Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Mạc ngôn nhà văn vượt qua truyền thống tiểu thuyết lịch sử cách mạng trung quốc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (118.39 KB, 10 trang )

Mạc Ngôn – nhà văn vượt qua
truyền thống tiểu thuyết lị ch sử
cách mạng Trung Quốc

Trần Đình Sử
Từ khi tiểu thuyết Báu vật của đời của Mạc Ngôn xuất hiện
năm 1995, giới phê bình văn học Trung Quốc lập tức chia rẻ.
Một luồng ý kiến phê bình tác phẩm là phản động, phủ nhận
vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc, dòng ý kiến
này dẫn đến chỗ tác phẩm bị cấm in tiếp, sách đã in bị thu hồi.
Luồng ý kiến thứ hai bảo về tác phẩm, đánh giá cao những
thành tựu sáng tạo của ông. Dư luận này phù hợp với giá trị
khách quan của tác phẩm, hợp với đánh giá chung và cuối
cùng tác phẩm được nhân giải Nobel.
Nay xin giới thiệu đôi nét để thấy trong thời đại chúng ta, các
quan điểm lập trường cũ mèm càng ngày càng xa rời các giá
trị đích thực của văn học, của nhân văn và thẩm mĩ. Và tất cả
các bài phê bình văn học theo quan niệm ấy ngày càng ít có
giá trị đối với văn học.
Sau khi Báu vật của đờ i công bố, tờ báo Trung lưu, phụ
trương của tờ Quang Minh nhật báo, do các nhà văn lão
thành như Lâm Mặc Hàn, Ngụy Nguy phụ trách đã phát động
lên một cuộc phê phán lớn, xem Báu vật của đời là “tác phẩm
phản động, là rác rưởi bẩn thỉu” của văn học Trung Quốc. Bắt
đầu từ số 6 năm 1996 báo này liên tục đăng các bài phê phán.
Nhà văn Lưu Bạch Vũ, từng là thứ trưởng Bộ văn hóa Trung
Quốc tỏ rỏ lập trường chính thống đầu tiên. Ông cất tiêng nói
cha chú dạy cậu nhà văn Mạc Ngôn lúc này vừa 40 tuổi:
“Chúng ta hy sinh chiến đấu, giành lại quốc gia thế mà nảy
sinh ra loại giòi bọ như thế thật là nhục nhã.” Nhà văn Bành
Kinh Phong ở Vân Nam góp bài trên tạp chí của Đảng


là Hồng kì văn cảo,số 12 /1996 nói: “Báu vật của đời không
chỉ là phản động, mà còn là rác rưởi bẩn thỉu. Nhà văn đã
được quân đội giáo dục 20 năm mà chẳng hiểu cái gì hết”.
Nhà văn quân đội Giả Nhược Du nhấn mạnh: “Chúng ta
không thể đánh giá thấp tác hại sâu sắc của tác phẩm Báu vật
của đời.”.Các nhà văn quân đội như Lưu Bạch Vũ, Ngụy Nguy
là người tổ chức tích cực nhất cho cuộc tỉ thí phê phán này.
Nhà phê bình Hà Quốc Thụy trong bài Báu vật của đời là tác
phẩm như thế nào? đã viết: “Trong Báu vật của đời, từ những
năm 30 kháng Nhật cho đến những năm 90 mở của khai
phóng hầu như đối với tất cả những người và việc thuộc đảng
cộng sản tác giả đều viết bằng một giọng văn chế nhạo, khiêu
khích, châm chọc, nói cạnh khóe. Cho nên Báu vật của
đờikhông chỉ gần như là một tác phẩm phản động mà về đao
đức thì phản nhân luân, đối với việc miêu tả nam nữ dâm loạn
trang nào cũng có, mà gần như là bệnh tâm thần.” Hà Quốc
Thụy chỉ ra tác Mạc Ngô miêu tả nhân vật đảng cộng sản Bát
lộ quân Tưởng Lập Ngôn tuy làm đến chính ủy, nhưng không
thấy có hoạt động đánh Nhật nào cụ thể, mà chỉ thấy hoạt
động sách nhiễu nhân dân. Khi muốn bắt Sa Nguyệt Lượng
thì bắt con gái cô ta làm con tin theo cách của thổ phỉ; ông ta
đề bạt một anh câm lên làm tiểu đội trưởng, ai cũng biết, anh
câm thì làm sao mà chỉ huy; sau đó lại hiếp dâm chị dâu Lãnh
Đệ. Thế là biến một đảng viên cộng sản thành tên lưu manh,
thổ phỉ, ngu dốt chứ còn gì nữa? Trong lúc đó miêu tả Tư Mã
Khố, con nhà đại địa chủ thì lại miêu tả anh ta dũng cảm
kháng Nhật, cứu người, có lòng nhân hậu; đánh cộng sản thì
chỉ bắn chỉ thiên, không giết một ai, thế mà những người
cộng sản ấy sau này quay lại giết ông ta để trả thù một cách
hèn hạ. Tiểu thuyết còn miêu tả sau giải phóng trưởng thôn

phát động phong trào tái giá, đem toàn bộ quả phụ trong thôn
ra tùy tiện ghép cho những người đàn ông chưa vợ. Có cô gái
trẻ bị ghép cho một anh chân bị sâu quảng, chị ta không đồng
ý, nữ cán bộ thôn liền nói, chân anh ta sâu quảng mà chim
anh ta không sâu quảng thì thôi, can gì. Thôn tổ chức triển
lãm tố khổ Tư Mã Khố, nhưng người làm chứng lại nói ngược
lại, khen Tư Mã Khố cưu người. Còn miêu tả các đảng viên
cộng sản thời khai phóng toàn là hũ bại. Có người nói: Hũ bại
hơn cả bọn Từ Hy thái hậu, có người dân nói: Ngang ngược là
giấy thông hành của cán bộ nhà nước. Rõ ràng như thế là tiểu
thuyết phản động chứ gì nữa? Trước làn sóng phê phán ấy,
Mạc Ngôn có viết bài biện hộ, song lời của ong càng như đổ
dầu vào lửa, phê phán càng nhiều hơn. Sau một thời gian, nhà
văn có tu chỉnh lại tác phẩm. Ông nói, tác phẩm in lậu nhiều,
có kẻ còn thêm thắt nhiều vào đó, rồi xuất bản, cho nên phải
sửa lại để tạo thành bản chính thức.
Về thành tựu văn học, giới phê bình văn học ngày càng khẳng
định.
Tác giả Diêm Hạo Cương thì cho rằng Báu vật cuả đời đã lật
đổ hoàn toàn truyền thống tiểu thuyết lịch sử cách mạng
Trung Quốc. Truyền thống này miêu tả lịch sử như một cuộc
đấu tranh giai cấp giữa đảng cộng sản và các phe phái phản
động. Chính nghĩa, yêu nước, anh hùng, đao đức bao giờ cũng
thuộc phe đảng cộng sản, còn các phe khác đều là đểu cáng,
dâm dật, hũ bại, vô đạo. Tiểu thuyết lịch sử cách mạng kinh
điển thường miêu tả các nhân vật chính nếu là những người
xuất thân gia đình địa chủ, tư sản thì đều đã cắt đứt quan hệ
với giai cấp của mình, bỏ nhà ra đi, kiên quyết đứng về phía
lập trường vô sản do đảng lãnh đạo (ví như Lâm Đạo Tĩnh
trong tiểu thuyết Bài ca tuổi trẻ của Dương Mạt)…

Nhưng Báu vật của đờ i lại làm khác hẳn đi. Tác giả không nói
gì đến cách mạng, giải phóng, lí tưởng xã hội chủ nghĩa, mà
chỉ miêu tả chiến tranh, bạo lực, giết người, sự sống, cái chết,
chẳng có bên nào đem lại cho nhân dân phúc lợi. Chỉ có nhân
dân là người chiụ nhiều đau thương mất mát, đói khổ. Cả câu
chuyện gần một trăm năm mà như đi bên lề, ngoài rìa, không
dính gì đến lịch sử chính thống. Trong trăm năm ấy hầu như
không có Diên An, không có quốc khánh 1/10, không có Mao
Trạch Đông…Có thể nói đó là một tiểu thuyết phi chính trị,
chỉ quan tâm số phận con người. Tôi nghĩ rằng chính điểm
này hình như đã có ảnh hưởng đến tiểu thuyết Đội gạo lên
chùa của Nguyễn Xuân Khánh. Đạo đức không dính gì với bản
chất giai cấp, không phải cứ vô sản là tốt còn tư sản, địa chủ
đều là xấu. Tác giả làm ngược lại, tôn trọng sự thật của đời
sống, vứt bỏ các công thức giả tạo do ý thức hệ tạo nên. Tác giả
cũng đổi thay quan niệm tính dục, Tính dục là tự nhiên của
con người. Trước đây tiểu thuyết lịch sử cách mạng có khuynh
hướng cấm dục, chỉ có bọn tư sản địa chủ phản động mới trai
gái, làm tình, mới hũ bại, còn đảng viên cộng sản, nhà cách
mạng thì không. Mạc Ngôn đã miêu tả tình dục như là tự
nhiên của con người. Trước đây tiểu thuyết miêu tả quân dân
như cá với nước, như gia đình thân thuộc, nay Mạc Ngôn làm
ngược lại, lính tráng đi đâu cũng cướp, hiếp. Tiểu thuyết lịch
sử cách mạng hễ viết kháng Nhật thì chỉ có Bát lộ quân, Đảng
cộng sản, còn Tưởng Giới Thạch thì chỉ là phản động, nay Mạc
Ngôn cho thấy các đảng phái khác cũng đều yêu nước, cũng
kháng Nhật. Viết cải cách ruộng đất trước đây chỉ viết tội ác
địa chủ, viết chia ruông đất, nông dân phấn khởi, nhảy múa
ương ca. Nay Mạc Ngôn chỉ viết đấu tố, tố điêu, giết người phi
pháp…Tiểu thuyết lịch sử cách mạng trước đây viết theo lập

trường đảng phái. Nay Mạc Ngôn chỉ viết theo lập trường đạo
đức mà không coi đảng phái có giá trị gì. Ông gọi đó là lập
trường dân gian. Nếu anh là người tốt, thì anh ở đâu cũng tốt,
nếu anh là người xấu thì vào đảng nào anh cũng là người xấu,
ở cương vị cao thấp đều là người xấu. Những đặc điểm đó làm
cho Báu vật của đờì là tác phẩm hủy hoại triệt để các nguyên
tắc kinh điển của tiểu thuyết lịch sử cách mạng Trung Quốc
đương đại.
Tác giả Trương Thanh Hoa trong sách Nhìn lại mười năm tư
trào chủ nghĩa tân lịch sử ở Trung Quốc (Tạp chí Chung
Sơn số 4, năm 1998) đã viết: “Báu vật của đời đã thể hiện một
cách điển hình quan niệm tiểu thuyết của chủ nghĩa tân lịch
sử. Tiểu thuyết này khi mới ra đời với cai tên “mĩ miều” khiên
công chúng hãi sợ, nhưng cũng giống như Gia tộc cao lương
đỏ, đều là trần thuật theo chủ đề phức điệu lịch sử và nhân
loại học. Ông đem lịch sử cận hiện đại Trung Quốc thu gọn
vào lịch sử và vận mệnh của các thành viên của một gia đình,
đem lịch sử hoàn nguyên lại cho dân gian, dùng quan điểm
thuần túy dân gian, không dùng quan điểm quan phương mà
miêu tả cuộc đời, viết số phận của người dân qua bao sự kiện
lịch sử trọng đại. Dùng khí phách cực lớn và tính bao dung
rộng rãi mà khôi phục lại tính toàn vẹn của lịch sử Đồng thời,
trong quá trình trần thuật, nhà văn đem quan điểm quan
phương và dân gian (cuộc đấu tranh giữa các lực lượng chính
trị khác nhau và quan niệm cùng phương thức sinh hoạt bất
biến cổ xưa của dân gian), phương Đông và phương Tây (lấy
người mẹ làm biểu tượng cho tinh thần dân tộc và văn minh
phương Tây mà Maloa là đại biểu, đương nhiên, đứa con lai
Thượng Quan Kim Đồng lại càng có ý nghĩa kết hợp văn hóa
Đông Tây), truyền thống cổ xưa và văn minh hiện đại (sinh

hoạt kiểu Tiên chim và chiếu phim về phi công Mĩ), đủ loại
tình huống và kí hiệu hoàn toàn khác nhau có dụng ý kết hợp
với nhau đã phá vỡ sự hạn chế của lối tự sự lịch sử lịch đại đơn
tuyến, mà tạo ra những ý nghĩa lịch sử cực kì phong phú và
các tình huống cảm tính hết sức sinh động, từ đó mà thực hiện
một cách sinh động sự trần thuật một lịch sử cận hiện đại
Trung Quốc mang tính ẩn dụ với những trận phong ba bão
táp, các khung cảnh bao la sặc sở và biến ảo tang thương.”
Báu vật của đời còn sáng tạo ra những biểu tượng văn hóa đặc
sắc, như “bệnh si mê vú” của Thượng Quan Kim Đồng. Nhà
nghiên cứu Đặng Hiểu Mang (anh ruột nhà văn Tàn Tuyết) đã
từng nghiên cứu mặc cảm luyến mẹ trong văn học Trung
Quốc. Từ Trương Hiền Lượng, Trương Thừa Chí, Giả Bình Ao,
Cố Thành, cho đến Trương Vĩ, Mạc Ngôn, không ai thoát khỏi
cái mặc cảm ấy. Sau bao năm bạo loạn động trời, mọi người
đều mong muốn trở về thời ấu thơ ôm vú mẹ, êm đềm, ngọt
ngào thuần khiết. Vú mẹ ở đây là biểu tượng của văn hóa
Trung Quốc, và không ít người nghĩ rằng chỉ có cái vú mẹ ấy
(tự lực cánh sinh) là có thể tự mình lớn lên đầy đủ. Nhưng đó
lại là ảo tưởng. Mở đầu Báu vật của đời là cảnh tượng âm
thịnh dương suy, sinh lực mẹ dồi dào mà người cha bất lực.
Cha con Thượng Quan đều bé nhỏ gầy yếu và đã chết dưới mũi
súng của quân Nhật. Lỗ Thị sinh bảy người con gái, mỗi người
có cha riêng, nhưng đều không phải giống của Thượng Quan.
Sau khi gặp nạn được cha cố Maloa cứu, rồi có tình cảm quan
hệ tình dục và đẻ sinh đôi ra Kim Đòng, Ngọc nữ, theo “ưu thế
tạp chủng”, điều đó tượng trưng cho giao phối văn hóa Đông
Tây có sức sống mạnh mẽ hơn, có khả năng thoát khỏi bệnh
âm thịnh dương suy hiện tại. Nhưng Kim Đồng lại quá si mê
vú mẹ và si vú nói chung, bú mẹ đến mười mấy tuổi, không cai

được sữa, không biết ăn các thứ khác ngoài sữa, tức chỉ đắm
đuối với văn hóa của dân tộc mình, kết quả, ai cũng thấy, Kim
Đồng đến 42 tuổi vẫn không lớn được thành người, mà chỉ là
phế nhân. Cho dù làm chủ một cửa hàng bán nịt vú nổi tiếng
cuôi cùng cửa hàng cũng rời vào tay kẻ khác. Bản thân anh ta
chỉ là người yếu duối, âm thịnh, thiếu dương, lặp lại số phận
tầm thường của ông bố ngày xưa. Anh ta chỉ là con rận, kí
sinh trùng. Tiểu thuyết kết thúc khi Kim Đồng vào nhà thờ
muốn theo đạo, nhưng không biết chúa là ai. Văn hóa Trung
Quốc chỉ biết thé giới này, thế giới cảm tính, không biết thế
giới bên kia, thế giới siêu hình, thiếu trí, thiếu dũng. Đó là
nhận xét của Đặng Hiểu Mang mà Mạc Ngôn tán thành.
Tiểu thuyết Báu vật của đời cho thấy hệ thống giá trị văn học
đã thay đổi, đa nguyên hơn, đa diện hơn, không một chiều
như trước. Phê bình cũ với hệ giá trị một chiều không đủ sức
nâng đỡ các sáng tác mới, các thành tựu mới, nó chỉ là một
sức mạnh phá hoại, cản trở mà văn học muốn tiến tới bắt buộc
phải vượt qua. Mạc Ngôn đã bỏ xa phương pháp sáng tác hiện
thực xã hội chủ nghĩa, bỏ xa truyền thống tiểu thuyết lịch sử
cách mạng. Sáng tác văn học là sáng tạo một diễn ngôn, một
huyền thoại, một biểu tượng đa nghĩa, và nhờ thế, tác phẩm
của ông xứng đáng với giải Nobel năm 2012. Mỗi tác phẩm
được giải lớn phải là tác phẩm mở ra một con đường mới, bỏ
xa con đường cũ. Thiếu một hệ giá trị rộng mở, văn học thiếu
không gian để phát triển.

×