Tải bản đầy đủ (.doc) (55 trang)

suy thoái kinh tế toàn cầu và phản ứng của việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1010.71 KB, 55 trang )

******************
ĐỀ TÀI :
SUY THỐI KINH TẾ
TỒN CẦU VÀ PHẢN
ỨNG CỦA VIỆT NAM
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN : GV QCH DOANH NGHIỆP
SINH VIÊN THỰC HIỆN : NGUYỄN CHÍ HIẾU TCNN1
VŨ THÀNH NAM TCNN1
LƯƠNG BÁ TỒN TCNN1
TRẦN THỊ KIM HUỲNH TCNN2
PHẠM THỊ HỒNG MẾN TCNN3
NGUYỄN HỮU MINH CƯỜNG TCNN3
Thành phố Hồ Chí Minh 4/2009
Mục lục Trang
Phần I: Suy thối kinh tế 1
I Định nghĩa 1
II Ngun nhân 3
Phần II: Khủng hoảng kinh tế Mỹ 3
I Tám cuộc suy thoái 3
II Đại suy thoái 12
II Khủng hoảng tài chính Mỹ và ảnh hưởng 14
1. Nhiều ngành kinh tê gặp khó khăn 14
2. Thâm hụt ngân sách nghiêm trọng 15
3. Những mốc chính của cuộc khủng hoảng 16
4. Nguyên nhân 20
IV Ảnh hưởng của cộc khủng hoảng tài chính
Mỹ đối với Việt Nam
Phần III Khủng hoảng tài chính Châu Á 28
I Khủng hoảng kinh tế châu á – 1 góc nhìn 28
II Nguyên nhân 30
III Diễn biến chính 32


Phần IV: giải pháp kích cầu và những tác động có thể
đến đối với nền kinh tế Việt Nam 35
PHỤ LỤC khủng hoảng kinh tế ở Thái Lan
PHẦN I. SUY THOÁI KINH TẾ
I. Định nghĩa suy thoái kinh tế:
Suy thoái kinh tế (recession/economic downturn) là sự suy giảm của
Tổng sản phẩm quốc nội thực trong thời gian hai hoặc hơn hai quý liên tiếp
trong năm (nói cách khác, tốc độ tăng trưởng kinh tế âm liên tục trong hai
quý). Tuy nhiên, định nghĩa này không được chấp nhận rộng rãi. Cơ quan
nghiên cứu kinh tế quốc gia (NBER) của Hoa Kỳ đưa ra định nghĩa về suy
thoái kinh tế còn mập mờ hơn “là sự tụt giảm hoạt động kinh tế trên cả nước,
kéo dài nhiều tháng”. Suy thoái kinh tế có thể liên quan sự suy giảm đồng thời
của các chỉ số kinh tế của toàn bộ hoạt động kinh tế như việc làm, đầu tư, và
lợi nhuận doanh nghiệp. Các thời kỳ suy thoái có thể đi liền với hạ giá cả
(giảm phát), hoặc ngược lại tăng nhanh giá cả (lạm phát) trong thời kỳ đình
lạm.
Một sự suy thoái trầm trọng và lâu dài được gọi là khủng hoảng kinh tế.
Sự tan vỡ tàn phá nền kinh tế là suy sụp/đổ vỡ kinh tế.
Các nền kinh tế theo định hướng thị trường có đặc điểm là tăng giảm
theo chu kỳ kinh tế, nhưng sự suy giảm thực tế (suy giảm các hoạt động kinh
tế) không thường xảy ra. Nhiều tranh luận về việc chính phủ có nên can thiệp
để điều hòa kinh tế (học thuyết kinh tế vĩ mô của Keynes), khuyếch đại chu kỳ
kinh tế (lý thuyết chu kỳ kinh tế thực), hoặc thậm chí là tạo ra chu kỳ kinh tế
(chủ nghĩa tiền tệ).
Từ khủng hoảng tài chính -> khủng hoảng kinh tế -> khủng hoảng kinh tế
thực -> khủng hoảng an ninh lương thực -> khủng hoảng chính trị.
Nếu nhà nước chính quyền không có biện pháp gì ngăn chặn quá trình
của khủng hoảng thì việc dẩn tới bạo loạn là cần thiết.
Nhiều tranh luận về việc chính phủ có nên can thiệp để điều hòa
kinh tế (học thuyết kinh tế vĩ mô của Keynes), khuyếch đại chu kỳ kinh

tế (lý thuyết chu kỳ kinh tế thực), hoặc thậm chí là tạo ra chu kỳ kinh tế
(chủ nghĩa tiền tệ).
Vậy để hiểu được quá trình suy thoái này, chúng ta cần hiểu được chu kỳ
kinh tế là như thế nào?
Chu kỳ kinh tế, hay là chu kỳ kinh doanh, là sự biến động của GDP
thực tế theo trình tự ba giai đoạn: suy thoái, phục hồi và hưng thịnh (bùng
nổ). Có quan điểm cho rằng giai đoạn phục hồi là thứ yếu nên chu kỳ kinh
doanh chỉ gồm hai giai đoạn chính là suy thoái và hưng thịnh.
Các pha của chu kỳ kinh tế:
- Suy thoái là giai đoạn mà GDP thực tế giảm đi. Ở Mỹ và Nhật Bản,
người ta quy định rằng, khi tốc độ tăng trưởng GDP thực tế mang giá trị âm
suốt hai quý liên tiếp thì mới gọi là suy thoái.
- Phục hồi là giai đoạn trong đó GDP thực tế tăng trở lại bằng mức ngay
trước suy thoái. Thời điểm tiếp giao giữa 2 giai đoạn này gọi là đáy của chu
kỳ.
- Khi GDP thực tế tiếp tục tăng và bắt đầu lớn hơn mức ngay trước lúc
suy thoái, nền kinh tế đang ở giai đoạn hưng thịnh (hay còn gọi là pha bùng
nổ).
Dấu hiệu thường thấy nhất là chỉ số chứng khoán có chiều hướng đi lên,
sau đó là bất động sản có chiều hướng ổn định và lên dần… tiếp tới là chỉ số
tiêu dùng. Chính vì vậy người ta thường đầu tư chứng khoán vào lúc này, thị
trường trở nên lạc quan.
Kết thúc giai đoạn hưng thịnh lại bắt đầu đợt suy thoái mới. Điểm giao tiếp từ
giai đoạn hưng
thịnh sang pha suy thoái mới gọi là đỉnh của chu kỳ kinh tế.
thịnh
Thông thường, người ta chỉ nhận ra hai điểm đáy và đỉnh của chu kỳ kinh tế
khi nền kinh tế đã sang giai đạon kế tiếp với dấu hiệu là tốc độ tăng trưởng
GDP thực tế đổi chiều giữa mức âm và mức dương. Trong thực tế, các nhà
kinh tế học cố tìm cách nhận biết dấu hiệu của suy thoái vì nó tác động tiêu

cực đến mọi mặt kinh tế, xã hội. Một số đặc điểm thường gặp của suy thoái là:
- Tiêu dùng giảm mạnh, hàng tồn kho của các loại hàng hóa lâu bền
trong các doanh nghiệp tăng lên ngoài dự kiến. Việc này dẫn đến nhà sản xuất
cắt giảm sản lượng kéo theo đầu tư vào trang thiết bị, nhà xưởng cũng giảm và
kết quả là GDP thực tế giảm sút.
- Cầu về lao động giảm, đầu tiên là số ngày làm việc của người lao
động giảm xuống tiếp theo là hiện tượng cắt giảm nhân công và tỷ lệ thất
nghiệp tăng cao.
- Khi sản lượng giảm thì lạm phát sẽ chậm lại do giá đầu vào của sản xuất
giảm bởi nguyên nhân cầu sút kém. Giá cả dịch vụ khó giảm nhưng cũng tăng
không nhanh trong giai đoạn kinh tế suy thoái.
- Lợi nhuận của các doanh nghiệp giảm mạnh và giá chứng khoán thường
giảm theo khi các nhà đầu tư cảm nhận được pha đi xuống của chu kỳ kinh
doanh. Cầu về vốn cũng giảm đi làm cho lãi suất giảm xuống trong thời kỳ suy
thoái.
Còn khi nền kinh tế hưng thịnh thì các dấu hiệu trên biến thiên theo chiều
ngược lại.
II. Nguyên nhân của suy thoái kinh tế
Những nguyên nhân đích thực của suy thoái kinh tế là đối tượng tranh luận
sôi nổi giữa các nhà lý thuyết và những người làm chính sách mặc dù đa số
thống nhất rằng các kỳ suy thoái kinh tế gây ra bởi sự kết hợp của các yếu tố
bên trong (nội sinh) theo chu kỳ và các cú sốc từ bên ngoài (ngoại sinh). Ví dụ,
những nhà kinh tế học chủ nghĩa Keynes và những lý thuyết gia theo lý thuyết
chu kỳ kinh tế thực sẽ bất đồng về nguyên nhân của chu kỳ kinh tế, nhưng sẽ
thống nhất cao rằng các yếu tố ngoại sinh như giá dầu, thời tiết, hay chiến
tranh có thể tự chúng gây ra suy thoái kinh tế nhất thời, hoặc ngược lại, tăng
trưởng kinh tế ngắn hạn. Trường phái kinh tế học Áo giữ quan điểm rằng lạm
phát bởi cung tiền tệ gây ra suy thoái kinh tế ngày nay và các thời kỳ suy thoái
đó là động lực tích cực theo nghĩa chúng là cơ chế tự nhiên của thị trường điều
chỉnh lại những nguồn lực bị sử dụng không hiệu quả trong giai đoạn “tăng

trưởng” hoặc lạm phát. Phần lớn học giả theo thuyết tiền tệ tin rằng những
thay đổi triệt để về cơ cấu kinh tế không phải là nguyên nhân chủ yếu; nguyên
nhân của các thời kỳ suy thoái ở Mỹ là bởi quản lý tiền tệ yếu kém.
PHẦN II. KHỦNG HOẢNG KINH TẾ MỸ
I. 8 cuộc suy thoái.
1. Suy thoái đầu năm 2000

Sự đổ vỡ của các tập đoàn công nghệ trong khủng hoảng chấm com, vụ
tấn công khủng bố ngày 11/9 và những lộn xộn trong kiểm toán đã châm ngòi
cho giai đoạn suy thoái đầu thế kỷ 21. Cuộc suy thoái kinh tế tại Mỹ trong ba
năm (2001-2003) không chỉ ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế Mỹ, mà còn tới
nhiều quốc gia châu Âu khác.
Theo Cục nghiên cứu kinh tế quốc gia (NBER), sau 10 năm phát triển,
quãng thời gian mở rộng dài nhất của kinh tế Mỹ, việc nước Mỹ bước vào suy
thoái vào đầu những năm 2000 đã được dự báo trước. Bắt đầu từ sự đổ vỡ
hàng loạt của các tập đoàn công nghệ, kinh tế Mỹ tiếp tục bị giáng một đòn
mạnh khi vụ khủng bố ngày 11/9/2001 nổ ra, khiến chỉ số công nghiệp Dow
Jones và các chỉ báo chính của thị trường chứng khoán trải qua tuần tồi tệ nhất
trong lịch sử.
Dự đoán trước diễn biến tại Mỹ, các nước châu Âu đã giới thiệu đồng
tiền chung Euro vào ngày 1/1/1999. Tuy nhiên, suy thoái vẫn khiến đồng euro
giảm mạnh, cho đến năm 2001 đây vẫn là một đồng tiền yếu, và chỉ mạnh trở
lại sau năm 2002.

2. Suy thoái cuối thập kỷ 90

Ngày thứ hai đen tối, tháng 9/1987, đà sụt giảm chưa từng có 22,6% trên
chỉ số Dow Jones là phát súng báo hiệu thời kỳ suy thoái tồi tệ nước Mỹ. Chỉ
trong ba năm, sự sụp đổ của thị trường tín dụng và cho vay đã đe dọa tới ‘túi’
tiền tiết kiệm của hàng triệu người dân. Theo đó, các cường quốc chịu nhiều

ảnh hưởng từ Mỹ kể đến như Canada, Australia, Nhật và Anh cũng bị cuốn
theo đà suy thoái.
Hai năm hậu khủng hoảng, dù thị trường chứng khoán hồi phục khá
nhanh nhưng thị trường bất động sản, lao động, giá năng lượng, cán cân
thương mại và GDP của Mỹ và một số quốc gia khác vẫn đi xuống.
Kinh tế tồi tệ, tỷ lệ thất nghiệp cao tất yếu kéo theo các vấn đề xã hội,
trong những năm suy thoái dưới thời Tổng thống George Bush "cha" như
nghiện rượu và ma túy tăng cao.

3. Suy thoái đầu những năm 1980

Cuộc cách mạng tại Iran đã đẩy giá dầu thế giới tăng với tốc độ chóng
mặt trong thập niên 70. Đây chính là tiền đề cho cuộc khủng hoảng kéo dài 30
tháng tại Mỹ và được coi là lần suy thoái tồi tệ nhất kể từ đại khủng hoảng
năm 1930. Giá năng lượng đi lên kéo theo lạm phát gia tăng, đạt đỉnh 13,5%
năm 1980, buộc Cục Dự trữ Liên bang (FED) phải thực hiện chính sách thắt
chặt tiền tệ.
Không chỉ lạm phát, tỷ lệ thất nghiệp cũng tăng một cách đáng lo ngại
với từ mức 5,6% của tháng 5/1979 lên 7,5% một năm sau đó. Bất kể kinh tế
bắt đầu hồi phục trong năm 1981, tỷ lệ thất nghiệp vẫn được duy trì ở mức cao
kỷ lục 7,5% và đạt mức lịch sử 10,8% trong năm 1982.
Hậu quả của suy thoái lên ngành công nghiệp xe hơi, nhà đất, và sản
xuất thép tồi tệ đến nỗi các ngành trên liên tục sụt giảm trong 10 năm sau, cho
tới tận khi cuộc khủng hoảng tiếp theo kết thúc.
Đây cũng là lần suy thoái kéo dài qua hai nhiệm kỳ tổng thống, ông
Jimmy Carter từ 1977-1981, và Ronald Reagan từ 1981-1989.

4. Khủng hoảng dầu mỏ những năm 1973

Bắt đầu vào ngày 15/9/1975, khủng hoảng dầu mỏ là hậu quả từ việc các

thành viên OAPEC (gồm tổ chức xuất khẩu dầu mỏ OPEC và hai nước Ai Cập
và Syria) thực hiện cấm vận dầu mỏ với Mỹ và các quốc gia ủng hộ Israel
trong cuộc chiến với Ai Cập và Syria.
Trước đó vào năm 1971, việc Mỹ rút khỏi Chế độ tiền tệ Bretton Woods
(hệ thống quy định chung giữa các cường quốc) trong đó giá vàng chỉ được
neo giữ duy nhất bằng đôla với giá 35 đôla một ounce, và tiến hành thả nổi
đồng USD là tiền đề cho cuộc khủng hoảng này.
Lý do là hệ thống Bretton Woods đã giới hạn hoạt động chi tiêu của
nước Mỹ và thế giới do lượng vàng là có hạn trong khi nhu cầu sử dụng tiền
lại lớn hơn rất nhiều. Việc Mỹ in tiền phục vụ cho việc tài trợ Chiến tranh Việt
Nam hoặc viện trợ các nước khác đã khiến đôla mất giá, dĩ nhiên đi kèm lạm
phát.
Trong giai đoạn khủng hoảng dầu mỏ, tại nhiều bang mỗi người dân chỉ
được phép mua một lượng xăng dầu nhất định. Để xóa bỏ sự bất hợp lý trên,
vào tháng 8/1971 Tổng thống Nixon đã phải rút hẳn khỏi hệ thống Bretton
Woods và tiến hành thả nổi đồng tiền. Điều chỉnh trên khiến thu nhập của các
nước xuất khẩu dầu giảm rõ rệt, theo đó các nước này buộc phải có điều chỉnh
để tăng giá dầu.
Hậu quả của việc cấm vận dầu lửa là giá dầu tại thị trường thế giới đã bị
đội lên gấp 5 lần từ dưới 20 USD/thùng năm 1971 lên 100 USD/thùng năm
1979. Giá xăng trung bình tại Mỹ cũng tăng 86% chỉ trong một năm từ 1973-
1974.
Cuộc khủng hoảng đồng thời tác động xấu đến thị trường tài chính,
chứng khoán toàn cầu, vốn đã chịu nhiều áp lực sau sự sụp đổ của Chế độ
Bretton Woods. Thị trường chứng khoán Mỹ bốc hơi 97 tỷ đôla, con số quá
khổng lồ vào thời điểm đó, chỉ sau một tháng rưỡi. Suy thoái và lạm phát gây
ảnh hưởng tới kinh tế Mỹ và nhiều quốc gia khác cho đến tận thập niên 80.
Khủng hoảng dầu mỏ đã tạo ra thay đổi lớn trong chính sách của
phương tây, trong đó chú trọng tìm kiếm và bảo tồn năng lượng tự nhiên, cũng
như đặt ra các quy định tiền tệ chặt chẽ hơn để chống lạm phát.

Tuy nhiên, biến cố trên góp phần thay đổi đáng kể vị thế chính trị, kinh
tế của các nước xuất khẩu dầu, đặc biệt là tiểu vương quốc Ả-rập tại khu vực
Trung Đông.
5. Suy thoái năm 1957

Trong 2 năm trước khi khủng hoảng diễn ra, chính sách thắt chặt tiền tệ
và cắt giảm đầu tư tại Mỹ đã khiến thất nghiệp tăng. Tại Detroit, trái tim của
ngành công nghiệp xe hơi, tỷ lệ thất nghiệp đạt mức 20% trong tháng 4/1958.
Doanh số bán xe giảm 31% trong năm 1957, biến 1958 là năm tồi tệ
nhất cho các nhà sản xuất ô tô kể từ sau Đại chiến thế giới II. Nhu cầu nhập
khẩu tại Mỹ vẫn cao trong khi châu Âu lại giảm nhập khẩu từ Mỹ khiến thâm
hụt thương mại và cán cân không đối xứng.
Tệ hơn khi thay vì mặt bằng giá giảm, điều thường xảy ra khi suy thoái,
giá cả trong giai đoạn 1957 đến 1959 lại leo thang. Thực tại trên đã gây không
ít hoang mang cho các nhà kinh tế trong quãng thời gian này. Nhiều quốc gia
chưa phát triển sống dựa vào xuất khẩu tài nguyên như vật liệu thô, khoáng
chất, hoặc sản phẩm nông nghiệp cũng gặp nhiều khó khăn do nhu cầu sụt
giảm tại Mỹ và châu Âu.

6. Suy thoái năm 1953

Dù chỉ kéo dài trong 10 tháng, bắt đầu từ quý II năm 1953 tới quý I năm
1954, thiệt hại từ cuộc suy thoái năm 1953 ước tính lên tới 56 tỷ đôla cho nước
Mỹ.
Nguyên nhân suy thoái bắt đầu từ một số biến động chính trị, kinh tế
những năm đầu thập niên 50. Trong đó, lạm phát leo thang bắt đầu từ 1951,
sau chiến tranh Triều Tiên, khiến lãnh đạo FED dự đoán năm 1952 lạm phát sẽ
còn cao hơn.
Trước tình hình đó, FED đã áp dụng chính sách tài khóa thắt chặt, thể
hiện ở việc cắt giảm chi tiêu chính phủ, tăng thuế, lãi suất và tích lũy dự trữ.

Chính các biện pháp mạnh tay trên đã tạo sự bi quan trong dân chúng, dẫn đến
giảm chi tiêu, tăng tiết kiệm - gây suy giảm tổng cầu của nền kinh tế.

7. Suy thoái năm 1949

Lần suy thoái này của nước Mỹ bắt nguồn từ những bước tiến thần tốc
của giai đoạn hồi phục kinh tế sau chíến tranh thế giới. Tính tới đầu năm 1949,
nước Mỹ chiếm tới 50% tổng sản lượng nông nghiệp toàn thế giới, trước chiến
tranh thế giới con số này chỉ là 30%, tỷ lệ thất nghiệp của nước Mỹ cũng ở
mức thấp kỷ lục khi gần như 100% người lao động có việc làm.
Năm 1949 chính là giai đoạn kinh tế Mỹ đạt đỉnh của chu kỳ tăng
trưởng sau chiến tranh. Cũng từ thời điểm này, ngoại trừ lương thực, nhu cầu
tiêu thụ hàng hóa nói chung của nước Mỹ đã trở nên bão hòa do hàng hóa
được sản xuất nhiều tới mức thừa mứa.
Dù Tổng thống Truman cũng như nội các của ông đã dự đoán được rủi
ro từ lạm phát cũng như những bất ổn kinh tế, nhưng lãnh đạo nước Mỹ lại
không tính tới lạm phát gia tăng tại phần còn lại của thế giới. Dù hậu quả của
cuộc suy thoái 1949 là không quá tồi tệ nhưng nó cũng đủ gây trì trệ kinh tế,
khiến nhiều doanh nghiệp phá sản cũng như tỷ lệ thất nghiệp leo thang.

8. Đại suy thoái năm 1930

Cuộc đại suy thoái hay còn gọi là đại khủng hoảng diễn ra cách đây đã
gần 8 thập kỷ nhưng vẫn ghi dấu ấn là giai đoạn suy sụp kinh tế tồi tệ nhất
trong lịch sử hiện đại. Bắt đầu vào năm 1929 và kết thúc vào thởi điểm chuyển
giao giữa hai thập niên 30 và 40, cuộc suy thoái có sức ảnh hưởng hủy diệt tới
kinh tế toàn cầu, cả những nước phát triển và đang phát triển.
Mọi khía cạnh của nền kinh tế từ sản xuất, tiêu dùng, thương mại, thu
nhập cá nhân, hoạt động tiêu dùng, thị trường lao động, lạm phát đều chịu ảnh
hưởng xấu. Các nước phụ thuộc nhiều vào công nghiệp chịu tác động sâu sắc

nhất. Ngoài ra khu vực nông nghiệp cũng điêu đứng khi giá ngô, một trong
những nông sản chính tại phương tây, giảm tới 60%.
Có nhiều ý kiến khác nhau về nguyên nhân cho cuộc suy thoái, chẳng
hạn như sự sụp đổ dây chuyền của hệ thống ngân hàng hay thị trường chứng
khoán, được đánh dấu bằng "ngày thứ ba đen tối" 29/10/1929, hay suy giảm
giao dịch quốc tế do Mỹ tăng thuế. Tuy nhiên, ý kiến chung được nhiều nhà
kinh tế đồng thuận, trong đó có cả đương kim Chủ tịch FED, ông Ben
Bernanke, là do yếu tố cung của nguồn tiền cũng như sai lầm trong điều hành
của FED.
Theo đó, trong thập niên 20, mở rộng cung tiền quá mức đã dẫn đến sự
phát triển bùng nổ nhưng thiếu bền vững của khối tài chính. Việc FED nhận ra
rủi ro và thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ là quá muộn để ngăn chặn suy
thoái. Hơn nữa, khi các ngân hàng lớn có dấu hiệu sụp đổ, FED đã không tích
cực cứu trợ, từ đó tạo ra hiệu ứng sụp đổ dây chuyền trong ngành ngân hàng,
dẫn đến cạn kiệt đột ngột nguồn tiền. Hệ quả là nhiều công ty phá sản do thiếu
vốn, hoạt động sản xuất, kinh doanh tiêu dùng bị đình trệ, thất nghiệp tràn lan
gây ảnh hưởng to lớn tới kinh tế Mỹ và toàn thế giới.
II. Đại suy thoái năm 1930.
1. Nguyên nhân – diễn biến – hậu quả.
VIT- Tháng 10/1929, cổ phiếu của phố Wall giảm với tốc độ chóng mặt
trong suốt thời kỳ khủng hoảng của những năm 20 với tên gọi "Roaring
Twenties". Năm nay, thế giới lại một phen kinh hoàng khi chứng kiến sự sụp
đổ của hệ thống tài chính - ngân hàng Mỹ, mà hệ quả của nó đã lan sang cả
châu Âu và châu Á.
Chuyện gì đã xảy ra?
Chỉ trong 2 ngày, cổ phiếu của Dow Jones giảm 25% (kết thúc ngày thứ
Ba đen tối, 29/10/1929). Số lượng cổ phiếu giao dịch lập mức kỷ lục trong 40
năm đã bị phá vỡ. Tháng 7/1932, chỉ số Dow Jones trượt 89%,- mức thấp kỷ
lục và không thể phục hồi bằng mức của năm 1929 cho đến 25 năm sau - năm
1954.


Nguyên nhân

Các cuộc tranh luận, bàn thảo liên tục diễn ra để tìm ra nguyên nhân
của khủng hoảng phố Wall. 10 năm trước đó, cổ phiếu tăng gấp 4 lần, vì thế nó
có dấu hiệu là những cổ phiếu bong bóng giống như tần số radio.
Với luật lệ lỏng lẻo và rất ít quy định về giao dịch trong nước, các nhà
đầu tư có thể "lừa đảo” tự tăng giá trị cổ phiếu, và các công ty có thể chiếm
một vị trí tại các công ty khác mà không cần đầu tư bất kỳ một tài sản nào.
Các cá nhân có thể mua cổ phiếu dự trữ bằng việc vay tiền những
người nắm cổ phiếu khác của họ.
Ngân hàng Trung ương, Cục Dự trữ Liên bang (Fed) đã giữ mức lãi
suất đến mức thấp chưa từng có trong nhiều năm liền để ủng hộ đồng Sterling
của Anh- khiến giá vàng tăng vọt.

Hậu quả?
Hậu quả là đã xảy ra một cuộc khủng hoảng kinh tế sâu sắc. Phố Wall
chao đảo với đợt sụt giảm mạnh về sản lượng kinh tế, và cuối cùng lan sang
toàn thế giới.
Kinh tế Mỹ suy thoái mất 1/3, tỷ lệ thất nghiệp chiếm 25%, và ngày
càng có nhiều lao động không có việc làm. Thêm vào đó, hệ thống ngân hàng
của Mỹ phải đóng cửa hoàn toàn. Hành động đầu tiên từ chính quyền mới của
ông Roosevelt là đóng cửa tất cả các ngân hàng trong 2 tuần, trong khi để các
điều tra viên liên bang kiểm kê sổ sách của họ.
Không trợ cấp thất nghiệp, không sự giúp đỡ của chính phủ, thu nhập
của người lao động sụt giảm thảm hại, gây hậu quả nghiêm trọng đến năng lực
tiêu dùng và dẫn tới phản ứng dây chuyền với hàng loạt nhà máy phải đóng
cửa.
Hầu hết các nhà quan sát tin rằng chính các nhà hoạch định chính sách
đang khiến cho cuộc khủng hoảng thêm trọng hơn vì áp dụng chính sách thắt

chặt tiền tệ và cân bằng ngân sách- ảnh hưởng tiêu cực tới thị trường.
Thương mại quốc tế cũng suy giảm khi Mỹ phá bỏ tiêu chuẩn về vàng
và loại bỏ hàng rào thuế quan để ngăn chặn nhập khẩu từ nước ngoài.

Chính quyền Mỹ đã thử những giải pháp nào?

Ban đầu, các nhà chức trách đã cố gắng khôi phục niềm tin thị trường
thông qua rất nhiều bài phát biểu "hùng hồn" trấn an lòng dân. Tổng thống
Herbert Hoover phát biểu trước toàn thể nhân dân Mỹ rằng “nền kinh tế Mỹ về
cơ bản vẫn ổn định và phát triển”.
Biện pháp khắc phục là cải tổ của toàn bộ lực lượng lao động công
nghiệp sẽ có thể bảo đảm được sự phồn vinh, thinh vượng của đất nước. Cách
làm từ thiện của các doanh nghiệp tư nhân là giúp đỡ các nạn nhân của cuộc
khủng hoảng.
Thế nhưng, mọi chuyện đều thay đổi khi Franklin D Roosevelt lên
làm Tổng thống vào năm 1932. Đồng thời, Chính phủ còn can thiệp nhằm
thúc đẩy niềm tin của những người thất nghiệp, ổn định thị trường bằng cách
hạn chế sản xuất, khuyến khích liên minh và tạo ra một hệ thống chính phủ với
cơ chế lương hưu cho người già và bảo hiểm thất nghiệp hay còn gọi là an
ninh xã hội.
Tuy nhiên, chính quyền của ông Roosevelt đã không thành công trong
việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và niềm tin thị trường.

Tình hình được giải quyết như thế nào?

Đó là khi bắt đầu thế chiến thứ II, Chính phủ Mỹ quyết định ôm trọn
số thâm hụt kinh tế khiến nền kinh tế hồi phục.
Trong suốt chiến tranh, sản lượng kinh tế của Mỹ tăng gấp đôi và tỷ lệ
thất nghiệp không còn. Phụ nữ và những người da đen bị đẩy vào gia nhập lực
lượng lao động thay thế cho hàng triệu người đang phục vụ trong quân đội.

Tại thời điểm cao trào nhất, chính phủ Mỹ vay 1 nửa số tiền trong
ngân sách mà chủ yếu là tiền đóng thuế để phục vụ cho chiến tranh.

Bài học nào rút ra cho cuộc khủng hoảng tài chính hiện nay?

Có 3 bài học chính mà các nhà lập pháp đang áp dụng cho cuộc khủng hoảng
hiện nay:

- Thứ nhất, các thị trường tài chính, ngân hàng và nền kinh tế thực sự có
mối liên kết biện chứng với nhau, vì vậy nếu những trở ngại đó mà không
được giải quyết, nó sẽ lan sang nhiều lĩnh vực khác.
- Thứ hai, sự can thiệp nhanh chóng và chủ động của chính phủ nhằm
xoa dịu những áp lực lên nền kinh tế là vô cùng cần thiết trong suốt thời kỳ
khủng hoảng kinh tế. Phản ứng chập chạp và có khả năng sai lầm của chính
phủ Mỹ và các ngân hàng trung ương trong những năm 1930 khiến cho tình
hình càng trở nên tồi tệ.
- Và thứ ba, đó là mối nguy hiểm của việc thiếu sự quản lý. Năm 1933,
cuộc khủng hoảng tài chính càng trở nên tồi tệ là do trong suốt 5 tháng liền
diễn ra cuộc bầu cử tổng thống mới và việc ông nhận chức vị mới nắm chính
quyền.
Đây là lý do có thể giải thích tại sao cả hai ứng của viên tổng thống
ông McCain và Barack Obama đều ủng hộ cho kế hoạch giải cứu của chính
quyền Bush mặc dù còn có rất nhiều nghi ngờ.
III. Khủng hoảng tài chính Mỹ và những ảnh hưởng.
Bước vào năm 2007, nhiều nhà phân tích dự báo năm nay kinh tế Mỹ sẽ
chỉ đạt mức tăng trưởng 2,3%, thấp nhất trong vòng 5 năm qua.
Và mức này thậm chí thấp hơn 1% so với năm 2006, do Mỹ đang phải
đối mặt các khó khăn như thâm hụt ngân sách lớn, thị trường bất động sản
đóng băng, nguy cơ khủng bố cao
Các chuyên gia kinh tế của Cơ quan dự báo kinh tế quốc tế Global

Insight nhận định, sự suy giảm thị trường nhà đất làm tỉ lệ thất nghiệp của Mỹ
gia tăng, tuy nhiên họ vẫn hy vọng nền kinh tế Mỹ sẽ phát triển theo đúng mục
tiêu mà Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) đề ra, đó là tuy tốc độ kinh tế phát
triển chậm nhưng vẫn kiềm chế được lạm phát và không gây xáo trộn nền kinh
tế.
1. Nhiều ngành kinh tế gặp khó khăn
Theo Global Insight, năm 2007, tỉ lệ thất nghiệp ở Mỹ sẽ tăng 5%, cao
hơn mức trung bình 4,4% trong năm qua.
Các nhà kinh tế cho rằng, các ngành liên quan đến nhà đất như xây
dựng, sản xuất, mua bán đồ gia dụng, kinh doanh bất động sản, môi giới thế
chấp sẽ thiếu hơn một triệu việc làm trong 2 năm tới do thị trường nhà đất
chững lại sau 5 năm bùng nổ kinh doanh.
Ngành chế tạo ôtô cũng sẽ bị tác động do các hãng ôtô đã hoàn tất kế
hoạch cắt giảm lực lượng lao động trước sự cạnh tranh gay gắt của các hãng
ôtô nước ngoài.
Nền kinh tế lớn nhất thế giới bắt đầu tăng trưởng chậm lại kể từ đầu
năm 2006, một phần do thị trường nhà đất suy giảm, lãi suất tăng cao và giá
dầu liên tục leo thang.
Sự ế ẩm của thị trường nhà đất, đặc biệt ở những thị trường lớn như
California, là những nguyên nhân chính khiến tình hình kinh doanh của các tập
đoàn lớn như General Motors (GM), Ford Motor hay DaimlerChrysler càng
thêm ảm đạm.
Ngoài ra, nhu cầu tiêu thụ xe hơi giảm sút cũng là nguyên nhân khiến
các nhà sản xuất gặp khó khăn hơn.
Theo các nhà kinh tế, vào khoảng giữa năm nay, FED sẽ có các biện
pháp đối phó với tỉ lệ thất nghiệp tăng cao bằng cách cắt giảm lãi suất tiết kiệm
để thúc đẩy kinh tế. Lúc đó, tỉ lệ lạm phát sẽ được giữ ở mức 1-2%, tỉ lệ mà
theo FED là thuộc phạm vi an toàn.
Theo báo cáo mới nhất, tỉ lệ lạm phát trong tháng 11/2006 của Mỹ ở
mức 2,2%, thấp hơn so với mức 2,4% của tháng 10/2006. Nếu FED đạt được

mục tiêu trong năm 2007, kinh tế Mỹ sẽ phát triển và đạt mức tăng trưởng là
3% năm 2008.
Trong tuần đầu năm 2007, đồng USD đã giảm giá xuống mức thấp nhất
so với đồng Euro và đồng USD cũng đã giảm giá so với toàn bộ 16 đồng tiền
chủ chốt khác đang được giao dịch tại thị trường New York.
FED đã giữ nguyên lãi suất cơ bản 5,25% kể từ tháng 6/2006, sau 2 năm
tăng liên tiếp. Tuy nhiên, 16 trong số 22 nhà kinh tế được hãng tin tài chính
Bloomberg thăm dò tỏ ý tin rằng FED sẽ cắt giảm lãi suất cơ bản xuống mức
4,75% vào cuối năm nay.
2. Thâm hụt ngân sách nghiêm trọng
Trong khi ngân sách Liên bang Mỹ đang thâm hụt nghiêm trọng, thì một
vấn đề đáng chú ý của kinh tế Mỹ là ngành nông nghiệp ngốn quá nhiều trợ
cấp và có thể phá sản nếu không có trợ cấp của Chính phủ.
Chỉ tính riêng trong năm 2005, Chính phủ Mỹ đã trợ cấp khoảng 15 tỷ
USD để hỗ trợ về thu nhập, trợ giá giống cây trồng cho nhà nông Mỹ và riêng
trong năm 2005, khoản trợ cấp dành cho nông nghiệp của Chính phủ tăng vọt
lên 25 tỷ USD.
Trong thời gian từ năm 1989 đến 2003, phần tiền trợ cấp của Chính phủ
cho các gia đình nông dân có thu nhập hàng năm từ 500.000 USD trở lên, đã
từ 13% lên 32% tổng ngân sách trợ cấp.
Một vấn đề nan giải của Mỹ là thâm hụt ngân sách quá lớn. Quốc hội
lưỡng viện Mỹ do Đảng dân chủ chiếm đa số và Tổng thống Bush đang bất
đồng về các giải pháp cân bằng ngân sách liên bang.
Trong bài viết đăng trên "Nhật báo phố Wall" ngày 3/1, ông Bush cho
rằng, chính sách cắt giảm thuế của ông đã tạo điều kiện cho nền kinh tế Mỹ
phát triển mạnh trong thời gian qua, trong khi thâm hụt ngân sách của Mỹ
đang từng bước được cắt giảm.
Trong khi đó, Chủ tịch Hạ viện Mỹ, bà Nancy Pelosi lại nói tới khả
năng đưa ra dự luật tăng thuế đối với những người có thu nhập trên 250.000
USD/năm. Đảng Dân chủ cũng đang gây sức ép đòi áp dụng chế độ thuế bất

động sản, khi chương trình cắt giảm thuế hiện nay hết hạn vào năm 2010.
Để có thể cân bằng ngân sách liên bang vào năm 2012, trong khi vẫn
duy trì các chương trình cắt giảm thuế hiện hành, cả Quốc hội Mỹ lẫn Nhà
Trắng đều phải cùng hạn chế chi tiêu.
Theo dự báo, ngân sách Liên bang Mỹ sẽ thâm hụt khoảng 127 tỷ USD
vào năm 2011. Văn phòng ngân sách của Quốc hội Mỹ cho biết, nếu các
chương trình cắt giảm thuế hiện nay không được gia hạn, ngân sách Liên bang
Mỹ sẽ thâm hụt khoảng 54 tỷ USD vào năm 2012.
3. Những mốc chính trong cuộc khủng hoảng
Cuộc khủng hoảng
bắt nguồn từ tình trạng
bong bóng của thị trường
nhà đất ở Mỹ (tình trạng
này diễn ra khoảng năm
2005 - 2006) với những
khoản vay dưới chuẩn có
nguy cơ rủi ro cao và các
khoản thế chấp có lãi suất
điều chỉnh. Từ vài năm
trước đó, giá nhà tăng cao cùng với việc được phép vay với điều kiện rất đơn
giản, nhiều khách hàng đã tranh thủ tiền của các ngân hàng đầu tư để đầu cơ
vào bất động sản với hi vọng kiếm được nhiều tiền từ các khoản mua bán
chênh lệch.
Cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 tại Mỹ lần này thực chất là biểu
hiện rõ nét nhất của một quá trình “khủng hoảng” rất lâu trước đó. Điểm lại
những mốc sự kiện chính trong chuỗi này để thấy khủng hoảng đã diễn ra như
thế nào:
• Năm 2002-2004: Giá cả ở các bang Arizona,California, Florida,
Hawaii, và Nevada tăng trên 25% một năm. Sự bùng nổ nhà đất ở Mỹ bắt đầu.
• Năm 2005: Bong bóng nhà đất ở Mỹ vỡ vào tháng 08/2005. Thị

trường bất động sản tạm gián đoạn trên một vài bang ở Mỹ vào cuối mùa hè
năm 2005 khi tỷ lệ lãi suất tăng từ 1% lên đến 5.35% do có nhiều nhà kinh
doanh bất động sản đã đánh giá thấp thị trường.
Năm 2006: Thị trường bất
động sản tiếp tục suy giảm. Giá
giảm, kinh doanh bất động sản,
dẫn đến một lượng nhà dư thừa
đáng kể. Chỉ số Xây dựng Nhà ở
tại Mỹ hồi giữa tháng 08 giảm hơn
40% so với một năm trước đó.
Năm 2007: Kinh doanh bất
động sản tiếp tục thất bại. Số
lượng nhà tồn ước tính cao nhất từ
năm 1989. Ngành kinh doanh bất
động sản suy giảm với hơn 25 tổ
chức cho vay dưới chuẩn tuyên bố
phá sản. Gần 1,3 triệu bất động sản nhà ở bị tịch thu để thế chấp nợ, tăng 79%
từ năm 2006. Thư ký bộ tài chính Mỹ gọi bong bóng bất động sản lần này là
“mối nguy hiểm ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế”.
- Ngày 05/02: Công ty Mortage Lenders Network USA đứng thứ 15
trong số các nhà cho vay dưới chuẩn nhiều nhất ở Mỹ, với tổng dư nợ 3.3 tỷ đô
la thời điểm quý 3 năm 2006, tuyên bố phá sản.
- Ngày 02/04: New Century Financial, nhà cho vay dưới chuẩn lớn
nhất Mỹ, tuyên bố phá sản.
- Ngày 19/07: Chỉ số Dow Jones đóng cửa với mức 14.000 điểm, lần
đầu tiên trong lịch sử.
- Tháng 8: Khủng hoảng tín dụng toàn cầu, mà chính xác là chứng
khoán dựa trên các khoản nợ thế chấp dưới chuẩn, được phát hiện trong các
danh mục vốn đầu tư và quỹ trên khắp thế giới từ BNP Paribas cho đến Ngân
hàng Trung Quốc. Nhiều nhà cho vay ngừng cho vay tín dụng mua nhà. Cục

dữ trữ liên bang đã cho các ngân hàng vay 100 tỷ đô la với lãi suất thấp.
- Ngày 16/08: Tập đoàn tài chính Countrywide, đơn vị cho vay thế chấp
lớn nhất nước Mỹ, đã phải tránh phá sản bằng cách vay khẩn cấp 11 tỷ đô la từ
một nhóm các ngân hang khác.
- Ngày 17/08: Cục dự trữ liên bang đã phải hạ mức hệ số chiếu khấu 50
điểm cơ bản từ mức 6.25% xuống 5.75%
- Ngày 14/09: Ngân hàng Northern Rock (Anh) đã gặp vấn đề nghiêm
trọng về khả năng thanh khoản liên quan đến khủng hoảng cho vay dưới
chuẩn.
- Ngày 15–17/10: Liên minh các ngân hàng Mỹ được hỗ trợ bởi chính phủ
thông báo lập một siêu quỹ trị giá 100 tỷ đô la để mua lại các chứng khoán
được đảm bảo bằng tài sản thế chấp mà giá trị thị trường đã bị sụt giảm do
khủng hoảng vay dưới chuẩn. Chủ tịch Cục dự trữ Liên bang Ben Bernake và
Bộ trưởng Bộ tài chính Mỹ đều đưa ra những cảnh báo về mối nguy hiểm của
việc vỡ bong bóng bất động sản.
- Ngày 31/10: Cục dự trữ liên bang hạ lãi suất
quỹ liên bang 25 điểm xuống 4.5%
- Tháng 11: Cục dự trữ liên bang bơm thêm
41 tỷ đô la cho các ngân hàng vay với lãi suất
thấp. Đây là lần xuất tiền lớn nhất của cục dự trữ
liên bang kể từ 19 tháng 9 năm 2001 (50.35 tỷ đô
la).
• Năm 2008 với những mốc đáng nhớ sau:
- Ngày 16/03: Bear Stearns bán lại cho JP
Morgan Chase với giá 2 đôla một cổ phiếu để
tránh phá sản. Cục dự trữ liên bang phải cung cấp 30 tỷ đô la để trợ giúp các
khoản lỗ của Bear Stearn.
- Ngày 17/07: Các ngân hàng lớn và các tổ chức tài chính trên thế giới đã
báo cáo thua lỗ lên đến 435 tỷ đôla.
- Ngày 07/09: Cục dự trữ liên bang dành quyền kiểm soát hai tập đoàn

Fannie Mae và Freddie Mac
- Ngày 14/09: Merrill Lynch được bán cho Bank of America với giá 50 tỷ
đô la.
- Ngày 15/9: Lehman Bothers tuyên bố phá sản. Ngay sau đó, 3 loại chỉ số
ở Mỹ bao gồm chỉ số Dow Jones, NASDAQ và S&P 500 sụt giảm mạnh nhất
kể từ sau sự kiện 11/9/2001.
- Ngày 17/09: Cục dự trữ liên bang Mỹ cho AIG vay 85 tỷ đô la để giúp
công ty này tránh phá sản.
- Ngày 19/09: Kế hoạch giải cứu tài chính của bộ trưởng tài chính Paulson
trị giá 700 tỷ đô la được công bố sau một tuần bất ổn trên thị trường tài chính
và nợ tín dụng. Tuy nhiên, quốc hội Mỹ đã không thông qua bản dự thảo này.
- Ngày 26/9: Ngân hàng Washington Mutual – ngân hàng tiết kiệm lớn nhẩt
Mỹ được chính phủ tiếp quản và sau đó được bán lại cho JP Morgan Chase&
Co với giá 1.9 tỷ đôla
- Ngày 29/09: Quốc hội Mỹ bác bỏ kế hoạch giải cứu thị trường tài chính
Mỹ do bộ Tài chính Mỹ đề xuất.
- Ngày 30/09: Ngân hàng khổng lồ Wachovia của Mỹ, đồng thời là ngân
hàng cho vay dưới chuẩn lớn nhất Mỹ đồng ý bán lại bộ phận ngân hàng bán lẻ
cho đối thủ Citigroup.
Danh sách các tổ chức tài chính bị phá sản hoặc phải sáp nhập trong
cuộc khủng hoảng Mỹ:
Tên Quy mô Thiệt hại Giải pháp

1
Lehman Brothers
Tổng tài sản: 639 tỷ đôla
Tổng vốn góp cổ phần:
$22490 tỷ đôla
Số lượng nhân viên: 26200
người

Là một trong 4 ngân hàng
đầu tư lớn nhất của Hoa Kỳ
Nợ ngân hàng: 613 tỷ
đôla
Nợ trái phiếu: 155 tỷ
đôla
Cổ phiếu mất giá trên
90% vào ngày
15/09/2008
15/09/2008: nộp đơn phá sản theo
chương 1 Luật Phá sản Mỹ
Là vụ phá sản lớn nhất trong lịch
sử Hoa Kỳ
2
Merrill Lynch
Tổng tài sản: 1,02 nghìn tỷ
đôla
Số lượng nhân viên: 60.000
người
Xếp thứ 32 trong danh sách
Global 2000 (các công ty lớn
nhất thế giới)
Thua lỗ quý IV/2007:
9,83 tỷ đô
Thua lỗ ròng quý
I/2008: 1,97 tỷ đôla
mất giá tài sản
(2007): 16,7 tỷ đôla
Bán cho ngân hàng Mỹ (BoA)
với giá 50 tỷ đôla

3
AIG
Tổng tài sản: 1,05 nghìn tỷ
đôla
Tổng vốn góp ổ phần 78,09
tỷ đôla
Số lượng nhân viên: 116.000
người
Xếp thứ 6 trong danh sách
Global 2000 (các công ty lớn
nhất thế giới)
Cổ phiếu mất giá
60% vào ngày
16/09/2008
Thua lỗ 6 tháng đầu
năm 2008: 13,2 tỷ
đôla
16/09/2008: Cục Dự trữ Liên
bang Mỹ (FED) cấp tín dụng 80
tỷ tương đương 79,9 % cổ phần
4
Countrywide
Financial
Tổng tài sản: 211 tỷ đôla
Là tập đoàn chiếm 20% tổng
thế chấp của Mỹ, tương
đương 3,5 GDP
Tổ chức tiết kiệm và cho vay
Thua lỗ (2007): 2,5 tỷ
đôla

Mất giá tài sản
(2007): 1 tỷ đôla
01/07/2008: Bán cho ngân hàng
Mỹ với giá 4,1 tỷ đôla
lớn thứ 3, đồng thời là ngân
hàng có tốc độ phát triển
nhanh nhất trong lịch sử
nước Mỹ
5
Bear Stearns
Tổng tài sản: 350,4 tỷ đôla
Tổng vốn góp cổ phần: 66,7
tỷ đôla
Số lượng nhân viên: 15.500
người
Là công ty chứng khoans lớn
thứ 7 thế giới
Thiệt hại quý
IV/2007: 859 triệu
đôla
Mất giá tài sản
(2007): 1,9 tỷ đôla
30/05/2008: Bán cho JP Morgan
Chase với giá 1,1 tỷ đôla
6
IndyMac
Tổng tài sản: 32 tỷ đô
Là tổ chức cho vay và gửi
tiết kiệm lớn nhất ở Los
Angeles. Đồng thời là tổ

chức thế chấp lớn thứ 7 ở
Hoa Kỳ
Tiền gửi khách hàng:
19 tỷ đô
Chi phí 8,9 tỷ đô cho
bảo hiểm tiền gửi
Chi phí 541 triệu đô
cho các khoản tiền
gửi vượt mức bảo
hiểm
11/07/2008: Tập đoàn Bảo hiểm
Tiền gửi Liên bang Mỹ FDIC tiếp
quản
7
Freddie Mac
Tổng tài sản: 794,4 tỷ đôla
Tổng vốn góp cổ phần: 26,7
tỷ đôla
Số lượng nhân viên: 5.281
ngườich
Là công ty công lớn thứ 20
trên thế giới
là công ty tài chính lớn thứ 2
về thế chấp tại Mỹ
Thua lỗ (2007): 4,6 tỷ
đôla
Thua lỗ quý II/2008:
821 triệu đôla
07/09/2008: FED kí hợp đồng bỏ
ra 1 tỷ đô hỗ trợ cho Freddie

Mac, đổi lại giành quyền kiểm
soát các cổ phiếu ưu đãi đặc biệt
của công ty này.
8
Fannie Mae
Tổng tài sản: 882,5 tỷ đôla
Tổng vốn góp cổ phần: 44 tỷ
đôla
Là tổ chức hàng đầu trong thị
trường thế chấp dưới chuẩn
của Mỹ
Thua lỗ (2007): 2 tỷ
đôla
Thua lỗ quý II/2008:
2,3 tỷ đôla
07/09/2008: cùng với Freddie
Mac bị FED tiếp quản
9
New Century
Financial Corp
Tổng thu nhập (năm 2006):
417 triệu đôla
Giá bán trên thị trường: 1,75
tỷ đôla
Số lượng ngân viên: 7.200
người
Là tập đoàn cho vay dưới
chuẩn lớn nhất của Mỹ
Cổ phiếu mất 90%
giá trị (tháng

03/2007)
Giá trị thị trường
giảm xuống còn 55
triệu đôla
Nộp đơn phá sản theo chương 11
Luật Phá sản Mỹ
10
Ameri Bank
Tổng tài sản: 115 triệu đôla Tiền gửi khách hàng:
102 triệu đôla
Chi phí 42 triệu đôla
cho quỹ bảo hiểm tiền
19/09/2008: Tập đoàn Bảo hiểm
Tiền gửi Liên Bang Mỹ FDIC
tiếp quản
gửi
11
Washington
Mututal Inc
Tổng tài sản: 307 tỷ đôla
Washington Mutual là ngân
hàng tiết kiệm lớn nhất Mỹ
Thua lỗ 53 tỷ đôla để
từ tháng 6 và 17 tỷ
đôla trong 2 tuần gần
đây
26/09/2008: Chính phủ tiếp quản
và sau đó bán lại cho JP Morgan
Chase & Co với giá 1,9 tỷ đôla
12

Wachovia
Là ngân hàng lớn thứ 6 ở Mỹ
Tổng tài sản: 327,9 tỷ đôla
Giá cổ phiếu của
Wachovia đã sụt giảm
tới 81,6%, còn 1,84
USD/ cổ phiếu
Thua lỗ 9,7 tỷ đôla
trong nửa đầu năm
nay
30/09/2008: bị bán lại hco Citi
Group với giá 2,16 tỷ đôla
Nguồn: IRIC tổng hợp
4. Nguyên nhân:
Cuộc khủng hoảng lần này không phải là quá bất ngờ với giới tài chính
Mỹ nói riêng và thế giới nói chung. Nó là kết quả của một chuỗi những rủi ro
liên tiếp mà chính các tổ chức tài chính, ngân hàng ở Mỹ tạo ra cho chính
mình.
Có thể tóm lại một số nguyên nhân chính, mà thực chất là hệ quả của
nhau – đã dẫn đến cuộc khủng hoảng tất yếu này ở Mỹ.

* Cho vay dưới chuẩn
Các ngân hàng đầu tư Mỹ đã sử dụng nghiệp vụ chứng khoán hóa
(securitisation) để biến các khoản cho vay mua bất động sản thành các gói trái
phiếu có gốc bất động sản (MBS, CDO) đầy rủi ro cung cấp cho thị trường.
Khi nền kinh tế đi xuống, người vay tiền mua nhà không trả được các
khoản vay mua nhà thì rủi ro tín dụng được chuyển sang các gói trái phiếu có
các danh mục tín dụng bất động sản làm tài sản đảm bảo. Khủng hoảng càng
gia tăng thì việc phát mại tài sản càng tăng làm giá bất động sản càng giảm.
Điều này có nghĩa giá trị tài sản đảm bảo của trái phiếu càng giảm và rủi ro tín

dụng càng tăng.
Vòng xoáy khủng hoảng cứ tiếp tục như vậy, làm cho giá chứng khoán
sụt giảm mạnh. Các ngân hàng đầu tư mặc dù không nắm giữ toàn bộ rủi ro
nhưng cũng trực tiếp hoặc gián tiếp duy trì một số danh mục chứng khoán liên
quan đến bất động sản. Hậu quả là hàng loạt ngân hàng đầu tư lần lượt báo cáo
các khoản lỗ kinh doanh.
Bảng cân đối tài sản ngân hàng Mỹ vào cuối tháng 12 năm 2007
Tích sản (asssets) Tiêu sản (liabilities)
Cho vay 6,8 Tiêu sản 10,7
Chứng khoán 4,8 Vốn tự có (equity) 0,9
Trong đó dưới chuẩn 0,7
Tổng tích sản 11.6 Tổng tiêu sản 11,6
* Mua bán khống
Khi giới đầu cơ đoán chắc rằng cổ phiếu của những tập đoàn dính líu
đến cho vay dưới chuẩn sẽ sụt giảm, họ ồ ạt vay những cổ phiếu này rồi ồ ạt
bán ra, tạo nên một áp lực giảm giá lớn không gì cứu vãn nổi. Sau khi giá giảm
đến một mức nào đó, họ sẽ mua và trả lại nơi cho vay cộng thêm một ít phí,
còn bao nhiêu tiền chênh lệch họ sẽ hưởng trọn.
Thậm chí, họ còn áp dụng cách thức mua bán khống đến hai lần (naked
short sale), tức là không thèm vay chứng khoán nữa mà cứ ra lệnh bán theo
kiểu “đánh xuống” vì lợi dụng khe hở, mua bán ba ngày sau mới giao cổ
phiếu. Bộ trưởng Tư pháp bang New York, Andrew Cuomo than: “Họ giống
như kẻ hôi của sau một cơn bão”.
* Thiếu cơ chế giám sát chặt chẽ
Có tiền, các công ty cứ thoải mái cho người vay bằng tiền của các ngân
hàng đầu tư cung cấp thông qua mua lại danh mục cho vay của các công ty
này. Các ngân hàng này trên cơ sở danh mục cho vay vừa mua lại sẽ phát hành
CK để vay tiền. Danh mục cho vay được chia ra, ít rủi ro, rủi ro cao, tùy định
mức tín nhiệm, nhà đầu tư tha hồ lựa chọn theo sự mạo hiểm của mình. Có loại
CK không cần định mức tín nhiệm, có thể thu lãi cao nhưng rủi ro cũng lớn.

Như vậy, rủi ro trong cho vay đã được chuyển từ bên cho vay là công ty
tài chính sang NH đầu tư. Nhà đầu tư lắm tiền trên thế giới đã đổ tiền mua CK
này, nhờ vậy đã cung cấp một lượng vốn khổng lồ cho thị trường BĐS ở Mỹ
tăng nóng.
Giáo sư kinh tế Joseph Stiglitz, người được giải thưởng kinh tế Nobel
kinh tế 2001, kết luận: “Hệ thống tài chính của Mỹ đã không thực hiện được
hai trách nhiệm chính của mình đó là quản lý rủi ro và phân chia vốn. Cả hệ
thống tài chính Mỹ đã không làm những gì mà nó đáng ra phải làm - chẳng
hạn như tạo ra các sản phẩm để giúp người Mỹ quản lý được những rủi ro
nguy hiểm nghiêm trọng của mình, như là giữ lại được nhà khi mức lãi suất
cho vay tăng cao hoặc khi giá nhà rớt giá”.
* Khủng khoảng niềm tin
Theo GS. Joseph Stiglitz, cuộc khủng hoảng bắt đầu tư sự sụp đổ thảm khốc
của niềm tin. Các ngân hàng đánh đố lẫn nhau về mức độ cho vay cũng như tài
sản. Những giao dịch phức tạp được tạo ra để loại bỏ rủi ro và che giấu những
trượt giá giá trị tài sản thực của ngân hàng. Đây là một trò chơi mà con người
ta khi bắt đầu cảm nhận thấy mùi của sự thua lỗ và nhìn vào hệ thống tài
chính, khi đó thua lỗ xuất hiện, cả thị trường xuống dốc và tất cả mọi người
đều bị thua lỗ.
Thị trường tài chính xoay quanh trục nguyên tắc độ tin cậy, và độ tin
cậy đó đã bị xói mòn, xuống cấp. Sự sụp đổ của Lehman là biểu tượng đánh
dấu mức độ tin cậy đã xuống một mức thấp mới và dư âm của nó sẽ còn tiếp
tục.
Liên hệ với Việt Nam:
VN chưa nhiều tiền để mua CK từ tín dụng dưới chuẩn vì thế không bị
ảnh hưởng trực tiếp. Cũng khó để nói rằng ta giống họ. Với tín dụng BĐS,
theo một quan chức NH Nhà nước, hầu hết tín dụng BĐS ở VN đều có thế
chấp, người vay phải có thu nhập ổn định, vay 1 tỉ phải thế chấp tài sản tối
thiểu 1,5 tỉ đồng.
Có một ít trường hợp vay thế chấp bằng chính tài sản hình thành từ vốn

vay nhưng người vay được chọn lọc, phải có thu nhập cao và NH trực tiếp
kiểm soát nợ vay.
Cũng có NH dùng vốn ngắn cho vay dài hạn BĐS, đã được NH Nhà
nước cảnh báo từ cuối năm 2007 và chấn chỉnh khi thực hiện thắt chặt tiền tệ.
Điều quan trọng là tỉ trọng cho vay BĐS không lớn, tại TP.HCM khoảng 11%
tổng dư nợ nhưng gồm cả cho vay làm nhà xưởng, khu công nghiệp, nhà ở
IV. ẢNH HƯỞNG CỦA CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH MỸ ĐỐI
VỚI VIỆT NAM
Cuộc khủng hoảng thế kỷ” của nền kinh tế Mỹ rõ ràng đã và đang tác động
mạnh mẽ đến nền kinh tế trên thế giới, kéo theo đó là các cuộc khủng hoảng
với quy mô rộng trên thị trường chứng khoán, bất động sản, tài chính, tín
dụng đang có nguy cơ bùng nổ. Tuy nhiên các chuyên gia kinh tế nhận định:
Cuộc khủng hoảng mới chỉ tác động ở một mức độ chậm chưa đủ mức có thể
làm “khuynh đảo” đối với nền kinh tế Việt Nam, vấn đề ở chỗ Việt Nam cần
có một chính sách tiền tệ đúng đắn để thoát khỏi vòng xoáy của cuộc khủng
hoảng này.
1. Tài chính – Ngân hàng:
Bộ Tài chính khẳng định, biến động của thị trường tài chính Mỹ chưa ảnh
hưởng đến thị trường bảo hiểm Việt Nam, trong đó hai công ty bảo hiểm của
AIG vẫn hoạt động bình thường, đáp ứng được các quy định về vốn và khả
năng thanh toán. Hơn nữa, do AIG mới chiếm 5,5% thị phần nên không có khả
năng làm đảo lộn thị trường bảo hiểm Việt Nam. Trong khi đó Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam khẳng định, Công ty tiếp nhận Tập đoàn Chinfon của Đài
Loan, cũng đang tiến hành giải quyết những khoản nợ của Ngân hàng Chinfon
Việt Nam theo đúng thủ tục.
Theo nhận định của các Bộ hữu quan, thì cuộc khủng hoảng ở Mỹ sẽ ít ảnh
hưởng trực tiếp đến thị trường tiền tệ và hoạt động ngân hàng của Việt Nam vì
thị trường tài chính Việt Nam chưa có sự liên thông với thị trường tài chính
Mỹ và các nước phát triển khác.
Các ngân hàng thương mại hoạt động bình thường vì không có các mối liên hệ

trực tiếp đối với các ngân hàng đầu tư, tổ chức tài chính bị phá sản hoặc gặp
khó khăn về tài chính. Các ngân hàng trong nước đã chủ động rút tiền gửi ở
nước ngoài về và gửi một phần vào các ngân hàng có uy tín cao ở Hồng Kông
và Singapore để linh hoạt trong sử dụng. Hai ngân hàng 100% vốn nước ngoài,
các chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh hoạt động ổn định
vì ngân hàng mẹ ít bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng.
Thủ tướng nhấn mạnh, lạm phát trong tháng 9 giảm mạnh, tỷ giá đồng Việt
Nam với đô la Mỹ phù hợp, tính thanh khoản của các ngân hàng tốt, trong khi
đó đầu tư gián tiếp vào thị trường chứng khoán ổn định, cán cân thanh toán
thặng dư đi cùng với dự trữ ngoại tệ tăng và thị trường nội địa lớn chính là nền
tảng quan trọng để nền kinh tế có đủ tiềm lực tiếp tục duy trì tăng trưởng. Thủ
tướng Nguyễn Tấn Dũng bày tỏ tin tưởng, tình hình này không chỉ đòi hỏi nền
kinh tế có khả năng thích ứng và đối phó mà còn phải có khả năng xoay
chuyển tình hình để tận dụng được thời cơ vượt qua khó khăn.
Lãi suất qua đêm đồng Việt Nam trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng ổn định
ở mức 14%/năm. Lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam có xu hướng ổn định:
Các ngân hàng thương mại nhà nước cho vay ở mức 18,2%-19,5%/năm, riêng
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam áp dụng mức lãi suất 17,5%/năm
đối các các khách hàng là doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế trực tiếp
tạo sản phẩm, tham gia xác lập và bình ổn các cân đối lớn của nền kinh tế; các
ngân hàng thương mại cổ phần cho vay ở mức 20,2%-20,5%/năm.
Tỷ giá bán chuyển khoản của các ngân hàng thương mại trong ngày 2/10 ở
mức 16.570 đồng, tăng 10 đồng so với ngày 26/9. Giá vàng trên thị trường
giảm từ mức 1,805 triệu đồng/1 chỉ xuống 1,780 triệu đồng/1 chỉ, phù hợp với
biến động của giá vàng trên thị trường thế giới.
2. Chứng khoán:
Lo sợ về cuộc khủng hoảng tài chính, chỉ số chứng khoán ở Mỹ kết thúc phiên
giao dịch ngày 28/8 xuống điểm ở mức đáng báo động. Liệu cơn bão tín dụng
tại Mỹ có “quét” đến các thị trường châu Á, trong đó có VN?

×