại ký sinh trùng nội bào bắt buộc, có thể xâm
nhập nội bào qua rau và tấn công vào thai nhi, gây sẩy thai muộn tái phát.
1.1.2.5.Các yếu tố khác
* Yếu tố miễn dịch:
Nghiên cứu miễn dịch học về quá trình mang thai đã chỉ ra rằng hoạt
động của hệ thống miễn dịch ở phụ nữ mang thai là quá trình hoạt động phức
tạp, thay đổi theo từng giai đoạn của thai kỳ. Người ta nhận thấy rằng trong
quá trình thai nghén của sự biến đổi song hành của hai hệ thống:

Một là thay đổi hệ thống miễn dịch theo chiều hướng hỗ trợ, kích thích
cho sự phát triển của tử cung, rau thai thuận lợi cho trứng đã thụ tinh có điều
kiện làm tổ và phát triển sau này. Trong chiều hướng này có vai trò quan
trọng của các bạnh cầu đơn nhân và các tế bào lympho thông qua các cytokin
mà chúng ta sản xuất ra.
Hai là biến đổi của hệ thống miễn dịch người mẹ theo chiều hướng ức
chế phản ứng thải loại giúp duy trì, tồn tại của thai trong tử cung như một mụ
ghộp (Mackey 1999)
Hiện nay, yếu tố tự miễn có liên quan nhiều và cũng đề cập nhiều nhất
trong sẩy thai là kháng thể kháng Phospholipid (Anti phospholipid Antibodies –
APA). Trong nghiên cứu thực nghiệm, Branch D.W và cs sử dụng kháng thể
7
IgG kháng Phosphotidylserin tiêm cho chuột mang thai thì thấy tăng tỷ lệ sẩy
thai hay thai chậm phát triển, trọng lượng bánh rau thấp.(Branch D.W , 1990).
Bệnh lý tự miễn: Bất đồng nhóm máu Rh, OAB giữa mẹ và con: càng
đẻ lần sau nguy cơ càng tăng rất cao (Vũ Nhật Thăng- 2002)
Bệnh lý tự miễn của mẹ như lupus, viêm khớp dạng thấp, viêm đa cơ,
xơ cứng bì.
*Bệnh lý toàn thân của mẹ: Bệnh tim mạch: tăng huyết áp, bệnh thận, bệnh
chuyển hoá: đái tháo đường, cường giáp, suy giáp đều có thể gây sẩy thai.
* Tuổi mẹ: >= 35 tuổi, đặc biệt >37 tuổi.
* Môi trường: Tiếp xúc thường xuyên với các độc tố như chì, thuỷ ngân,
ethylene oxide , dibromochloropropane trong môi trường trong công việc
hàng ngày làm tăng nguy cơ sẩy thai.
*Nghiện rượu, ma tuý, thuốc lá, caffeine có liên quan đến nguy cơ sẩy thai
Dùng hai ly thức uống có cồn hàng ngày làm tăng gấp đôi nguy cơ sẩy
thai so với phụ nữ không sử dụng thuốc có cồn .
Hút thuốc trờn ẵ gúi mỗi ngày làm tăng nguy cơ sẩy thai.
Đối với caffeine, chỉ khi nào dựng trờn 300mg/ ngày mới có nguy cơ
sẩy thai.

* Thuốc sử dụng trong thai kỳ: Một số thuốc có thể gây độc cho thai và làm
chết thai.
* Bất thường bánh rau, dây rốn như hoại thư bánh rau, dây rốn chỉ có một
động mạch.
* Hoạt động thể lực vừa phải không ảnh hưởng đến tiên lượng thai kỳ trên
phụ nữ khoẻ mạnh. Tuy nhiên các hoạt động thể lực với cường độ cao như
chạy bộ, aerobic có thể ảnh hưởng tới thai kỳ do sự dịch chuyển một phần
lưu lượng máu từ tử cung đến các cơ ngoại biên.
8
* Chấn thương trực tiếp vào vùng bụng, phẫu thuật,hoặc do thủ thuật chọc dò
ối qua thành bụng để sinh thiết gai rau có thể gây sẩy thai.
* Ngoài ra có khoảng 20-30% các trường hợp sẩy thai mà không có nguyên nhân
rõ ràng.(Bộ môn phụ sản trường Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh, 2007)
1.3. CÁC HÌNH THÁI LÂM SÀNG SẨY THAI
1.3.1. Doạ sẩy thai:
Được gọi là doạ sẩy thai khi có triệu trứng ra máu âm đạo trước tuần lễ
thứ 20 của thai kỳ. (Bộ môn phụ sản trường Đại học Y Dược TP. Hồ Chí
Minh, 2007)
Trong giai đoạn này trứng còn sống, chưa bị bong ra khỏi niêm mạc tử
cung. Điều trị sớm, tiên lượng tốt, có khả năng giữ được thai.
Triệu chứng cơ năng:
- Ra máu âm đạo số lượng ít, màu đỏ hay đen, thường lẫn với dịch nhày.
- Có thể kèm theo triệu chứng nặng bụng dưới hay đau lưng
Khám âm đạo:
Âm đạo cú ớt mỏu. Cổ tử cung còn dài, đóng kín. Thân tử cung to
tương ứng với tuổi thai.
1.3.2. Sẩy thai thực sự
Triệu chứng cơ năng:
- Ra máu âm đạo nhiều đỏ tươi, loãng lẫn máu cục chứng tỏ rau đã bong
nhiều.

- Đau bụng: đau bụng vùng hạ vị, từng cơn, đều hơn do cơn co tử cung.
Khám âm đạo:
Cổ tử cung xoá mỏng và hé mở. Phần dưới tử cung phình to do bọc thai
bị đẩy xuống phía cổ tử cung làm cổ tử cung có hình như con quay. Đôi
khi sờ thấy bọc thai nằm ở lỗ cổ tử cung.
9
1.3.3. Cách sẩy thai
Sẩy thai hai tháng đầu:
Ở thời kỳ này túi thai chỉ to bằng trứng chim cút trong đó cú phụi, bên
ngoài bao bọc các gai rau, vì thế khi sẩy thai thường diễn biến thành một thì
cả bọc lẫn máu, ít khi bị sót rau và mỏu khụng ra nhiều.
Sẩy thai tháng thứ 3 và 4:
Thời kỳ này trong túi thai đã hình thành thai nhi. Khi sẩy thường diễn
biến thành ba thỡ: thỡ đầu là thai, thì hai là rau, thì ba là ngoại sản mạc. Vì
vậy, dễ bị sót ra và chảy máu nhiều.
Sẩy thai tháng thứ 5 và 6:
Sẩy thai diễn ra như đẻ: thì đầu thai ra, thì sau là rau và màng rau.
1.4. CÁC PHƯƠNG PHÁP THĂM DÒ VÀ XÉT NGHIỆM
1.4.1. Siêu âm
Siêu âm trong sản phụ khoa rất có giá trị trong chẩn đoán và theo dõi
điều trị sẩy thai. Là phương pháp thăm dò không xâm nhập, sử dụng tiện lợi,
đơn giản, giá thành rẻ nên được áp dụng rộng rãi. Có thể siêu âm đường bụng
hoặc siờu õm đường âm đạo.
Siêu âm cho thấy thai phát triển bình thường:
- Hình ảnh túi thai có thể thấy được ở tuổi thai 4 - 4,5 tuần tính theo ngày
kinh cuối qua siêu âm đường âm đạo và tuần thứ 6 qua siêu âm đường
bụng. Túi thai là một vòng tròn phản âm trống được viền một lớp phản
õm sỏng nằm trong lớp màng rụng của nội mạc tử cung, lệch một bên
so với đường giữa lòng tử cung. Đường kính trung bình của túi thai
tăng đôi sau 1 tuần. Thai 5 tuần kích thước túi thai khoảng 5mm, thai 6

tuần: 10mm; thai 7 tuần: 20mm.
- Tỳi noãn hoàng thấy được ở tuổi thai 5 - 5,5 tuần, là một vòng tròn đều
trống âm, bờ mỏng, nằm ngoài buồng ối trong khoang ngoài thai. Mỗi
10
khoang ối chỉ có một tỳi noón hoàng, do đó số lượng tỳi noón hoàng sẽ
được dùng để tính số lượng túi ối trong trường hợp đa thai. Kích thước
tỳi noón hoàng 2 - 8mm (không quá 10 mm). Tỳi noón hoàng xuất hiện
chính tỏ thai sống.
- Phôi thai thấy rõ ở tuổi thai 6-6,5 tuần. Hình ảnh phôi là âm vang đậm
đặc, nằm trong buồng ối. Khi phôi thai đo được 5mm nếu không có
hoạt động của tim thai có nghĩa là thai đã chết. Phôi phát triển theo tuổi
thai, lần lượt chúng ta có thể quan sát thấy: cực đầu, cực đuôi, mầm chi
và cử động của phôi.
Theo dõi sự xuất hiện và phát triển của túi ối, tỳi noón hoàng, phôi thai,
hoạt động tim thai ta có thể chẩn đoán thai sớm, thai còn sống và phát triển
bình thường không, qua đó tiên lượng thai nghén và đánh giá kết quả điều trị.
Siêu âm có thể phát hiện sự ngừng phát triển của thai trước khi có dấu
hiệu lâm sàng. Những dấu hiệu thai có tiên lượng xấu: (Siêu âm sản khoa thực
hành -2007, tr 9-14)
- "Trứng trống”: chỉ có túi thai mà không có phôi thai do thai không phát
triển ngay từ sớm hoặc có phát triển nhưng đã chết và phân huỷ.
• Túi thai ≥10mm khi SA qua đường âm đạo hoặc >20mm khi SA qua
đường bụng mà không thấy tỳi noón hoàng. (McKenma KM-1995)
• Túi thai ≥18mm khi SA qua đường ÂĐ hoặc >25mm khi SA qua
đường bụng mà không thấy phôi thai.
- Tỳi noãn hoàng có hình dạng không tròn đều, bờ dầy hoặc calci hoá,
kích thước quá lớn hoặc quá nhỏ đều là những dấu hiệu bất thường.
(Fong KW-2004) (Kurtz A -1992)
- Có túi ối nhưng không có phôi thai
- Túi thai múp mộp hoặc có hình “giọt nước”.

- Lớp rụng kém phát triển: mỏng và phản õm khụng mạnh.
11
- Xuất huyết quanh túi thai, búc tỏch bỏnh rau >50%. Tuổi thai càng nhỏ
khả năng sẩy sẽ càng cao ( Dogra V- 2005), (Nishijiman- 2005), (Nagy
S- 2003).
Kích thước tương đối khối xuất huyết được tính theo công thức: dài
(cm) x rộng (cm) x cao(cm) x 0,5. Nếu khối lượng <1/4 túi thai và <
60ml thì thai có nhiều khả năng thai sẽ tiếp tục phát triển ( Sauerbrei
EE -1986)
90% trường hợp có xuất huyết quanh túi thai khối lượng ít và tim thai
nhi hoạt động với nhịp tim bình thường sẽ tiếp tục tiến triển tới cuối
thai kỳ.
- Túi ối lớn theo công thức: Kích thước túi ối - Chiều dài đầu mông >
8mm cũng thường gặp ở những thai ngừng phát triển (Horrow MM.
-1992)
- Thiểu ối sớm: túi ối nhỏ so với phôi thai.
- Túi thai nằm thấp trong buồng tử cung.
- Thai ngừng phát triển (thai chết): nếu có phôi thai nhưng không có hoạt
động của tim thai nhi.
Tuy nhiên, khi có dấu hiệu nghi ngờ, siêu âm kiểm tra lại sau 5-7 ngày
nếu thấy các dấu hiệu: Khối máu tụ giảm kích thước, nhịp tim thai bình
thường đều, các số đo tăng theo đúng mức phát triển thai bình thường thì đó
là những dấu hiệu tiến triển tốt.
1.4.2. Định lượng βhCG
βhCG được chế tiờt chủ yếu từ các tế bào lỏ nuụi nờn hàm lượng của
nó phản ánh chức năng hoạt động của lỏ nuụi trong giai đoạn sớm của thai kỳ.
Định lượng βhCG có giá trị trong chẩn đoán và theo dõi sự phát triển của thai,
nú cú độ nhạy và độ đặc hiệu cao (Nguyễn Việt Hùng -1999)
12
βhCG có thể xuất hiện trong máu và nước tiểu chỉ 8 đến 9 ngày sau thụ

tinh, khi các dấu hiệu lâm sàng chưa xuất hiện (Phan Thị Minh Đức – 2001)
Nồng độ của βhCG trong thai nghén bình thường: (Braunstein D - 1996)
Tuổi thai tính từ kinh cuối cùng
Nồng độ βhCG huyết thanh
(mUI/ml)
Tuần thứ 3 đến tuần thứ 4 9- 130
Tuần thứ 4 đến tuần thứ 5 75- 2.600
Tuần thứ 5 đến tuần thứ 6 850- 20.800
Tuần thứ 6 đến tuần thứ 7 4.000- 100.000
Tuần thứ 8 đến tuần thứ 10 50.000- 100.000
Thời gian tăng gấp đôi trong thai nghén bình thường:
Thai phát triển bình thường sau 48 giờ nồng độ βhCG tăng từ 1,4 đến 2
lần so với nồng độ lúc ban đầu nghĩa là ≥66%.
Pittaway (Pittaway – 1987) đã phát hiện được hCG trong máu mẹ sau
khi phúng noón từ 7 đến 10 ngày. Ông đã đưa ra một công thức tính thời gian
tăng gấp đôi (TGTGĐ) hCG như sau:
Log2hCG khoảng cách thời gian giữa các ngày
TGTGĐ =
hCG 1
Log 2
hCG 2
hCG 1: Lượng hCG xét nghiệm lần 1
hCG 2: Lượng hCG xét nghiệm lần 2
Kadar đã đưa ra một công thức tính đơn giản hơn:
Nồng độ hCG ở 48 giờ - Nồng độ hCG ban đầu
TGTGĐ = x 100
Nồng độ hCG lúc ban đầu
13
Trong thai nghén bình thường thời gia tăng gấp đôi hCG từ 36-48 giờ.
Tỷ lệ tăng ít nhất là 66%. Nếu tăng quá cao hoặc quá thấp hoặc không tăng là

biểu hiện của một thai nghén bình thường.
Pittaway ( Pittaway- 1987) khẳng định rằng: quy luật tăng gấp hai chỉ
đúng khi thai được 6 tuần tuổi. Khi tuổi thai trên 6 tuần và nồng độ hCG lớn
hơn 6.000-10.000mUI/ml thì hCG tăng chậm hơn và không ổn định.
Theo Phạm Thị Thanh Hiền (PTT Hiền -2007) chẩn đoán sớm chửa
ngoài: Lâm sàng (chậm kinh, đau bụng hạ vị, ra máu âm đạo) + Nồng độ βhCG
huyết thanh < 1500IU/l, độ nhạy : 88%, giá trị chẩn đoán dương tính: 97,5%;
Theo H.M. John (1994) kết hợp giữa siêu âm và định lượng βhCG là
phương pháp tốt nhất theo dõi sự phát triển của thai. Nếu siêu âm có hình ảnh thai
tiếp tục phát triển, βhCG tăng thì được coi là tiên lượng tốt. (H.M. John -1994).
Nếu βhCG giảm, qua siêu âm thai không phát triển nữa thì tiên lượng xấu.
1.4.3. Thăm dò tế bào nội tiết âm đạo
Niêm mạc âm đạo bao gồm nhiều lớp tế bào. Từ sâu ra nụng cú 4 lớp:
- Lớp C1: là lớp tế bào đỏy sõu.
- Lớp C2: là lớp tế bào đỏy nụng.
- Lớp C3: là lớp tế bào giữa.
- Lớp C4: là lớp tế bào bề mặt.
Các lớp tế bào này phát triển dưới ảnh hưởng của hai hormon chính
estrogen và progesteron. Bình thường tác động của hai hormon cân bằng, nếu
tác động của hormon progesteron giảm đi thì tác động của estrogen trội lên sẽ
ảnh hưởng đến sự phát triển và biệt hoá của các lớp tế bào bề mặt cảm thụ với
hormon đó. Tỷ lệ tế bào bề mặt bong ra nhiều hay ít sẽ phản ánh hoạt động
của hormon estrogen nhiều hay ít từ đó có thể suy ra hoạt động của
progesteron.
14
Hai chỉ số phản ánh hoạt động của estrogen là: chỉ số nhõn đụng ( IP)
và chỉ số ái toan (IA) (Phan Trường Duyệt – 2003 tr 246-247)
Chỉ số IA: được tớnh bằng tỷ lệ % của những tế bào ưa acid trong 300
tế bào các loại biểu mô õm đạo.
Chỉ số IP: Tỷ lệ % của những tế bào có nhõn đông trong 300 tế bào các

loại biểu mô õm đạo.
Độ sạch õm đạo: giúp ta tỡm được nguyên nhõn của viêm õm đạo để
góp phần điều trị. Độ sạch õm đạo được chia thành 4 độ: độ 3 và độ 4 cho biết
õm đạo viêm và thiểu năng estrogen.(Ngô Văn Tài- 2002)
1.4.4. Định lượng nội tiết tố Progesteron và Estrogen trong huyết thanh
Mục đích để xác định lượng hormon sinh dục nữ trong cơ thể. Nếu
nồng độ progesteron và estrogen thấp có thể nghĩ tới khả năng thiểu năng
hoàng thể thai nghén.
Nguồn gốc progesteron và estrogen: Khi thai được 5-6 tuần,
progesteron và estrogen có nguồn gốc chủ yếu từ hoàng thể. Trong thời gian
từ 7-12 tuần, rau thai bắt đầu hoạt động chế tiết progesteron và estrogen, đảm
nhận dần vai trò của rau thai trong cơ thể. Sau 12 tuần, rau là nguồn sản xuất
chớnh của progesteron và estrogen trong thời kỳ thai nghén cho đến lúc sinh.
Nồng độ của Progesteron: Ở phụ nữ không có thai, trong giai đoạn
nang noón, nồng độ Progesteron <1ng/ml. Khi quá trình thụ thai xảy ra,
progesteron tăng dần từ 1-2ng/ml kể từ ngày phóng noón và nhanh chóng đạt
tới nồng độ 10-35ng/ml sau 7 ngày. Hàm lượng này giữ ổn định trong vòng
10 tuần đầu của thai nghén. Sau 10 tuần đầu, hàm lượng của progesteron tiếp
tục tăng đến khi thai đủ tháng, đạt nồng độ cực đại 100-300ng/ml.
Trong giai đoạn thứ 2 của chu kỳ kinh nguyệt, các phụ nữ có hàm
lượng progesteron huyết thanh thấp hoặc chỉ kéo dài trong một thời gian ngắn
(<12 ngày) thể hiện một tình trạng suy yếu hoàng thể thường dẫn đến vô sinh.
15
Trong 3 tháng đầu thai kỳ, nồng độ progesteron thấp phản ánh một tình
trạng thai nghén không được hoàn hảo. 80% sẽ có khả năng sẩy thai khi nồng
độ progesteron <10ng/ml.
Trong các trường hợp thai lạc chỗ, nồng độ progesteron thường thấp.
Trong thai trứng, hàm lượng progesteron tăng rất cao so với thai nghén
bình thường, đặc biệt là ở giai đoạn từ tuần thứ 10-20 của thai nghén. Nếu nồng
độ của hCG >320.000UI/l sau 14 tuần chậm kinh kết hợp với một nồng độ

progesteron tăng bất thường có thể chẩn đoán một cách xác định đó là thai trứng.
Nồng độ progesteron cũng gia tăng gấp 2 lần trong các trường hợp bất
đồng miễn dịch Rh giữa mẹ và thai nhi, nguyên do có lẽ là do sự gia tăng thể
tích của rau thai một cách bất thường.
Nồng độ của estrogen: Bình thường nồng độ estradiol trong huyết
thanh ở giai đoạn hoàng thể là 28 microgam/100ml. Vào tuần thứ 36-38 của
thai kỳ có thẻ đạt tới 92microgam/ 100ml.(Phan Trường Duyệt, 1993)
Định lượng nội tiết tố progesteron và estrogen là phương pháp tốt
nhưng giá thành cao nên ít được áp dụng ở nước ta.
1.4.5. Nhiễm sắc đồ
Đối với những trường hợp sẩy thai liên tiếp nghi ngờ do rối loạn nhiễm
sắc thể, lấy chất sẩy làm xét nghiệm hoặc làm xét nghiệm nhiễm sắc đồ cho
cả vợ và chồng.
1.5. PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRỊ DOẠ SẨY THAI
Đối với các thai phụ có triệu chứng doạ sảy thì, các bác sỹ thường hay
chỉ định cho bệnh nhõn nằm nghỉ tại giường, và cho sử dụng progesterone,
nhưng bằng chứng về hiệu quả của các biện pháp này là không đồng nhất, và
ở mức thấp (Alexandros Sotiriadis, Stefania Papatheodorou, George
Makrydimas (2004).
16
1.5.1. Nằm nghỉ tại giường:
Theo nghiên cứu của Alexandros S và cs (2004), trong số 1.279 bác sỹ
thực hành được phỏng vấn thì, 1.228 người chỉ định cho các thai phụ doạ sảy
với triệu chứng ra máu âm đạo nặng, chế độ nằm nghỉ tại giường, tuy nhiên
chỉ có một phần tám trong số họ cảm thấy chỉ định này là bắt buộc, và chỉ có
một phần ba trong số họ cảm thấy biện pháp này có hiệu quả đối với kết cục
của thai nghén [Alexandros Sotiriadis, Stefania Papatheodorou, George
Makrydimas (2004)]
Trong y văn chỉ có báo cáo của một nghiên cứu ngẫu nhiên, có đối
chứng tìm hiểu hiệu quả của biện pháp nằm nghỉ tại giường tới quá trình doạ

sảy [Harrison RF,(1993)]. Trong nghiên cứu này, 61 thai phụ có thai sống
vào ít nhất 8 tuần đầu của thời kỳ thai nghén, bị ra máu âm đạo đã được phân
ngẫu nhiên vào một trong ba nhúm: nhúm được tiêm hCG, nhóm được tiêm
giả dược (đối chứng), và nhóm nằm nghỉ tại giường. Tỷ lệ sảy thai của ba
nhóm tương ứng lần lượt là 30%, 48%, và 75%. Như vậy, giữa nhóm được
tiêm hCG và nhóm nằm nghỉ tại giường có khác biệt đạt mức có ý nghĩa
thống kê, nhưng giữa nhóm được tiêm hCG và nhúm tiờm giả dược, và giữa
nhúm tiờm giả dược với nhóm nằm nghỉ tại giường thì, khác biệt không có ý
nghĩa thống kê. Mặc dù trong nghiên cứu này, hCG đạt được thành tích tốt
hơn có ý nghĩa thống kê, so với nằm nghỉ tại giường, nhưng lại không tỏ ra có
lợi ích nhiều, so với giả dược, và vấn đề về tiềm năng phát triển hội chứng
tăng kích thích buồng trứng (ovarian hyperstimulation syndrome), cùng sự
kiện doạ sảy thai có thể có nhiều nguyên nhân khác nhau không hề liên quan
tới chức năng hoàng thể, đã cản trở việc làm thử nghiệm và áp dụng phương
pháp điều trị bằng hCG ở phạm vi sản khoa thực hành.
Trong một nghiên cứu hồi cứu thực hiện trên 226 thai phụ [Gioble M
và cs , 2001] được điều trị nội trú vì các lý do liên quan tới thai nghén của họ,
17
và lý do đã có các lần doạ sảy từ trước, các tác giả cho biết: 16% trong số 146
thai phụ được chỉ định nằm nghỉ tại giường cuối cùng đã sảy thai, so với một
phần năm (tức 20%-ND) trong số các thai phụ không chọn theo biện pháp
điều trị này (so sánh khác biệt không có ý nghĩa thống kê; P = 0,41).
Ngược lại, một nghiên cứu quan sát nhóm mới đõy thực hiện trên 230
thai phụ [Ben- Haroush A, 2003] doạ sảy, được chỉ định nằm nghỉ tại giường
đã chứng minh rằng, các thai phụ gắn bó với biện pháp này có tỷ lệ sảy thai là
9,9%, so với tỷ lệ sảy thai 23,3% ở các thai phụ vẫn tiếp tục các hoạt động
thường ngày của họ (P = 0,03). Khoảng thời gian ra máu âm đạo, kích thước
của khối tụ máu sau rau, và tuổi thai vào lúc chẩn đoán không có ảnh hưởng
gì tới tỷ lệ bị sảy thai. Mặc dù không có bằng chứng cuối cùng là nằm nghỉ tại
giường có tác dụng tốt đối với quá trình thai nghén, nhưng giảm bớt hoạt

động trong một số ngày cũng có thể giúp cho thai phụ cảm thấy an toàn hơn,
và như vậy làm cho họ bớt cảm súc.
1.5.2. Progesterone:
Theo các nghiên cứu đã được công bố thì, 30% tới 40% thai phụ doạ
sảy được chỉ định sử dụng progesterone. Progesterone là sản phẩm chính của
hoàng thể, và khi cho thai phụ dùng progesterone là với hi vọng hỗ trợ cho
hoạt động nội tiết của hoàng thể thai nghén có khả năng bị thiếu hụt, và làm
cho cơ tử cung đang co cứng sẽ giãn ra. Tuy nhiên, bằng chứng về hiệu quả
của progesterone cũng không cao. Mới đõy, đã có một nghiên cứu siêu-phõn
tích vè tác động của progesterone bổ sung tới tỷ lệ sảy thai ở nhiều cơ sở lõm
sàng khác nhau [Oates- Whitehead RM và cs; 2003]; nhưng nghiên cứu này
lại không đưa ra các phõn tích về tác dụng của progesterone riêng cho các
trường hợp doạ sảy. Trong siêu-phõn tích này có 4 bài báo đã được công bố
với các đánh giá về mối tương quan giữa progesterone và doạ sảy. Một trong
4 bài báo đó báo cáo về kết quả so sánh giữ ba chế độ sử dụng progestogen
18
khác nhau, và các số liệu đã được phõn tích lại trong siêu-phõn tích lớn nói
trên. Kết quả phân tích lại cho thấy, nếu lây sảy thai là tiêu chí đỏnh giá kết
cục thì, hiệu quả ngẫu nhiên của nhóm progestogen có tỷ số nguy cơ (risk
ratio) là 1,10 (95% khoảng tin cậy, trong khoảng từ 0,92 đến 1,31). Chỉ trong
các nghiên cứu mà lúc thai phụ đến khám đó có bằng chứng tim thai hoạt
động thỡ, nhóm sử dụng progestogen có nguy cơ tương đối (relative risk) bị
sảy thai là 1,09 (95% khoảng tin cậy; trong khoảng từ 0,90 đến 1,33); Như
vậy, cho rằng chất lượng của các dữ liệu còn nghèo nàn, nhưng cũng có thể
thấy hình như progesterone không cải thiện được kết cục của các trường hợp
doạ sảy. Tuy nhiên, trong một nghiên cứu nhỏ, các tác giả lại thấy rằng áp
dụng progesterone tại chỗ đã làm cho cơ tử cung đang co cứng giảm nhanh
hơn, theo cảm giác chủ quan của thai phụ, so với chỉ riêng nằm nghỉ tại
giường.
1.5.3. Các chế độ điều trị khác:

Trong một nghiên cứu ngẫu hiên có đối chứng, các tác giả đã chứng
minh rằng: Buphenine hydrochloride (một thuốc giãn mạch cũng được sử
dụng để làm giãn cơ tử cung) có tác dụng tốt hơn, so với giả dược (đối
chứng). Nhưng phưong pháp chọn mẫu ngẫu nhiên của nghiên cứu này lại
không rừ ràng, và không có nghiên cứu nào khác xem xét tới biện pháp chống
sảy thai trong giai đoạn doạ sảy sớm.
Ngoài tớnh hiệu qua ra, thì mức độ hỗ trợ tích cực, nói chung, vẫn cũn
là vấn đề cần phải bàn luận thêm nữa trong các trường hợp doạ sảy, vì rằng
hầu hết các trường hợp thai nghén mà dẫn tới mất thai đều là các trường hợp
có bất thường thể nhiễm sắc.
1.5.4.Dự phòng yếu tố Rh:
Ra máu âm đạo trong giai đoạn sớm của thời kỳ thai nghén làm phát
sinh câu hỏi, liệu cú nờn sử dụng globulin miễn dịch kháng D (anti-D
19
immunoglobin) cho các thai phụ âm tính với yếu tố Rh D hay không. Về đề
tài này, không may là chưa cú cỏc dữ liệu kết luận, và tất cả bằng chứng đều
chỉ xuất phát từ các quan niệm của các chuyên gia và các hội đồng chuyên gia
(cấp C). Theo hướng dẫn của Trường Đại Học Hoàng gia Sản-Phụ khoa và
Trường Đại Học Sản-Phụ khoa Hoa Kỳ thì doạ sảy trong ba tháng đấu của
thời kỳ thai nghén hiếm khi do cơ chế sinh miễn dịch dị chủng với Rh D (Rh
D alloimmunisation), cho rằng phải cân nhắc việc sử dụng globulin khỏng-D
ở các thai phụ âm tính với yếu tố RH D và chưa cảm-ứng đang bị doạ sảy sau
12 tuần của thời kỳ thai nghén, hoặc ở các thai phụ bị ra máu âm đạo nặng,
hoặc tái phát nhiều lần, hoặc ở các thai phụ cú thờm triệu chứng đau bụng,
đặc biệt khi thai nghén đã đến gần được 12 tuần. Ngược lại, immunoglobulin
khỏng-D được xem là không cần thiết ở các thai phụ doạ sảy nhưng thai sống,
và đã ngừng ra máu âm đạo trước tuần 12 của thời kỳ thai nghén.
Hiện nay tại Việt Nam, mặc dù cũn tồn tại nhiều quan niệm khác nhau
về điều trị doạ sẩy thai nhưng theo chuẩn quốc gia năm 2007 về chăm sóc sức
khoẻ sinh sản, điều trị doạ sẩy thai được áp dụng như sau:

* Nguyên tắc:
Tỡm nguyên nhõn và điều trị theo nguyên nhõn
Điều trị triệu chứng: Nghỉ ngơi, dùng thuốc giảm co, kháng sinh
Điều trị theo nguyên nhân
Điều trị rối loạn nội tiết:
Điều trị rối loạn nội tiết như thiếu hụt estrogen, progesteron trong thiểu
năng hoàng thể, thiểu năng giáp trạng, cường giáp trạng. Điều trị sớm từ khi
có thai đến khi vượt thời kỳ thai hay bị sẩy, qua 12 tuần đầu. (Nguyễn Khắc
Liêu, 2002).
20
Khõu vòng eo tử cung:
N. Surico, R. Ribaldone (2000): trong vòng 20 năm 1978- 1998 đã
nghiê cứu ở 275 bệnh nhõn tử cung dị tật, có tiền sử sẩy thai liên tiếp được
khõu vòng eo tử cung đạt kết quả 65%. (N. Surico, R. Ribaldone (2000)
Năm 1997, L.Leo, S.Arduino đã khõu vòng eo tử cung cho những bệnh
nhõn kém phát triển kết hợp với liệu pháp progesteron thì thấy có kết quả tốt.
(L.Leo, S.Arduino, 1997)
Chỉ định khâu vòng eo tử cung cho những trường hợp:
• Sẩy thai liên tiếp do tổn thương ở cổ tử cung (cổ tử cung ngắn, hở eo tử
cung)
• Dự phòng cho những trường hợp sẩy thai hai lần trở lên không rừ
nguyên nhõn, đa thai trong thụ tinh ống nghiệm.
Điều kiện khâu vòng eo tử cung:
• Thai cũn sống
• Tuổi thai: Dựa vào tiền sử sẩy sớm hay muộn, tốt nhất là khõu khi thai
được 12-16 tuần ( áp dụng tại BVPSTƯ)
• Không có viêm nhiễm đường sinh dục dưới, nếu có phải điều trị khỏi
mới khõu.
Các phương pháp khâu:
• Thủ thuật Mac Donald

• Thủ thuật Shirodkar do cổ tử cung ngắn dưới 15mm hoặc cổ tử cung
rách sõu.
• Phẫu thuật khõu vòng eo tử cung qua thành bụng ít áp dụng, chỉ khi các
phương pháp trên thất bại. Ở Việt Nam chưa áp dụng phương pháp này.
Điều trị triệu chứng
Đối với các trường hợp vào viện có dấu hiệu doạ sẩy:
Xác định thai còn sống hay đã chết dựa vào siêu âm và định lượng βhCG.
21
- Hướng dẫn bệnh nhõn nghỉ ngơi tuyệt đối, ăn lỏng, kiêng các chất kích
thích, tránh táo bún, kiêng sinh hoạt tình dục.
- Sử dụng các thuốc giảm co: Papaverin, spasfon
- Điều trị hormon: progesteron ( có thể kết hợp với estrogen, pregnyl).
- Kháng sinh nếu có dấu hiệu nhiễm khuẩn hoặc nguy cơ nhiễm khuẩn.
- Thuốc an thần khi cần thiết.
Dừng thuốc khi hết các dấu hiệu doạ sẩy 1 tuần.
Đối với các trường hợp không có dấu hiệu dọa sẩy nhưng có tiền sử sẩy
hoặc thai chết lưu:
- Điều trị dự phòng theo nguyên nhõn: Hở eo tử cung thì khõu vòng eo
tử cung, rối loạn nội tiết thì điều trị nội tiết.
- Nếu không tỡm được nguyên nhõn thì điều trị dự phòng bằng hormon +
thuốcgiảm co + khõu vòng eo tử cung.
1.6. MỘT SỐ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU TRONG NƯỚC
Theo nghiên cứu của Nguyễn Thị Thuý (2005), nghiên cứu trên 330
BN có tiền sử STLT từ 2 lần trở lên, tại BVPSTƯ. Kết quả, tỷ lệ thành công ở
nhúm BN có dấu hiệu doạ sẩy thai thấp hơn (78,6%) nhúm không có triệu
chứng doạ sẩy thai (97%). Trong nhúm có triệu chứng doạ sẩy thai, tỷ lệ
thành công khi chỉ có ra mỏu là (44/54) chiếm 81,4%, khi chỉ có đau bụng là
(43/51) chiếm 85,6%, khi có hai triệu chứng tỷ lệ thành công là (13/22) chiếm
59,1% (Nguyễn Thị Thuý (2005).
Theo nghiên cứu của Phan Thị Lưu (2008), nghiên cứu hồi cứu 7 BN

doạ sẩy thai tại khoa phụ BV Y học cổ truyền TƯ trong 3 năm (2005-2007).
Két quả, tỷ lệ điều trị doạ sẩy thai ở nhúm chỉ có triệu chứng đau bụng là
66,7%, ở nhúm chỉ có ra mỏu là 82,1% và RM cộng đau bụng là 82,9%.
(Phan Thị Lưu (2008)
22
1.7. MỘT SỐ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU NƯỚC NGOÀI
1.7.1. Nghiên cứu về hoạt động tim thai trên siêu âm
Theo nghiên cứu của Chittacharoen A (2004), 240 phụ nữ có thai có
dấu hiệu doạ sẩy trong 3 tháng đầu được làm siêu õm qua õm đạo. Nghiên
cứu cho thấy những thai phụ có nhịp tim thai <120 chu kỳ/phút thì có tăng
nguy cơ sẩy thai. (Chittacharoen A (2004)
Theo nghiên cứu của Tannirandorn Y và cs (2003), nghiên cứu 87 bệnh
nhõn doạ sẩy thai đã có hoạt động tim thai, thấy có 3 bệnh nhõn bị sẩy thai
trước 20 tuần chiếm 3,4% (Tannirandorn Y và cs (2003)
Nghiên cứu phân tích siêu âm của Anderson SG (1980), đánh giá trên
158 bệnh nhân doạ sẩy thai. Hoạt động tim thai đươc phát hiện ở tuần thứ 7 của
thai kỳ và sau đó tần số tim thai tăng dần. Sự xuất hiện hoạt động tim thai sau 7
tuần có thể đưa đến những tiên lượng về thai. 97,3% thai phụ có hoạt động tim
thai ở tuần thứ 7 tiếp tục phát triển cho tới cuối thai kỳ. Ngược lại, 98,4% thai
không có hoạt động tim thai ở tuần thứ 7 bị sẩy.(Anderson SG (1980).
Theo Jouppila P và cs (1980), nếu sau 9 tuần trên siêu õm không thấy
hoạt động của thai thì 100% trường hợp thai hỏng. Cũn nếu trên SA thấy
được hoạt động của tim thai thì tỷ lệ sống là 90%, mặc dù có dấu hiệu doạ sẩy
thai.(Jouppila P và cs (1980).
1.7.2. Nghiên cứu về dấu hiệu máu tụ dưới màng nuôi:
Theo nghiên cứu của Macso G và cs (2005), nghiờn cứu hồi cứu trên
184 bệnh nhân có máu tụ dưới màng nuôi. Tỷ lệ sẩy thai là 14,3%, thai phát
triển chậm: 7,7%, đẻ non: 6,6%. Nói chung, khối máu tụ được phát hiện dưới 9
tuần làm tăng nguy cơ bất lợi cho sự phát triển của thai gấp 2,4 lần với tỷ xuất
chênh (OR) = 2,37; độ tin cậy 95%, khoảng tin cậy (CI): 1,20-4,70. Xột riờng

về sẩy thai, máu tụ dưới màng nuôi trước 9 tuần làm tăng nguy cơ sẩy thai có ý
nghĩa thống kê (OR = 14,79; CI= 1,95 -112,09)(Macso G và cs (2005).
23
Theo nghiên cứu của Bennett GL và cs (1996), nghiên cứu hồi cứu thực
hiện với những hình ảnh siêu õm của 516 BN ra mỏu ÂĐ, thai sống và có
hình ảnh mỏu tụ dưới màng nuôi trong 3 tháng đầu. Kết quả: Tỷ lệ sẩy thai là
9,3%. Tỷ lệ sẩy thai ở nhúm có mỏu tụ dưới màng nuôi rộng cao gần gấp 2
lần so với nhúm có kích thước nhỏ và vừa ( tương ứng là 18,8%, 7,7% và
9,2%). Vết tắch rọng có thể làm tăng nguy cơ sẩy thai lên gấp 3 lần.(Bennett
GL và cs (1996).
Theo nghiên cứu của Ball RH và cs (1996), nghiên cứu bệnh - chứng,
không có sự khác biệt về đặc điểm của mẹ giữa nhúm. Chảy mỏu dưới màng
nuôi là 1,3% trong tổng số thai phụ và chiếm gần 20% ở những người có ra
mỏu ÂĐ, tỷ lệ sẩy thai ở nhó bệnh là 9,3% (OR = 2,8, 95%, CI = 1,7- 7,4).
Nguy cơ thai chết non , rau bong non và đẻ non ở nhóm bệnh cũng tăng lên:
chết non (OR = 4,4, 95%, CI = 1,5- 13,2) rau bong non (OR = 11,2 ; 95%, CI
= 2,7- 46,4), đẻ non (OR = 2,6 ; 95%, CI = 1,5- 4,6) (Ball RH và cs (1996)
Theo nghiên cứu của Pedersen JF và Mantoni M(1990), nghiên cứu
gồm 342 thai phụ có chẩy máu âm đạo từ tuần thứ 9-20 có dấu hiệu thai sống
trên siêu âm. Có 18% mỏu tụ dưới màng nuôi trên SÂ. Kích thước trung bình
của khối mỏu tụ là 20ml (2-150ml). Tỷ lệ sẩy thai tự nhiên là như nhau ở 2
nhúm 7/62 (11%) và 28/280 (10%). Tỷ lệ đẻ non là như nhau ở 2 nhúm 7/62
(11%), 32/280 (11%). Không có mối liên quan giữa tỷ lệ sẩy thai và đẻ non
với kích thước khối mỏu tụ. Như vậy, mỏu tụ dưới màng nuôi thấy trên SÂ ở
những BN ra mỏu ÂĐ từ tuần thứ 9-20 là thường gặp và không quan trọng.
(Pedersen JF và Mantoni M(1990).
1.7.3.Nghiên cứu về nguyên nhân và yếu tố nguy cơ:
Theo nghiên cứu Kleinhaus K và cs (2006), nghiên cứu bệnh - chứng
trên 13.865 thai phụ. Nhúm nghiên cứu (n= 1.506) là những thai phụ bị sẩy
thai và nhúm chứng là những thai phụ sinh bình thường (n= 12.359). Ở nhúm

24
thai dọa sẩy, tuổi bố của bố <25 có nguy cơ sẩy thai so với tuổi 25-29 là OR
= 0,59 (95%,CI= 0,45-0,76, p< 0,0001). Nhúm có tuổi >=40 có nguy cơ sẩy
thai là OR = 1,6 (95%,CI= 1,2 -2,0, p< 0,0003) (Kleinhaus K và cs (2006).
Theo nghiên cứu Sotiriadis (2004), nghiên cứu trên những thai phụ doạ
sẩy với những phụ nữ trên 34 tuổi có nguy cơ sẩy thai OR = 2,3 (95%,CI=
0,76- 7,10). Tuy nhiên, sự ảnh hưởng tuổi của mẹ tới nguy cơ sẩy thai không
có ý nghĩa thống kê (p= 0,13) (Sotiriadis (2004).
Theo nghiên cứu của Rasch V (2003), nghiên cứu bệnh chứng với
nhúm nghiên cứu là những thai phụ sẩy thai từ tuần 6-16 và nhúm chứng là
những thai phụ có thai sống từ tuần 6-16, cho thấy nguy cơ sẩy thai ở những
thai phụ có uống từ 5 đơn vị rượu trở lên trong một tuần (1đơn vị = 10ml (8g)
ethanol) là OR = 4,84, (95%,CI= 2,87- 8,16). Nguy cơ sẩy thai ở những thai
phụ uống từ >= 375 mg caffei mỗi ngày là OR = 2,21, (95%,CI= 1,53- 3,18).
(Rasch V (2003).
Theo nghiên cứu của Bennett GL và cs (1996), tỷ lệ sẩy thai tự nhiên ở
phụ nữ trên 35 tuổi cao gấp 2 lần so với người trẻ (13,8% và 7,3%)(Bennett
GL và cs (1996).
1.7.4. Nghiên cứu về biến chứng:
Theo nghiên cứu bệnh chứng của John J và Jauniaux (2006), 214 phụ
nữ doạ sẩy thai làm nhúm nghiên cứu và 214 phụ nữ khoẻ mạnh làm nhúm
chứng. Tỷ lệ sẩy thai chung trong 3 tháng đầu là 9,3%. Phụ nữ doạ sẩy có
nguy cơ đẻ non cao hơn (11,9%) so với nhúm phụ nữ khoẻ mạnh (5,6%) với
RR= 2,92 (95%, CI= 1,4-4,6)(John J và Jauniaux (2006)
Theo nghiên cứu có Zhang J và cs(1994), thấy rằng nguy cơ gõy dị tật
bẩm sinh của doạ sẩy thai cao gấp 1,5 lần. Doạ sẩy thai thường liên quan tới
dị tật của hệ thống sinh dục- tiết niệu, tim mạch, cơ xương khớp chi. Đặc biệt
25

×