Các khuynh hướng phê bình văn học
Việt Nam hiện nay
Trên thế giới người ta nói thể kỉ XX là “thế kỉ của phê bình văn
học”. Nhận định ấy cũng đúng với Việt Nam, bởi chỉ vào thế kỉ XX
Việt Nam mới có phê bình văn học theo nghĩa hiện đại. Song số phận
phê bình văn học Việt Nam thì hẩm hiu hơn nhiều. Nhận định nêu
trên về phê bình văn học thế giới quả không ngoa: bởi vì ngay từ đầu
thế kỉ đã lần lượt nảy sịnh các trào lưu phê bình văn học liên tục đan
xen, thay thế nhau. Nào chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa hình thức, phê
bình mới, phân tâm học, chủ nghĩa hiện sinh, chủ nghĩa cấu trúc, giải
cấu trúc, chủ nghĩa tân lịch sử, thi pháp học, phong cách học, diễn
ngôn học, tu từ học…Các khuynh hướng cạnh tranh nhau, bổ sung
nhau làm cho các vấn đề văn học ngày càng được sáng tỏ, khắc phục
dần các nhận thức ấu trĩ siêu hình. Song ở Việt Nam thì không thế.
Vừa mới hình thành chưa lâu trước năm 1945, nhà phê bình chưa kịp
tự ý thúc về mình và nghề mình thì sau đó gần hết nửa thế kỉ còn lại
phê bình văn học Việt Nam buộc phải đi vào hai cuộc chiến tranh
chống ngoại xâm, chống ý thức hệ đối kháng. Do hoàn cảnh lịch sử và
định hướng ý thức hệ phê bình văn học của Việt Nam hầu như trở
thành một ốc đảo, chúng ta chỉ biết có chủ nghĩa Mác theo phiên bản
các nước xã hội chủ nghĩa, mà hầu như không biết gì về các trào lưu
khác trên thế giới, tách xa các trào lưu ấy như nước với lửa. Chỉ từ
năm 1986, đúng hơn từ năm 1995 do mở của hội nhập với các nước
trên thế giới, ta mới có ít nhiều đổi thay trong giao lưu văn học, phê
bình, song do theo định hướng lấy chủ nghĩa Mác Lenin làm nền
tảng, các tư tưởng khác hầu như đều ở vào địa vị bất hợp pháp, bất
bình đẳng, ngoại biên, bị coi là phi chính thống. Chính vì vậy mà đã
gần 40 năm lí luận phê bình văn học chúng ta tiến bộ rất chậm chạp.
Tuy vậy, với dường lối văn nghệ ngày càng có phần cởi mở, phê
bình văn học Việt Nam cũng dần dần hình thành các khuynh hướng
phê bình của mình. Các khuynh hướng này không phải là sự sao chép
trào lưu phê bình văn học nước ngoài mà hình thành trong ngữ cảnh
Việt Nam, phụ thuộc vào trình độ tự thức nhận của nền văn học.
Cùng với các khuynh hướng lí thuyết là các tiêu chuẩn giá trị khác
nhau, sự đánh giá khác nhau tạo nên một bức tranh đa sắc, nhiều
chiều, nhất là đối với tác phẩm đương đại. Trong công cuộc chuyển
mình của văn học theo hướng hiện đại này ý nghĩa, giá trị của văn học
chưa có được tọa độ ổn định. Nhiệm vụ của phê bình không chỉ là
diễn giải ý nghĩa tác phẩm, mà còn là xếp hạng, định vị các giá trị văn
học, phân vạch các khuynh hướng hầu như chưa có điều kiện thực
hiện đối với văn học đương đại. Các cách xếp hạng hiện thời khó
tránh khỏi tính tạm thời. Trong bài này chúng tôi thử nêu các
khuynh hướng phê bình văn học để thấy phê bình văn học đang tồn
tại và vận động theo nhiều hướng.
1. Khuynh hướng phê bình xã hội học, ý thức hệ.
Khuynh hướng này có truyền thống lâu đời nhất, tính từ thời Hải
Triều năm 1935, qua Đề cương văn hóa 1943, được phát triển và
củng cố qua các cuộc tranh luận văn nghệ, các cuộc đấu tranh tư
tưởng chống nhóm Nhân văn-Giai phẩm, chống chủ nghĩa xét lại
hiện đại, nó cũng được khẳng định trong hàng loạt công trình phê
bình của các nhà phê bình nổi tiếng một thời. Không chỉ các nhà phê
bình, mà ngay các nhà văn với nhau cũng phê bình theo một kiểu ấy.
Đặc điểm của khuynh hướng này là vận dụng các nguyên lí mác xít
như tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, quan điểm giai cấp luận,
xem văn học là công cụ phục vụ chính trị cuộc đấu tranh giai cấp, đấu
tranh ý thức hệ, đối lập tư sản/vô sản; địch/ta, tập thể/cá nhân, văn
học là tuyên truyền, quan hệ văn học với hiện thực là phản ánh,
phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa, nguyên tắc tính
đảng, nhà văn là chiến sĩ, phê bình là vũ khí đấu tranh. Mục đích phê
bình là lấy cán bút làm đòn xoay chế độ, đánh giá tác phẩm chủ yếu
theo nhu cầu, lợi hại đối với chế độ xã hội. Ngoài cách nhìn thế giới
lưỡng phân thành hai nửa thù địch nhau, còn có quy định của quan
niệm cách mạng bạo lực, nhằm lật đổ chế độ cũ, xây dựng chế độ mới,
xây dựng nền chuyên chính vô sản do Lenin đề ra. Khuynh hướng
phê bình này thích dùng bạo lực để đánh địch, tạo một thói quen quy
chụp, suy diễn để quy đối tượng phê bình vào kẻ thù của chế độ.
Hàng loạt nhà văn đã là nạn nhân của lối phê bình này mà những ai
sống qua thời đó đều còn nhớ như in, thiết nghĩ không cần phải nhắc
lại. Sau thời Đổi mới tình hình đó đã có thay đổi đáng kể, văn học
được xem như là sản phẩm của văn hóa, song lối phê bình suy diễn và
chỉ một phía được nói, phía bị phê bình không có quyền nói, đã
thành nếp khó sửa, vẫn còn lai rai trong đời sống văn chương.
Khuynh hướng phê bình xã hội học vẫn còn một phương diện quan
trọng khác, ấy là xây dựng nền văn học mới xã hội chủ nghĩa, nó có
nghĩa vụ đánh giá, xếp hạng các tác phẩm kinh điển của nền văn học
này, xây dựng hệ thống các quy phạm của nó. Các tác giả Hố Chí
Minh, Tố Hữu, Trường Chinh, Hà Xuân Trường, Hoàng Trinh,
Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Khải, Hồ Phương…và rất nhiều tác gia
kinh điển khác tạo nên diện mạo của giai đoạn văn học mà sau đó
được vinh danh hoặc vinh dự nhận các giải thưởng cao quý của nhà
nước. Cũng cần nói thêm rằng các tác giả được vinh danh nhiều người
do nhìn mặt mà trao giải chứ chưa phải trường hợp nào cũng có căn
cứ vào giá trị đích thực của tác phẩm, sự khập khiểng là khó tránh.
Nhiệm vụ thứ ba của phê bình này là đánh giá lại di sản văn học dân
tộc theo quan điểm mác xít, khẳng định các thành tựu, truyền thống
đấu tranh đáng tự hào, phê phán các tàn dư phong kiến, tư sản còn
tác hại trong đời sống tinh thần. Nhiệm vụ này trước Đổi mới về cơ
bản là làm hỏng nhiều hiện tượng văn học có giá trị, may thay sau
Đổi mới nhờ cố gắng của nhiều người đã dần dần sửa chữa, nói chung
ngày càng khắc phục được các khiếm khuyết dung tục. Khuynh hướng
phê bình này hiện đang đóng vai trò trung tâm, chủ lưu, chính thống
của nền văn học. Tuy vậy một thời gian dài khuynh hướng này hầu
như chỉ quan tâm nội dung mà ít chú ý hình thức, quan tâm nền văn
học của chế độ mà ít quan tâm tác giả, phong cách, cá tính (ngoại trừ
các vị tiêu biểu cho cách mạng), do đó đánh giá cũng khó tránh phiến
diện. Chính vì vậy mà khuynh hướng này một cách tự nhiên, cần
được bổ sung bằng các khuynh hướng khác.
2. Khuynh hướng thứ hai là nghiên cứu văn học theo mô hình lấy
nhà văn làm trung tâm.
Đây là khuynh hướng lấy phương pháp tiểu sử, dựng chân dung nhà
văn, khắc họa hồn cốt tác giả qua các nét chấm phá do trực tiếp quan
sát hoặc nghe nói lại, hoặc khám phá hệ chủ đề của tác giả thể hiện
thành hệ thống hình tượng. Phương pháp xây dựng chân dung có lối
chân dung con người, có lối chân dung nghệ thuật, phần nhiều đều
dựa vào ấn tượng mà sáng tác. Khuynh hướng này có cội nguồn từ các
phê bình văn học Việt Nam những năm 30 thế kỉ XX trong các tác
phẩm của Thiếu Sơn, Trần Thanh Mại, Hoài Thanh, Vũ Ngọc Phan…
Khuynh hướng này coi trọng cá tính nhà văn, các giá trị thẩm mĩ.
Tâm điểm nghiên cứu của họ là nhà văn và cá tính. Thể loại họ ưa
thích là chân dung văn học hoặc chân dung mở rộng thành chuyên
luận tác giả. Loại sách mà họ yêu chuộng là tác giả, tác phẩm và lời
bình. Tập nghiên cứu nào cũng có một phần chân dung văn học. Có
tác giả viết hàng trăm chân dung văn học, từ loại sơ lược như tiểu sử
tóm tắt trong Thi nhân Việt Nam cho đến các bức tranh khắc họa chi
tiết, sinh động, hấp dẫn như của Nguyễn Đăng Mạnh, phức tạp như
của Vương Trí Nhàn, độc đáo như của Chu Văn Sơn, đồ sộ như của
nhà thơ Hoài Anh…Truyền thống sùng bái tác giả bắt đầu với chủ
nghĩa lãng mạn ở phương Tây, nó vào Việt Nam cũng bắt đầu với chủ
nghĩa lãng mạn. Nhưng cội nguồn sâu xa hơn là quan niệm văn là
người có ở phương Đông lẫn phương Tây. Phong Lê cũng chuộng lối
này, ông từng có quyển Văn và người và liên tục soạn nhiều tập khác.
Đối với khuynh hướng này, tác giả là nhân vật chính của lịch sử văn
học, vị trí tác phẩm lui xuống hàng thứ hai. Vào giai đoạn lịch sử khi
cá tính nhà văn ít được coi trọng khuynh hướng này có ý nghĩa nắn
lại, vinh danh những người sáng tạo ra các giá trị thẩm mĩ cho đời.
Thứ hai, văn là người, viết chân dung cũng là cách bày tỏ tình cảm
hoặc suy nghĩ về cá tính. Khuynh hướng này rất thích hợp với nền
văn học mà tác giả nổi tiếng nhiều hơn tác phẩm nổi tiếng. Trong thời
đại ngày nay, khi theo ý kiến của nhà mác xít người Anh là Terry
Eagleton, phê bình văn học hiện đại trải qua ba hệ hình: Lấy tác giả
làm trung tâm; lấy văn bản làm trung tâm và lấy người đọc làm trung
tâm, thì lối phê bình lấy tác giả làm trung tâm tỏ ra là đã thuộc về
giai đoạn trước. Khi nhà phê bình Pháp Roland Barthes hô lên “Tác
giả đã chết”, hoặc khi Michel Foucault viết “Tác giả là gì” cho thấy tác
giả chỉ là một số chức năng trong văn bản, chứ không phải là con
người sống động thì khái niệm tác giả có một độ chông chênh nào đó.
Tác giả được khẳng định nhằm để ngăn chặn sự lí giải mở rộng vô bờ,
đa dạng bởi người đọc. Muốn giải phóng người đọc thì tác giả phải hi
sinh. Nhưng khuynh hướng mới thông diễn học thì dung hợp tác giả
và người đọc. Khi ý nghĩa tác phẩm không phải do tác giả hoàn toàn
quyết định, mà còn do người đọc nữa, thì việc đi tìm ý nghĩa của tác
giả chỉ có một tác dụng giới hạn. Càng đề cao tác giả thì càng hạn chế
sự diễn giải của người đọc. Càng đề cao tác giả cũng có nguy cơ, là bắt
tác giả phải chịu trách nhiệm cho những suy diễn mà người đọc gán
ghép một cách oan uổng cho anh ta. Không thể bắt tác giả gánh trách
nhiệm cho các phát hiện của người đọc, nhất là người đọc có dụng ý
không tốt. Hiện nay khi nền phê bình còn chưa phát triển cao, phê
bình tác giả vẫn chiếm ưu thế, đủ thấy vị trí của phê bình văn học Việt
Nam chưa theo kịp thế giới. Tôi không hoàn toàn tán thành vói ý
kiến của hai tác giả nước ngoài nêu trên thiên về chủ nghĩa cấu trúc
mà coi nhẹ tác giả. Người sáng tác đã để cả tâm hồn, tài năng, kinh
nghiệm vào tác phẩm lẽ nào vô can với giá trị của nó. Tuy nhiên ý đồ
sáng tạo, khát vọng nghệ thuật là một đằng mà gía trị nghệ thuật
được tạo ra là đằng khác. Tư tưởng lớn, tình cảm mãnh liệt, khát vọng
cao vời, cần cù chịu khó tuy rất đáng yêu, song chưa hề là bảo đảm
cho giá trị tác phẩm văn học. Cho nên phê bình văn học vẫn phải lấy
tác phẩm làm đối tượng nghiên cứu chủ yếu, mặc dù chân dung vẫn
là một hướng nghiên cứu quan trọng, nó gần với thể loại sáng tác hơn
là thể loại phê bình.
3. Khuynh hướng phê bình trên nền tảng văn bản văn học.
Phê bình văn bản dựa váo tính độc lập của văn bản, trên cơ sở khám
phá các nguyên tắc nghệ thuật thể hiện trong ngôn từ mà khái quát
về tư tưởng, quan niệm thẩm mĩ của tác phẩm, nhà văn, thể loại…
Cách làm này không phụ thuộc vào ý đồ của nhà văn, một yếu tố mà
nhà phê bình nói chung khó biết, nếu không nói là không thể biết rõ
được. Phê bình văn bản dựa vào tính chỉnh thể, tính kí hiệu của văn
bản, các nguyên tắc thi pháp, tu từ học, phong cách học mà đưa ra
khái quát. Lúc đầu người ta có tham vọng tìm một cách tiếp cận khoa
học đối với văn học, để tránh chủ quan, song trên thực tế, dần dần
người ta hiểu ra phương pháp này cũng tùy thuộc vào sự kiện mà
người nghiên cứu quan sát mang tính chủ quan, cùng một tác phẩm
mà người nghiên cứu khác nhau có thể rút ra các kết qủa khác nhau,
mà không thể phủ định lẫn nhau. Nghiên cứu văn bản thực chất là
hoạt động sản sinh nghĩa của văn bản, dựa vào tiềm năng sinh nghĩa
của nó. Các tác giả Phan Ngọc, Đỗ Đức Hiểu, Trần Đình Sử, Đỗ Lai
Thúy… đi theo hướng này. Nhưng khác với các nhà phê bình phương
Tây khi đề cao văn bản họ cắt đứt quan hệ với tác giả cũng như đối với
hiện thực, thì trái lại các nhà phê bình Việt Nam khi nghiên cứu văn
bản vẫn tham chiếu tác giả và thời đại, khẳng định tác giả và liên hệ
với thời đại lịch sử sản sinh văn bản. Đó là nét độc đáo mới mẻ,
không hề rập khuôn phương Tây của họ.
Một đặc điểm của thi pháp học thế kỉ XX là có sự xâm nhập mạnh mẽ
của phong cách học và tu từ học. Hầu hết các công trình thi pháp học
nổi tiếng trên thế giới đều pha trộn với phong cách học, tu từ học. Và
trong xu thế chuyển hướng ngữ học (lingustic turn) và chuyển hướng
diễn ngôn học (discursive turn) thì hình thành một tu từ học mới mà
thi pháp học chỉ là một bộ phận, song là bộ phận độc lập tương đối
chuyên nghiên cứu kiến tạo văn học, không thể bị thay thế. Theo xu
hướng đó, các công trình thi pháp học, phong cách học Việt Nam
cũng có sự giao thoa, đan xen nhau của các bộ phận đó, không hề đối
lập nhau. Đặc điểm chung của nghiên cứu trên nền tảng văn bản văn
học trong bối cảnh “chuyển hướng ngữ học”là xuất phát từ các dữ
kiện ngôn ngữ, từ đó mà kiến tạo nên các mô hình về thế giới, hình
thành các kí hiệu và khả năng biểu nghĩa, đó cũng là điều khác với lối
phê bình thuần túy suy diễn từ bối cảnh thời đại. Ngày nay diễn ngôn
học đang gây được chú ý, song nghiên cứu văn bản văn học Việt Nam
vẫn đi đúng hướng và con đường ấy vẫn hứa hẹn các thành quả mới.
4. Phê bình văn học truyền thông
Truyền thông (medium/media), theo định nghĩa của Wilbur
Schramm là công cụ đặt vào giữa quá trình hoạt động giao tiếp nhằm
khuếch đại và kéo dài việc đưa tin trong không gian và thời gian. Sự
thay đổi phương tiện truyền thông kéo theo các cuộc cách mạng văn
học. Theo đó, truyền thông không phải là một hoạt động phê bình,
nhưng do tính chất khuếch đại, kéo dài việc đưa tin, truyền thông trở
thành một công cụ quyền lực, không chế, gây ảnh hưởng cực mạnh,
và trên cơ sở đó hình thành một hình thái phê bình mà chúng tôi gọi
là “phê bình truyền thông”. Truyền thông gồm bộ phận hạt nhân là
truyền hình, phát thanh, điện ảnh, báo chí trung ương, có độ phủ
sóng toàn xã hội; bộ phận ngoại biên như các phương tiện sách, báo,
tạp chí, báo mạng…giới hạn phủ sóng hẹp hơn; bộ phận văn hóa đô
thị như họp báo, giới thiệu sách mới chỉ đóng khung tại đô thị lớn
Với các hình thức giới thiệu điểm sách, tọa đàm, tổ chức sự kiện…
chức năng của phê bình truyền thông là đưa tin, tạo dư luận, đánh giá
chung, bày tỏ quan điểm, chính kiến. Tính chất thông tấn của nó thể
hiện ở tính nhanh nhạy, kịp thời. Với tính chất báo chí nó cũng đổi
thay hàng ngày, tin hôm sau thay thế tin hôm trước. Nhưng mặt
khác, sức mạnh bá quyền của phương tiện truyền thông cùng với
quyền lực cơ quan quản lí hàng ngày hàng giờ tung ra công chúng,
gấy ấn tượng, áp đảo, tạo thành mối quan tâm lớn của xã hội. Là
phương tiện quyền lực nó giữ quyền lựa chọn, biên tập, định hướng.
Ngôn ngữ của truyền thông đại chúng chủ yếu là ngôn ngữ chính trị,
ngôn ngữ thương nghiệp, ngôn ngữ đời thường, cơ hội cho ngôn ngữ
chuyên môn bị hạn chế. Do đó phê bình văn học cũng ít có điều kiện
chuyên sâu. Trong điều kiện báo mạng và các blog cá nhân bày tỏ
nhiều luồng dư luận khác nhau, hinh thành một trường dư luận nhiều
chiều, trái chiều, thuận chiều, có tính đối thoại sâu rộng. Tất nhiên
các blog ở vào vị thế ngoại biên, tiếng nói nhỏ yếu, nhưng không thể
bỏ qua. Phê bình truyền thông đang mở ra khả năng đối thoại to lớn,
nhưng cũng có thể chỉ là áp đặt to lớn. Nếu được sử dụng, tôn trọng ý
kiến trái chiều, biết đối thoại, chờ đợi, sẽ có cơ làm cho nhiều vấn đề
khúc mắc được thêm sáng tỏ. Nhưng mặt khác trong điều kiện kinh tế
thị trường phê bình truyền thống khó tránh khỏi tính chất áp đặt,
quảng cáo, đánh bóng tên tuổi, có chương trỉnh bị dư luận lên án như
vụ lăng xê thơ Hoàng Quang Thuận là ví dụ tiêu biểu. Mặt khác
không gian ảo của báo mạng khiến cho một số ý kiến phát ngôn suy
diễn, lời lẽ thiếu tôn trọng đối tượng phê bình, người đối thoại cũng
làm cho chất lượng phê bình giảm sút nghiêm trọng. Nhược điểm của
phê bình này là trong nhiều trường hợp chưa tạo được các hoạt động
đối thoại bình đẳng, dân chủ, có văn hóa.
5. Phê bình trường, viện và đề tài được cấp kinh phí
Do thể chế tổ chức nghiên cứu, đào tạo nghiên cứu sinh, cao học,
các đề tài cấp bộ, cấp nhà nước, đề tài đặc biệt được cấp kinh phí, xuất
hiện một khuynh hướng nghiên cứu phê bình văn học đáng chú ý.
Đây là phê bình của các cơ quan học thuật, do đó việc tiếp nhận các lí
thuyết mới, dùng các thuật ngữ mới, lắm khi xa lạ, chủ yếu của
phương Tây, và vận dụng vào nghiên cứu, đánh giá văn học nước nhà.
Uy tín học thuật của nước ngoài cũng tạo cho nó một quyền lực nhất
định. Do đi sâu học thuật, cho nên có một số mặt chưa theo kịp tình
hình văn học trong nước. Hoạt động của phạm vi phê bình này thiên
về giải mã các hiện tượng văn học, trước hết là các tác phẩm kinh
điển, sau là các tác phẩm nổi tiếng, thời thượng. Mặt khác đây là dạng
phê bình hiện diện trong không gian hẹp, được cấp tiền hoặc đào tạo
theo kế hoạch, thực hiện trong thời gian quy định. Không ít công
trình có giá trị cao, xuất bản được chú ý. Nhưng với mục đích trước
mắt không nhằm công bố (phần lớn các loại đề tài hiện nay làm xong
để vào kho lưu trữ), thời gian câu thúc cho nên khó tránh khỏi làm
vội, chất lượng chưa cao, nhiều khi tùy tiện. Nhưng mặt khác nhà phê
bình được tự do, ít bị xã hội ràng buộc nên có thể tiếp cận nhiều hiện
tượng văn học mới. Đáng chú ý của phê bình này ở các trường, viện là
nơi tập dượt vận dụng các lí thuyết văn học mới để mở rộng tầm nhìn,
cách đánh giá các tác phẩm văn học. Phê bình ở các trường viện là
nơi đào tạo, cung cấp lực lượng phê bình mới cho nền văn học chúng
ta.
6. Phê bình khuynh hướng văn học
Một nhược điểm của phê bình văn học Việt Nam là chỉ quan tâm
tác giả, tác phẩm, bình điểm các hiện tượng văn học cụ thể mà ít quan
tâm nghiên cứu phân tích, phân hóa các khuynh hướng văn học,
cung cấp bức tranh về động hướng văn học đang đi từ đâu đến đâu.
Thỉnh thoảng cũng có một số công trình tổng kết, song thiên về mô tả
phong trào. Từ thời giữa những năm 80 chúng tôi vận dụng các khái
niệm của nhà lí luận Nga Pospelov, cho rằng văn học sau 1975 có
khuynh hướng phi sử thi hóa, thế sự hóa và đời tư hóa. Cách phân
biệt khuynh hướng ấy vẫn còn được vận dụng, gắn với quan niệm về
sự giải thiêng, giải huyền thoại, khuynh hướng thế tục hóa văn học,
khuynh hướng biểu hiện chấn thương tinh thần. Các khuynh hướng
ấy có cái chung với khuynh hướng văn học thuộc các nước xã hội chủ
nghĩa trước đây sau một cơn biến động lớn. Tuy vậy trong thời hội
nhập quốc tế các khuynh hướng văn học phương Tây ảnh hưởng đến
văn học Việt Nam như thế nào? Trước đây nhà phê bình Trần Thị
Mai Nhi cũng có công trình Văn học hiện đại, văn học Việt Nam
giao lưu gặp gỡ, 1994, nghiên cứu khuynh hướng hiện đại chủ nghĩa
trong văn học Việt Nam, song thời gian bao quát suốt cả thế kỉ XX,
thiên về so sánh nhiều hơn là miêu tả khuynh hướng hiện đại chủ
nghĩa trong văn học Việt Nam. Một dấu hiệu đáng mừng là gần đây
trong một số bài nghiên cứu, nhà phê bình văn học Lã Nguyên đã
nêu khuynh hướng (đúng hơn là những dấu hiệu) hậu hiện đại trong
văn học Việt Nam đương đại có sức thuyết phục. Khuynh hướng hậu
hiện đại đã được phân tích cụ thể trong các biểu hiện của nó. Chúng
ta đã khẳng định tinh thần và thành tựu của văn học thời kì Đổi mới.
Nhưng “Đổi mới” là một khái niệm mơ hồ, mới thế nào, theo những
khuynh hướng nào thì chưa hề phân hóa. Thực ra “Dổi mới” có nhiều
khuynh hướng chứ không đơn nhất như ta tưởng ban đầu. Việc chỉ ra
khuynh hướng hậu hiện đại cho thấy một dấu hiệu rõ nét trong đó.
Ngoài ra tất còn có những khuynh hướng văn học khác nữa. Chỉ xin
lưu ý rằng, chừng nào chúng ta chưa tách được các khuynh hướng ấy
ra, chưa đặt tên cho nó thì các khuynh hướng ấy vẫn chưa được hiện
diện. Phó giáo sư TS Nguyễn Văn Dân có nhận xét đáng chú ý, đó là
tình trạng lãng quên ảnh hưởng của chủ nghĩa hiện đại trong văn học
Việt Nam. Vậy có khuynh hướng văn học hiện đại chủ nghĩa trong
văn học Việt Nam đương đại không cũng là vấn đề đang cần làm rõ.
Trong một số bài viết công phu của ông ta thấy ông nêu nhiều ví dụ
ảnh hưởng của chủ nghĩa hiện đại trong kiến trúc, hội họa, văn học
trong suốt thế kỉ XX, nhưng xác định một khuynh hướng hiện đại chủ
nghĩa trong văn học Việt Nam dương đại thì ông chưa làm. Phải
chăng khi nhà văn Việt Nam tiếp cận được văn học hiện đại chủ nghĩa
thì trào lưu ấy trên thế giới đã bị trào lưu hậu hiện đại bỏ qua, vì thế
mà ở Việt Nam không thành khuynh hướng nữa? Một nền văn học
không chỉ có các tác giả và tác phẩm, mà còn có các khuynh hướng
tồn tại song song hay nối tiếp nhau. Thiếu sót nghiêm trọng của
nghiên cứu, phê bình văn học Việt Nam hiện nay là chưa chỉ rõ bức
tranh các khuynh hướng văn học Việt Nam hiện đại đầy đủ, có hệ
thống.
7. Phê bình văn hóa học
Trên thế giới nghiên cứu văn hóa bắt đầu từ nhưng năm 60 thế kỉ
trước, đầu tiên ở các nước nói tiếng Anh, sau truyền sang châu Âu rồi
cuối cùng tràn sang các nước châu Á, và chỉ đầu thế kỉ XXI mới sang
việt Nam. Phê bình văn hóa bắt đầu từ đổi mới khái niệm văn hóa.
Văn hóa không phải là các lĩnh vực cao xa, phi vụ lợi trong tác phẩm
của tầng lớp tinh anh như cách hiểu trước đây, mà chính là hình thức
đời sống hàng ngày của con người. Văn hóa là tất cả các các hình
thức, khuôn mẫu mà cuộc sống con người diễn ra trong đó. Từ món
ăn nhanh, múa đường phố, thiết kế xe hơi, âm nhạc lưu hành, thời
trang, karaoke, mĩ phẩm, quảng cáo…đều là văn hóa. Tóm lại văn
hóa đây là văn hóa đại chúng, văn học đại chúng. Nghiên cứu văn
hóa có tham vọng đột phá khuôn khổ chật hẹp của lĩnh vực văn học,
nghiên cứu tất cả các hình thức văn chương, thẩm mĩ trong đời sống,
xem xét quan hệ văn học với các khía cạnh như giải trí, trò chơi, giới
tính, kinh nghiệm cá nhân, quan niệm thẩm mĩ đời thường như thân
thể, trang phục…Các hiện tượng văn học lâu nay bị coi thường như
truyện trinh thám, truyện võ hiệp, các thứ thơ chơi, thơ nhại, thơ
đồng dao cũng la đối tượng nghiên cứu.
Nghiên cứu văn hóa hiện đang hấp dẫn thế hệ phê bình văn học trẻ
được vũ trang bằng tiếng Anh. Các nhà nghiên cứu phê bình trẻ như
Trần Văn Toàn, Phạm Xuân Thạch, Phùng Kiên, Trần ngọc Hiếu,
Cao Việt Dũng, Phùng Gia Thế, Mai Anh Tuấn, Nhã Thuyên…Trần
Văn Toàn nghiên cứu về văn học và giới tính, Phạm Xuân Thạch
nghiên cứu tác động của trường văn học đối với số phận và phong
cách nhà văn, Trần Mai Vũ nghiên cứu văn học giải trí, Trần Ngọc
Hiếu nghiên cứu trò chơi và văn học…Phê bình văn hóa sẽ góp phần
mở rộng tầm nhìn đến các hiện tượng văn học đa dạng bị bỏ quên,
khắc phục quan điểm kinh tế quyết định luận dung tục, cho thấy văn
học trong nhiều mối quan hệ với đời sống con người. Khuynh hướng
này mới bắt đầu, song có thể sẽ có cơ phát triển.
Điểm qua các khuynh hướng trên chúng ta có thể thấy chúng không
tồn tại biệt lập nhau, đường biên có chỗ mờ nhòe, tiêu chí phân biệt
có chỗ chưa nhất quán, song cần phân biệt để thấy bức tranh tổng
thể. Từ các khuynh hướng phê bình văn học ấy, ta thấy phê bình văn
học Việt Nam đang mở ra, lớn lên, nhưng không đồng đều và chậm
chạp. Phê bình văn học nặng về khuynh hướng thông tin, chân dung,
chào hàng, diễn giải các hiện tượng, là các hình thái phê bình tự
nhiên, tự phát. Còn hiếm tác phẩm đạt đến các khuynh hướng
chuyên sâu, chưa đi vào nội dung triết lí, thẩm mĩ, chưa có tầm khái
quát cao đối với một nền văn học. Một nền văn học phát triển, phong
phú cần tạo điều kiện cho nó phát triển bề rộng, đồng thời đầu tư cho
các khuynh hướng phê bình chuyên sâu, có tầm khái quát cao.