Tải bản đầy đủ (.pdf) (256 trang)

tư tưởng nhân văn và đạo đức kitô giáo với văn hóa việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.55 MB, 256 trang )


PHN M U 1
PHN NI DUNG
N CA KITÔ GIÁO 15
 15
u kin lch s, chính tr, kinh t xã hu Công nguyên
vi s hình thành và phát trin ca Kitô giáo 15
1.1.2. Ti v - ng vi s hình thành Kitô giáo 21
 25
i sáng lp Kitô giáo và Giáo h 25
1.2.2. Quá trình phát trin và phân phái ca Kitô giáo 35
K 49
1.3.1. Khái nim, ngun gc và kt cu Kinh thánh Kitô giáo 49
1.3.2. Khái quát v nm Kinh thánh 52
1 59

C CA KITÔ GIÁO 62
 62
 quan ca Kitô giáo 62
2.1.2. Nhân sinh quan Kitô giáo 66
 70
2.2.1. Tôn vinh con i là sn phm t 71
 cao quyn t ng ci 75
ng gii 83
 88
ng công bng và bác ái ca Kitô giáo 91
ng khing và nhn nhc ca Kitô giáo 115
ng khoan dung và tha th ca Kitô giáo 126
 134
c ca Kitô giáo có tính dung hp, tính
duy lý và h thng 134


c ca Kitô giáo có tính duy tâm, siêu hình 136
c Kitô giáo có tính ph bin 139
2 142

P VÀ NG CNG
C KITÔ GIÁO TRONG N
HÓA VIT NAM 144
 144
3.1.1. Bi cnh lch s  xã hi cho s du nhp Kitô giáo vào Vit Nam 144
n truyn giáo ca Kitô giáo  Vit Nam 150
  168
3.2.1. Nha Kitô giáo trong quá trình truyn giáo  Vit Nam 169
3.2.2. Nhng hn ch ca Kitô giáo trong quá trình hi nhp  Vit Nam 177
 181
c Kitô giáo n thc
truyn thng Vit Nam 182
c Kitô giáo  ng x
truyn thng Vit Nam 202
c Kitô giáo  chc ca
i Vit Nam 212
3 226

KT LUN CHUNG 228
Tài liu tham kho 231
Các công trình nghiên cu ca tác gi  tài 244
Ph lc
1

PHẦN MỞ ĐẦU


1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, việc nghiên cứu, học hỏi, tiếp thu,
chọn lọc các giá trị văn hóa của nhân loại, trong đó tư tưởng triết học tôn giáo
được xem là vấn đề cấp thiết. Toàn cầu hóa là xu thế tất yếu của thời đại,
nhưng nó cũng có tính hai mặt: một mặt nó sẽ mang lại cơ hội phát triển kinh
tế, khoa học công nghệ cho các quốc gia chậm phát triển; mặt khác, nó cũng
là thách thức lớn cho các quốc gia khi hội nhập về văn hóa.
Việt Nam là một nước đang phát triển, không thể nằm ngoài xu thế của
thời đại. Do vậy Đảng và Nhà nước ta chủ trương là cần phải chủ động hội
nhập, chủ động tiếp nhận những yếu tố tích cực và phòng tránh những yếu tố
tiêu cực, làm ảnh hưởng đến thuần phong mỹ tục của dân tộc ta. Để khắc phục
những nguy cơ, trong đó có nguy cơ đánh mất bản sắc văn hóa dân tộc, Đảng
Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Trong điều kiện kinh tế thị trường và mở
cửa giao lưu quốc tế phải đặc biệt gìn giữ và nâng cao bản sắc văn hóa dân
tộc, kế thừa và tiếp thu truyền thống đạo đức, tập quán tốt đẹp và lòng tự hào
dân tộc. Tiếp thu tinh hoa của các dân tộc trên thế giới làm giàu đẹp thêm nền
văn hóa Việt Nam” [31, tr.11]. Thông qua đó, “…làm cho văn hóa thấm sâu
vào từng khu dân cư, từng gia đình, từng người, hoàn thiện hệ giá trị mới cho
con người Việt Nam, kế thừa các giá trị truyền thống của dân tộc và tiếp thu
tinh hoa văn hóa của loài người” [36, tr. 212-213].
Kitô giáo đã có mặt ở Việt Nam hơn 400 năm, đã có những ảnh hưởng
nhất định đến văn hóa Việt Nam và đặc biệt ảnh hưởng đến đến văn hóa nhận
nhận thức, văn hóa ứng xử, văn hóa tổ chức, ảnh hưởng đến đạo đức, lối sống
của một bộ phận không nhỏ người dân Việt Nam. Có lẽ, nhân tố cơ bản nhất
để Kitô giáo bén rễ trong nền văn hóa Việt Nam chính là tư tưởng nhân văn
và đạo đức gần gũi với quan niệm đạo lý của người Việt Nam. Tư tưởng nhân
2

văn và đạo đức đó không những phù hợp với quan niệm đạo lý truyền thống,
mà còn góp phần làm cho nền văn hóa Việt Nam thêm phong phú hơn.

Để thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước trên mọi
phương diện một cách bền vững thì đất nước chúng ta hiện nay vẫn đang đứng
trước những khó khăn, thách thức lớn. Một trong những thách thức đó là lối
sống cá nhân chủ nghĩa và đạo đức xã hội ngày càng có chiều hướng suy thoái
và xuống cấp trầm trọng, trái với đạo đức và truyền thống văn hóa tốt đẹp của
dân tộc ta; “coi thường giá trị văn hóa dân tộc, chạy theo lối sống thực dụng, cá
nhân vị kỷ… đang gây hại đến thuần phong mỹ tục của dân tộc. Không ít
trường hợp vì đồng tiền và danh vị mà chà đạp lên tình nghĩa gia đình, quan hệ
thầy trò, bàn bè, đồng nghiệp…” [33, tr. 46 – 47]. Có thể nhận thấy căn bệnh
vô cảm là kết quả của một lối sống chụp giựt, bon chen và tranh giành đang
ngày càng ảnh hưởng sâu rộng đến đời sống tinh thần văn hóa của xã hội Việt
Nam khi mà các giá trị sống, giá trị đạo đức tinh thần, lòng bao dung nhân ái,
tình thương yêu đồng loại, và sự hy sinh đang dần bị thế chỗ bởi lối sống thực
dụng và lợi ích cá nhân bất chính , làm cho con người không còn cảm giác
trước nỗi đau của đồng loại, của người thân. Thực trạng xã hội hôm nay như
một bức tranh, mà ở đó nó có sự đảo lộn giá trị: cái ác, cái xấu đang có chiều
hướng thống trị, trong khi đó, giá trị nhân văn, nhân bản, đạo đức, luân lý
truyền thống đang bị xem nhẹ và có nguy cơ xói mòn.
Vì vậy, việc nghiên cứu, chỉ ra chân giá trị của tư tưởng nhân văn, đạo
đức của tôn giáo là một trong những vấn đề có ý nghĩa rất quan trọng góp
phần trong công cuộc đổi mới nói chung, trong sự nghiệp giáo dục, bảo tồn và
phát huy các giá trị đạo đức, văn hóa dân tộc nói riêng. Để xây dựng một xã
hội dân chủ, công bằng, bình đẳng, văn minh và hạnh phúc, bên cạnh việc
củng cố, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc thì không thể không kế
thừa, phát huy những hạt nhân hợp lý, những giá trị tốt đẹp trong các tôn giáo
3

trong đó có Kitô giáo vào việc xây dựng nền đạo đức xã hội, nền văn hóa Việt
Nam vừa mang tầm thời đại nhưng vẫn đậm tính nhân văn, nhân ái.
Sinh thời Hồ Chí Minh cũng đã từng viết: “Học thuyết Khổng Tử có ưu

điểm của nó là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tôn giáo Jesus có ưu điểm của
nó là lòng nhân ái cao cả. Chủ nghĩa Mác có ưu điểm của nó là làm việc biện
chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm của nó là chính sách của nó thích
hợp với điều kiện nước ta. Khổng Tử, Jesus, Mác, Tôn Dật Tiên chẳng có
những ưu điểm chung đó sao? Họ đều muốn hạnh phúc cho loài người, cho xã
hội. Nếu nay họ còn sống trên đời này, nếu họ họp lại một chỗ, tôi tin rằng họ
nhất định sống chung với nhau thân thiện như những người bạn thân thiết. Tôi
cố gắng làm người học trò nhỏ của các vị ấy” [112, tr. 134]. Vậy, chứng tỏ
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã nhìn thấy giá trị nhân văn, ý nghĩa đạo đức
tích cực, đáng trân trọng của các tôn giáo, trong đó có Kitô giáo cần phải kế
thừa trong quá trình xây dựng xã hội.
Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, nếu bỏ qua những hạn chế
nhất định, thì các giá trị tiến bộ của tôn giáo nói chung và Kitô giáo nói riêng,
trong đó có tư tưởng nhân văn và đạo đức là một di sản có giá trị phổ biến, có
thể bổ sung, làm giàu đẹp thêm truyền thống văn hóa của dân tộc Việt Nam.
Vì vậy, nghiên cứu tư tưởng nhân văn và đạo đức Kitô giáo trên cơ sở
kế thừa với tinh thần khoan dung và hội nhập là điều cần thiết nhằm nâng cao
nhận thức về những giá trị của Kito giáo; từ đó, tìm cách giải quyết những
vần đề tín ngưỡng và tôn giáo ở Việt Nam một cách đúng đắn nhất trong giai
đoạn hiện nay.
Từ những lý do trên đây, tôi đã chọn vấn đề:  và
Kitô  làm đề tài luận án tiến sỹ triết học.
4

2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu về Kitô giáo là một trong những lĩnh vực được nhiều người
quan tâm tìm hiểu, lý giải và hiện nay đã có rất nhiều đề tài, công trình nghiên
cứu dưới nhiều góc độ tiếp cận khác nhau như: đạo đức học, sử học, nhân
học, xã hội học, tôn giáo học, triết học, thần học…
Ở Việt Nam có một số tài liệu nghiên cứu về Kitô giáo, đầu tiên phải kể

đến cuốn Kinh thánh được dịch sang tiếng Việt bởi nhiều tác giả khác nhau.
Cho đến nay, có 7 bản dịch Kinh thánh , do các tác giả Kitô giáo thực
hiện: Bản dịch của linh mục Chính Linh (1913), bản dịch của ông Phan Khôi
(1940), bản dịch của linh mục Gérard Gagnon (1963), bản dịch của linh mục
Trần Đức Huân (1970), bản dịch của linh mục Nguyễn Thế Thuấn (1976),
bản dịch của Hồng Y Trịnh Văn Căn (1985) và bản dịch của Nhóm phiên dịch
Các giờ Kinh phụng vụ (1998).
Bản thứ nhất của linh mục Albertus Schlicklin, (còn gọi là Cố Chính
Linh), sinh năm 1857 tại Đức, linh mục chính địa phận Hà Nội (1890 – 1900)
và qua đời tại Hà Nội năm 1932. Ông đã dịch Kinh thánh từ bản Vulgata,
tiếng Latinh sang tiếng Việt, bản dịch được Giáo hội Công giáo công bố năm
1916, được xem là bản dịch Kinh thánh tiếng Việt sớm nhất. Bản dịch thứ hai
của ông Phan Khôi (1887 – 1960) là bản Kinh thánh Tin Lành, công bố năm
1924. Bản dịch thứ ba của Linh mục Gérard Gagnon (còn gọi là cha
Nhân), sinh năm 1914 tại Canada, sang Việt Nam năm 1935, dịch Kinh thánh
 , công bố năm 1962. Bản thứ tư của Linh mục Đaminh Trần Đức
Huân (1910 – 1984), dịch và xuất bản BPhúc âm và  năm
1950;  Jesus Kitô năm 1963;  năm
1969, bản dịch này được dịch từ bản phổ thông Vulgata, tiếng Latinh, bản
dịch này khá phổ biến trong Giáo hội Công giáo, văn phong sáng sủa, thuần
Việt, trau chuốt. Bản thứ tư là của Linh mục Joseph Nguyễn Thế Thuấn
(thuộc Dòng Chúa Cứu Thế, học trường Kinh thánh Jerusalem bốn năm, từ
5

1952-1956): , nhà Sách Đức Mẹ ấn bản năm 1965; Kinh thánh (
 và ) xuất bản năm 1976; là bản dịch được giới học thuật đánh giá
cao vì được dịch từ bản Kinh thánh Jerusalem (Bible de Jerusalem); bản dịch
này vừa có chú giải thuật ngữ khó hiểu, vừa có chỉ dẫn đối chiếu những nội
dung tương đồng trong các sách của Kinh thánh. Đặc biệt có các tiểu dẫn có
giá trị nghiên cứu và tính khái quát rất cao trước khi vào nội dung cụ thể của

các phần hoặc các sách của Kinh thánh. Nhiều nhà nghiên cứu đánh giá bản
dịch này khá sát nghĩa với bản gốc, đồng thời chứa đựng những kết quả
nghiên cứu của các nhà thánh kinh học trường Jerusalem; tuy nhiên, ngôn ngữ
của bản dịch hơi cổ, văn phong không trau chuốt lắm, nhiều câu văn chưa
được Việt hóa hoàn toàn…; người viết luận án, ngoài việc tra cứu các bản
Kinh thánh bằng tiếng Anh, tiếng Pháp, cũng thường xuyên sử dụng, trích dẫn
từ bản dịch này. Bản dịch thứ năm của Hồng Y Joseph Maria Trịnh Văn Căn
(1915 – 1990), dịch Kinh thánh dựa vào bản Bible de Jérusalem, có tham
khảo tiếng Hipri, Hylạp; bộ  xuất bản năm 1982, T Kinh thánh
xuất bản năm 1985. Bản dịch này văn phong rất thuần Việt, tuy nhiên nhiều
nhà nghiên cứu không đánh giá cao vì không sát với bản gốc và thiếu chú
giải. Bản thứ sáu là của inh, năm 1994 xuất bản Tân
, năm 1998 xuất bản Kinh thánh . Bản dịch này được nhiều người
tham gia nhất và đã được Tổng giám mục Giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh
phê chuẩn (Imprimatour) nhưng hiện nay đang gây nhiều tranh cãi cả về văn
phong và cả về nội dung.
Trên lĩnh vực nghiên cứu về lịch sử - triết học – tôn giáo có một số
công trình đã công bố như: của Hoàng Tâm
Xuyên (chủ biên), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999. Trong quyển sách
này, tác giả đã trình bày khái quát nguồn gốc và các đặc điểm cơ bản của
nhiều tôn giáo phổ biến, như Phật giáo, Hồi giáo, Kitô giáo, … Riêng ở phần
viết về Kitô giáo, Hoàng Tâm Xuyên đã trình bày một cách khái lược về lịch
6

sử ra đời, giáo lý, lễ nghi của Kitô giáo, chưa phân tích gì đến nội dung của tư
tưởng nhân văn và đạo đức Kitô giáo; Tác phẩm Thiên
Chúa  của Đỗ Quang Hưng, Tủ sách Đại học Tổng hợp Hà
Nội, 1991. Trong tài liệu này, tác giả trình bày về lịch sử quá trình du nhập và
phát triển của Kitô giáo qua các giai đoạn, đồng thời đánh giá về những hạn
chế, những thăng trầm của Kitô giáo ở Việt Nam. Đúng như tên của cuốn

sách, nội dung chủ yếu bàn về những vấn đề mang tính sử học, cuốn sách
cũng chưa phân tích vào những nội dung và giá trị nhân văn và đạo đức Kitô
giáo; hay cuốn, của Mai Thanh Hải, Nxb. Công
an Nhân dân, Hà Nội, 2000, trong cuốn sách này, tác giả trình bày khái quát
về quá trình ra đời, phát triển, giáo lý, lễ nghi, cơ cấu tổ chức của các tôn giáo
thế giới như Phật giáo, Kitô giáo, Hồi giáo… và các tôn giáo bản địa của Việt
Nam như Cao Đài, Hòa Hảo…Về phần Kitô giáo tác giả cũng chỉ trình bày
những nét cơ bản của giáo lý Kitô giáo chứ chưa phân tích đánh giá về tư
tưởng luân lý đạo đức Kitô giáo; hay cuốn  của tác
giả Nguyễn Thanh Xuân, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội 2005. Trong cuốn này, phần
trình bày về Kitô giáo, tác giả chỉ trình bày khái lược về lịch sử, về một số nội
dung cơ bản về giáo lý và tổ chức của giáo hội, hầu như không trình bày và
phân tích gì về tư tưởng nhân văn và đạo đức Kitô giáo; hay cuốn 
của linh mục Trần Tam Tĩnh, bản gốc tiếng Pháp: “Catholique et
César”, được linh mục Vương Đình Bích dịch sang tiếng Việt, Nxb. Trẻ ấn
hành năm 1978, cuốn sách này còn nhiều tranh cãi về quan điểm, về những tư
liệu được trích dẫn. Tuy nhiên đây là cuốn sách trình bày khá chi tiết quá trình
du nhập của Kitô giáo vào Việt Nam, về âm mưu của đế quốc Pháp lợi dụng
giáo dân để chống lại triều đình nhà Nguyễn, về Giáo hội Công giáo Việt
Nam trong các cuộc chiến tranh chống Pháp, Mỹ…; hay cuốn, Tôn giáo lý
của Đỗ Minh Hợp, Nguyễn Anh Tuấn, Nguyễn Thanh, Lê
Hải Thanh, Nxb. Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh, 2005. Cuốn sách này gần như
là sự tổng hợp của nhiều bài tham luận nghiên cứu về nguồn gốc, bản chất,
7

chức năng và mối quan hệ của tôn giáo với các hình thái ý thức xã hội khác, ít
phân tích và trình bày về nội dung tư tưởng triết học đạo đức của tôn giáo.
Cuốn  của Nguyễn
Hồng Dương thuộc Viện Nghiên cứu Tôn giáo, nhà xuất bản Từ điển Bách
khoa, Hà Nội, 2012. Nội dung cuốn sách trình bày khá chi tiết về tổ chức

Giáo hội Công giáo Việt Nam, về đời sống đạo của giáo dân ở Việt Nam, về
các mối quan hệ của Nhà nước Việt Nam với Giáo hội Công giáo Roma, về
Giáo hội Công giáo Việt Nam với Giáo hội Công giáo Roma. Hay một số tác
phẩm khác của các linh mục như: 
của linh mục Thiện Cẩm, Nguyệt san Công giáo và Dân tộc, tháng 10 năm
2005; hay   Tủ sách Đại kết,
1992, của Linh mục Trương Bá Cần; hoặc 
Nam của Linh mục Trần Anh Dũng, Orlando, 1986. Hay cuốn 
của Linh mục Bùi Đức Sinh cũng đề cập đến quá trình
ra đời và phát triển của Kitô giáo dưới cái góc độ lịch sử thần học Giáo hội,
cuốn sách trình bày khá chi tiết về lịch sử của giáo hội Công giáo, … Những
tác phẩm này chủ yếu trình bày về lịch sử của Giáo hội Công giáo dưới cái
nhìn của một người Việt Nam trong vai trò là tín đồ, chức sắc Công giáo.
Trên lĩnh vực nghiên cứu tôn giáo giáo học văn hóa có cuốn 
của Nguyễn Hồng Dương, Nxb. Khoa
Học Xã Hội, 2001. Trong cuốn sách này tác giả Nguyễn Hồng Dương phân tích,
so sánh và trình bày rất chi tiết về quá trình hội nhập của Công giáo vào văn hóa
Việt Nam, về những biểu hiện cụ thể trong quá trình hội nhập như thánh ca, các
nghi thức, rước kiệu, dâng hoa…, về quan hệ ứng xử của người Công giáo với
cộng đồng xã hội, về tâm lý của người Công giáo. Có thể nói cuốn sách trình bày
khá hay và khá thuyết phục về quá trình hội nhập của Kitô giáo vào văn hóa Việt
Nam…Tuy nhiên, cuốn sách cũng không tập trung phân tích và đánh giá tư
tưởng nhân văn và đạo đức Kitô giáo dưới góc độ triết học. Trên phương diện
8

nghiên cứu về thần học thì có rất nhiều tác phẩm của các chức sắc Kitô giáo, tuy
nhiên vì nhiều lý do, các tài liệu đó ít được xuất bản chính thức, nhìn chung các
tài liệu thần học ấy đều trình bày các vấn đề dưới góc độ của người có niềm tin
về nhập thể, nhập thế, cứu chuộc, về phục sinh… của Đức Jesus và các mầu
nhiệm, các bí tích và luân lý của Kitô giáo. Các tài liệu đó cũng có đề cập đến

các nội dung về tư tưởng nhân văn và đạo đức Kitô giao nhưng dưới góc nhìn
của thần học, của niềm tin, chứ không phân tích đánh giá dưới góc độ của triết
học, của lý trí. Gần đây có một số tài liệu của các tác giả nước ngoài được dịch
hoạc biên dịch và được một số nhà xuất bản ấn hành. Trong đó có những cuốn
đáng chú ý như: . Đây là
cuốn sách do Hội đồng Giám mục Việt Nam chịu trách nhiệm biên dịch, được
Nhà xuất bản Tôn giáo ấn hành năm 2007. Mặc dù là bản tóm lược nhưng cũng
khá đồ sộ, gần 700 trang, trình bày gần như hầu hết mọi vấn đề của con người và
đời sống xã hội, được nhìn nhận đánh giá dưới cái nhìn của thần học, của niềm
tin Kitô giáo. Cuốn    , gồm hai tập, của tác giả Millard J.
Erickson, một nhà thần học nổi tiếng của giáo hội Tin Lành, nguyên tác bằng
tiếng Anh: Christian Theology, được Viện Thần học Tin lành Việt Nam biên
dịch và Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin ấn hành năm 2007, đây cũng là một tác
phẩm đồ sộ, với dung lượng gần 1400 trang. Nội dung của tác phẩm bàn đến gần
như tất cả những nội dung của thần học Kitô giáo: từ vấn đề sáng tạo, Thiên
Chúa, mặc khải, nguyên tổ, loài người, tội lỗi, tự do, cứu chuộc… cũng vậy, mọi
vấn đề đều được xem xét dưới góc độ của thần học và đức tin Kitô giáo.
Trên lĩnh vực nghiên cứu triết học cũng có một số tài liệu đáng chú ý,
chẵng hạn như: cuốn       của Doãn Chính và Đinh
Ngọc Thạch, Nxb. Thanh niên, Tp. Hồ Chí Minh, 2003. Trong cuốn này, các
tác giả đã trình bày cô động tư tưởng triết học của Kitô giáo, đặc biệt tư tưởng
của các giáo phu như Augustin, Tertulien, Justin… và đánh giá về những tích
cực và hạn chế của hệ thống triết học này dưới góc độ duy vật biện chứng, tuy
9

nhiên cuốn sách cũng chưa trình bày và phân tích sâu về nội dung của tư
tưởng nhân văn và đạo đức Kitô giáo. Gần đây có cuốn 
Kinh thánh của tác giả Trương Như Vương được Nhà xuất bản
Tôn giáo ấn hành năm 2005. Sách được Giám mục Nguyễn Văn Sang, Giám
mục giáo phận Thái Bình, GS.TS Đỗ Quang Hưng, nguyên Viện trưởng Viện

nghiên cứu Tôn giáo viết lời giới thiệu. Trong cuốn sách này tác giả trình bày
khá hệ thống lần lượt các nội dung chính như: vấn đề chung về Kinh thánh,
những quan niệm về giá trị đạo đức trong Kinh thánh, những quan niệm về
chuẩn mực đạo đức yêu người, những chuẩn mực trong cuộc sống gia đình,
trách nhiệm đối với Tổ quốc và những lời răn dạy về quan hệ xã hội, đời sống
tôn giáo… Cuốn sách đã chỉ ra được một trong những nội dung tư tưởng rất
cơ bản của Kinh thánh là đạo đức, để từ đó có thái độ trân trọng và phát huy.
Trên phương diên nào đó, cuốn sách đã trình bày được những nội dung cơ bản
của tư tưởng đạo đức Kitô giáo trong Kinh thánh, tuy nhiên, nếu nhìn nhận
dưới góc độ triết học thì chúng tôi cho rằng tác giả nghiêng về một số nội
dung cụ thể của đạo đức, chứ chưa trình bày khái quát kiểu triết học với
những phạm trù cơ bản của triết học đạo đức; hay, Luận án tiến sỹ triết học
với đề tài “ , của Lê Thị
Thanh Hương, bảo vệ tại Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Tp.
Hồ Chí Minh, năm 2008; nội dung chủ yếu của luận án này trình bày quá
trình ra đời, phân phái của Kitô giáo và lý giải về những biến chuyển của
Giáo hội Công giáo trong giai đoạn hiện đại dưới góc nhìn của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và cũng không phân tích hay đánh giá gì nhiều về tư tưởng
nhân văn và đạo đức Kitô giáo mà chủ yếu mang tính mô tả về lịch sử - sự
kiện. Và gần đây có cuốn của tác giả Nguyễn Thái Hợp,
được nhà xuất bản Văn hóa Sài Gòn ấn hành năm 2008, đây là cuốn sách
mang âm hưởng của triết học hiện sinh tôn giáo, vừa là sự thể hiện tư tưởng
thần học Kito giáo hiện đại, vừa có những suy tư triết học nhẹ nhàng, văn
chương lãng mạn, lại vừa có những luận cứ, lập luận, chứng minh như một
10

khảo luận khoa học về 
  Trong cuốn sách này,
thông qua mục , trên tinh thần 
, phần nào tác giả đã phân tích, trình bày tư tưởng nhân

văn Kito giáo, như đề cao phẩm giá con người, đề cao vị trí và vai trò của con
người trong vũ trụ, tương quan của cá nhân với mọi người trong xã hội.
Ngoài những ấn phẩm trên, còn nhiều tài liệu tiếng Việt khác viết về
Kitô giáo trên các tạp chí, nguyệt san, tập san khác nhau. Tuy nhiên, theo sự
hiểu biết của tác giả thì trong số các công trình đã công bố vẫn chưa có một
chuyên khảo nào nghiên cứu chuyên về tư tưởng nhân văn và đạo đức của
Kitô giáo với văn hóa Việt Nam, được tiếp cận dưới góc độ lịch sử triết học.
Về tài liệu tiếng nước ngoài, có nhiều tài liệu nghiên cứu với nhiều lĩnh
vực khác nhau về Kitô giáo, nhưng vì điều kiện và khả năng, nên tác giả cũng
chỉ tiếp cận được một số tài liệu bằng tiếng Anh và tiếng Pháp. Chẳng hạn
một số tài liệu tiếng Anh liên quan đến đề tài như: cuốn The Cambridge
companion to Christian doctrine, của các tác giả Gunton, E. Colin (1997),
Cambridge, UK, Cambridge University Press. Trong cuốc này, các tác giả
phân tích về các tín điều thần học Kitô giáo với những giá trị luân lý của nó
đối với tín đồ Kitô giáo; hay cuốn The Cambridge Companion to Christian
Ethics, của Gill, Robin (2001), UK, Cambridge University Press. Trong tác
phẩm này, các tác giả đặc biệt phân tích và đánh giá đạo đức học của Kitô
giáo đối với xã hội châu Âu; hay cuốn Introducing Christianity của nhóm tác
giả Padgett, G.Alan, Sally Bruyneel (2003), Maryknoll, New York, Orbis
Books. Nội dung cuốn sách này trình bày kiến thức cơ bản về Kitô giáo dưới
góc độ Kitô học, tức là trình bày lịch sử và những nội dung cơ bản của Kitô
giáo; hay cuốn The Story of Christianity của nhóm tác giả Price, Matthew
Arlen. Michael, Father Collins (2003), New York: DK Publishing Inc. Tài
liệu này trình bày quá trình ra đời và phát triển của Kitô giáo dưới góc độ thần
11

học lịch sử; hay cuốn Introduction To Christianity của nhóm tác giả Miller,
Michael Vincent, Ratzinger, Joseph, Pope Benedict XVI (2004), San
Francisco, Ignatius Press. Tài liệu này trình bày các khái niệm cơ bản về Kitô
giáo như: tín lý, tín điều, thánh truyền, mặc khải, công đồng, bí tích và các

giai đoạn phát triển của Kitô giáo; hay cuốn Anthropologie của nhóm tác giả
Georg Langemeyer, Styria Verlag, Graz Wien Koln. Tài liệu này đã được Đại
chủng viện Thánh Giuse chuyển ngữ và cho lưu hành nội bộ với tên gọi:
. Cuốn sách này đúng hơn phải gọi là
 thì hợp lý hơn, cuốn sách tập hợp các tham luận mang tính
chất nghiên cứu nhân chủng học trên quan điểm Kitô giáo, đồng thời cũng
trình bày các quan niệm của Kinh thánh, của các giáo phụ và các nhà thần học
Kitô giáo về nguồn gốc của con người, về vị trí và vai trò của con người trong
vũ trụ, về bản tính của con người, về linh hồn, về tự do và trách nhiệm của
con người với Chúa. Cuốn sách này trình bày khá nhiều nội dung, tuy nhiên
chỉ sơ lược, không phân tích hay đánh giá gì nhiều. Một số tài liệu bằng tiếng
Pháp như: cuốn  của tác giả Bréhier L, Éditions du Cerf,
1971. Cuốn sách này thuần túy trình bày về lịch sử giáo hội Công giáo ; hay
cuốn , 
siècle, của tác giả Chappoulie 1943, tome 1, Éditions du Cerf. Cuốn sách này
cũng trình bày về lịch sử giáo hội Công giáo và quá trình truyền giáo ở Đông
Dương thế kỷ 17…
Nhìn chung, trong khả năng hiểu biết hạn hẹp, nghiên cứu sinh nhận thấy
hầu hết các công trình trên có xu hướng hoặc là nghiên cứu về lịch sử, hoặc
tiếp cận và giải quyết các vấn đề dưới góc độ thần học của Kitô giáo, hoặc
nghiên cứu về nhân chủng học Kitô giáo, hoặc nghiên cứu những hạn chế và
đóng góp của Kitô giáo dưới góc độ lịch sử triết học…
Mặc dù trong và ngoài nước đã có nhiều công trình nghiên cứu về Kitô
giáo, tuy nhiên nghiên cứu sinh nhận thấy chưa có công trình nào thật sự đi
sâu vào tư tưởng nhân văn và đạo đức Kitô giáo dưới góc độ lịch sử triết học
12

và sự ảnh hưởng của tư tưởng đó trong văn hóa Việt Nam. Vì vậy, thiết nghĩ
đây là đề tài mới, không trùng lắp với các công trình đã công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận án

Mục đích của luận án là nghiên cứu làm rõ tư tưởng nhân văn, đạo đức
Kitô giáo, quá trình du nhập, đóng góp và hạn chế của Kitô giáo ở Việt Nam,
đồng thời chỉ ra sự ảnh hưởng của tư tưởng đó trong nền văn hóa Việt Nam.
Với mục đích như vậy, luận án đặt ra những nhiệm vụ chính sau đây:
, trình bày khái quát về quá trình ra đời, phát triển và phân
phái của Kitô giáo, chứng minh các tiền đề hình thành Kitô giáo, lý giải về
quá trình phát triển và phân phái Kitô giáo, phân tích các đặc điểm của các
phái Kitô giáo và khái lược về kinh điển (Kinh thánh) Kitô giáo.
, trình bày, phân tích nội dung tư tưởng nhân văn và đạo đức của
Kitô giáo, đồng thời xác định những tính chất cơ bản của những tư tưởng đó.
, trình bày về quá trình du nhập của Kitô giáo vào Việt Nam, về
những đóng góp và hạn chế của Kitô giáo trong quá trình truyền giáo ở Việt
Nam, từ đó chỉ ra những ảnh hưởng của tư tưởng nhân văn và đạo đức Kitô
giáo trong nền văn hóa Việt Nam.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu chủ yếu dựa trên cơ sở phương pháp luận định
tính và biện chứng của lịch sử - logic. Đề tài được lý giải, phân tích, chứng
minh chủ yếu bằng các phương pháp phân tích, tổng hợp, diễn dịch, quy nạp,
so sánh, đối chiếu, loại suy và các phương pháp khác như văn bản học, tôn
giáo học với nguyên tắc tiếp cận liên ngành.
5. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Về phạm vi nội dung nghiên cứu, đề tài chủ yếu khai thác tư tưởng
nhân văn và các phạm trù đạo đức cơ bản của Kitô giáo, phân tích và đánh giá
13

dưới góc độ giá trị, lịch sử triết học, và sự ảnh hưởng của những tư tưởng đó
trong văn hóa nhận thức, văn hóa ứng xử và văn hóa tổ chức của một bộ phận
người Việt Nam. Về cơ sở tư liệu, đề tài được nghiên cứu chủ chủ yếu dựa
trên tư tưởng của Kinh thánh, Giáo lý, Học thuyết xã hội của Công giáo, một
số văn kiện của các Công đồng Kitô giáo, các Thư chung của Hội đồng Giám

mục,… và tham khảo các công trình khoa học có liên quan đã công bố trong
và ngoài nước.
6. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài
 Luận án trình bày và lý giải quá trình ra đời và phát
triển của Kitô giáo; phân tích và làm rõ được cơ sở triết học của tư tưởng
nhân văn và đạo đức Kitô giáo; làm rõ được nội dung của tư tưởng nhân văn
và đạo đức Kitô giáo qua các khái niệm như tự do, công bằng, bình đẳng,
khoan dung, tha thứ; chỉ ra được các tính chất của tư tưởng nhân văn và đạo
đức của Kitô giáo và sự ảnh hưởng của tư tưởng đó đối với đời sống văn hóa
của một bộ phận người dân Việt Nam.
 kết quả nghiên cứu của luận án có thể góp phần vào
việc hoàn thiện đường lối, chủ trương, chính sách và công tác tôn giáo, đồng
thời giúp vận dụng vào trong công tác tôn giáo ở Việt Nam, nhằm phát huy
những giá trị tích cực của tư tưởng nhân văn và đạo đức Kitô giáo trong xã
hội, thúc đẩy tinh thần đoàn kết dân tộc, cùng chung tay xây dựng đất nước
phồn vinh và hạnh phúc. Luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho những ai
tìm hiểu, nghiên cứu về Kitô giáo với văn hóa Việt Nam.
7. Cái mới của luận án
Luận án xác định và chứng minh được nội dung cơ bản của tư tưởng
nhân văn Kitô giáo là đề cao con người như là tinh hoa của vũ trụ, đề cao
quyền tự do, bình đẳng của con người trong xã hội và tư tưởng giải phóng con
người khỏi những luật lệ phi nhân tính.
14

Luận án phân tích và xác định được nội dung cơ bản của tư tưởng đạo
đức Kitô giáo được khái quát trong sáu phạm trù cơ bản là công bằng, bác ái,
khoan dung, tha thứ, khiêm nhường và nhẫn nhục; đồng thời luận án cũng chỉ
ra được các tính chất của tư tưởng nhân văn và đạo đức Kitô giáo có tính duy
lý, tính hệ thống, siêu hình và tính nhân loại phổ biến.
Luận án cũng lý giải và chứng minh được việc Kitô giáo du nhập vào

Việt Nam là tất yếu, đồng thời cũng chỉ ra được trong quá trình truyền giáo ở
Việt Nam hơn 400 năm qua đã có những đóng góp đáng trân trọng cho xã hội
Việt Nam, nhưng cũng trong quá trình truyền giáo ấy, Kitô giáo cũng có
những hạn chế do đường hướng truyền giáo thiếu tinh thần hội nhập ngay từ
đầu nên làm tổn thương đến tính bang giao, tính hòa hợp giữa Kitô giáo với
văn hóa Việt Nam; luận án cũng chứng minh được tư tưởng nhân văn và đạo
đức Kitô giáo ảnh hưởng đến đời sống văn hóa người Việt Nam cả ba phương
diện: văn hóa nhận thức, văn hóa ứng xử và văn hóa tổ chức.
8. Kết cấu của luận án
Luận án ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, chú thích và danh mục tài
liệu tham khảo, được kết cấu thành 3 chương, 10 tiết: Chương 1. Trình bày về quá
trình hình thành và phát triển của Kitô giáo. Chương 2. Trình bày về tư tưởng
nhân văn và đạo đức Kitô giáo. Chương 3. Trình bày quá trình du nhập và ảnh
hưởng của tư tưởng nhân văn và đạo đức Kitô giáo trong nền văn hóa Việt Nam.

15


Chương 1
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
CỦA KITÔ GIÁO

1.1. BỐI CẢNH LỊCH SỬ VÀ TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH KITÔ GIÁO
1.1.1. Điều kiện lịch sử, chính trị, kinh tế xã hội vùng Palestine đầu
Công nguyên với sự hình thành và phát triển của Kitô giáo
Nếu xem tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội thì tôn giáo ra đời là sự
phản ánh và chịu sự quy định của tồn tại xã hội. Tức là do đặc điểm, yêu cầu
của đời sống sinh hoạt vật chất của xã hội nhất định mà mỗi tôn giáo ra đời,
tồn tại và phát triển. Với cách tiếp cận như thế thì Kitô giáo ra đời và phát
triển cũng là sự phản ánh tồn tại xã hội của vùng Palestine thuộc đế chế La

Mã từ đầu Công nguyên. Hay nói cách khác, do những yếu tố như lịch sử,
kinh tế, chính trị, xã hội của đế chế La Mã đầu Công nguyên mà Kitô giáo ra
đời, tồn tại và phát triển.
 và  : Kitô giáo ra đời vào đầu Công
nguyên ở vùng đất Palestine, thuộc địa của đế chế La Mã. Thế nhưng, không
thể không nhắc đến những biến cố lịch sử của dân Israel từ khoảng 600 năm
trước Công nguyên như một tiến trình lịch sử cho quá trình ra đời và phát
triển của Kitô giáo.
Vào năm 586 trước Công nguyên, vua Nabuchodonosor II của đế chế
Babylon đưa quân chinh phạt Vương quốc Judah và Israel, phá hủy đền thờ
Do Thái. Ông ta cho quân lính cướp bóc toàn bộ các kho báu trong đền thờ,
và bắt người Do Thái đi lưu đày tại Babylon. Tương truyền rằng, vào năm
538 trước Công nguyên, vua Belshazzar khi đang dự yến tiệc ở kinh thành
16

Babylon thì bỗng thấy có bàn tay người hiện ra viết một dòng chữ lên tường
thành, nhà vua vội triệu tiên tri Daniel
1
vào hỏi thì ông giải nghĩa dòng chữ
rằng, Thiên Chúa đã phán quyết Đế quốc Babylon đã đến hồi diệt vong. Quả
nhiên, vua Cyrus nước Ba Tư mang binh mã tinh nhuệ đánh chiếm nước
Babylon và lật đổ Belshazzar, tiêu diệt luôn cả đế quốc của ông ta. Sau khi
toàn thắng, Cyrus liền ban bố sắc lệnh của mình, Cyrus, vua Ba Tư, tuyên bố:
“Yave, Đức Chúa Trời đã ban cho ta các nước thế gian, và bảo ta xây cất cho
Ngài một cái đền ở tại Jerusalem trong xứ Judah. Trong các ngươi, phàm ai
thuộc về dân sự Ngài, hãy trở về Jerusalem; nguyện Yave, Đức Chúa Trời của
người ấy ở cùng người!”. Thế rồi, không những dân Do Thái mà tất cả các
dân tộc bị tù đày trong đế quốc Babylon đều được vua Cyrus ban bố tự do cho
trở về cố hương. Từ năm 538 TCN cho đến năm 535 TCN, quan tổng đốc
Zerubabbel đã dẫn dắt nhóm người Do Thái đầu tiên về quê hương. Với chính

sách tự do tôn giáo, triều đình Cyrus còn lấy ngân khố quốc gia Ba Tư để giúp
nhân dân Israel xây dựng lại đền thờ [152, tr.45].
Sau bước đường hồi hương là thời kỳ mà các nhà chú giải Kinh thánh
gọi là thời kỳ yên lặng về mặt tôn giáo, kéo dài khoảng 400 năm, vì hầu như
không có một biến cố gì quan trọng được Cựu ước đề cập đến. Tuy nhiên về
chính trị xã hội vẫn có nhưng hỗn loạn, chiến tranh vẫn xảy ra trên vùng đất
Jerusalem do sự chiếm đóng của nhiều đế quốc khác nhau. Quan trọng nhất là
vào năm 336 TCN, Alexandre đại đế chinh phục thế giới, và đem đến miền
Trung Đông ngôn ngữ phổ thông Lingua franca, lúc đó là tiếng Hy Lạp
2
.
Nhưng Alexandre đại đế chỉ cai trị đế quốc một thời gian ngắn. Sau khi ông
qua đời, đế quốc của ông bị phân chia vào tay bốn vị tướng. Trong đó, người
giữ vai trò rất quan trọng đối với lịch sử dân tộc Do Thái là Seleucus vì ông đã
sáng lập một đế quốc tồn tại khoảng hai trăm năm. Trong thời kỳ của Seleucus,


1
Daniel là một tiên tri người Do Thái, sống vào khoảng năm 600 - 530 trước công nguyên.
2
Trong giai đoạn này, ở Alexandra (Ai-Cập), 70 học giả Do Thái cùng nhau dịch Kinh thánh Cựu ước ra
tiếng Hy Lạp, được gọi là bộ Septuagint. Đây là chuẩn mực cho người Do Thái ở rải rác khắp đế quốc Hy
Lạp được đọc lời Kinh thánh.
17

xuất hiện cuộc nổi dậy của Judas Maccabee chống lại đế quốc. Cuộc nổi dậy
thắng lợi, vì lúc đó Seleucus đang phải đối phó với nhiều thế lực. Về phía Bắc,
Seleucus phải đối phó với sự phản công của Parthian (cựu đế quốc Ba Tư). Về
phía Nam, Seleucus phải đối phó với sự nổi dậy của Ai Cập. Và về phía Tây,
Seleucus phải đối phó với một đế quốc mới là đế quốc La Mã.

Với sự thành công của cuộc nổi dậy do Judas Maccabee lãnh đạo, vào
năm 150 trước Công nguyên, dân tộc Do Thái bước vào giai đoạn mới. Đó là
triều đại nhà Hasmonean, còn gọi là nhà Judas Maccabee, cai trị trong vòng
100 năm. Đây là thời kỳ duy nhất dân Do Thái có một chế độ vua chúa với
một nhà nước độc lập sau thời kỳ vàng son của David và Solomon. Nhưng
vào cuối thời kỳ này, việc cai trị trở nên bất ổn do sự tham nhũng, bóc lột,
tranh giành quyền hành giữa nhiều phe phái khác nhau. Thế nên, các phe phái
phải nhờ một người ngoại bang làm thủ tướng để cai trị, đó là Antipater.
Antipater đến từ vùng Petra, biển Chết, thuộc dòng Nabatean Arabs, và đặc
biệt là một người khôn khéo. Antipater đã biến vùng Palestine thành quốc gia
hậu thuẫn La Mã chống lại Nabateans Arabs ở miền Nam và đế quốc
Parthians ở phía Đông. Vì vậy, ông rất được chính quyền La Mã tin tưởng và
hầu hết dân chúng ủng hộ. Khi Antipater bị ám sát, con thứ của ông là Herode
được đưa lên làm vua, Herode đầy mưu mô và xảo quyệt. Trong những năm
bất ổn ở vùng Địa Trung Hải, Herode đã kết thân với Pompei, Julius Caesar,
Antony, rồi Augustus, … Ông ta tỏ ra rất được lòng những vị hoàng đế La Mã
lúc bấy giờ, vì vậy, mọi quyết định của ông đều được chính quyền La Mã
chấp thuận, kể cả vụ thảm sát hơn 200 trẻ sơ sinh ở Bethlehem và vùng phụ
cận (xem Mt 2, 16 – 18).
Vào những thập niên đầu Công nguyên, đế chế La Mã đã chuyển từ chế
độ thị tộc sang chế độ xã hội có giai cấp. La Mã là một đế chế chiếm hữu nô
lệ và là nhà nước có quân đội hùng mạnh nhất thế giới khi đó. Nhà nước
chiếm hữu nô lệ hùng mạnh nhất cũng có nghĩa là nhà nước có nhiều nô lệ
18

nhất, và chế độ nô lệ ở đây cũng khắc nghiệt nhất. Nô lệ là tầng lớp tận cùng
của xã hội, bị coi như những súc vật biết nói. Người ta có thể mua bán nô lệ
như mua bán súc vật. Tầng lớp nô lệ bị áp bức dã man, bị bóc lột tàn khóc.
Đây là nguyên nhân khiến họ liên kết để đấu tranh chống lại tầng lớp chủ nô.
Trong những cuộc nổi dậy của nô lệ thì khởi nghĩa do Spactacus

3
lãnh đạo
vào những năm 73 - 71 trước Công nguyên đã gây được tiếng vang rất lớn.
Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, cuộc khởi nghĩa
này cũng bị dìm trong biển máu. Kết cục là anh hùng nô lệ Spartacus bị hành
hình. Cuộc khởi nghĩa không thành nên mâu thuẫn giữa chủ nô và nô lệ, giữa
giới quý tộc với giới bình dân càng gay gắt hơn. Những người nghèo khổ
càng ngày càng cùng khổ hơn. Niềm hy vọng được giải phóng khỏi áp bức
bốc lột đã hoàn toàn bị dập tắt.
Vì vậy, nếu xét trong bối cảnh lịch sử và chính trị đầy bất công, bạo
lực, phi nhân tính như thế, Đức Jesus xuất hiện và rao giảng giáo lý công
bằng, bình đẳng, bác ái, khoan dung, tha thứ…, hứa hẹn một nước trời hoan
lạc và vĩnh cửu cho những ai biết yêu thương đồng loại, biết cho kẻ đói ăn,
biết cho kẻ mình trần áo mặc, biết nhẫn nhục hy sinh… đã được nhiều người
đón nhận. Vì vậy mà đã có lời nhận định rằng: “vì Spartacus thất bại nên Đức
Jesus đã thành công”. Bởi lẽ, dẫu sao những con người nghèo khổ, bị áp bức
bất công, bị đối xử phi nhân tính đã tìm thấy nơi tư tưởng của Đức Jesus sự an
ủi, vỗ về và thắp lên nơi họ niềm hy vọng được giải thoát khỏi những đau khổ
không lối thoát của cuộc đời.
: đế chế La Mã đầu Công nguyên được xem là thời
kỳ cực thịnh. Nền kinh tế lúc bấy giờ của đế chế La Mã khá đa dạng: nông
nghiệp, ngư nghiệp, thủ công nghiệp, dịch vụ, ngoại thương, ngân hàng và
đặc biệt là buôn bán nô lệ. Kinh tế nông nghiệp chủ yếu là trồng lúa mì, ép
rượu nho, ép dầu ô liu. Hàng hóa nông nghiệp ngoài cung cấp cho nhu cầu


3
Spartacus

(109 tr.CN - 71 trước CN), theo các nhà sử học, ông là một đấu sĩ nô lệ, người đã trở thành một trong các thủ

lĩnh của cuộc nổi dậy không thành công của các nô lệ chống lại Cộng hòa La Mã được biết là Chiến tranh nô lệ lần ba.
19

trong nước họ còn dùng để trao đổi với các quốc gia khác như Ấn Độ, Ba
tư… Các ngành thủ công nghiệp khá phát triển lúc bấy giờ là nghề dệt vải,
làm bồn chứa, đóng ghe, thuyền… Mặc dù nền kinh tế của đế chế khá phát
triển, nhưng do phải nuôi bộ máy chính quyền khá lớn, đặc biệt là phải nuôi
quân đội, đội quân hùng mạnh bậc nhất thế giới lúc bấy giờ, phải phục vụ cho
các cuộc viễn chinh và bảo vệ đế chế trước các thế lực khác xâm hại liên tục,
nên người dân phải nộp thuế rất nặng, dẫn đến cuộc sống kinh tế người dân
lao động vẫn cùng khổ.
: để lý giải sự ra đời của Kitô
giáo, cũng xin được điểm lại những nhóm tôn giáo (cùng là Do Thái giáo)
khác nhau hoạt động trong vùng Palestine vào thời kỳ Kitô giáo ra đời.
Josephus
4
, sử gia nổi tiếng của Do Thái vào thế kỷ I, diễn tả ba nhóm tôn giáo
chính với triết lý hoạt động khác nhau, đó là: phái Pharisee, phái Saduseo và
phái Essenes. Kinh thánh Tân ước chỉ đề cập đến phái Pharisee và Saduseo,
mà không đề cập gì đến phái Essenes. Ngoài việc đề cập đến ba nhóm hoạt
động tôn giáo trên, Josephus cũng đề cập đến những nhóm chính trị và những
nhóm cách mạng của người Do Thái trong thế kỷ này. Đặc biệt là những
nhóm có liên quan đến cuộc chiến tranh lần thứ nhất với La Mã.
Phái Pharisee có ảnh hưởng trong xã hội Do Thái từ thế kỷ thứ II trước
Công nguyên đến thế kỷ thứ I sau Công nguyên. Họ quan niệm giữ sự khắt
khe trong các lễ nghi Do Thái giáo, giữ sự trong sạch trong dịp lễ, và đòi hỏi
khắt khe trong việc ăn uống. Những quan niệm này của phái Pharisee được
căn cứ theo Cựu ước, cùng những truyền thống khác do các rabbi (thầy tư tế)
thêm vào qua nhiều thời kỳ. Phái Pharisee có ảnh hưởng đến những người
thuộc chính quyền Do Thái lúc bấy giờ, cũng như dân thường Do Thái. Phái

Pharisee có khuynh hướng đối nghịch chính trị, đối nghịch tôn giáo với phái
Saduseo. Những người lãnh đạo của phái Pharisee được gọi là rabbi, như
Nicodem Saolo [xem Ga 3, 1-10; Cv 23, 6, 26,5].


4
Flavius Josephus, một nhà sử học Do Thái (38-100 sau Công nguyên)
20

Phái Saduseo có ảnh hưởng về mặt tôn giáo trong đời sống người Do
Thái từ thế kỷ II trước Công nguyên đến thế kỷ I sau Công nguyên. Tuy là
một nhóm nhỏ hơn nhóm Pharisee, nhưng do tập họp được những thành phần
quan trọng (đa số là những thầy tế lễ) nên phái Saduseo có ảnh hưởng mạnh
hơn nhóm Pharisee. Đặc biệt, phái Saduseo thường là những người có tiền
bạc và thế lực, nên bị phái Pharisee ganh ghét. Phái Saduseo kiểm soát các thể
lệ trong đời sống tôn giáo của người Do Thái khi đó. Nhóm này cũng ủng hộ
triều đại cũ của Do Thái nên không thích chế độ mới của vua Herode, và đối
lập với nhóm Hedonians. Phái Saduseo cũng kiểm soát mọi sinh hoạt trong
đền thờ Jerusalem. Nhưng phái Saduseo bị xem là có hành vi bòn rút của
người nghèo sùng đạo, cũng như cho phép việc buôn bán đổi tiền ở trong đền
thờ. Như khi Đức Jesus vào đền thờ Jerusalem lần đầu tiên, Đức Jesus đã xua
đuổi đám người buôn bán đổi tiền này. Phái Saduseo còn nhượng bộ với
Herode và cả những nhóm khác. Vậy nên, việc tế lễ trong đền thờ lúc bây giờ
là cách trục lợi kinh tế; Đức Jesus đã lên án cách làm bất chính này và bị
nhóm này ghen ghét, tìm cách loại trừ (xem Mt 12, 41- 44).
Nhóm thứ ba được Josephus nhắc đến là Essenes. Phái Essenes là một
nhóm nhỏ, có lối sống tách biệt khỏi những cộng đồng ở vùng Qumran thuộc
biển Chết. Lúc đầu, họ là những thầy tế lễ. Nhưng về sau, họ tách rời ra khỏi
các lễ lộc trong đền thờ Jerusalem. Họ cho rằng các thầy tế lễ trong đền thờ
không đủ tư cách, không đủ thẩm quyền để thờ phụng Chúa. Có giả thuyết

được nhiều người chấp nhận rằng, họ tập trung ở vùng biển Chết và giữ bí
mật những cổ kinh Cựu ước, những cổ kinh này được tìm thấy ở Qumran năm
1947 [xem Wikipedia].
Dân Israel sống trong cảnh bị áp bức, không những dưới tay Herode mà
còn dưới ách thống trị của La Mã. Trong bối cảnh xã hội đó, dân Israel khao
khát một đấng cứu tinh, người Israel nào cũng mong chờ sự ra đời của Đấng
Messia đã được các tiên tri loan báo từ bao đời nay. Họ mong Đấng Messia
21

đến lật đổ người La Mã, chấm dứt sự khổ ải của cả một dân tộc. Vậy nên, thời
điểm Đức Jesus sinh ra đời đúng vào lúc người Do Thái đang ấp ủ một ao ước
có một vị lãnh tụ để giải phóng họ như Abraham, như Moses, như Yosueh,
như David… Vì vậy, lúc đầu Đức Jesus xuất hiện họ chào đón và hy vọng
như một anh hùng dân tộc. Thế nhưng, càng về sau giới chóp bu trong Do
Thái giáo nhận thấy Đức Jesus không phải là một lãnh tụ giải phóng dân tộc
Israel, thậm chí có nhiều tư tưởng khác với tư tưởng truyền thống, nhất là họ
sợ dân chúng tin theo Đức Jesus và không tin những lời giảng dạy của họ nữa
thì uy tín, tầm ảnh hưởng của họ có nguy cơ bị giảm sút… và rồi họ đã tìm
cách loại trừ Đức Jesus. Theo thần học Kitô giáo thì Đức Jesus là đấng giải
thoát con người về tinh thần, về phần linh hồn chứ không phải là một vị anh
hùng cách mạng để giải cứu dân tộc Israel, nên người Israel đã thất vọng.
Vậy, có thể khẳng định rằng, với điều kiện lịch sử, kinh tế, chính trị,
tôn giáo, xã hội của vùng Palestine thuộc đế chế La Mã đầu Công nguyên là
những yếu tố thuận lợi cho Kitô giáo ra đời. Hay nói cách khác, nếu xem Kitô
giáo là một hình thái ý thức xã hội thì Kitô giáo đã phản ánh đúng tồn tại xã
hội của vùng Palestine vào đầu Công nguyên.
1.1.2. Tiền đề về văn hóa - tư tưởng với sự hình thành Kitô giáo
Kitô giáo ra đời ngoài tiền đề về điều kiện lịch sử, chính trị, tôn giáo,
xã hội thì văn hóa tư tưởng của Do Thái giáo, tư tưởng triết học, văn chương
Hy Lạp cổ đại cũng đóng vai trò vô cùng quan trọng.

: nếu xét về lịch sử và văn
hóa thì Kitô giáo là tôn giáo bắt nguồn từ Do Thái giáo. Những tư tưởng và
văn hóa trong Kinh thánh Do Thái giáo chính là những tiền đề cơ bản hình
thành nên Kitô giáo.
Người Do Thái quan niệm về Thiên Chúa toàn năng xét xử công bằng,
về quỉ Satan chuyên cám dỗ, về Thiên đường - chốn vui sướng vô cùng, về
22

hỏa ngục - chốn đau đớn muôn đời muôn kiếp với một chảo lửa khổng lồ
không bao giờ tắt, về ngày tận thế với những vì sao trên vòm trời rụng xuống
như mưa, về viễn cảnh loài người từ mọi chân trời góc bể nghe được tiếng
kèn của thiên thần trổi dậy để nghe Thiên Chúa xét xử công bằng trong ngày
phán xét cuối cùng,…
Trong Do Thái giáo còn có một niềm tin sâu xa về Chúa Cứu thế mà
tiếng Do Thái gọi là Messia, tiếng Hy Lạp dịch thành Christos. Đấng Messia
là đấng mà các tổ phụ, tiên tri Do Thái như Abraham, Moses, David,
Salomon, Isaiah, Samuel, Eliah… đã tiên báo và mỏi mòn mong đợi từ lâu.
Người Do Thái, dù là Pharisee, Saduseo hay Assenes, đều mang trong mình
sự trông đợi Ðấng Cứu thế. Cứ mỗi lần quốc gia họ lâm nguy hoặc dân chúng
rơi vào cảnh nô lệ, lòng trông đợi lại nổi lên mạnh mẽ. Qua các thời đại, nhờ
sự nhắc nhở của các tiên tri, họ càng ý thức rõ rệt hơn về chọn lựa mà Thiên
Chúa đã giao ước với Tổ phụ họ.
Khi sống dưới ách đế quốc La Mã hà khắc, lòng trông đợi lại càng
mãnh liệt hơn. Họ dựa theo lời tiên tri trong Kinh thánh và lập luận rằng thời
gian trông đợi đã đến. Vì tiên tri Daniel
5
đã tiên đoán: “Sau 69 tuần năm, các
đau khổ của Israel sẽ chấm dứt” (Đn 9, 24-27).
Thật ra, người Do Thái khi đó không có một quan niệm rõ rệt về Đấng
Messia mà họ mong đợi. Sống trong cảnh nô lệ, bị áp bức nên hầu hết người

Do Thái cho rằng Đấng Messia sẽ là vị anh hùng cứu quốc, có trong tay cả
trăm ngàn binh sĩ. Ngài sẽ báo thù cho dân Ngài, “đập tan các thù địch như
đập bình gốm” (Ml 1, 13). Ngài sẽ thống trị muôn dân, mở đầu cho thời huy
hoàng của Israel. Vì vậy, khi Đức Jesus xuất hiện, rao giảng và tự xưng mình
là Đấng Messia thì hầu hết người Do Thái đều tin Đức Jesus sẽ làm một cuộc
cách mạng để giải phóng dân tộc. Trong Phúc âm cũng tường thuật lại nhiều


5
Daniel ở trong nhóm người Do Thái đầu tiên bị bắt qua Babylon làm phu tù vào năm 605 BC, ông sống tại Babylon trải qua nhiều đời
vua, từ các vua của đế quốc Babylon là vua Nêbucátnếtsa, vua Bênxátsa cho đến các vua của đế quốc Mêđô Ba Tư, là vua Đariút, vua
Si-ru.
23

chi tiết chứng tỏ rằng người Do Thái lúc bấy giờ không nghĩ rằng Đức Jesus
là một người sáng lập tôn giáo mới mà hầu như họ đều nghĩ rằng Đức Jesus là
một lãnh tụ cách mạng của Israel và sẽ là vua của dân Do Thái.
Sau này, khi Đức Jesus đi rao giảng cũng nhiều lần chứng minh với
người Do Thái rằng chính Ngài là Đấng Messia mà các tiên tri đã từng loan
báo, một số người Do Thái đã tin theo, nhưng một số khác thì phản đối và
xem đó là sự mạo danh, là sự phạm thượng nên tìm cách loại trừ.
Tư tưởng về thế giới quan, về nhân sinh quan, đạo đức của Do Thái
giáo là tiền đề tư tưởng trực tiếp của Kitô giáo. Chính Đức Jesus trong quá
trình rao giảng về giáo lý của mình cũng khẳng định giáo lý Ngài rao giảng
không phủ định những tư tưởng luật lệ của người Do Thái mà ngược lại là sự
tiếp nối, kiện toàn những gì đã có (xem Mt 5, 17-19).
: Các triết gia Hy
Lạp xuất hiện trước Đức Jesus khoảng năm thế kỷ như Pythagore, Platon,
Aristote, Philo,… đã có những tư tưởng và quan niệm về một thế giới siêu
nhiên, về linh hồn bất tử, về Ngôi lời nhập thể, … Vì thế, những tư tưởng đó

vừa là tiền đề, vừa là giá đỡ về mặt lý luận cho Kitô giáo. Điều đó cũng được
các nhà thần học, triết học và những nhà hoạt động Kitô giáo thừa nhận.
Thượng phụ Bartholomew
6
viết: “Thật vậy, Giáo hội Kitô giáo không thể phủ
nhận sự đóng góp của nền văn chương và triết học Hy Lạp vào tư tưởng và
giáo lý Kitô giáo. Ngay từ thuở ban đầu, nghĩa là từ thời các tông đồ, những
người bị coi là không có học thức, Giáo hội đã nhận được ảnh hưởng có lợi từ
nền văn chương và triết học Hy Lạp và đã vận dụng chúng làm phương tiện
để phát triển và biểu dương đức tin Kitô giáo của giáo hội”[158, tr.146]. Hay
chính thánh sử Gioan
7
cũng tỏ ra là người rất hiểu biết với triết thuyết
Pythagore. Và bằng tất cả tư duy triết học, ông đã tiếp cận được với học


8 Người đứng đầu Chính thống giáo hiện nay.
7
Ông được xem là tác giả của sách Phúc âm thứ tư.

×