Tải bản đầy đủ (.doc) (136 trang)

biện pháp quản lý đổi mới phương pháp dạy học của hiệu trưởng các trường trung học cơ sở huyện thạnh phú, tỉnh bến tre

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (730.22 KB, 136 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
NGUYỄN THỊ NHÀN
BIỆN PHÁP QUẢN LÝ ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
CỦA HIỆU TRƯỞNG CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC SƠ SỞ
HUYỆN THẠNH PHÚ, TỈNH BẾN TRE
Chuyên ngành: QUẢN LÝ GIÁO DỤC
Mã số : 60. 14. 05
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. NGUYỄN KHẮC HÙNG
Huế, Năm 2012
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi, các số liệu và kết quả nghiên cứu ghi trong
luận văn là trung thực, được các đồng tác giả cho phép
sử dụng và chưa từng được công bố trong bất kỳ một
công trình nào khác.

Tác giả luận văn


Nguyễn Thị Nhàn
ii
Với tình cảm chân thành và quý trọng,
chúng tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến:
- Ban Giám hiệu nhà trường, Phòng Đào tạo
sau Đại học, Khoa Tâm lý-Giáo dục Trường Đại
học Sư phạm – Đại học Huế.


- Thầy Tiến sĩ Nguyễn Khắc Hùng, Viện
Trưởng Viện Tâm lý Giáo dục- Pháp luật, TP Hồ
Chí Minh, người hướng dẫn khoa học.
- Quý Thầy, Cô giáo đã tham gia quản lý,
giảng dạy, tư vấn và giúp đỡ chúng tôi trong quá
trình học tập, nghiên cứu.
- Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Thạnh
Phú, tỉnh Bến Tre.
- Các trường THCS huyện Thạnh Phú, tỉnh
Bến Tre.
- Các bạn bè, đồng nghiệp đã tận tình giúp
đỡ, góp ý, cung cấp tài liệu, số liệu và tạo mọi
điều kiện để chúng tôi hoàn thành luận văn này.
Mặc dù rất cố gắng trong quá trình thực hiện
đề tài, song luận văn khó tránh khỏi những thiếu
sót. Chúng tôi kính mong nhận được sự chỉ dẫn,
iii
góp ý của quý Thầy, Cô giáo và các bạn đồng
nghiệp.
Huế, tháng 10 năm 2012
Nguyễn Thị Nhàn

iv
MỤC LỤC

Trang
Trang phụ bìa i
Lời cam đoan ii
Lời cảm ơn iii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT 2

3
DANH MỤC CÁC BẢNG, MÔ HÌNH, SƠ ĐỒ 3
Tiểu kết chương 1 38
Tiểu kết chương 2 62
Tiểu kết chương 3 91
PHỤ LỤC
1
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CBQL : Cán bộ quản lý
CNH : Công nghiệp hóa
CSVC : Cơ sở vật chất
GD&ĐT : Giáo dục và đào tạo
GV : Giáo viên
HĐH : Hiện đại hóa
HS : Học sinh
NXB : Nhà xuất bản
NQ : Nghị quyết
PPDH : Phương pháp dạy học
PTKT : Phương tiện kỹ thuật
QL : Quản lý
QLGD : Quản lý giáo dục
TBDH : Thiết bị dạy học
THCS : Trung học cơ sở
TW : Trung ương
UBND : Ủy Ban nhân dân
ƯDCNTT : Ứng dụng công nghệ thông tin
XHCN : Xã hội chủ nghĩa

2

DANH MỤC CÁC BẢNG, MÔ HÌNH, SƠ ĐỒ
Bảng 2.1. Qui mô phát triển trường lớp, học sinh các bậc học, cấp học 43
Bảng 2.2. Chất lượng giáo dục học sinh bậc THCS huyện Thạnh Phú (2009-2012) 44
Bảng 2.3. Số lượng, trình độ chuyên môn, chính trị đội ngũ CBQL, GV THCS (2009-2012) 44
Bảng 2.4. Kết quả thanh tra giảng dạy đội ngũ giáo viên THCS huyện Thạnh Phú 45
Bảng 2.5. Kết quả khảo sát nhận thức về sự cần thiết đổi mới PPDH 47
Bảng 3.1. Tổng hợp kết quả về ^nh hợp lý và ^nh khả thi của các biện pháp 90
Mô hình 1.1. Mô hình dạy học lấy thầy làm trung tâm 35
Mô hình 1.2. Mô hình dạy học lấy người học làm trung tâm 35
Sơ đồ 1.1. Tác động của các yếu tố quản lý giáo dục 12
Sơ đồ 1.2. Hoạt động của quá trình dạy học 34
Sơ đồ 3.1: Mối quan hệ giữa các biện pháp đề xuất 89

3
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ trên thế giới đang diễn ra mạnh mẽ.
Trình độ dân trí và tiềm lực khoa học công nghệ đã trở thành nhân tố quyết định
sức mạnh và vị thế của mỗi quốc gia trên thế giới.
Để khẳng định vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VIII của Đảng đã quyết định đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, phấn đấu đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp.
Từ đó, Chỉ thị số 40/CT-TW ngày 15 tháng 6 năm 2004 của Ban Bí thư Trung
ương Đảng Cộng sản Việt Nam (khóa IX) khẳng định: “Phát triển giáo dục và đào
tạo là quốc sách hàng đầu, là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, là điều kiện để phát huy nguồn lực
con người. Đây là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, trong đó nhà giáo và cán
bộ quản lý giáo dục là lực lượng nòng cốt, có vai trò quan trọng”.[tr.1]
Nghị quyết 40/2000/QH10 ngày 09/12/2000 của Quốc hội nước cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt nam đã nêu:

Mục tiêu của việc đổi mới chương trình giáo dục phổ thông là xây dựng nội
dung chương trình, phương pháp giáo dục, sách giáo khoa phổ thông mới nhằm
nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện thế hệ trẻ, đáp ứng yêu cầu phát triển nguồn
nhân lực phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phù hợp với thực tiễn và
truyền thống Việt Nam; tiếp cận trình độ giáo dục phổ thông ở các nước phát triển
trong khu vực và thế giới.
Việc đổi mới chương trình giáo dục phổ thông phải quán triệt mục tiêu, yêu
cầu về nội dung, phương pháp giáo dục của các bậc học, cấp học quy định trong
Luật giáo dục; khắc phục những mặt còn hạn chế của chương trình, sách giáo khoa
hiện hành; tăng cường tính thực tiễn, kỹ năng thực hành, năng lực tự học; coi trọng
kiến thức khoa học xã hội và nhân văn; bổ sung những thành tựu khoa học công
nghệ hiện đại phù hợp với khả năng tiếp thu của học sinh.
Bảo đảm sự thống nhất, kế thừa và phát triển của chương trình giáo dục…;
bảo đảm sự thống nhất về chuẩn kiến thức và kỹ năng, có phương án vận dụng
chương trình, sách giáo khoa phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện của các địa bàn
khác nhau.
4
Đổi mới nội dung chương trình, sách giáo khoa, phương pháp dạy học và học
phải được thực hiện đồng bộ với việc nâng cấp và đổi mới trang thiết bị dạy học, tổ
chức đánh giá, thi cử, chuẩn hóa trường sở, đào tạo, bồi dưỡng giáo viên và công
tác quản lý giáo dục.[ 37, tr.98 ]
Như vậy, định hướng đổi mới phương pháp dạy học được Đảng ta xác định
rõ và đã được thể chế hóa trong Luật giáo dục(2005): “Phương pháp giáo dục phổ
thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của học sinh, phù hợp
với từng đặc điểm của lớp học, môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng
làm việc theo nhóm, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động
đến tình cảm, đem lại niềm vui hứng thú cho học sinh”.[18,tr.13]; được cụ thể hóa
trong các chỉ thị của Bộ giáo dục và Đào tạo, đặc biệt chỉ thị số 14/2001/CT-TTg về
thực hiện nghị quyết 40/2000/QH10 về đổi mới chương trình giáo dục phổ thông và
đã tổ chức thực hiện đến cấp cơ sở, cho đến nay vẫn tiếp tục thực hiện, như trong

báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XI đã nêu trong phần Chiến lược phát triển giáo dục từ 2011- 2015:
“Thực hiện đồng bộ các giải pháp phát triển và nâng cao chất lượng giáo dục, đào
tạo. Đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học, phương pháp thi,
kiểm tra theo hướng hiện đại”.[ tr.25].
Trong nhiều năm qua, tất cả các trường phổ thông trong cả nước tiến hành đồng
bộ việc thực hiện đổi mới chương trình giáo dục mà cốt lõi là đổi mới về nội dung,
phương pháp dạy học. Đánh giá về tình hình giáo dục hiện nay, Đảng và chính phủ
cũng đã khẳng định thành tựu của giáo dục trong những năm qua là rất lớn, song
những tồn tại, khuyết điểm cũng không ít . Chương trình, nội dung, phương pháp dạy
và học lạc hậu, đổi mới chậm; cơ cấu giáo dục không hợp lý giữa các lĩnh vực, ngành
nghề đào tạo; chất lượng giáo dục toàn diện giảm sút, chưa đáp ứng được yêu cầu
của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, trong đó những yếu kém căn bản nhất
là chất lượng giáo dục đại trà thấp, ở tất cả các bậc học, cấp học; cách dạy, cách học
trong nhà trường chủ yếu vẫn là truyền thụ kiến thức một chiều, nặng về lý thuyết,
nhẹ về thực hành, chưa phát huy tinh thần tự học và tư duy sáng tạo của người học,
làm chậm quá trình đổi mới phương pháp dạy học trong nhà trường.
Các trường trung học cơ sở huyện Thạnh Phú tỉnh Bến Tre thời gian qua đã rất
quan tâm tới việc đổi mới phương pháp dạy học nhất là trong những năm đầu mới
5
thay sách. Hiệu trưởng các trường cũng đã có những biện pháp tổ chức các hoạt động
cụ thể để tiến hành đổi mới phương pháp dạy học, bước đầu có những kết quả đáng
khích lệ. Tuy nhiên cũng còn bộc lộ nhiều hạn chế nhất định, nhất là không có thói
quen, kiên trì trong vận dụng đổi mới phương pháp dạy học, là một trong những địa
phương có chất lượng giáo dục thấp so với mặt bằng của tỉnh nhà, làm ảnh hưởng
đến chất lượng giáo dục đại trà của cả nước. Vấn đề này cũng được các cấp lãnh đạo
của huyện bàn luận rất nhiều nhưng chưa có biện pháp thực hiện hiệu quả.
Nhận thức được tình hình quản lý hoạt động đổi mới phương pháp dạy học
của địa phương đang gặp nhiều khó khăn, chưa tổ chức quá trình đổi mới một cách
khoa học và hữu hiệu để tạo nên một bước ngoặt quan trọng, cần thiết về sự đổi

mới phương pháp dạy học.
Từ những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài: “Biện pháp quản lý đổi mới
phương pháp dạy học của Hiệu trưởng các Trường trung học cơ sở huyện Thạnh
Phú, tỉnh Bến Tre” làm đề tài nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích lí luận, khảo sát thực trạng dạy- học của giáo
viên, học sinh và công tác quản lý của Hiệu trưởng về việc đổi mới phương pháp
dạy học ở các Trường trung học cơ sở huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre, chúng tôi
đề xuất các biện pháp quản lý của Hiệu trưởng Trường trung học cơ sở về đổi mới
phương pháp dạy học nhằm nâng cao chất lượng dạy học các trường trung học cơ
sở ở địa phương, góp phần đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông hiện nay.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Công tác quản lý của Hiệu trưởng về đổi mới phương pháp dạy học tại các
trường trung học cơ sở.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp quản lý đổi mới phương pháp dạy học của Hiệu trưởng các Trường
trung học cơ sở huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre.
4. Giả thuyết khoa học
Nâng cao hiệu quả quản lý của Hiệu trưởng về đổi mới phương pháp dạy học trong
nhà trường THCS là vấn đề có ý nghĩa rất quan trọng trong việc nâng cao chất lượng dạy
học, góp phần đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông hiện nay. Tuy nhiên, việc
quản lý đổi mới phương pháp dạy học của Hiệu trưởng ở các Trường trung học cơ sở
6
huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre còn nhiều bất cập. Nếu xây dựng và thực hiện các biện
pháp quản lý của Hiệu trưởng về đổi mới phương pháp dạy học một cách khoa học, hợp
lí, thì sẽ góp phần nâng cao chất lượng dạy học các Trường trung học cơ sở huyện
Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận về quản lý của Hiệu trưởng đối với việc đổi mới

phương pháp dạy học ở các trường trung học cơ sở.
5.2. Khảo sát, đánh giá thực trạng quản lý của Hiệu trưởng đối với việc đổi mới
phương pháp dạy học ở các Trường trung học cơ sở huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre.
5.3. Đề xuất các biện pháp quản lý của Hiệu trưởng đối với việc đổi mới
phương pháp dạy học ở các Trường trung học cơ sở huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận: Phân tích và tổng hợp tài liệu, phân loại
tài liệu, hệ thống hóa lý thuyết nhằm xây dựng cơ sở lý luận của đề tài.
6.2. Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Phương pháp quan sát sư phạm,
phương pháp điều tra viết, phương pháp chuyên gia, phương pháp tổng kết kinh
nghiệm nhằm khảo sát, phân tích thực trạng và thu thập thêm các thông tin có liên
quan đến vấn đề nghiên cứu.
6.3. Phương pháp thống kê toán học nhằm xử lý kết quả nghiên cứu.
7. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu các biện pháp quản lý của Hiệu trưởng về đổi mới
phương pháp dạy học ở tám trường: Trường THCS Tân Phong, THCS Thới Thạnh,
THCS Phú Khánh, THCS Quới Điền, THCS Hòa Lợi, THCS An Thuận, THCS An
Qui, THCS An Nhơn.
7
NỘI DUNG
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ
ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC Ở TRƯỜNG
TRUNG HỌC CƠ SỞ
1.1. Khái quát lịch sử vấn đề nghiên cứu
1.1.1. Các nghiên cứu nước ngoài
Dạy học là một hoạt động lao động xã hội. Quản lý PPDH là quản lý một quá
trình xã hội đặc thù, có vai trò quan trọng và cần thiết. Thực tiễn và lý luận về quản
lý PHDH được hình thành và phát triển cùng với sự hình thành và phát triển của xã
hội loài người.

Ngay từ thời cổ đại, tư tưởng quản lý phương pháp dạy học đã được thể hiện
trong những quan điểm của các nhà triết học đồng thời là những nhà giáo dục. Xôcrat
(469-399 trước CN) một trong những triết học phương Tây, đã đề xuất và thực hiện
một phương pháp dạy học mà chúng ta gọi là “phương pháp Socrate” [33, tr.5], đó
chính là phương pháp đàm thoại trong dạy học đang được sử dụng cho đến ngày
nay. J.A Komenxki nhà sư phạm lỗi lạc của thế kỷ XVII đã đưa ra những biện pháp
dạy học bắt học sinh phải tìm tòi, suy nghĩ để nắm được bản chất của sự vật hiện
tượng. J.J.Ruxô cũng cho rằng, phải hướng học sinh tích cực tự giác giành kiến thức
bằng cách tìm hiểu, khám phá và sáng tạo. A. Distecvec thì cho rằng: “Người giáo
viên tồi là người cung cấp cho học sinh chân lý, người giáo viên giỏi là người dạy
cho họ tìm ra chân lý”.[38, tr.286]. Những tư tưởng trên đây vẫn còn nguyên giá trị
trong thời đại ngày nay.
Thế kỷ XX, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học
và công nghệ, sự bùng nổ thông tin KH&CN dẫn đến tình trạng các tri thức được
dạy trong nhà trường mau chóng lạc hậu, nhà trường không đủ thời gian để trang
bị cho học sinh những tri thức của nhân loại. Giáo dục của thế giới đã trải qua ba
cuộc cải cách, theo đó là cuộc cải cách lần thứ ba vào những năm 80 đã nhấn
mạnh nhiều vấn đề đổi mới PPDH theo hướng phát huy tính tích cực chủ động,
sáng tạo của người học.
8
1.1.2. Các nghiên cứu trong nước
Ở Việt Nam ngay từ những ngày đầu của nền giáo dục cách mạng, trong thư
gởi cho học sinh nhân ngày khai trường tháng 9 năm 1945, Bác Hồ đã viết: “ từ giờ
phút này trở đi, các cháu bắt đầu được nhận một nền giáo dục hoàn toàn Việt
Nam… làm phát triển hoàn toàn năng lực sẵn có của các cháu”. [23, tr.32]. Bức thư
của Người chính là cương lĩnh của nền giáo dục Việt Nam mới, là định hướng cho
PPDH, dạy học cần làm phát triển hoàn toàn năng lực sẵn có của người học.
Đã có nhiều công trình nghiên cứu về đổi mới phương pháp dạy học. Có thể
kể ra một số công trình nghiên cứu, ứng dụng, thử nghiệm về đổi mới PPDH đã
được xuất bản: “Mô hình dạy học tích cực lấy người học làm trung tâm” của tác giả

Nguyễn Kỳ, NXB GD, 1996; “Giáo dục học một số vấn đề về lý luận và thực tiễn”
của GS Hà Thế Ngữ, NXB ĐHQG, 2001; “ Những vấn đề chung của Giáo dục học”
của GS.TSKH Thái Duy Tuyên, NXB ĐHSP, 2003; “Phương pháp dạy học truyền
thống và đổi mới” của GS.TSKH Thái Duy Tuyên, NXB GDVN, 2010. Tuy nhiên
vấn đề quản lý đổi mới PPDH, tác giả không đưa vào nhiều tại các tác phẩm này khi
bàn về QL PPDH ở các trường THCS.
Trong thời gian qua, một số tác giả của các luận văn Thạc sĩ, luận án Tiến sĩ
Giáo dục đã nghiên cứu về quản lý hoạt động dạy học, cụ thể như:
Đặng Phước Mỹ (2004), Các biện pháp quản lý của Hiệu trưởng nhằm góp
phần nâng cao năng lực giảng dạy cho đội ngũ giáo viên trường THPT trên địa bàn
tỉnh Thừa Thiên Huế, luận văn Thạc sĩ Khoa học giáo dục, Huế.
Tôn Thất Viễn Tương (2006), Các biện pháp quản lý của hiệu trưởng trong
việc đổi mới phương pháp dạy học ở các trường trung học phổ thông thành phố
Huế, luận văn Thạc sĩ giáo dục học, Huế.
Trần Văn Hiếu (1999), Xây dựng quy trình làm việc độc lập với sách và tài
liệu học tập cho sinh viên, luận án Tiến sĩ giáo dục, Hà Nội.
Phan Minh Tiến (1999), Nghiên cứu sử dụng phương tiện trực quan theo
hướng tích cực hóa hoạt động nhận thức của học sinh trong giờ học ở trường trung
học cơ sở, luận án Tiến sĩ giáo dục, Hà Nội.
Trong các luận văn, luận án trên đây các tác giả đã coi việc đổi mới PPDH là
một biện pháp khả thi để nâng cao chất lượng dạy học ở các vùng miền của đất nước.
Trong thực tiễn quản lý dạy học ở các trường phổ thông, đặc biệt là các trường
tiên tiến, các đơn vị điển hình, các Hiệu trưởng giỏi đã có nhiều sáng kiến đi đầu
9
trong việc quản lý nhằm đổi mới PPDH. Đó là cơ sở lý luận và thực tiễn đáng trân
trọng, làm chỗ dựa cho quá trình nghiên cứu của chúng tôi.
Tại các Trường THCS huyện Thạnh Phú, mặc dù các Hiệu trưởng đã đặt vấn
đề này ở tầm quan trọng trong sự phối hợp với các hoạt động toàn diện của nhà
trường, nhưng lại chưa có những hướng dẫn và quy định cụ thể để thực hiện đổi
mới PPDH thích hợp với từng môn học. Vì thế những lý luận về PPDH mới, những

thiết kế cụ thể cho từng bài dạy theo hướng đổi mới dường như vẫn chưa biến thành
hoạt động hằng ngày của giáo viên và học sinh.
Chính vì vậy, chúng tôi cho rằng việc nghiên cứu áp dụng những biện pháp
quản lý cụ thể của Hiệu trưởng nhằm đổi mới phương pháp dạy học ở các Trường
THCS huyện Thạnh Phú là rất cần thiết, với lòng mong muốn có sự đóng góp
khiêm tốn của tác giả nhằm góp phần thúc đẩy sự phát triển giáo dục cấp THCS tại
huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre.
1.2. Các khái niệm cơ bản
1.2.1. Quản lý
Người ta quan niệm, quản lý là một thuộc tính lịch sử, vì nó phát triển theo sự
phát triển của xã hội loài người, nó được bắt nguồn và gắn chặt với sự phân công và
hợp tác lao động. Quản lý là một hiện tượng xuất hiện rất sớm, là một phạm trù tồn
tại khách quan được ra đời từ bản thân nhu cầu của mỗi chế độ xã hội, mọi quốc
gia, trong mọi thời đại.
Trong quá trình hình thành và phát triển của lý luận quản lý, khái niệm quản lý
đã được các nhà nghiên cứu đưa ra theo nhiều cách khác nhau, tùy theo những cách
tiếp cận khác nhau.
PGS.TS Đặng Quốc Bảo cho rằng: “Bản chất của hoạt động quản lý gồm hai
quá trình tích hợp vào nhau, quá trình “quản” gồm sự coi sóc giữ gìn để duy trì tổ
chức ở trạng thái ổn định, quá trình “lý” gồm sự sửa sang, sắp xếp, đổi mới đưa hệ
vào thế phát triển. Như vậy quản lý chính là hoạt động tạo ra sự ổn định và thúc đẩy
sự phát triển của tổ chức đến một trạng thái mới có chất lượng cao hơn” [1, tr.31].
GS.TS Nguyễn Thị Mỹ Lộc và TS Nguyễn Quốc Chí cho rằng: “Quản lý là
quá trình đạt đến mục tiêu của tổ chức bằng cách vận dụng các hoạt động (chức
năng) kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ đạo (lãnh đạo) và kiểm tra” [5, tr.9].
10
GS. Hà Thế Ngữ cho rằng: “Quản lý là quá trình dựa vào các quy luật khách
quan vốn có của hệ thống để tác động đến hệ thống nhằm chuyển hệ thống đó sang
một trạng thái mới” [25, tr.363]
Tác giả Trần Kiểm cho rằng: “Quản lý là tác động có hướng đích của chủ thể

quản lý, dựa trên nhận thức những quy luật khách quan của hệ quản lý đến các quá
trình đang diễn ra nhằm đạt mục đích đặt ra một cách tối ưu”.[20, tr. 9]
Những định nghĩa trên đây tuy khác nhau về cách diễn đạt, về gốc độ tiếp cận
nhưng đều gặp nhau ở những nội dung cơ bản của khái niệm quản lý: Quản lý là sự
tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý nhằm
đạt mục tiêu đề ra.
1.2.2. Quản lý giáo dục
Giống như khái niệm “ quản lý”, khái niệm “quản lý giáo dục” cũng có nhiều
quan niệm khác nhau.
Theo Nguyễn Đình Chinh và Phạm Ngọc Uyển: “Quản lý giáo dục- đào tạo có
thể được hiểu là hoạt động quản lý những tác động giáo dục và đào tạo, theo những
mục tiêu xác định. Đó là hoạt động có tính mục đích, được tổ chức một cách khoa
học của hiệu trưởng nhằm tổ chức – chỉ đạo một cách khoa học các hoạt động giáo
dục và đào tạo trong nhà trường, hướng vào đạt những mục tiêu đã định.” [6, tr.42]
Theo quy luật phát triển xã hội, tác giả Phạm Thanh Liêm cho rằng: “Quản lý
giáo dục (nói chung) và quản lý trường học (nói riêng) là hệ thống những tác động
có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý (hệ giáo dục) nhằm làm
cho hệ vận hành theo đường lối, quan điểm giáo dục của Đảng, thực hiện được mục
tiêu “nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”; hình thành đội ngũ lao
động có tri thức có tay nghề, có năng lực thực hành, tự chủ, năng động và sáng tạo,
có đạo đức cách mạng, tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội” [22,tr.3]
Theo tác giả Trần Kiểm: “ Quản lý giáo dục là sự tác động liên tục, có tổ chức,
có hướng đích của chủ thể quản lý lên hệ thống giáo dục nhằm tạo ra tính trồi của
hệ thống; sử dụng một cách tối ưu các tiềm năng, các cơ hội của hệ thống nhằm đưa
hệ thống đến mục tiêu một cách tốt nhất trong điều kiện bảo đảm sự cân bằng với
môi trường bên ngoài luôn luôn biến động.” [ 19, tr.36].
Từ những khái niệm trên, ta có thể thấy rõ bốn yếu tố của quản lý giáo dục, đó
là: chủ thể quản lý, đối tượng quản lý, khách thể quản lý và mục tiêu quản lý. Bốn
yếu tố này tạo thành sơ đồ sau:
11


Sơ đồ 1.1. Tác động của các yếu tố quản lý giáo dục
Dựa vào sơ đồ có thể nói: Quản lý giáo dục là sự tác động của chủ thể quản lý
lên đối tượng quản lý nhằm huy động họ cùng phối hợp, tác động vào các hoạt động
của nhà trường để đạt được mục tiêu đặt ra.
Như vậy, đối với giáo dục (của nhà trường) quản lý thực chất là sự tác động
một cách khoa học của chủ thể quản lý đến hệ thống giáo dục nhằm làm cho hệ vận
hành đến một trạng thái mới có chất lượng cao hơn.
1.2.3. Quản lý nhà trường
Nhà trường là cơ quan giáo dục chuyên biệt thực hiện chức năng giáo dục của
Nhà nước, của cộng đồng và của xã hội. Nhà trường có nhiệm vụ đào tạo thế hệ trẻ
trở thành những con người phát triển toàn diện về thể chất và tinh thần, những
người có ích cho xã hội. Toàn bộ hoạt động của nhà trường đều hướng đến thực
hiện mục tiêu đào tạo.
Quản lý nhà trường là hệ thống những tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp
quy luật của chủ thể quản lý nhằm làm cho nhà trường vận hành theo nguyên lý
giáo dục để đạt tới mục tiêu giáo dục đặt ra trong từng thời kỳ phát triển của đất
nước đối với ngành giáo dục.
Theo PGS.TS. Phạm Viết Vượng: “Quản lý trường học là hoạt động của các
cơ quan quản lý nhằm tập hợp và tổ chức các hoạt động của giáo viên, học sinh và
các lực lượng giáo dục khác, cũng như huy động tối đa các nguồn lực giáo dục để
nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo trong nhà trường.” [44, tr.205]
Quản lý nhà trường thực chất là quản lý trên tất cả các mặt, các khía cạnh khác
nhau có liên quan đến hoạt động giáo dục trong phạm vi một nhà trường. Tiêu điểm
của giáo dục trong phạm vi nhà trường là hoạt động dạy học và giáo dục, bao gồm:
+ Quản lý chương trình dạy học và giáo dục của nhà trường.
+ Quản lý GV và phát tiển nghề nghiệp của người dạy.
+ Quản lý học sinh và các hoạt động của người học.
+ Quản lý thiết bị, cơ sở vật chất và những điều kiện khác đảm bảo cho hoạt
động của nhà trường đạt được mục tiêu đã đặt ra.

12
Chủ thể quản

Đối tượng
quản lý
Khách thể
quản lý
Mục tiêu
quản lý
1.2.4. Phương pháp dạy học
Phương pháp dạy học là một trong những thành tố quan trọng của quá trình
dạy học, là tổng hợp cách thức hoạt động của GV và của học sinh trong quá trình
dạy học, được tiến hành dưới vai trò chủ đạo của GV nhằm thực hiện tốt các nhiệm
vụ dạy học. Phương pháp dạy học có quan hệ mật thiết với các thành tố khác của
quá trình dạy học:
- Chịu sự chi phối của mục đích dạy học đồng thời góp phần thực hiện mục
đích dạy học.
- Được qui định bởi nội dung dạy học. Nội dung dạy học chi phối việc lựa
chọn và vận dụng phối hợp hợp lý các phương pháp dạy học. Nhờ có phương pháp
dạy học mà nội dung dạy học trở thành vốn kinh nghiệm của cá nhân học sinh.
- Phương pháp dạy học chi phối các thành tố khác của quá trình dạy học
(phương tiện, hình thức tổ chức dạy học).
Cùng một nội dung dạy học, trong những hoàn cảnh và điều kiện tương tự
nhau, nhưng học sinh có hứng thú, tích cực học tập hay không, có để lại những ấn
tượng sâu đậm trong trí nhớ và tâm hồn các em không, có phát triển được tính tích
cực, sáng tạo không đều phụ thuộc rất lớn vào phương pháp dạy học.
Có nhiều định nghĩa PPDH theo những cách tiếp cận khác nhau; Theo
GS.TSKH Thái Duy Tuyên, có thể tóm tắt theo ba dạng cơ bản sau đây:
“ Theo quan điểm điều khiển học, phương pháp dạy học là cách thức tổ chức
hoạt động nhận thức của học sinh và điều khiển hoạt động này.

Theo quan điểm logic, phương pháp dạy học là những thủ thuật logic được sử
dụng để giúp học sinh nắm kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo một cách tự giác.
Theo bản chất của nội dung, phương pháp dạy học là sự vận động của nội
dung dạy học” [38, tr.226]
Dù các cách phát biểu có khác nhau nhưng mọi người đều thừa nhận: PPDH là
tổ hợp cách thức cộng tác, hoạt động cùng nhau của người dạy và người học nhằm
đạt được mục đích, mục tiêu dạy học.
1.3. Đổi mới phương pháp dạy học
1.3.1. Tính tất yếu phải đổi mới phương pháp dạy học
Đặc điểm quan trọng và sâu sắc nhất của xã hội hiện đại là cuộc cách mạng
khoa học- công nghệ đang tiếp tục phát triển với những bước nhảy vọt trong thế kỷ
13
XXI, đưa thế giới từ nền văn minh công nghiệp sang nền văn minh thông tin, sản
sinh ra một khối lượng kiến thức đồ sộ, cung cấp cho nhân loại một khối lượng
khổng lồ của cải vật chất và tinh thần, làm thay đổi bộ mặt xã hội.
Con người hiện đại có trí tuệ phát triển, có tri thức phong phú, đa dạng, đặc
biệt là hệ thống tri thức khoa học tự nhiên và kĩ thuật đã phát triển đến trình độ rất
cao; tư duy khoa học, kĩ thuật phát triển; biết nhiều ngoại ngữ; trình độ sáng tạo và
thưởng thức nghệ thuật được nâng cao…“ Xã hội học tập” là một xã hội phát triển
trên cơ sở tổ chức tốt sự nghiệp giáo dục, là xã hội mà ở đó được tạo mọi cơ hội
thuận lợi để học và phát triển mọi khả năng. Giáo dục dân trí ngày càng đóng vai trò
quyết định trong sự phát triển xã hội dựa trên 4 trụ cột: “học để biết”, “học để làm”,
“học để cùng chung sống với nhau”, “học để làm người”.Trong nền kinh tế tri thức,
tốc độ thay đổi nhanh chóng của công nghệ đòi hỏi người lao động phải học tập liên
tục và tri thức phải được cập nhật trong suốt cuộc đời lao động của họ - học thường
xuyên, học tập suốt đời, nếu họ muốn tiếp tục có việc làm. Tính linh hoạt, năng
động, tự chủ, khả năng thích ứng và khả năng sáng tạo sẽ được coi là những phẩm
chất tốt nhất và cần thiết nhất đối với người lao động trong nền kinh tế tri thức. Do
đó, giáo dục đào tạo phải đổi mới sâu sắc, toàn diện để thích ứng với xu hướng đó,
nhằm thực hiện một cách đầy đủ sự “gắn kết nhất thể” giữa giáo dục và xã hội.

Vấn đề đổi mới PPDH là một trong những nội dung quan trọng nhất của hoạt
động nhà trường trong thời gian qua. Thấy rõ tầm quan trọng của PPDH trong việc
đào tạo con người năng động, sáng tạo, những phẩm chất nhân cách mà xã hội hiện
đại xem là điều kiện tồn tại của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc, thời gian qua chúng ta
đã hết sức cố gắng trong việc đổi mới PPDH với lòng mong muốn tạo nên những
bước đột phá trong việc thay đổi cách dạy-cách học rất cũ kĩ, lỗi thời đang tồn tại
trong nhà trường, nhưng cho đến nay, nhìn chung, quá trình đổi mới đang diễn ra rất
chậm chạp, phổ biến vẫn là cách dạy truyền thụ một chiều phối hợp với giảng giải,
xen kẽ vấn đáp. HS vẫn đang là những thực thể thụ động, nghe, ghi, nhớ và tái hiện.
Nguyên nhân sâu xa tạo ra những điều đó là người Hiệu trưởng chưa thật mặn
mà với việc đổi mới PPDH. Mục đích của nhiều Hiệu trưởng hiện nay là dạy sao để
HS thi lên lớp, tốt nghiệp, thi chuyển cấp…sao cho nhà trường đạt được nhiều giải
thi HS giỏi huyện, tỉnh.
14
1.3.2. Những yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học
Điều 28, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật giáo dục(2009) quy định
“Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động,
sáng tạo của học sinh; phù hợp với từng đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi
dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm; rèn luyện kĩ năng vận
dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú
học tập cho học sinh” [31, tr.45].
Mục tiêu của CNH, HĐH ở nước ta đến năm 2020 là đưa nước ta từ một nước
nông nghiệp lạc hậu thành một nước công nghiệp hiện đại. Nhân tố quyết định
thành công của mục tiêu phát triển này chính là nguồn lực con người. Để làm được
điều đó, sản phẩm con người của ngành giáo dục phải có trình độ khoa học kỹ thuật
cao, có khả năng sáng tạo, chủ động thích ứng với hoàn cảnh … nghĩa là mục tiêu
giáo dục thay đổi. Các thành tố trong hệ thống quá trình giáo dục cũng phải thay đổi
tương ứng. Nội dung, phương pháp, phương tiện dạy học….đều phải đổi mới để
hướng tới việc đào tạo ra những con người, nguồn nhân lực, đáp ứng được sự phát
triển kinh tế của đất nước.

1.3.3. Nội dung đổi mới phương pháp dạy học ở trường THCS
Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 4 (khóa VII) đã xác định
phải “khuyến khích tự học”, phải “áp dụng các phương pháp giáo dục hiện đại để
bồi dưỡng cho học sinh năng lực tư duy sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề”.
Nghị quyết của Ban chấp hành Trung ương lần thứ 2 (khóa VIII) tiếp tục
khẳng định: “Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục-đào tạo, khắc phục lối
truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng
bước áp dụng phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại vào quá trình dạy- học,
bảo đảm điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho học sinh, nhất là sinh viên
đại học. Phát triển mạnh phong trào tự học, tự đào tạo thường xuyên và rộng khắp
trong toàn dân, nhất là thanh niên” [7, tr.41].
Trong thời đại ngày nay, khi KH&CN đang phát triển mạnh mẽ, khi hội nhập
đang trở thành xu thế toàn cầu, thì việc đào tạo nguồn nhân lực năng động, sáng tạo
là điều kiện tồn tại của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc. Hiện nay, ngành giáo dục nước ta
đang nổ lực đổi mới PPDH theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động của HS
trong học tập. Rõ ràng, đổi mới PPDH đang là trung tâm chú ý của các cấp quản lý
15
cũng như của Hiệu trưởng nhà trường Vì vậy, “đổi mới phương pháp dạy và học,
phát huy tư duy sáng tạo và năng lực tự đào tạo của người học” [8, tr.23] là tư tưởng
chiến lược đào tạo con người của giáo dục Việt Nam.
Cuộc vận động đổi mới PPDH ở nước ta đã được phát động và triển khai trong
những năm qua, nhưng sự vận động của nhà trường đang thay đổi chậm, chưa đáp
ứng các yêu cầu của xã hội. Chúng ta sẽ tìm hiểu vấn đề này bắt đầu từ quan niệm
đổi mới PPDH.
Đổi mới không phải là thay đổi toàn bộ PPDH đã có, mà phải trên cơ sở phát
huy những yếu tố tích cực của PPDH hiện nay, từng bước áp dụng những PPDH
tiên tiến và phương tiện dạy học hiện đại nhằm thay đổi cách thức dạy học, thay đổi
phương pháp học tập của HS, chuyển từ học tập thụ động sang học tập tích cực, chủ
động, sáng tạo, từng bước chuyển dần PPDH theo hướng biến quá trình đào tạo
thành quá trình tự đào tạo, biến quá trình dạy học thành quá trình tự học. Hoạt động

đổi mới PPDH diễn ra rất dài lâu, là hoạt động sáng tạo của cả thầy và trò và vì vậy,
để đảm bảo đổi mới PPDH có kết quả, phải có định hướng đúng.
Các hoạt động đổi mới PPDH rất phong phú, đa dạng, nhưng nhìn chung diễn
ra trên ba hướng chính:
Tiếp cận theo quan điểm Tâm lý-Giáo dục: Cải tiến phương pháp bằng cách
phát huy năng lực nội sinh của người học, phát triển sức mạnh trí tuệ, tâm hồn, ý
chí của họ. Đây là phương hướng tiếp cận đã có bề dày lịch sử lâu dài và vẫn giữ
vai trò chủ đạo, quyết định sự thành công của công cuộc đổi mới PPDH hiện nay, vì
nó tác động trực tiếp đến người học.
Tiếp cận theo quan điển điều khiển học có nghĩa là tạo điều kiện cho người
học được tự do phát triển nhu cầu học tập, phát triển năng lực cá nhân, trong mối
quan hệ thống nhất biện chứng giữa hoạt động dạy và hoạt động học; cải tiến mối
quan hệ thầy trò mà hiện nay vấn đề “lấy HS làm trung tâm” đang được nhiều người
nói đến là một trong những hướng này.
Tiếp cận theo quan điểm công nghệ, tư tưởng công nghệ hóa quá trình dạy học
trước hết là đưa những thành tựu của KH&CN hiện đại vào dạy học đồng thời thiết
kế quá trình dạy học theo một quy trình khoa học, có thể điều khiển, kiểm soát và
đo lường được.
Tóm lại, khi nói đến đổi mới PPDH phải nhìn nhận vấn đề một cách linh hoạt
theo ba hướng chính, đó là phát triển năng lực nội sinh của người học, đổi mới quan
16
hệ thầy trò và đưa công nghệ hiện đại vào nhà trường. Ba định hướng trên đây rất
khái quát, cho phép hình dung bức tranh chung về đổi mới PPDH đa dạng trên thế
giới hiện nay.
Đổi mới cái gì là câu hỏi mà mỗi thầy giáo đều đặt ra, là vấn đề quan trọng mà
Hiệu trưởng cần phải nắm vững và quán triệt đến tận từng GV. Từ sự nghiên cứu lý
luận và tìm hiểu thực tiễn dạy học, chúng tôi có thể nêu lên một số nội dung đổi
mới PPDH cơ bản sau đây:
Một là đổi mới về cách dạy của thầy cần hướng đến làm thay đổi hoạt động
nhận thức của HS: chuyển từ tái hiện sang sáng tạo. Đây là điều đầu tiên mà nhà

quản lý cần tập trung giải quyết.
Hiện nay, hoạt động nhận thức của HS trong quá trình dạy học chủ yếu vẫn là
vận dụng trí nhớ, là khả năng tái hiện. Nhưng mục tiêu mà dạy học cần đạt được là
hình thành năng lực sáng tạo cho HS. Vì vậy, then chốt của việc đổi mới PPDH là
phải hướng đến việc tăng cường các phương pháp sáng tạo bằng việc tổ chức các
hoạt động học tập của HS trong quá trình dạy học. Điều đáng lưu ý là giữa tái hiện
và sáng tạo có mối quan hệ rất chặt chẽ. Không thể sáng tạo được nếu không tái
hiện tốt, tái hiện tốt là cơ sở, là nền tảng cho hoạt động sáng tạo.
Hai là đổi mới cách học của học trò, bằng việc tăng cường các hoạt động tự học
của HS, tạo ra sự chuyển biến từ học tập thụ động sang tự học chủ động, nhằm biến
quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo. Coi trọng mối quan hệ giữa các yếu tố
tâm lý: hứng thú, tự giác, tích cực, độc lập, sáng tạo và đặc điểm tâm lý lứa tuổi.
Chú trọng rèn luyện phương pháp học tập cho HS không chỉ là một biện pháp
nâng cao chất lượng và hiệu quả dạy học mà còn là mục tiêu dạy học. Trong các
phương pháp học tập thì cốt lõi là các phương pháp tự học, tự học ngay cả trên lớp,
học có sự hướng dẫn của GV. Vì vậy, cần đặc biệt coi trọng hoạt động tự học có
tính sáng tạo và cần phối hợp hoạt động tự học sáng tạo với tự học tái hiện một cách
hợp lý trong quá trình dạy học.
Đổi mới cách dạy của thầy, đổi mới cách học của trò là đổi mới mối quan hệ
thầy trò trong dạy học. Trong quá trình dạy học hiện đại, mối quan hệ thầy trò là
mối quan hệ giữa người tổ chức, điều khiển, chỉ đạo và người tự tổ chức, tự điều
khiển hoạt động nhận thức. Cả thầy và trò đều ở vị trí trung tâm. Thầy giữ vai trò
chủ đạo, trò giữ vai trò tích cực, chủ động. Mối quan hệ một chiều: Thầy giảng- trò
17
nghe, ghi nhớ như hiện nay cần được thay đổi bằng quan hệ hợp tác, hai chiều- thầy
tổ chức, hướng dẫn, cố vấn, trọng tài, còn trò là chủ thể hoạt động.
Ba là tăng cường thí nghiệm thực hành, tăng cường rèn luyện kỹ năng vận
dụng kiến thức để giải quyết những vấn đề của thực tế đời sống; tăng cường sử
dụng các phương tiện thiết bị kỹ thuật hiện đại vào dạy học.
Kết hợp học với hành là một trong những quan điểm giáo dục quan trọng nhất

của Đảng ta. Việc nắm vững lý thuyết chỉ là để biết, để nhận thức bản chất hiện
tượng, sự kiện, điều quan trọng hơn là cần cải tạo thực tiễn.
Ngày nay, các PTTB kỹ thuật hiện đại đã trở nên phổ biến, có tiềm năng to lớn
về tri thức và phương pháp làm việc, cho phép tổ chức nhiều hoạt động dạy học
phong phú và có hiệu quả. Vì vậy, việc sử dụng các PTTB kỹ thuật hiện đại vào dạy
học phải được xem là một nội dung quan trọng trong việc đổi mới PPDH.
Bốn là, đổi mới kiểm tra đánh giá kết quả học tập của HS: Đánh giá kết quả
học tập của HS theo quan điểm không giới hạn vào khả năng tái hiện tri thức mà
chú trọng khả năng vận dụng tri thức trong việc giải quyết các nhiệm vụ.
Năm là tăng cường mối quan hệ giữa trí tuệ và tâm hồn, giữa tư duy và cảm
xúc; dạy học phải tác động vào tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú cho HS. Một
bài học hay là bài học đạt được những mục đích về kiến thức về kỹ năng và để lại
những ấn tượng sâu sắc, những cảm xúc mạnh mẽ trong HS, chính những cảm xúc
này là chất xúc tác để biến nhận thức thành thái độ và niềm tin khoa học.
Tóm lại, các nội dung cơ bản về đổi mới PPDH hiện nay là đổi mới cách dạy
của thầy, đổi mới cách học của trò, đổi mới mối quan hệ thầy trò trong dạy học,
tăng cường thực hành cho HS, tăng cường sử dụng các PTTB kỹ thuật hiện đại vào
dạy học, tăng cường mối quan hệ giữa trí tuệ và tâm hồn, giữa tư duy và cảm xúc
trong dạy học. “Cụ thể trước mắt, trong mỗi tiết học cần phải làm cho học sinh
được: hoạt động nhiều hơn, thực hành nhiều hơn, thảo luận nhiều hơn, suy nghĩ
nhiều hơn” [21, tr.25].
1.4. Quản lý đổi mới phương pháp dạy học
Quản lý PPDH ở trường phổ thông chính là quá trình tác động có tổ chức, có
hướng đích của Hiệu trưởng đến cách thức làm việc của thầy và trò nhằm đạt được
mục đích dạy học.
Trong giai đoạn hiện nay, quản lý PPDH cần tạo nên sự đổi mới PPDH. PPDH
18
luôn được đặt trong mối quan hệ chặt chẽ với các thành tố khác trong quá trình dạy
học, đó là mối quan hệ: Mục tiêu- Nội dung- Phương pháp- Phương tiện- Hình
thức- Kết quả, đặc biệt là mối quan hệ Thầy- Trò trong dạy học.

Vì vậy, quản lý PPDH cần quản lý đồng bộ các thành tố của quá trình dạy học,
đặc biệt cần tác động vào mối quan hệ Thầy- Trò, liên kết họ trong hoạt động dạy
học, tạo được động lực của việc dạy học.
Quản lý nhằm đổi mới PPDH là nội dung trọng tâm trong hệ thống quản lý
của nhà trường, đòi hỏi phải tiến hành một cách đồng bộ từ quản lý CSVC, trang
thiết bị dạy học, quản lý đội ngũ sư phạm, quản lý điều kiện và môi trường làm việc
đến cơ chế hoạt động, tổ chức và điều hành, kiểm tra đánh giá, phối hợp các lực
lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường.
1.5. Nhiệm vụ, chức năng, quyền hạn của hiệu trưởng trong việc quản lý đổi
mới phương pháp dạy học
1.5.1. Chức năng quản lý của Hiệu trưởng trường THCS
Có nhiều quan điểm phân định các chức năng cơ bản của quản lý.
Theo các tài liệu của UNESCO, công tác quản lý nói chung có bốn chức năng
cơ bản, đó là kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra.
Iu.K. Babanxki lại vận dụng quan điểm của C.Marx về bản chất quá trình lao
động vào quá trình dạy học và cho rằng: “xét về mặt điều khiển học, quá trình dạy
học gồm ba yếu tố: tổ chức và thực hiện hoạt động học tập nhận thức, kích thích
hoạt động nhận thức, kiểm tra và đánh giá kết quả” [38, tr. 228].
Như vậy theo Babanxki chức năng quản lý PPDH nhìn chung gồm 3 yếu tố,
đó là: kích thích động viên, tạo động lực, tổ chức hoạt động và kiểm tra đánh giá.
Yếu tố kích thích động viên, tạo động lực được đặt lên hàng đầu và được xem là
vấn đề rất quan trọng.
Trong thực tiễn quản lý từ xưa tới nay, các nhà quản lý dù ở bất kỳ cấp độ nào
cũng rất coi trọng vấn đề kích thích động viên, tạo động lực.
Vì vậy chúng tôi cho rằng trong hoạt động quản lý của người Hiệu trưởng cần
lưu ý năm vấn đề về mặt chức năng, đó là: kích thích động viên, tạo động lực, kế
hoạch hóa, tổ chức hoạt động, chỉ đạo hoạt động và kiểm tra, đánh giá, trong đó bốn
chức năng sau là bốn chức năng mang tính công cụ, còn chức năng kích thích động
viên, tạo động lực là chức năng cơ sở để thực hiện bốn chức năng còn lại, nó có mặt
trong mọi hoạt động của người quản lý.

19
Vận dụng các chức năng đó vào công tác quản lý nhằm đổi mới PPDH của
Hiệu trưởng trường THCS, có thể đề xuất công cụ cơ bản sau đây:
Kế hoạch hóa hoạt động đổi mới PPDH
Là việc đưa toàn bộ hoạt động đổi mới PPDH vào kế hoạch, trong đó chỉ rõ
các bước đi, các biện pháp thực hiện và đảm bảo các nguồn lực để đạt được mục
tiêu đã đề ra.
Kế hoạch về đổi mới PPDH có thể tách riêng hoặc nằm trong kế hoạch tổng
thể của nhà trường, được xây dựng theo từng năm học, mang tính pháp quy, tức là
được Hội đồng Sư phạm nhà trường thông qua và quản lý cấp trên trực tiếp phê
duyệt. Hiệu trưởng cần dựa trên những định hướng lớn về đổi mới PPDH của Đảng,
các văn bản hướng dẫn thực hiện của các cấp quản lý giáo dục và căn cứ vào điều
kiện thực tế của nhà trường về tổ chức bộ máy, về nguồn lực và các điều kiện khác,
để xây dựng kế hoạch hoạt động nhằm đổi mới PPDH.
Kế hoạch phải mang tính cụ thể, tức là xác định được mục tiêu cần đạt, dự
kiến được nguồn lực để thực hiện (nhân lực, tài lực, vật lực), phân bổ thời gian hợp
lý và quyết định những biện pháp có tính khả thi để thực hiện.
Tổ chức hoạt động đổi mới PPDH
Là quá trình phân phối và sắp xếp nguồn lực theo những cách thức nhất định
để đảm bảo thực hiện tốt các mục tiêu về đổi mới PPDH đã đề ra.
Chức năng tổ chức có vai trò hiện thực hóa các mục tiêu và tạo nên sức mạnh
của tập thể, nếu việc phân phối và sắp xếp các nguồn lực được tổ chức một cách
khoa học và hợp lý. Để thể hiện được vai trò quan trọng này, Hiệu trưởng cần phải
hình thành một cấu trúc tổ chức tối ưu của hệ thống quản lý. Đó là sự phân quyền
và phân nhiệm cho Phó hiệu trưởng và các tổ chuyên môn, nghiệp vụ, là việc xây
dựng và phát triển đội ngũ, nhân sự, là những quy định về cơ chế hoạt động phối
hợp giữa chuyên môn với các đoàn thể trong nhà trường, cùng đảm bảo thực hiện
mục tiêu đã đề ra, là sự phân bổ nguồn lực và quy định thời gian cho các bộ phận
nhằm thực hiện đúng kế hoạch đã định. Trong quá trình hoạt động của nhà trường,
Hiệu trưởng cần phải xác lập được một mạng lưới các mối quan hệ tổ chức và giải

quyết tốt các mối quan hệ giữa các bộ phận bên trong nhà trường, cũng như mối
quan hệ giữa nhà trường với cộng đồng xã hội.
Chỉ đạo hoạt động đổi mới PPDH
20
Là quá trình tác động của Hiệu trưởng tới mọi thành viên của nhà trường, nhằm
biến những yêu cầu chung về đổi mới PPDH của nhà trường thành nhu cầu hoạt
động của từng người. Trên cơ sở đó mọi người tích cực, tự giác tham gia và đem hết
khả năng của mình để làm việc. Do vậy chức năng chỉ đạo là cơ sở để phát huy các
động lực cho việc thực hiện các mục tiêu đổi mới PPDH.
Hiệu trưởng thực hiện chức năng chỉ đạo là thực hiện quyền chỉ huy và hướng
dẫn triển khai việc đổi mới PPDH, thường xuyên liên kết, động viên, khuyến khích
và giám sát mọi người và các bộ phận thực hiện tốt kế hoạch theo sự sắp xếp đã
được xác định trong bước tổ chức.
Kiểm tra hoạt động đổi mới PPDH
Là quá trình xem xét thực tiễn, để đánh giá thực trạng về đổi mới PPDH,
khuyến khích những nhân tố tích cực, phát hiện những sai lệch và đưa ra các quyết
định điều chỉnh kịp thời, nhằm giúp các bộ phận và các cá nhân đạt được các mục
tiêu về đổi mới PPDH đã đề ra.
Trong quá trình thực hiện chức năng kiểm tra, Hiệu trưởng cần phải xác định
được chuẩn kiểm tra, đo lường việc thực thi nhiệm vụ, so sánh, đối chiếu với mục
tiêu đã đề ra và đưa ra các quyết định điều chỉnh cần thiết.
Cần thường xuyên đánh giá, sơ kết những thay đổi có được, mà không phải
đợi đến cuối mỗi học kì hay cả năm học.
Ngoài bốn chức năng công cụ cơ bản trên đây, một chức năng không kém
phần quan trọng trong hoạt động quản lý đó là: chức năng kích thích, động viên, tạo
động lực. Một Hiệu trưởng có thể là một người xây dựng kế hoạch giỏi, là một
người ra quyết định luôn luôn chuẩn xác, người biết tổ chức một cách khoa học,
một người luôn coi trọng sự kiểm tra, đánh giá theo chuẩn mực, nhưng người đó có
thể thất bại trong hoạt động quản lý của mình nếu không biết quan hệ tốt với mọi
người để khuyến khích, động viên, tạo động lực cho mọi thành viên cùng hoạt động.

Động lực chính là động cơ, là nhân tố thúc đẩy, định hướng và duy trì hoạt
động của mỗi người. Vì vậy để tạo động lực cho hoạt động đổi mới PPDH, Hiệu
trưởng cần hình thành, phát triển, kích thích động cơ hoạt động dạy học của thầy,
động cơ học tập của trò.
Với GV, để tạo nên động lực của việc đổi mới PPDH, Hiệu trưởng cần tác
động đến nhu cầu được tôn trọng, được khẳng định mình, đồng thời có sự động viên
về tinh thần và bồi dưỡng bằng vật chất thích đáng, tương xứng với khả năng và sự
21

×