Sáng kiến kinh nghiệm
I.MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
a. Lý do khách quan:
Con người sống trong xã hội tất nhiên
không thể thiếu hoạt động giao tiếp. Ngôn ngữ
là một phương tiện quan trọng với chức năng
phục vụ cho tư duy và giao tiếp. Ở Tiểu học,
môn Tiếng Việt có chức năng rèn luyện kĩ
năng về ngôn ngữ cho học sinh. Khi học đến
chương trình lớp 4, trong các tiết Tập làm văn,
học sinh có điều kiện tiếp cận với vẻ đẹp của
con người, thiên nhiên; có dịp hướng tới cái
chân, cái thiện, cái mĩ được định hướng trong
các đề bài. Khi được học về thể loại văn miêu
tả, học sinh được rèn luyện cách nhìn đối
tượng trong quan hệ gần gũi giữa người và vật.
Những cơ hội đó góp phần xây dựng tình cảm
yêu mến, gắn bó với thiên nhiên, làm cho tâm
hồn, tình cảm của trẻ thêm phong phú. Đó
cũng là một trong những nhân tố quan trọng
trong việc hình thành nhân cách tốt đẹp cho trẻ
trong giao tiếp, trong cuộc sống.
b. Lý do chủ quan:
Hiện nay, việc đổi mới phương pháp
dạy học là một yêu cầu cấp bách trong xu thế
đổi mới dạy học ở Tiểu học. Ta đã từng biết,
hiện có rất nhiều phương pháp dạy học để
người giáo viên có thể lựa chọn, sử dụng trong
thực tiễn dạy học của mình.
Từ thực tiễn nêu trên, tôi mạnh dạn
chọn đề tài “Rèn kĩ năng viết văn miêu tả lồi
vật cho học sinh lớp 4”, bước đầu tiếp cận,
tìm hiểu ở học sinh, cụ thể là ở trường Tiểu
học Long Hồ , phối hợp với việc nghiên cứu
các tài liệu có liên quan cùng với các tiết thực
giảng của giáo viên trong giờ dạy-học phân
môn Tập làm văn nhằm đưa ra những giải
pháp góp phần nâng cao chất lượng học tập
của học sinh và lấy đó làm kinh nghiệm sau
này.
Trang 1
Sáng kiến kinh nghiệm
2. Mục đích nghiên cứu:
Kết quả học tập của học sinh là thước
đo kết quả hoạt động của giáo viên và học
sinh. Trong quá trình dạy học, điểm tập trung
là bản thân người học, chứ không phải là
người dạy.Vì thế trong khi dạy học, cần tạo
điều kiện cho học sinh chủ động tiếp thu các
kiến thức, kĩ năng…, biết biến những cái đó
thành kiến thức, kĩ năng của mình. Nói cách
khác là biến điều cần học thành cái “vốn”, cái
“tài sản” của bản thân. Học tập như vậy khiến
sự hiểu biết của các em được vững chắc hơn,
hứng thú học tập của các em được tăng cường
hơn.
Để đáp ứng với yêu cầu trên, khi dạy thể
loại văn miêu tả cho học sinh lớp 4, cụ thể là
miêu tả lồi vật, tôi đã từng đắn đo, suy nghĩ rất
nhiều. Làm thế nào để truyền thụ cho các em
những cách thức hành văn, biến cái đó thành
kĩ năng vận dụng của từng em. Vì thế, tôi đã
tiến hành nghiên cứu đề tài này.
3. Lịch sử đề tài:
Ngày trước, khi dạy văn miêu tả cho
học sinh lớp 4, với các nội dung và phương
pháp dạy học cổ truyền đã phần nào bộc lộ
những hạn chế nhất định và thu hẹp óc sáng
tạo của trẻ, học sinh học tập một cách thụ
động, nhàm chán và hiệu quả không cao.
Hiện nay, trong chương trình Tiếng Việt
tiểu học mới, khi dạy thể loại văn miêu tả có
cơ cấu nội dung sinh động, vừa gần gũi cuộc
sống thực tế của học sinh vừa mở rộng tầm
hiểu biết của các em.
Từ thực tế nêu trên, tôi chọn nghiên cứu
đề tài này với hi vọng mang lại cho người giáo
viên một số “kĩ thuật” trong việc giảng dạy kĩ
năng viết văn miêu tả cho học sinh lớp 4. Tôi
mong rằng những “kĩ thuật nhỏ” nàysẽ trở
thành “chìa khóa” mở ra cho giáo viên chúng
ta những cách thức giảng dạy hiệu quả hơn,
học sinh học tập tốt hơn.
Trang 2
Sáng kiến kinh nghiệm
4. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Trước kia, khi giảng dạy thể loại văn
miêu tả, người ta tin rằng học sinh sẽ đạt được
kết quả học tập tốt khi giáo viên giải thích kiến
thức một cách đầy đủ, rõ ràng, còn học sinh
chỉ cần nghe, tập trung ghi nhớ đầy đủ kiến
thức đó. Trong những năm gần đây, các
nghiên cứu giáo dục đã khẳng định việc học
của trẻ em sẽ đạt được hiệu quả cao khi các
em được tích cực tham gia vào quá trình học
tập.
Khi học văn miêu tả lồi vật, giáo viên
làm thế nào để giúp các em có kĩ năng viết
được bài văn đúng yêu cầu có nội dung phong
phú. Các em không cần rập khuôn theo cách
hành văn mẫu hoặc e dè, sợ sệt, thiếu tự tin khi
làm một bài Tập làm văn.
5. Phạm vi nghiên cứu:
Trên cơ sở nghiên cứu “Rèn kĩ năng
viết văn miêu tả lồi vật cho học sinh lớp 4”,
đề tài bắt đầu thực hiện từ ngày 10
tháng 4 năm 2009 đến hết ngày 1 tháng 5 năm
2009, tại lớp Bốn /3 trường Tiểu học Long
Hồ .
6. Các phương pháp nghiên cứu:
1-Phương pháp điều tra
2-Phương pháp vấn đáp
3-Phương pháp phân tích
4-Phương pháp quan sát
5-Phương pháp thực hành.
II. NỘI DUNG CÔNG VIỆC ĐÃ
LÀM
1. Thực trạng đề tài:
Với mong muốn thực hiện đổi mới phương
pháp dạy học, làm thế nào để học sinh học tập
đạt hiệu quả nhất nên ngay từ đầu năm học, tôi
đã nhanh chóng nắm bắt tình hình học tập của
lớp. Được phân công chủ nhiệm lớp Bốn/3, sĩ
Trang 3
Sáng kiến kinh nghiệm
số 33 học sinh, tôi tiến hành kiểm tra, nhận
xét:
Do đặc thù lứa tuổi còn nhỏ nên vốn kinh
nghiệm sống, vốn kiến thức về ngôn ngữ
của các em chưa nhiều dẫn tới khả năng
diễn đạt lời văn còn kém.
Ơû lớp 3, các em chưa được làm quen với
việc quan sát và trả lời câu hỏi về con vật
nên các em còn bỡ ngỡ.
Sự tự suy nghĩ, tưởng tượng và sáng tạo
chưa được phát huy ở các em khi viết văn.
Không quen dùng lời nói, vốn từ ngữ còn
nghèo nàn, chưa thành thạo các mẫu câu
nên diễn đạt các lời nói khi mô tả còn khó
khăn.
Lối sống hồn nhiên, vô tư, chưa quan sát
tinh tế và để ý đến những con vật xung
quanh mà các em vẫn thường nhìn thấy.
Bên cạnh những khó khăn trên cũng có
không ít một số mặt thuận lợi cho học sinh:
Để hồn thành một bài văn miêu tả, chương
trình sách giáo khoa lớp 4 phân phối thành
nhiều tiết, mỗi tiết tìm hiểu một bộ phận
của bài văn.
Hiện nay, việc vận dụng công văn 896
(BGD-ĐT) đã giúp giáo viên tự chủ rất
nhiều trong việc phân phối các tiết dạy phù
hợp với tình hình cụ thể của lớp mình.
Sách giáo khoa cung cấp nhiều cách thức
lựa chọn và khá nhiều vốn từ ngữ cho học
sinh khi bước đầu miêu tả lồi vật.
Các em thực hành miêu tả những con vật
gần gũi, quen thuộc hằng ngày. Bên cạnh
đó, bộ tranh dạy Tập làm văn rất sinh động,
màu sắc đẹp, hình ảnh to, rõ phục vụ cho
quan sát những con vật ít nhìn thấy (con
ngựa, con đại bàng, con tê tê…)
Miêu tả lồi vật là một mảng kiến thức trong
thể loại văn miêu tả của chương trình Tập
làm văn lớp 4. Trước khi học văn miêu tả
lồi vật, các em đã được học miêu tả đồ vật,
miêu tả cây cối nên cũng đã nắm được thể
loại văn miêu tả.
Trang 4
Sáng kiến kinh nghiệm
2. Nội dung cần giải quyết:
Để giúp học sinh tự tin hồn thành một bài văn
miêu tả lồi vật, giáo viên cần lưu ý:
1. Cần nắm được cấu tạo của bài văn miêu
tả lồi vật.
2. Vận dụng tối đa kĩ năng quan sát khi
miêu tả lồi vật.
3. Cần phát huy trí tưởng tượng (so sánh,
nhân hóa) khi miêu tả.
4. Biết lựa chọn những chi tiết đặc trưng
làm nổi rõ đặc thù riêng của từng lồi vật.
5. Biết biểu lộ sắc thái tình cảm đối với con
vật mình yêu thích khi miêu tả.
Trên đây là một số nội dung cốt lõi cần giải
quyết. Vì vậy, để đạt được mục tiêu của đề tài,
tôi đã nghiên cứu, giải quyết các nội dung trên
bằng một số biện pháp thực hiện như sau:
3. Biện pháp thực hiện:
a/ Để rèn cho học sinh có kĩ năng viết
tốt, trước hết giáo viên cần giúp học sinh
nắm cấu tạo của một bài văn miêu tả lồi vật.
Để miêu tả lồi vật, tất nhiên học sinh biết
rõ một bài văn phải có đủ ba phần:
Mở bài
Thân bài
Kết bài
Phần mở bài, giáo viên luôn hướng dẫn
học sinh cần bám vào đề bài mà giới thiệu con
vật mình sẽ tả (hồn cảnh, thời gian, con vật gì
…)
Phần thân bài, giáo viên cần giúp học
sinh nắm rõ: Khi miêu tả con vật cần tả ngoại
hình của con vật rồi mới tả thói quen sinh
hoạt và một vài hoạt động chính của con vật.
Giáo viên phải khắc sâu cho học sinh nắm rõ
ràng để có thể viết văn tả bất kì con vật nào.
Sách giáo khoa cũng cho học sinh thấy rất rõ
cấu tạo này qua bài viết “Con mèo hung”
STV 4 – tập 2 –trang 112.
Phần kết bài, giáo viên hướng dẫn học
sinh biết cách nêu cảm nghĩ của mình đối với
Trang 5
Sáng kiến kinh nghiệm
con vật đã tả ( bày tỏ tình yêu thương hoặc
nhận biết được những giá trị kinh tế mà con
vật đó mang lại cho gia đình )
b/ Cần vận dụng tối đa kĩ năng quan sát khi
miêu tả lồi vật.
Vê-rô-ki-ô – một danh họa nổi tiếng người
I-ta-li-a – đã từng nói rằng “Đừng tưởng vẽ
trứng là dễ! Trong một nghìn quả trứng xưa
nay không có lấy hai quả hồn tồn giống nhau
đâu”. Thế mới thấy kĩ năng quan sát thật là
quan trọng. Đối với bài văn miêu tả lồi vật,
giáo viên cần lưu ý hướng dẫn học sinh quan
sát các con vật có ở nhà mình như mèo, chó,
lợn, gà, vịt… sau đó lập dàn ý, ghi chép lại
những gì mình đã quan sát được. Khi đến lớp,
các em có thể quan sát tranh ảnh các con vật
quen thuộc (như trên) và tái hiện lại hình ảnh
con vật quen thuộc của mình ở trong đầu cùng
với những gì đã ghi chép được sau quan sát rồi
miêu tả lại.
Cần quan sát kĩ để mô tả lại. Khi đọc mười
bài văn tả con mèo của học sinh, nếu học sinh
biết quan sát kĩ, ta sẽ nhận được kết quả mười
bài viết về mười chú mèo với màu sắc, kích
cỡ,… khác nhau, tạo sự sinh động, phong phú
hơn cho tiết học.
c/ Rèn cho học sinh có thói quen liên tưởng,
tưởng tượng (so sánh, nhân hố) khi miêu tả.
Bài văn sẽ rất “khô khan” nếu các em chỉ
ghi thực lại những điều đã quan sát. Thực ra,
nếu biết liên tưởng so sánh với các sự vật
khác, đôi khi biết nhân hóa một số sự vật, hiện
tượng sẽ giúp bài văn trở nên hấp dẫn, sinh
động hơn.
Ví dụ:
Khi làm văn miêu tả con gà trống, một học
sinh đã viết như sau:
“… Chú gà nhà em đã ra dáng một chú gà
trống đẹp. Thân hình của chú chắc nịch được
bao phủ bởi một lớp lông nhiều màu như cam,
nâu đỏ, đen, xanh. Cái đầu chú thon, tròn như
quả trứng. Trên đỉnh đầu là một chiếc mào gà
đỏ chót như đốm lửa. Bên dưới là hai cái tích
mỏng như hai chiếc lá và đỏ không kém gì cái
Trang 6
Sáng kiến kinh nghiệm
mào trên đầu. Thật ngộ nghĩnh là hai mắt của
chú, nó cứ tròn xoe như hai hòn bi ve thu nhỏ,
sáng long lanh. Gà trống có cái mỏ cứng và
chắc như hai mảnh vỏ trấu chắp lại nhưng to
hơn nhiều. Chú có bộ lông cổ màu vàng cam
mượt như tơ và lóng lánh. Đôi cánh dài, cứng
cáp trông rất mạnh mẽ. Nổi bật nhất là đôi
chân săn chắc với những chiếc cựa và móng
sắc dùng làm vũ khí. Cái đuôi cong vút trông
chú thật đỏm dáng…”
Học sinh chỉ cần so sánh những gì quan
sát được với những vật gần gũi quanh mình
cũng đủ cho thấy sự tinh tế của các em đối với
cuộc sống.
Ví dụ : Các em đã biết so sánh màu đỏ
của chiếc mào gà với đốm lửa, độ mỏng của
hai cái tích so với chiếc lá, đôi mắt được so
sánh với hai hòn bi ve thu nhỏ.
Khi dạy cho học sinh biết nhân hố sẽ cho
thấy trí tưởng tượng của các em vô cùng
phong phú.
Ví dụ: Học sinh đã viết “… Tiếng gáy to,
khoẻ đã giúp chú khẳng định mình là thủ lĩnh
của đám gà trong xóm này…”
d/ Giúp học sinh biết lựa chọn những chi
tiết đặc trưng làm nổi rõ đặc thù riêng của
từng con vật. Không hẳn cứ quan sát thấy
những gì là học sinh sẽ phải tả lại tồn bộ.
Ví dụ:
Khi tả hoạt động của con mèo, cần lưu ý hoạt
động đặc trưng của mèo là bắt chuột. Một học
sinh sau khi quan sát đã viết:
“… Bọn chuột chính là kẻ thù số một của
Misa. Một hôm, em thấy Misa đang rình ở bồ
thóc. Số là hằng ngày bọn trộm chuột thường
đến ăn vụng ở đây. Bỗng Misa co mình lại, dặt
dặt cái đuôi lấy đà rồi “phốc” một cái, tên
chuột ngu ngốc kia đã nằm gọn trong móng
vuốt của Misa. Tuy dữ thế nhưng Misa cũng
rất hiền. Sáng sáng, chú tự đùa với cái đuôi
hay cái bóng của mình, cũng có khi là quả
banh nhỏ của em nữa. Buổi chiều, em đang
ngồi học bài, Misa rón rén lại gần, dụi dụi
Trang 7
Sáng kiến kinh nghiệm
vào tay em như muốn em vuốt ve bộ lông mượt
mà của chú…”
e/ Giúp học sinh biết cách biểu lộ sắc thái
tình cảm đối với con vật mình yêu thích khi
miêu tả. Biết yêu thương và chăm sóc những
con vật gần gũi, có ích như chó, mèo. Biết
được những giá trị kinh tế do các con vật
mang lại cho gia đình mình như bò, lợn, gà,
vịt,… Giáo viên phải gợi ý, dẫn dắt để học
sinh biết dùng từ ngữ diễn đạt được tình cảm
của mình.
Ví dụ: Khi tả về con lợn một học sinh đã
viết như sau:
“… Vào những ngày nghỉ, em thường ra vườn
hái cho chú một ít rau lang hay rau muống,
chú ta tỏ vẻ thích chí lắm, phẩy phẩy cái đuôi
ngước nhìn như có ý cảm ơn em…”
f/ Bồi dưỡng cho học sinh vốn từ phong phú
bằng cách đọc cho học sinh nghe những đoạn
văn hay. Sau mỗi năm học, tôi thường lưu lại
những bài viết khá tốt của học sinh để làm tài
liệu cho những năm học sau. Khuyến khích
các em chăm đọc sách sẽ làm giàu hơn vốn từ
ngữ giúp các em dễ dàng chọn lọc các từ ngữ
miêu tả.
g/ Phân tích cho học sinh hiểu không nên
dùng những từ ngữ trong văn nói để viết
văn miêu tả.
Ví dụ:
Đôi mắt chú mèo tròn vo,màu xanh lè.
Đôi mắt chú mèo tròn xoe như hai hòn bi
ve, ánh lên màu xanh biếc.
Cái đầu của chú gà không bự lắm, chỉ cỡ
quả chanh.
Cái đầu của chú gà không to lắm, chỉ
nhỉnh hơn quả chanh một tí.
h/ Đối với các học sinh yếu kém, vốn từ ngữ
khá nghèo nàn, giáo viên nên từng bước gợi ý,
dẫn dắt để các em biết dùng ngôn từ diễn đạt.
Trang 8
Sáng kiến kinh nghiệm
Tránh để các em yếu kém chỉ làm bài văn
miêu tả ở dạng liệt kê.
Ví dụ: Năm vừa qua, một học sinh đã có
bài viết:
“… Con gà nhà em có cái đầu nhỏ. Thân nó
tròn. Có hai chân và hai cánh. Nó có một cái
đuôi. Lông nó nhiều màu ”
k/ Phải rèn cho học sinh có thói quen lập
dàn ý trước khi miêu tả. Dựa vào dàn ý đã lập,
các em có cơ sở để tiến hành quan sát, lựa
chọn ngôn từ mà đúc kết thành bài văn. Chính
vì mỗi con vật có đặc điểm về hình dáng, hoạt
động riêng nên cần có dàn ý chi tiết khi miêu
tả.
Ví dụ: Trước khi viết bài văn miêu tả con
mèo, học sinh đã lập dàn ý như sau:
1. Mở bài: Giới thiệu về con mèo (hồn
cảnh, thời gian…)
2. Thân bài:
a) Tả ngoại hình của con mèo:
- Bộ lông
- Cái đầu
- Hai tai
- Đôi mắt
- Bộ ria
- Bốn chân
- Cái đuôi
b) Tả hoạt động chính của con vật.
Hoạt động bắt chuột:
- Động tác rình
- Động tác vồ
Hoạt động đùa giỡn của con mèo.
3. Kết luận: Cảm nghĩ chung về con mèo.
l/ Để bài viết được mạch lạc, giáo viên nên
rèn học sinh khi miêu tả một chi tiết thì viết
thành một câu. Tránh trường hợp học sinh
viết câu văn quá dài, ý tưởng lủng củng.
n/ Giáo viên nên tạo không khí vui vẻ thoải
mái trong giờ học. Nên khen thưởng, khích lệ
những tiến bộ dù nhỏ của học sinh. Tôn trọng
bài viết của các em, nếu chưa phù hợp, giáo
viên không nên la mắng, chỉ trích mà nên nhắc
Trang 9
Sáng kiến kinh nghiệm
nhở,sửa chữa và khuyến khích học sinh làm
bài viết tốt hơn.
m/ Ngồi những biện pháp nêu trên, đối với
sinh hoạt tổ khối, giáo viên nên thường xuyên
trình bày, trao đổi kinh nhiệm lẫn nhau về việc
dạy học sinh viết văn miêu tả lồi vật như thế
nào cho có hiệu quả.
4. Kết quả chuyển biến:
Sau thời gian thực hiện các biện pháp trên
cho việc “Rèn kĩ năng viết văn miêu tả lồi
vật cho học sinh lớp 4”, tôi đã nhận được
những kết quả hơn cả sự mong đợi:
Tất cả các em đều đã nắm được cấu tạo
bài văn miêu tả con vật.
Khi đã năm vững cách viết một bài văn
miêu tả lồi vật, các em tỏ ra yêu thích, luôn
thi đua nhau tìm tòi, sáng tạo hơn trong các
bài viết.
Lớp học sinh động, vui vẻ, có nền nếp
khi học văn miêu tả. Các học sinh yếu, kém
cũng đã viết được hồn thành bài văn. Tuy lời
văn không bóng bẩy, mượt mà nhưng các em
cũng đã có ý tưởng, dạn dĩ và tự tin khi làm
bài.
100% học sinh đạt yêu cầu về hồn
thành bài viết văn miêu tả lồi vật.
Dưới đây là một số bài viết tiêu biểu
của học sinh lớp tôi khi làm văn miêu tả lồi
vật.
Trang 10
Sáng kiến kinh nghiệm
Để đạt được kết quả nêu trên, tôi đã thực
hiện một số “kĩ thuật” nhỏ sau:
1. Nên hướng dẫn học sinh cách quan sát thực
tế con vật, ghi chép vào giấy nháp những
gì đã quan sát được, sau đó các em sẽ sắp
xếp, tổng hợp và lựa chọn ngôn từ để diễn
giải thành bài văn.
2. Nếu không có vật thật thì cho học sinh
quan sát tranh, không nên dạy văn miêu tả
chỉ có lời nói suông và trí tưởng tượng.
3. Quan tâm, theo dõi học sinh trung bình,
yếu kém; động viên, giúp đỡ thường xuyên
làm cho các em trở nên tự tin, dạn dĩ hơn.
Cổ vũ những tiến bộ dù nhỏ, thông cảm với
những khó khăn trong học tập của học sinh.
4. Tổ chức cho các em cùng trao đổi nhóm để
học tập những đoạn văn hay.
5. Dáng điệu, cử chỉ của giáo viên cần phải
thể hiện thái độ thân mật, hợp tác, khuyến
khích, đồng tình, tạo niềm tin cho các em.
6. Lời nhận xét của giáo viên giúp học sinh
hứng thú, tự tin hơn trong học tập. Chính
sự khéo léo của giáo viên sẽ mang đến một
không khí học tập sôi nổi. Từ đó, các em
trở nên hào hứng và yêu thích môn học
hơn.
7. Cần nghiên cứu kĩ nội dung bài dạy, có sự
chuẩn bị chu đáo về tranh ảnh, vật thật,…
trước khi lên lớp.
III.KẾT LUẬN
1. Tóm lược giải quyết:
Để giúp học sinh hồn thành tốt bài văn miêu
tả lồi vật, giáo viên cần lưu ý:
Trang 11
Sáng kiến kinh nghiệm
• Phải giúp học sinh nắm vững bố cục bài
văn miêu tả lồi vật.
• Hướng dẫn học sinh biết cách quan sát tỉ
mỉ khi miêu tả, điều này cũng sẽ là tiền đề
cho học sinh ở các cấp học sau.
• Học sinh không còn lệ thuộc vào các bài
văn mẫu. Chính óc quan sát và trí tưởng
tượng sẽ giúp các em tự tin hơn để có thể
miêu tả theo yêu cầu của giáo viên.
• Giáo viên không nên ra đề kiểm tra “hạn
hẹp”, “gói gọn” trong một nội dung và cần
ra đề “thống” để phát huy tối đa khả năng
của các em.
• Khi đã có thể viết hồn chỉnh một bài văn
miêu tả lồi vật sẽ giúp các em có cái nhìn
tinh tế hơn về thế giới xung quanh, bồi
dưỡng thêm tình yêu lồi vật, yêu thiên
nhiên, đất nước và con người.
Qua thời gian nghiên cứu và thực hiện, tôi
nhận thấy rằng đổi mới phương pháp dạy học
là cần thiết với xu thế hiện nay, song việc hài
lòng ngay với những phương pháp thực tại sẽ
không đem lại hiệu quả dài lâu, bởi vì trong
thực tế khách quan, cái mới luôn nảy sinh phát
triển đòi hỏi phải có sự thích ứng phù hợp.
2. Phạm vi đối tượng áp dụng:
Tôi hi vọng rằng những kinh nghiệm nhỏ trong
đề tài này sẽ được các anh chị giáo viên lớp 4
cùng tham khảo và thử nghiệm. Trong việc
rèn kĩ năng viết văn miêu tả lồi vật cho học
sinh lớp 4 sẽ còn nhiều ý kiến hay hơn nữa,
rất mong nhận được sự đóng góp để đề tài
ngày một hồn thiện hơn.
Trang 12
Sáng kiến kinh nghiệm
Iv. PHỤ LỤC
Tư liệu tham khảo:
1/ Sách Tiếng Việt lớp 4 –Tập 1,2 – NXB
Giáo dục – XB năm 2005.
2/ Sách giáo viên Tiếng Việt 4 – tập 1,2 –
NXB Giáo dục – XB năm 2005.
3/ “Thử đi tìm những phương pháp dạy học
hiệu quả” – Lê Nguyên Long – NXB Giáo dục
– XB năm 1998.
Long Hồ ,
ngày 5 tháng 5 năm 2009
Người thực
hiện
Nguyễn
Hồng Aùnh Nga
Trang 13