Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

thông tin bất cân xứng trong hoạt động kinh doanh ngân hàng tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (360.74 KB, 17 trang )

Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khóa 2005 - 2006
Tài chính phát triển Bài tập nhóm

Nhóm 2 Trang 1/17


THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG
TRONG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG
CỦA NGÂN HÀNG VIỆT NAM


Các lý thuyết về tài chính phát triển đã chỉ ra rằng sự phát triển của hệ thống tài
chính là điều kiện cần cho sự phát triển kinh tế của một đất nước. Một hệ thống tài chính
phát triển đóng vai trò như mạnh máu lưu thông trong nền kinh tế, là cầu nối giữa tiết
kiệm và đầu tư. Việt Nam cũng như các nước đang phát triển khác, các công cụ nợ, chủ
yếu là tín dụng ngân hàng đóng vai trò chính yếu trong nguồn vốn của các doanh nghiệp.
Tuy nhiên, bên cạnh một thị trường chứng khoán chưa phát triển, hoạt động tín dụng
ngân hàng Việt Nam vẫn còn nhiều điểm chưa mạnh, chưa thể hiện được sứ mệnh lịch sử
của mình. Một trong những ảnh hưởng lớn nhất đến hoạt động tín dụng của các ngân
hàng thương mại Việt Nam là hiện tượng thông tin bất cân xứng. Hiện tượng thông tin
bất cân xứng ở Việt Nam gây ra cả hai hệ quả lựa chọn bất lợi và tâm lý ỷ lại. Trong bài
viết này chúng tôi xem xét tình hình hoạt động thực tiễn các ngân hàng thương mại dưới
tác động của vấn đề thông tin bất cân xứng.


Nhóm Giảng viên:
Vũ Thành Tự Anh
Nguyễn Trọng Hoài
Huỳnh Thế Du
Võ Tất Thắng






Nhóm 2:
Đông Văn Cường
Phạm Vĩnh Đức
Lê Ngọc Đức
Nguyễn Thị Phương Minh
Nguyễn Thị Hoài Nam
Đặng Thị Yến Phương

Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khóa 2005 - 2006
Tài chính phát triển Bài tập nhóm

Nhóm 2 Trang 2/17

PHẦN I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG VÀ THÔNG TIN
BẤT CÂN XỨNG
I. Hoạt động tín dụng Ngân hàng:
Hoạt động tín dụng là một hoạt động chủ yếu của các Ngân hàng Thương mại (NHTM),
bên cạnh các hoạt động như huy động vốn, dịch vụ thanh toán, ngân quỹ Ngân hàng cấp
tín dụng cho tổ chức, cá nhân dưới các hình thức cho vay, chiết khấu thương phiếu và
giấy tờ có giá khác, bảo lãnh, cho thuê tài chính và các hình thức khác theo quy định của
Ngân hàng Nhà nước
1
. Trong đó hoạt động cho vay là hoạt động quan trọng và chiếm tỷ
trọng lớn nhất. Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó ngân hàng giao cho khách
hàng sử dụng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thỏa

thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi
2
.
Quyết định cho vay của ngân hàng sẽ được dựa trên cơ sở đánh giá năng lực khách hàng
bao gồm đánh giá về uy tín, về khả năng tài chính của khách hàng; đánh giá về tính hiệu
quả của dự án vay vốn và đánh giá về tài sản bảo đảm vốn vay.
Mỗi ngân hàng phải xây dựng quy trình xét duyệt cấp tín dụng theo nguyên tắc bảo đảm
tính độc lập, phân định rõ trách nhiệm giữa các khâu thẩm định và quyết định cấp tín
dụng. Lãi suất cho vay được xác định trên cơ sở thỏa thuận giữa ngân hàng và khách hàng
phù hợp với quy định hiện hành. Dựa trên nhu cầu vay vốn, khả năng trả nợ và khả năng
nguồn vốn của mình ngân hàng sẽ xác định một mức cho vay phù hợp.
Tùy mức độ rủi ro của dự án, uy tín và năng lực tài chính của khách hàng vay mà ngân
hàng có thể yêu cầu khách hàng phải có tài sản bảo đảm tiền vay, bảo lãnh của bên thứ
ba, bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay hoặc cho vay không có bảo đảm. Khách
hàng vay phải cam kết trong hợp đồng tín dụng về việc sử dụng vốn vay đúng mục đích
và trả nợ đúng hạn. Sau khi giải ngân vốn vay, ngân hàng có quyền và nghĩa vụ kiểm tra,
giám sát quá trình sử dụng vốn vay nhằm đảm bảo hiệu quả và khả năng thu hồi vốn vay.
Sơ đồ tóm tắt hoạt động cho vay của Ngân hàng:





1
Điều 49 Luật các tổ chức tín dụng số 07/1997/QHX và được sửa đổi bổ sung năm 2004
2
Điều 3 Quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN về việc ban hành Quy chế cho vay của TCTD đối với khách
hàng.
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khóa 2005 - 2006

Tài chính phát triển Bài tập nhóm

Nhóm 2 Trang 3/17

II. Thông tin bất cân xứng:
Một bên trong giao dịch có được thông tin nhiều hơn bên khác gây ra tình trạng bất cân
xứng về thông tin. Sự tồn tại của thông tin bất cân xứng đã làm cho các lý thuyết kinh tế
học tân cổ điển vốn dựa trên giả định về thị trường thông tin hoàn hảo đã không thể giải
thích được những hoạt động kinh doanh đang thực tế diễn ra.
Thông thường người bán hàng sẽ có nhiều thông tin về sản phẩm, hàng hóa của mình hơn
là người mua hàng. Người lao động hiểu rõ về năng lực, trình độ của mình hơn người sử
dụng lao động. Thị trường trong thực tế cũng tồn tại hiện tượng thông tin bất cân xứng.
Tùy thuộc mức độ phát triển kinh tế và thể chế, bất cân xứng về thông tin có thể ở các
mức độ khác nhau hoặc khả năng để các chủ thể tham gia vào các giao dịch kiểm soát và
hạn chế được tình trạng bất cân xứng về thông tin là khác nhau.
Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi kinh tế nên hệ thống thông tin của Việt Nam
còn thiếu và yếu, khả năng tiếp cận thông tin của cá nhân, tổ chức là khó khăn hoặc chi
phí cao; chất lượng thông tin cũng còn nhiều hạn chế. Hậu quả của một thị trường thông
tin bất cân xứng là các vấn đề lựa chọn bất lợi và tâm lý ỷ lại.
Lựa chọn bất lợi sẽ gây bất lợi cho bên có ít thông tin hơn trong giao dịch. Lựa chọn bất
lợi làm cho giao dịch trở nên rủi ro hơn và ở mức độ nghiêm trọng nó sẽ làm thị trường
sụp đổ hoàn toàn.
Tâm lý ỷ lại xảy ra sau khi các bên đã chính thức tham gia vào giao dịch: một bên trong
giao dịch có chủ định che đậy hành vi của mình và bên đối tác rất khó hoặc không thể
kiểm soát được hành vi của bên kia.
Bảo hiểm y tế là ví dụ điển hình của Tâm lý ỷ lại. Khi đã mua bảo hiểm y tế toàn bộ,
người mua thường có tâm lý muốn đi khám bệnh thường xuyên hơn. Nếu công ty bảo
hiểm có thể giám sát được hành vi của người mua, khi đó người mua có thể phải chịu
mức phí cao hơn. Nhưng nếu công ty không thể giám sát được hành vi của khách hàng thì
công ty có thể phải trả các khoản đền bù nhiều hơn dự kiến. Khi xuất hiện tâm lý ỷ lại,

các công ty bảo hiểm buộc phải tăng phí bảo hiểm hay thậm chí là từ chối bán bảo hiểm.
Tâm lý ỷ lại cũng xuất hiện trong các thị trường tín dụng, thị trường bảo hiểm tiền gửi.
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khóa 2005 - 2006
Tài chính phát triển Bài tập nhóm

Nhóm 2 Trang 4/17

III. Thông tin bất cân xứng trong hoạt động tín dụng ngân hàng:
Vấn đề thông tin bất cân xứng ảnh hưởng đến cả 2 phía – bên cho vay và bên vay – trong
hoạt động tín dụng. Đối với bên vay vốn, việc giải ngân vốn vay không đúng thời hạn,
việc thay đổi lãi suất vay có thể gây ra những thiệt hại lớn cho phía bên vay. Tuy nhiên,
trong phạm vi bài viết này chúng tôi muốn tiếp cận vấn đề thông tin bất cân xứng từ phía
cung trong quan hệ tín dụng, phía phải gánh chịu nhiều rủi ro hơn khi nguồn vốn của họ
một mức độ nào đó đã vượt qua khỏi tầm kiểm soát của họ.
Về phía ngân hàng, tình trạng thông tin bất cân xứng xảy ra khi ngân hàng hiểu biết về
khách hàng và dự án kinh doanh của khách hàng ít hơn khách hàng. Việc khách hàng che
đậy những thông tin liên quan đến họ và dự án đã gây khó khăn cho các ngân hàng trong
việc xác định được những khách hàng thực sự tiềm năng, và những dự án thực sự có hiệu
quả để đảm bảo khả năng thu hồi nợ.
Với rủi ro cao hơn về khả năng thu hồi nợ, ngân hàng sẽ phải áp dụng một mức lãi suất
cao hơn để bù đắp. Tuy nhiên việc đẩy lãi suất lên cao sẽ chỉ tạo điều kiện cho các dự án
có rủi ro cao. Quá nhiều dự án rủi ro sẽ làm cho rủi ro thu hồi nợ của ngân hàng cao hơn
nữa. Hiện tượng này có thể dẫn đến sự sụp đổ hoàn toàn của thị trường tín dụng. Vì vậy,
để thị trường tín dụng có thể hoạt động hiệu quả phải có cơ chế và chính sách phù hợp.
Thông tin bất cân xứng trong hoạt động tín dụng ngân hàng còn thể hiện ở vấn đề tâm lý
ỷ lại. Hiện tượng tâm lý ỷ lại xảy ra sau khi ký kết hợp đồng tín dụng. Khách hàng vay
vốn có nghĩa vụ sử dụng vốn đúng mục đích đã xác định trong hợp đồng tín dụng. Để
đảm bảo khả năng thu hồi vốn, ngân hàng phải thường xuyên tiến hành giám sát quá trình
sử dụng vốn vay của khách hàng. Tuy nhiên, việc giám sát quá trình sử dụng vốn vay của

khách hàng là rất khó khăn và tốn kém. Khi đó, khách hàng dễ nảy sinh tâm lý tắc trách
trong việc sử dụng vốn vay, không nỗ lực tối đa trong việc khắc phục những khó khăn
trong quá trình thực hiện dự án hoặc cố tình sử dụng vốn vay vào các dự án khác có độ
rủi ro và lợi nhuận kỳ vọng cao hơn.
Ở Việt Nam, hệ thống ngân hàng chưa hiệu quả và phần lớn do nhà nước nắm giữ, vấn đề
thông tin bất cân xứng lại càng đóng một vai trò quan trọng trong việc phát triển một thị
trường tín dụng mạnh mẽ. Việc xác định được các thông tin bất cân xứng trong hoạt động
tín dụng của ngân hàng và áp dụng các giải pháp hữu hiệu sẽ giúp cho các ngân hàng Việt
Nam hoạt động tốt hơn.
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khóa 2005 - 2006
Tài chính phát triển Bài tập nhóm

Nhóm 2 Trang 5/17

PHẦN II: HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT
NAM TRONG MÔI TRƯỜNG THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG
Như hầu hết các thị trường tài chính mới nổi, tín dụng của ngân hàng Việt Nam đóng vai
trò quan trọng trong việc lưu thông dòng vốn. Bên cạnh đó, với đặc điểm của một nền
kinh tế chuyển đổi, hoạt động tín dụng ở Việt Nam cũng có một số đặc trưng riêng. Các
ngân hàng thương mại lớn đều là các ngân hàng thương mại quốc doanh, chiếm trên 70%
thị phần tín dụng. Tỉ lệ nợ xấu trong các ngân hàng thương mại ở mức cao. Hiện nay, tỉ lệ
này tính theo tiêu chuẩn kế toán Việt Nam là 7.7%
3
trong tổng dư nợ cho vay, còn nếu
tính theo tiêu chuẩn kế toán quốc tế thì tỉ lệ này là cao hơn nhiều. Các khoản tín dụng
trong giai đoạn trước đây chủ yếu dành cho doanh nghiệp nhà nước (DNNN). Cơ cấu dư
nợ này hiện nay đã có xu hướng thay đổi, tỷ lệ tín dụng dành cho các doanh nghiệp ngoài
quốc doanh chiếm trên 60%
4

tổng dư nợ tín dụng của các ngân hàng. Với tốc độ tăng
trưởng tín dụng khoảng 21% trong hơn 10 năm qua, cùng với nỗ lực cải tổ của mình, hệ
thống ngân hàng thương mại Việt Nam ngày càng khẳng định vai trò của mình trong quá
trình công nghiệp hoá đất nước. Cũng như các thị trường tài chính mới nổi khác, các ngân
hàng thương mại Việt Nam đang đối mặt với những rủi ro từ thông tin bất cân xứng, vấn
đề này đã ảnh hưởng rất nhiều tới chất lượng tín dụng của các ngân hàng thương mại thể
hiện ở hai hệ quả: sự lựa chọn bất lợi và tâm lý ỷ lại.
I. Sự lựa chọn bất lợi:
Khi nhận được hồ sơ vay vốn của khách hàng, trước khi ra quyết định, ngân hàng phải
thực hiện việc thẩm định các thông tin liên quan đến khách hàng, dự án vay vốn và tài sản
bảo đảm tiền vay. Trong cả ba khâu thẩm định này, vấn đề lựa chọn bất lợi đều có thể gây
ra rủi ro cho quyết định đầu tư của ngân hàng.
1. Đánh giá khách hàng:

1.1 Đánh giá uy tín của khách hàng:
Đánh giá uy tín của khách hàng là vấn đề khó khăn của ngân hàng. Hiện nay, Ngân hàng
chủ yếu dựa vào quan hệ trong quá khứ: khách hàng vay trả đúng hạn được xem là khách
hàng có uy tín, còn đối với khách hàng mới quan hệ thì chủ yếu dựa vào ý kiến chủ quan
của cán bộ nghiệp vụ khi tiếp xúc với khách hàng, hoặc qua một số thông tin thu thập
được từ các khách hàng có quan hệ với khách hàng mới này.
Trong khi đó đối tượng khách hàng được xem là chiến lược phục vụ của ngân hàng là khu
vực kinh tế tư nhân thì còn quá non trẻ, chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, chưa có
danh tiếng trên thị trường, ý thức của doanh nghiệp trong việc xây dựng uy tín và thương
hiệu chưa cao, các hiệp hội ngành thì chưa phát huy vai trò của mình, chưa hỗ trợ nhiều
cho các công ty thành viên phát triển, nhất là việc giới thiệu các thành viên cho thị
trường. Điều này dẫn đến việc thu thập thông tin để đánh giá đối với khu vực kinh tế trên
là rất khó khăn.
Ngoài những khó khăn trong việc tiếp cận thông tin về khách hàng khi nguồn thông tin và
khả năng phát tín hiệu của khách hàng còn hạn chế, thì việc thực thi luật phá sản của Việt
Nam chưa triệt để đã làm cho những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ vẫn còn tồn tại trên thị



3
Trích dẫn lời ông Lê Đức Thuý - Thống đốc ngân hàng nhà nước Việt Nam đăng tại www.datviet.com
4
Trích bài trả lời phỏng vấn của ông Phùng Khắc Kế - Phó Thống đốc Ngân hàng nhà nước đăng tại địa
www.sbv.gov.vn/thongcao.asp?tin=24
ngày 18/2/2006.
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khóa 2005 - 2006
Tài chính phát triển Bài tập nhóm

Nhóm 2 Trang 6/17

trường. Hiện tượng này gây ra hiện tượng nhiễu thông tin, vì những đối tượng luôn tìm
mọi cách để che đậy thông tin hoặc tạo ra thông tin ngược để được vay vốn ngân hàng và
tiến hành đầu tư vào những lĩnh vực mạo hiểm để hy vọng thoát khỏi tình trạng phá sản.
Nhìn chung, việc đánh giá uy tín của khách hàng hiện nay của các ngân hàng dựa nhiều
vào cảm tính và ý chủ quan của cán bộ nghiệp vụ, chưa có một căn cứ khoa học. Ngoài
ra, chúng ta còn thiếu các thể chế hỗ trợ từ phía các cơ quan quản lý nhà nước, các tổ
chức trong việc cung cấp thông tin về quá trình hoạt động, định hướng phát triển của các
công ty và trong việc đánh giá xếp loại công ty.
1.2 Đánh giá năng lực của khách hàng:
a. Năng lực quản trị:
Nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng quyết định sự thành bại của công ty và cũng có
nghĩa là quyết định hiệu quả đồng vốn của ngân hàng. Tuy nhiên, việc đánh giá nguồn
nhân lực, nhất là bộ phận lãnh đạo của khách hàng hoàn toàn chưa có cơ sở. Trong quy
định xếp loại khách hàng vay vốn của ngân hàng nhà nước, cũng như trong bản cung cấp
thông tin cho Trung tâm cung cấp thông tin phòng ngừa rủi ro của Ngân hàng nhà nước
(CIC) đều quy định các tổ chức tín dụng phải đánh giá năng lực điều hành của giám đốc

công ty nhưng lại không nêu ra tiêu chí đánh giá cụ thể cho nên mỗi ngân hàng làm một
kiểu, chủ yếu là liệt kê bằng cấp. Kết quả là việc đánh giá năng lực của khách hàng mang
tính hình thức, không đánh giá đúng thực chất về năng lực của khách hàng.
b. Đánh giá năng lực tài chính:
Đánh giá năng lực tài chính của khách hàng chủ yếu dựa vào việc phân tích số liệu trên
báo cáo tài chính của khách hàng. Trong thực tế, các báo cáo tài chính của các công ty ở
Việt Nam thì chưa đủ độ tin cậy cao, nhất là các công ty tư nhân. Tình trạng phổ biến
trong việc lập báo cáo quyết toán của các công ty tư nhân hiện nay là làm từ dưới lên, tức
là đi từ lợi nhuận đi lên. Đối với cơ quan thuế thì sẽ báo cáo lợi nhuận thấp hoặc lỗ để
tránh thuế; đối với ngân hàng thì báo cáo lãi nhiều để được ngân hàng đánh giá năng lực
tài chính tốt và kinh doanh hiệu quả nhằm vay vốn dễ dàng; còn thực chất như thế nào thì
chỉ có bản thân công ty biết. Sở dĩ thực trạng này xảy ra là do hiện nay ở Việt Nam chưa
có quy định về minh bạch thông tin. Phía ngân hàng dù biết kiểm toán báo cáo tài chính
doanh nghiệp vay vốn là tốt nhưng cũng không dám đề nghị khách hàng thực hiện, nếu
khách hàng đang có uy thế trên thị trường vì sợ mất khách hàng.
Từ những số liệu chưa thực sự tin cậy nên việc phân tích báo cáo tài chính của khách
hàng sẽ không phản ánh đúng thực chất năng lực tài chính của khách hàng.
Chưa có cơ sở khoa học nên việc đánh giá năng lực của khách hàng phụ thuộc nhiều vào
năng lực và đạo đức của cán bộ ngân hàng. Do đó, việc lựa chọn bất lợi là vấn đề không
thể tránh khỏi.
2. Đánh giá dự án vay:
Đánh giá hiệu quả dự án vay vốn là khâu quan trọng, ảnh hưởng lớn nhất đến khả năng
thu hồi vốn của ngân hàng. Khi nhận được một dự án vay vốn cán bộ thẩm định sẽ phải
tiến hành thẩm định các khía cạnh như yếu tố thị trường, kỹ thuật, công nghệ và cả các
yếu tố kinh tế, xã hội của dự án.
Việc thẩm định dự án trong một môi trường thông tin vừa thiếu, vừa yếu của Việt Nam là
một thách thức lớn đối với các cán bộ thẩm định. Hơn nữa, trình độ xây dựng dự án đầu
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khóa 2005 - 2006
Tài chính phát triển Bài tập nhóm


Nhóm 2 Trang 7/17

tư, phương án sản xuất kinh doanh của hầu hết các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh
nghiệp vừa và nhỏ còn yếu kém.
Trên thị trường hiện nay, có rất ít công ty hoạt động trong lĩnh vực nghiên cứu thị trường.
Do đó, khi đánh giá thị trường đối với sản phẩm của dự án cán bộ thẩm định chủ yếu phải
dựa vào các nguồn thông tin không chính thức, thu thập qua internet,… Bên cạnh đó, hệ
thống pháp luật và cơ chế chính sách thường xuyên thay đổi, không có tính minh bạch và
không có tính dự báo của Việt Nam cũng có thể gây ra nhiều rủi ro cho dự án, như các
chiến lược phát triển vùng, ngành; các quy định liên quan đến xuất nhập khẩu; các tiêu
chuẩn về môi trường, …
Ngoài ra, thẩm định kỹ thuật đối với dự án hầu như chỉ được thực hiện mang tính hình
thức vì hầu hết các khoản vay đều do một cán bộ thẩm định tiến hành. Kết quả là việc
đánh giá về kỹ thuật không mang tính khả thi, nhất là trong điều kiện trình độ cán bộ
thẩm định của Việt Nam còn chưa được chuyên sâu.
Một khó khăn khác trong việc thẩm định dự án là xác định một suất chiết khấu phù hợp
mức độ rủi ro của dự án và doanh nghiệp vay vốn. Ở Việt Nam, thị trường chứng khoán
và các dịch vụ tài chính chưa phát triển nên việc xác định suất chiết khấu dựa trên mô
hình CAPM không thể thực hiện được. Các cán bộ thẩm định thường sử dụng lãi suất
ngân hàng làm suất chiết khấu. Suất chiết khấu được áp dụng cào bằng như nhau giữa các
dự án có mức độ rủi ro khác nhau có thể để lọt những dự án có độ rủi ro cao.
Xác định mục tiêu chính xác của dự án vay vốn cũng là một việc làm rất khó khăn, nhất là
khi các doanh nghiệp cố tình che dấu mục đích vay vốn thực của mình.
Tầm quan trọng của việc xác định mục tiêu đầu tư của Chủ đầu tư
Khách sạn X là liên doanh giữa Công ty Y thuộc Bộ quốc phòng với một Công ty Z
của Singapore. Tổng vốn đầu tư của Dự án là 27 triệu USD, vốn pháp định là 6 triệu
USD; trong đó Công ty Y góp 30% (1,8 triệu USD) vốn pháp định bằng quyền sử
dụng đất, Công ty Z góp 70% (4,2 triệu USD) vốn pháp định bằng tiền mặt. Liên
doanh này sau đó đầu tư khách sạn X bằng việc vay thêm 21 triệu USD từ Công ty mẹ

tại Singapore của Công ty Z.
Trong thời gian họat động từ năm 1997 đến năm 2004, Khách sạn X lỗ liên tục và số
lỗ lũy kế lên đến 15 triệu USD tính đến cuối năm 2004. Toàn bộ nguồn thu của Khách
sạn X trong các năm hoạt động (1997 – 2004) được chi trả chủ yếu vào những khoản
sau:
- Trả cho Công ty quản lý khách sạn (là 1 công ty Singapore thuộc công ty mẹ của
Công ty Z khoảng 2 triệu USD/năm theo Hợp đồng quản lý dài hạn đã ký với Liên
doanh suốt thời gian hoạt động của Dự án)
- Trả lãi vay cho Công ty mẹ của Công ty Z (vào khoảng 1,2 triệu USD/năm).
- Trả nợ gốc của khoản vay: 3 triệu USD/năm (đến cuối năm 2004 , tòan bộ nợ
gốc đã được thu hồi đủ, lãi từ khoản vay (với lãi suất và phí cao gấp 2 lần so với lãi
suất SIBOR tại thị trường Singapore vào thời điểm đó) cũng được trả đúng hạn.
- Lương cho đội ngũ lãnh đạo chủ chốt (Tổng giám đốc, giám đốc tài chính là
người Singapore) rất cao.
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khóa 2005 - 2006
Tài chính phát triển Bài tập nhóm

Nhóm 2 Trang 8/17

Ngoài ra, các khách hàng từ Singapore từ một Công ty tại Singapore đưa qua (thiết
nghĩ cũng là 1 Công ty thành viên giống như Công ty Z) được hưởng mức giá thuê
khách sạn rất rẻ, chưa bằng ½ giá quy định của Khách sạn
Như vậy bằng các hình thức trên, Công ty Z (hay nói đúng hơn là Công ty mẹ của
công ty Z ở Singapore) đã thu hồi được toàn bộ vốn đầu tư sau 8 năm, đồng thời vẫn
sở hữu 70% cổ phần tại Liên doanh X.
Đến đầu năm 2005, một Công ty khác của Singapore (Công ty S) có ý định mua lại cổ
phần của Công ty Z trong Khách sạn X, Công ty Z đề nghị định giá lại Khách sạn X,
việc định giá này thông qua 1 Công ty chuyên định giá bất động sản của Singapore và
Khách sạn X bây giờ được định giá lại (bao gồm cả thương hiệu) là 30 triệu USD.

Như vậy 70% cổ phần của Công ty Z bây giờ trị giá 21 triệu USD.
Công ty S lập Dự án mua lại cổ phần của Công ty Z, trong đó vốn tự có 30% là 6,3
triệu USD, vốn vay 70% là 14,7 triệu USD. Tài sản bảo đảm là chính Khách sạn X,
điều này đã được Hội đồng quản trị của Liên doanh đồng ý.
Ở đây một vấn đề được đặt ra : mục tiêu của việc mua lại 70% cổ phần Công ty Z là
gì? Nếu công ty S thật sự kinh doanh thì việc thẩm định Dự án mới có ý nghĩa. Còn
nếu Công ty S cũng là một Công ty thành viên của Công ty mẹ lập ra chỉ để mua lại
cổ phần của Công ty Z với định giá cổ phần cũng của một Công ty thuộc tập đoàn này
thì sao? Lúc đó, việc đầu tư vào Việt Nam của Công ty mẹ tại Singapore đã kết thúc,
Công ty đã thu hồi được vốn đầu tư, đồng thời thu thêm một khoản lợi nhuận chính
bằng khỏan vay là 14,7 triệu USD sau đó thế chấp toàn bộ khách sạn và nếu khách
sạn kinh doanh có lãi, trả được nợ thì Công ty mẹ tiếp tục hưởng lợi, nếu khách sạn
họat động không hiệu quả, Công ty S sẽ tuyên bố phá sản.
Thực tế diễn ra đúng như vậy, Công ty S chỉ có 2 thành viên đó là Chủ tịch HĐQT
kiêm tổng giám đốc người Singapore, 1 thư ký người Việt Nam.
Hiện nay, quyết định cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại lệ thuộc nhiều vào ý
chủ quan của những người liên quan đến công tác tín dụng. Vấn đề không đơn thuần về
đạo đức mà do sự hạn chế về các công cụ đánh giá, chủ yếu là nguồn thông tin nên việc
đánh giá khách hàng và khoản vay không chính xác.
3. Đánh giá tài sản bảo đảm:
Ngân hàng áp dụng các biện pháp bảo đảm tiền vay như cầm cố, thế chấp tài sản và bảo
lãnh bằng tài sản của bên thứ ba chính là một giải pháp để ngân hàng hạn chế rủi ro xảy ra
do việc lựa chọn ngược. Khi có rủi ro xảy ra ngân hàng có thể phát mãi tài sản thu hồi nợ.
Việc đánh đồng các loại khách hàng khi cho vay dựa vào tài sản đã làm cho khách hàng
tốt mất cơ hội nhận được vốn vay vì không đủ tài sản bảo đảm.
Giải pháp khắc phục rủi ro bằng việc áp dụng biện pháp bảo đảm tiền vay cũng không
khắc phục được rủi ro mà có nguy cơ làm cho rủi ro lại càng tăng lên từ giải pháp này. Đó
là do ngân hàng không có thông tin đầy đủ và chính xác về tài sản nhận thế chấp, cầm cố
nên đánh giá không chính xác về giá trị thị trường của tài sản và cũng chính việc cho vay
dựa trên tài sản bảo đảm nên tạo ra tâm lý ỷ lại trong quyết định cho vay.

Khi dùng tài sản để thế chấp, cầm cố cho ngân hàng để vay vốn thì chỉ có khách hàng là
biết rõ về hiện trạng của tài sản như sự hỏng hóc trong các dây chuyền sản xuất, máy móc
thiết bị, hoặc là ngôi nhà rất khó bán do một số đặc điểm gì đó, trong khi trình độ cán bộ
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khóa 2005 - 2006
Tài chính phát triển Bài tập nhóm

Nhóm 2 Trang 9/17

ngân hàng không có đầy đủ chuyên môn trong nhiều lĩnh vực nên họ không thể đánh giá
được chính xác hiện trạng của các máy móc thiết bị cũng như nắm được những thông tin
không tốt về ngôi nhà; điều này ảnh hưởng rất lớn đến giá trị mua bán của nó và họ
thường đánh giá dựa trên vị trí và hiện trạng của ngôi nhà; vì vậy khi xảy ra rủi ro thì việc
phát mãi tài sản để thu hồi nợ thì gặp khó khăn và có thể không thu hồi được nợ.
Ngoài ra, tâm lý dựa chủ yếu vào tài sản bảo đảm đã làm cho chất lượng thẩm định khoản
vay nên không đánh giá chính xác hiệu quả và an toàn của khoản vay, dễ dẫn đến việc
cho vay những dự án rủi ro, khách hàng không uy tín, làm giảm chất lượng tín dụng. Đây
là thực trạng đáng lo ngại trong quan điểm cấp tín dụng hiện nay của các ngân hàng, nhất
là các khách hàng là hộ tư nhân dùng đất nhà để thế chấp.
Từ sự lựa chọn không chắc chắn khách hàng tốt để cung cấp tín dụng nên để giảm bớt rủi
ro ngân hàng đã tính một phần rủi ro vào trong lãi vay ngân hàng, làm cho người vay tốt
phải gánh chịu một mức lãi vay cao hơn mức đáng ra họ được hưởng.

Rủi ro khi thiếu thông tin về khách hàng và dựa vào tài sản bảo đảm
Ngân hàng XYZ cho doanh nghiệp chế biến gỗ A vay vốn để ứng tiền mua gỗ sản
xuất cho Công ty khai thác gỗ B theo hợp đồng ký kết giữa hai bên để Công ty B
chuyển xe, máy và lao động đến vùng khai thác, với biện pháp bảo đảm là thế chấp
một phần tài sản của Doanh nghiệp A và cầm cố lô gỗ (tài sản bảo đảm hình thành từ
vốn vay). Sau khi giải ngân vốn vay ngân hàng XYZ đã phát hiện bên vay không sử
dụng vốn vay để mua gỗ mà dùng để trả nợ vay bên ngoài, hợp đồng ký kết giữa hai

công ty chỉ mang tính thủ tục để được vay vốn ngân hàng. Vì thế khi khoản tiền ngân
hàng cho vay chuyển vào tài khoản của Công ty B, công ty B đã phát hành ngay ủy
nhiệm chi để chuyển tiền toàn bộ số tiền trên vào tài khỏan của Doanh nghiệp A ở
một ngân hàng khác, đồng thời hai bên ký biên bản thanh lý hợp đồng trước hạn,
không thực hiện hợp đồng vì một lý do nào đấy. Doanh nghiệp A đã rút số tiền này ra
để trả nợ bên ngoài. Như vậy, khi Ngân hàng phát hiện ra thì chuyện đã rồi, Doanh
nghiệp đã gặp khó khăn nhưng ngân hàng lại không có thông tin kịp thời nên đã đánh
giá sai về khách hàng và khoản vay. Nợ vay không có nguồn thu chỉ còn chờ vào việc
phát mãi tài sản để thu hồi nợ.
Đây là một ví dụ điển hình trong việc cho vay với hình thức bảo đảm nợ vay kết hợp
vừa thế chấp, cầm cố, vốn tự có tham gia và bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn
vay.
Một nguyên nhân khác được xem là quan trọng đã gây ra nợ xấu trong các ngân hàng
quốc doanh Việt Nam hiện nay là sự can thiệp không chính thức của các cơ quan công
quyền trong việc cho vay của ngân hàng. Sự can thiệp này đã làm cản trở việc đánh giá
khách hàng của ngân hàng khi quyết định cho vay. Có thể phân tích ở hai khía cạnh. Thứ
nhất, ngân hàng không thể từ chối cho vay nên việc thẩm định khoản vay, đánh giá năng
lực khách hàng chỉ mang tính thủ tục. Thứ hai, do có sự can thiệp của các cấp chính
quyền trong việc cấp tín dụng cho một đối tượng nào đó mà chủ yếu là các doanh nghiệp
nhà nước nên ngân hàng có tâm lý ỷ lại, vì khi có rủi ro xảy ra thì nhà nước cũng có cơ
chế xử lý. Tâm lý trên đã làm giảm chất lượng thẩm định cho vay, khoản vay mang nhiều
rủi ro, làm tăng nợ xấu.
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khóa 2005 - 2006
Tài chính phát triển Bài tập nhóm

Nhóm 2 Trang 10/17

Trên cơ sở báo cáo thẩm định của cán bộ tín dụng, cấp có thẩm quyền trong ngân hàng
sẽ đưa ra quyết định về việc cấp hay từ chối cấp tín dụng. Những khó khăn nêu trên đã

làm cho các kết quả thẩm định bị chi phối nhiều bởi yếu tố chủ quan. Chính điều này đã
làm cho các quyết định cho vay của ngân hàng chứa đựng nhiều rủi ro và có thể dẫn đến
hậu quả của sự lựa chọn bất lợi.
II. Tâm lý ỷ lại:
Tâm lý ỷ lại trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại Việt Nam thể hiện chủ
yếu ở hai hành vi, đó là bên vay sử dụng vốn vay không đúng mục đích như hợp đồng đã
ký mà sử dụng vào những mục đích khác có mức sinh lợi cao; người vay thiếu sự nỗ lực
trong quá trình thực hiện dự án (phương án kinh doanh) để đảm bảo dự án hiệu quả như
đánh giá ban đầu, vốn vay được trả đúng hạn và đầy đủ cho ngân hàng cả gốc lẫn lãi.
1. Hành vi sử dụng vốn vay không đúng mục đích - vi phạm hợp đồng tín dụng :
Do việc lựa chọn ngược nên đã dẫn đến ngân hàng cho vay những khách hàng
thiếu uy tín và dự án rủi ro. Đối với những khách hàng này sau khi nhận được tiền vay
của ngân hàng thường có động cơ sử dụng vốn vay vào các mục đích rủi ro với mức sinh
lợi cao, làm cho ngân hàng khó thu hồi nợ. Sở dĩ người vay sử dụng vốn vay không đúng
mục đích là do (1) việc xử lý tranh chấp hợp đồng ở Việt nam hiện nay chưa hiệu quả
thấp và (2) cơ chế giám sát khách hàng vay của các ngân hàng còn nhiều hạn chế.
Việc thụ lý và giải quyết tranh chấp vi phạm hợp đồng ở Việt Nam hiện nay
không được hiệu quả, thời gian xử lý kéo dài và tốn nhiều chi phí cho các bên liên quan.
Chính hạn chế này đã phần nào tạo động cơ cho bên vay sử dụng vốn vay vào các hoạt
động rủi ro. Nếu hoạt động kinh doanh này thành công thì người vay thu được một khoản
lợi rất và trả hết nợ cho ngân hàng mà không bị một sự trừng phạt đáng kể nào từ pháp
luật cũng như trong quan hệ làm ăn.
Về công tác giám sát khách hàng vay vốn của các ngân hàng hiện nay chưa được
hiệu quả lắm, nó xuất phát từ thói quen sử dụng tiền mặt của xã hội, trong khi khách hàng
một lúc quan hệ với nhiều ngân hàng nên một số khoản sử dụng rất khó kiểm soát, việc sử
dụng vốn vay chồng chéo giữa các ngân hàng là rất phổ biến mà ngân hàng rất khó có thể
phát hiện. Chính vì những hạn chế trong việc giám sát khách hàng vay vốn nên đã dẫn
đến vốn vay bị sử dụng sai mục đích, gây ra rủi ro cho ngân hàng.
Tâm lý ỷ lại còn thể hiện ở trong hành vi trả nợ đúng hạn của người vay. Trong
một số trường hợp do ỷ lại là hiếm khi bị pháp luật trừng trị khi vi phạm hợp đồng nên

khách hàng đã dùng khoản tiền trả nợ cho ngân hàng để dùng vào mục đích khác, làm cho
nợ vay không được trả đúng hạn, thể hiện ở những khoản nợ gia hạn
5
và quá hạn.
Việc kiểm soát khách hàng không tốt cũng dẫn đến việc không phát hiện kịp thời
những trường hợp bên vay gặp khó khăn trong kinh doanh, hoặc có sự cố ảnh hưởng đến
khả năng thanh toán nợ vay cho ngân hàng để giải pháp xử lý hiệu quả, như ngưng cho
vay, thu hồi nợ trước hạn nhằm giảm thấp tổn thất. Đây không phải do tâm lý ỷ lại của
khách hàng nhưng nó cũng gây ra rủi ro rất lớn cho ngân hàng.
Thất thoát nguồn thu nợ khi khách hàng không thực hiện đúng cam kết
Ngân hàng A cho công ty B vay vốn để thực hiện Hợp đồng thi công công trình ký kết
giữa công ty B với Ban quản lý dự án X, trong điều khoản thanh toán của Hợp đồng có
quy định rõ tiền thanh toán khối lượng hoàn thành sẽ được chuyển vào tài khoản của công
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khóa 2005 - 2006
Tài chính phát triển Bài tập nhóm

Nhóm 2 Trang 11/17

ty B tại Ngân hàng A. Tuy nhiên, sau khi nhận được vốn vay, Công ty B và Ban quản lý
dự án X đã ký phụ lục hợp đồng sửa đổi điều khoản thanh toán, tài khoản thanh toán là
một tài khoản khác, và có thể thanh toán bằng tiền mặt. Chính những sửa đổi này mà
nguồn thu từ hợp đồng thi công đã không được chuyển vào tài khoản tại ngân hàng A để
ngân hàng thu nợ.
Đây là một thực trạng rất phổ biến trong việc cho vay các đơn vị xây lắp hiện nay của các
ngân hàng. Do chưa có chế tài trong việc không thực hiện đúng Hợp đồng của các bên,
trong khi đó thủ tục khởi tố hiện nay rất khó khăn, không ủng hộ cho ngân hàng.
2. Người vay không nổ lực tối đa để sử dụng vốn vay hiệu quả.
Vấn đề này rất là phổ biến trong cho vay các doanh nghiệp nhà nước. Do có tâm
lý ỷ lại vào cơ chế xử lý của nhà nước, kinh doanh có thua lỗ thì cũng được tồn tại, trả nợ

vay không được thì nhà nước cũng sẽ có cơ chế xử lý. Chính vì tâm lý này mà một số
doanh nghiệp nhà nước rất thiếu sự cẩn trọng trong việc quyết định đầu tư. Chỉ cần có ý
tưởng là làm dự án và vay vốn ngân hàng thực hiện. Chính vì không có sự nghiêm túc
trong quyết định đầu tư nên quá trình triển khai thực hiện dự án gặp rất nhiều trục trặc, có
khi dẫn đến dự án bị phá sản, toàn bộ nguồn vốn đã đầu tư đều bị mất.
Hành vi ỷ lại này thể hiện rất rõ trong quá trình triển khi thực hiện dự án của các
doanh nghiệp nhà nước. Rất hiếm khi các doanh nghiệp này thực hiện đánh giá kết quả
thực hiện cho từng giai đoạn của dự án để thấy được những những mặt làm được cũng
như những tồn tại cần phải chỉnh sửa, khắc phục và dự báo những khó khăn, trở ngại phải
đối mặt trong thời gian tới để bảo đảm cho việc thực thi dự án thành công. Chính từ
những sự thiếu trách nhiệm này đã dẫn đến một số dự án bị thua lỗ trong khi hoàn toàn có
thể thực hiện hiệu quả nếu người thực thi nó là một công ty tư nhân. Bởi vì nếu tư nhân
không trả được nợ do dự án thất bại thì họ sẽ bị mất tài sản nên họ rất nghiêm túc trong
quyết định đầu tư và nỗ lực rất cao trong quá trình thực hiện. Còn đối với doanh nghiệp
nhà nước thì khác hẳn, người điều hành công ty sẽ không mất gì, đôi khi lại thu được lợi,
không được trả nợ vay ngân hàng thì chắc chắn sẽ có cơ chế xử lý.
Một phổ biến trong tâm lý ỷ lại của các doanh nghiệp nhà nước hiện nay là do sự
can thiệp của nhà nước vào việc vay vốn ngân hàng, việc nhận được nguồn vốn vay dồi
dào so với các thành phần kinh tế khác đã làm cho vốn vay sử dụng không được cẩn
trọng, hiệu quả và gây thất thoát vốn, vốn ngân hàng gặp nhiều rủi ro.
Để hạn chế những hành vi trên và giảm thấp rủi ro trong cho vay, các ngân hàng
thương mại Việt Nam đã có sự nỗ lực rất lớn trong việc thực hiện một số biện pháp phòng
ngừa, ngăn chặn. Hiện tại, các Ngân hàng đã thực hiện cơ chế khuyến khích gián tiếp
thông qua việc giảm lãi suất cho vay đối với những khách hàng truyền thống, vay trả sòng
phẳng, đúng hạn, không gia hạn nợ. Nếu khách hàng không quan hệ uy tín sẽ thực hiện
không cấp tín dụng vĩnh viễn, hiện nay biện pháp này đã được triển khai trong từng hệ
thống ngân hàng và đang tiến tới thực hiện trong các ngân hàng thương mại quốc doanh;
trong tương lai sẽ thực hiện trong toàn hệ thống ngân hàng. Đối với các khoản nợ xấu
hiện nay, ngân hàng có cơ chế khuyến khích xóa lãi cho những khách hàng có nỗ lực
trong việc trả nợ gốc. Những biện pháp này đã hạn chế được rất nhiều tâm lý ỷ lại của

khách hàng, thúc đấy sử dụng vốn vay đúng mục đích, trả nợ đúng hạn, giảm thiểu rủi ro
cho ngân hàng. Các ngân hàng còn thực hiện chuyển đổi cơ cấu cho vay, tập trung nhiều
hơn vào các khu vực kinh tế ngoài nhà nước.
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khóa 2005 - 2006
Tài chính phát triển Bài tập nhóm

Nhóm 2 Trang 12/17

Tuy các ngân hàng thương đã có nhiều nỗ lực trong việc hạn chế rủi ro do tâm lý
ỷ lại của khách hàng nhưng kết quả mang lại vẫn rất thấp. Đây là vấn đề mang nặng tính
cơ chế và đặc thù của nền kinh tế. Do đó cần thiết có sự phối hợp thực hiện từ các bên
liên quan, trong đó vai trò của các cơ quan nhà nước là rất quan trọng.
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khóa 2005 - 2006
Tài chính phát triển Bài tập nhóm

Nhóm 2 Trang 13/17

PHẦN III: GỢI Ý CHÍNH SÁCH
Xử lý hiện tượng thông tin bất cân xứng có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao hiệu
quả tín dụng của các ngân hàng thương mại. Các nguyên nhân bất cân xứng trong hoạt
động tín dụng có thể tập trung ở những nguyên nhân: tính minh bạch trong thông tin của
Việt Nam còn hạn chế, việc xây dựng và thực thi pháp luật còn chưa rõ ràng và minh
bạch, trong khi đó xử lý công việc theo tâm lý “ngoại lệ” rất phổ biến, làm cản trở cho sự
vận hành của hệ thống pháp luật. Ngoài ra, sự phối kết hợp giữa các bộ phận trong nền
kinh tế còn chưa tốt; thói quen sử dụng tiền mặt còn quá phổ biến trong toàn xã hội mà
chưa có cơ chế nào khống chế. Vì vậy, cần đòi hỏi sự nỗ lực và cải cách từ phía chính các
ngân hàng mà quan trọng hơn nhà nước cần xây dựng được một môi trường kinh doanh
với những thể chế và điều kiện cần thiết nhằm đảm bảo cho nền kinh tế hoạt động minh

bạch và hiệu quả. Qua những phân tích về thực tiễn hoạt động tín dụng của các ngân hàng
Việt Nam, chúng tôi xin đưa ra một số gợi ý chính sách sau:
I. Về phía nhà nước.
1. Xây dựng và phát triển các tổ chức hỗ trợ thông tin.
Tích cực xây dựng và có các biện pháp khuyến khích việc phát triển các thể chế nhằm hỗ
trợ thông tin cho thị trường. Nhà nước có thể đưa ra các ưu đãi để phát triển các doanh
nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ thông tin, tài chính như các doanh nghiệp cung
cấp dịch vụ đánh giá xếp hạng doanh nghiệp, định giá tài sản, tư vấn tài chính, kiểm
toán… Mặc dù, hiện nay ở Việt Nam một số tổ chức hoạt động trong lĩnh vực cung cấp
dịch vụ thông tin đã hình thành, nhưng hiệu quả hoạt động chưa cao. Trung tâm đánh giá
tín nhiệm doanh nghiệp của báo điện tử Vietnamnet hoạt động chưa hiệu quả và gặp khó
khăn trong kinh phí hoạt động do chưa có nguồn thu. Đây là một lĩnh vực khá mới, cần có
sự hỗ trợ của nhà nước trong giai đoạn đầu tiếp cận khách hàng, thu thập thông tin; dần
dần các doanh nghiệp mới thấy được sự cần thiết khi sử dụng các dịch vụ này.
Trung tâm thông tin tín dụng trực thuộc Ngân hàng nhà nước là một tổ chức hành chính
sự nghiệp, thực hiện việc cung cấp thông tin tín dụng cho hệ thống ngân hàng. Tuy nhiên,
các thông tin do Trung tâm cung cấp vẫn chưa đảm bảo tính cập nhật và chính xác cao.
Để Trung tâm này hoạt động hiệu quả thì Ngân hàng nhà nước cần đưa ra các chế tài
nhằm nâng cao trách nhiệm của các ngân hàng trong việc cung cấp thông tin về khách
hàng có quan hệ tín dụng một cách kịp thời, đầy đủ và chính xác. Từ đó các ngân hàng
thương mại có thể khai thác thông tin từ hệ thống này, làm cơ sở đánh giá năng lực và uy
tín của khách hàng khi họ có nhu cầu vay vốn.
Bên cạnh đó, việc khuyến khích thành lập các hiệp hội trong các ngành nghề khác nhau
sẽ tạo ra một sự gắn kết trao đổi thông tin giữa các doanh nghiệp trong ngành và là cầu
nối giữa các doanh nghiệp trong ngành với thị trường bên ngoài – trong đó có bên cung
ứng vốn như ngân hàng. Các hiệp hội thực hiện các nhiệm vụ: nghiên cứu thị trường, xúc
tiến đầu tư, dự báo phát triển ngành, tiếp cận thị trường mới, đánh giá và xếp loại các
doanh nghiệp trong ngành,… để các hiệp hội này hoạt động hiệu quả, các hiệp hội này
nên hoạt động độc lập về mặt chính trị với mục tiêu là phục vụ cho sự phát triển đi lên
của ngành.

2. Nâng cao sự phối hợp của các cơ quan chức năng trong quá trình hoạt động. Việc phối
hợp giữa các cơ quan chức năng trong quá trình hoạt động và chia sẽ thông tin giữa các
cơ quan chức năng sẽ giúp cho việc giải quyết các thủ tục hành chính được nhanh gọn,
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khóa 2005 - 2006
Tài chính phát triển Bài tập nhóm

Nhóm 2 Trang 14/17

giảm chi phí giao dịch cho doanh nghiệp và ngân hàng. Đơn cử như hoạt động đăng ký
giao dịch bảo đảm, việc thiếu liên kết về thông tin giữa các cơ quan chức năng cùng với
thái độ bất hợp tác của các cán bộ thừa hành đã làm nản lòng không ít doanh nghiệp. Vì
vậy, xây dựng và phát triển công nghệ để đảm bảo sự tích hợp thông tin như hệ thống
thông tin đăng ký kinh doanh của cơ quan đăng ký kinh doanh, thông tin đăng ký sở hữu
tài sản, đăng ký giao dịch bảo đảm…
3. Xây dựng một hệ thống pháp luật minh bạch và hiệu quả.
Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế và từng bước hội nhập vào nền
kinh tế toàn cầu. Một đòi hỏi tất yếu cho sự phát triển kinh tế là nó phải được phát triển
trong một môi trường thể chế có tính hỗ trợ cao, một hệ thống pháp lý nhằm duy trì trật
tự, các nguyên tắc và các cam kết trong mọi giao dịch kinh tế. Pháp luật về thuế ở Việt
Nam đang là một tồn tại lớn. Hiện tượng nhiều hệ thống sổ sách nhằm trốn thuế, lách luật
chỉ có thể khắc phục khi các quy định pháp luật về thuế, các chế tài xử lý vi phạm được
quy định chặt chẽ, nghiêm minh và một hệ thống cơ quan thuế được quản lý và kiểm soát
để tránh những hiện tượng tiêu cực xảy ra tràn lan. Các quy định về quyền sở hữu trí tuệ,
đối với nhiều người dân Việt Nam vẫn còn là một khái niệm xa lạ, việc xây dựng và nâng
cao nhận thức của nhân dân về pháp luật sở hữu trí tuệ, sẽ buộc các doanh nghiệp phải ý
thức hơn trong việc xây dựng và bảo vệ thương hiệu của mình, tạo nên văn hóa kinh
doanh văn hoá doanh nghiệp. Đây sẽ chính là những tín hiệu tốt nhằm giảm thiểu chi phí
thông tin cho ngân hàng trong quá trình thẩm định, đánh giá khách hàng.
Cải cách hệ thống Tòa án, đảm bảo tính độc lập cao trong quá trình xét xử. Bên cạnh đó,

một thực tế có thể thấy ở hệ thống toà án Việt Nam đó là vấn đề đạo đức nghề nghiệp, sự
chí công, vô tư của những người cầm cân nảy mực. Một hệ thống giải quyết tranh chấp
còn nhiều tiêu cực, không hiệu quả, gây tốn kém nhiều thời gian, kinh phí theo kiện đã
làm mất lòng tin của các doanh nghiệp. Chính vì vậy, rất ít tranh chấp được đưa ra giải
quyết bằng con đường tòa án. Tình trạng này thể hiện rất rõ trong hoạt động của các ngân
hàng Việt Nam. Mặc dù có một khối lượng nợ xấu rất lớn, nhưng rất ít vụ tranh chấp
được khởi kiện tại tòa án. Thực tế việc khởi kiện cũng không có tính răn đe nhiều đối với
các doanh nghiệp vi phạm vì ngay cả khi có bản án của toà án đưa ra về xử lý tài sản để
thu hồi nợ, thì việc thi hành bản án cũng là một câu chuyện dài và đầy tiêu cực.
Thêm vào đó, pháp luật về phá sản doanh nghiệp cũng chưa đi vào cuộc sống. Mặc dù
Luật Phá sản doanh nghiệp đã được Quốc hội sửa đổi bổ sung khắc phục những hạn chế
của Luật phá sản cũ. Nhưng có thể thấy một hệ thống pháp luật hiệu quả đòi hỏi nhiều
hơn là chỉ các quy định trên giấy tờ. Để đi vào cuộc sống quy phạm pháp luật đó, phải
được tuyên truyền, phổ biến, và phối kết hợp triển khai giữa các cơ quan chức năng. Việc
thực thi thành công Luật phá sản doanh nghiệp, sẽ tạo ra được cơ chế sàng lọc các doanh
nghiệp yếu kém ra khỏi thị trường.
Đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, sớm ra nhập WTO sẽ tạo ra một áp lực từ
bên ngoài giúp cho việc cải cách hệ thống pháp luật và các thể chế kinh tế thị trường diễn
ra nhanh hơn, sâu rộng và triệt để hơn. Đây cũng chính là bài học mà Trung Quốc đã áp
dụng để cải cách nền kinh tế của mình.
4. Các thể chế liên quan đến ngân hàng.
- Nâng cao tính độc lập của ngân hàng nhà nước trong hoạt động ngân hàng, ngân hàng;
nhà nước thực hiện đúng vai trò là phát triển hoạt động ngân hàng hơn là công cụ để thực
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khóa 2005 - 2006
Tài chính phát triển Bài tập nhóm

Nhóm 2 Trang 15/17

hiện các chính sách của nhà nước. Cùng với sự cải cách ngân hàng nhà nước, cần nâng

cao tính tự chủ và độc lập trong kinh doanh của các ngân hàng thương mại, giảm sự can
thiệp của cơ quan nhà nước trong quyết định cho vay của các ngân hàng thương mại.
- Nhà nước sớm ban hành các quy chế về sử dụng tiền mặt lưu thông để giảm bớt khối
lượng giao dịch tiền mặt trong nền kinh tế, giúp ngân hàng kiếm soát được vốn vay được
dễ dàng hơn, góp phần giảm rủi ro cho ngân hàng.
- Hình thành thị trường mua bán nợ của các doanh nghiệp. Khi thị trường này phát triển
sẽ cung cấp một nguồn thông tin chính xác và rẻ cho nền kinh tế.
II. Về phía các Ngân hàng thương mại:
1. Phải tách bạch việc thẩm định, quyết định cho vay, giải ngân và thu hồi nợ để tạo ra cơ
chế kiểm soát chéo, tránh tình trạng một người làm mọi việc sẽ dẫn đến sự lạm quyền. Bộ
phận thẩm định, cho vay thì không được trực tiếp giải ngân và tương tự, bộ phận giải
ngân lại không được trực tiếp theo dõi thu hồi nợ; điều này sẽ tạo nên tính minh bạch
trong việc quản lý và thu hồi nợ đối với Dự án hay khoản vay.
2. Có chính sách khuyến khích, đãi ngộ hợp lý đối với cán bộ làm công tác tín dụng. Đảm
bảo thu nhập phải tương xứng với trách nhiệm công việc; phân phối thu nhập phải căn cứ
vào chất lượng công việc nhằm hạn chế tình trạng lạm dụng quyền hạn để cấp những
khoản tín dụng rủi ro đi đôi với công tác kiểm soát cán bộ.
3. Quản trị rủi ro: thực hiện thường xuyên việc đánh giá rủi ro của những khoản vay, phát
hiện kịp thời các khoản vay có rủi ro để xây dựng chính sách xử lý hiệu quả, thông qua đó
rút ra bài học về đánh giá khách hàng, khoản vay để tránh những khoản vay tương tự
trong tương lai. Đối với những khoản nợ xấu, ngân hàng phải phân tích, đánh giá đúng
bản chất và khả năng thu hồi và thực hiện bán nợ nhằm lành mạnh tình hình tài chính cho
ngân hàng. Việc quản trị rủi ro còn có thể thực hiện thông qua việc xây dựng danh mục
đầu tư để phân tán rủi ro tránh việc đầu tư thái quá vào một ngành nghề cụ thể. Đây là
một việc làm quan trọng của các ngân hàng vì thực tế ở một nền kinh tế kém phát triển và
thiếu thông tin như Việt Nam, hiện tượng tâm lý bầy đàn thưởng xảy ra trong hoạt động
kinh doanh của các doanh nghiệp. Vấn đề của các ngân hàng là nhận dạng và hạn chế
những tác động xấu của hiện tượng này.
Công tác quản trị rủi ro chỉ có thể thành công khi nó được thực hiện trên nền tảng một hệ
thống thông tin đáng tin cậy. Chính vì vậy, mỗi ngân hàng cần tập trung đầu tư vào công

nghệ và xây dựng cho mình một cơ sở dữ liệu thông tin khách hàng để cung cấp thông tin
cho công tác thẩm định cho vay được hiệu quả, phòng ngừa rủi ro.
Công tác quản trị rủi ro cũng cần tập trung vào khâu thẩm định khách hàng và dự án vay
vốn. Ngân hàng không nên ỷ lại quá nhiều vào tài sản bảo đảm, nhất là trong môi trường
kinh doanh ở Việt Nam khi mà hệ thống giải quyết tranh chấp có nhiều nhiêu khê thì việc
xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ của ngân hàng là rất khó khăn và tốn kém.
4. Vấn đề tài sản hình thành từ vốn vay:
- Đối với tài sản hình thành không dùng làm tài sản bảo đảm: sau từng lần giải ngân, ngân
hàng phải kiểm soát chặt chẽ quá trình sử dụng vốn vay của ngân hàng thông qua chứng
từ và thực tế, nhằm đảm bảo khách hàng sử dụng đúng mục đích, hiệu quả.
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khóa 2005 - 2006
Tài chính phát triển Bài tập nhóm

Nhóm 2 Trang 16/17

- Đối với tài sản hình thành là tài sản bảo đảm: Ngân hàng kiểm soát chặt chẽ quá trình sử
dụng vốn vay, đồng thời yêu cầu khách hàng hoàn tất thủ tục theo đúng quy định về thực
hiện bảo đảm tiền vay như đăng ký quyễn sở hữu đối với tài sản có quyền sở hữu và đăng
ký giao dịch bảo đảm theo quy định.
III. Về phía các công ty:
Tìm cách để đưa thông tin đến ngân hàng, có nhiều cách phát tín hiệu như phát triển
thương hiệu, tham gia các cuộc bình chọn của các tổ chức uy tín như hàng Việt nam chất
lượng cao của Báo Sài Gòn Tiếp Thị, Sao vàng đất Việt, sử dụng kiểm toán kiểm tra báo
cáo tài chính hàng năm,…. để ngân hàng thấy được uy tín và năng lực của mình.

Việc khắc phục tình trạng thông tin bất cân xứng trong hoạt động tín dụng của ngân hàng
không phải công việc của riêng gì bản thân ngân hàng mà phải có sự thực hiện đồng bộ
của các thành phần có liên quan cũng như sự hỗ trợ của nhà nước thông qua ban hành và
giám sát các thể chế hoạt động.


&&&
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khóa 2005 - 2006
Tài chính phát triển Bài tập nhóm

Nhóm 2 Trang 17/17

Tài liệu tham khảo

Nguyễn Trọng Hoài (2005). “Can thiệp cần thiết cho các thị trường tài chính: vấn đề
thông tin bất cân xứng”.

Huỳnh Thế Du, Nguyễn Minh Kiều, Nguyễn Trọng Hoài (2005). “Nghiên cứu tình
huống: Thông tin bất cân xúng trong hoạt động tín dụng tại Việt Nam”

Nhóm 1 – FETP 10 môn Kinh tế phát triển. “Thông tin bất cân xứng và xử lý vấn đề
thông tin bất cân xứng trong hoạt động tín dụng ở Việt Nam”

Paul Milgrom & John Roberts (1992). “Lựa chọn bất lợi và tâm lý ỷ lại”.

M. Rothschild & J. Stiglitz (1990). “Cân bằng trên các thị trường bảo hiểm có tính cạnh
tranh: Luận về kinh tế học của thông tin không hoàn hảo”

D.O. Beim & C.W.Calomiris (2000). “Các thị trường tài chính mới nổi. Chương 5: Thông
tin và kiểm soát”.

Nguyễn Tiến Dũng. (2005). Bài phát biểu tại Hội nghị Bộ trưởng Viễn thông và Công
nghệ thông tin ASEAN lần thứ 5.


Bộ Thương Mại (18/01/2006). “Lạc quan với nợ xấu". Được lấy về từ:
/>

Tạp chí VNECONOMY (30/06/2005). “Ngân hàng Việt Nam: Chất lượng tín dụng đã
được cải thiện?”. Được lấy về từ:
/>0630095023

Tạp chí VNECONOMY (15/02/2006). “Vướng xử lý nợ tín dụng”. Được lấy về từ:
/>e5af5a93ba8e

×