Tải bản đầy đủ (.doc) (63 trang)

định hướng sử dụng đất huyện sơn động đến năm 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (407.34 KB, 63 trang )

ĐHSDĐ Nông Lâm Nghiệp Huyện Sơn Động đến năm 2010
đặt vấn đề
Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam chương II điều
17-18 quy định: “Đất đai là nguồn tài nguyên vô cùng qúy giá, là tư liệu sản
xuất đặc biệt không thể thay thế được của các nghành nông lâm nghiệp, là
thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bố dân
cư, xây dựng các công trình kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng”.
Đất đai là điều kiện vật chất chung nhất đối với mọi ngành sản xuất và
hoạt động của con người, vừa là đối tượng lao động (cho môi trường để tác
động như: xây dựng nhà xưởng, bổ trí máy móc, làm đất v ), vừa là phương
tiện lao động( cho công nhân đứng, dùng để gieo trồng, nuôi gia sóc v ).
ngoài ra với tầm quan trọng đặc biệt, sự hạn chế về số lượng và tính không
đồng nhất, tính không thay thế mà nhu cầu về đất đai của xã hội ngày một
cao.
Sử dụng hợp lý đất đai là vấn đề phức tạp chịu ảnh hưởng của nhiều
yếu tố quan trọng khác nhau, về thực chất đây là vấn đề kinh tế liên quan đến
toàn bộ nền kinh tế quốc dân. nhiệm vụ đặt ra là phải sử dụng tối đa qũy đất
quốc gia để phục vụ phát triển nền kinh tế xã hội dựa trên nguyên tắc ưu tiên
phát triển nông nghiệp là chính.
Từ đó tôi chọn vấn đề : “Sử dụng đất đai Nông-Lâm nghiệp của huyện
Sơn Động-Bắc Giang” làm đề tài luận văn tốt nghiệp.
I/. Mục đích và yêu cầu của đề tài.
- Làm rõ cơ sở lý luận của vấn đề sử dụng hợp lý đất đai, đặc biệt là đất
Nông-Lâm nghiệp ở một huyện miền núi
- Đánh giá hiện trạng sử dụng đất làm cở sở cho các phương thức
sử dụng đất có hiệu quả bảo vệ đất và bảo vệ môi trường ở huyện Sơn
Động, tỉnh Bắc Giang.
II/. Các phương pháp nghiên cứu.
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên đây, luận văn sử dụng các
phương pháp sau.
a. Điều tra khảo sát.


Sử dụng phương pháp điều tra khảo sát để thu thập các trữ liệu, số liệu,
bản đổ hiện trạng phản ánh tình hình sử dụng đất. điều tra khả năng có thể
mở rộng diện tích đất nông – Lâm nghiệp của huyện và việc bố trí cơ cấu cây
trồng, vật nuôi trên mỗi khu vực, địa bàn dân cư,
b. Phân tích định tính.
Phân tích định tính là việc phán đoán mối quan hệ tương hỗ giữa phát
triển KTXH với sử dụng đất trên cơ sở các tư liệu được điều tra và xử lý.
Phân tích định tính, định lượng dựa trên phương pháp số học để lượng hoá
mối quan hệ tương hỗ giữa sử dụng đất với phát triển KTXH.
Nguyễn Công Sánh Lớp KTQL Địa Chính K39
- 1 -
ĐHSDĐ Nông Lâm Nghiệp Huyện Sơn Động đến năm 2010
Hướng chung nhất của phương pháp nghiên cứu là phương pháp duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử.
c. Phương pháp toán kinh tế .
d. Phương pháp thống kê.
e. Phương pháp bản đồ.
III. đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Nghiên cứu tình hình sử dụng đất Nông – Lâm nghiệp có rừng tại huyện
Sơn Động tỉnh Bắc Giang từ năm 1995 đến nay và định hướng bố tri sử dụng
đất đai của huyện thời kỳ 2000-2010.
Nội dung nghiên cứu và kết cấu luận án.
Luận án gồm lời nói đầu, ba chương và kết luận.
Lời nói đầu
Nguyễn Công Sánh Lớp KTQL Địa Chính K39
- 2 -
ĐHSDĐ Nông Lâm Nghiệp Huyện Sơn Động đến năm 2010
CHương i
Nguyễn Công Sánh Lớp KTQL Địa Chính K39
- 3 -

ĐHSDĐ Nông Lâm Nghiệp Huyện Sơn Động đến năm 2010
CƠ SỞ KHOA HỌC VÀ SỬ DỤNG HỢP LÝ ĐẤT ĐAI.
I/. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH SỬ DỤNG ĐẤT ĐAI VIỆT NAM.
1. Quỹ đất đai của Việt Nam.
Nước ta có diện tích tự nhiên 32.924.000 ha (Số liệu năm2000) và
đang được sử dụng như sau :
Tổng diện tích tự nhiên: 32.924.000ha (100%)
Trong đó :
Đất nông nghiệp: 9.345.000 ha chiếm 28,38% tổng diện tích tự nhiên.
Đất chuyên dùng: 1.533.000 ha chiếm 4,66% tổng diện tích tự nhiên.
Đất lâm nghiệp: 11.550.000 ha chiếm 35,08% tổng diện tích tự nhiên.
Đất ở: 433.000 ha chiếm 1,35% tổng diện tích tự nhiên.
Đất chưa sử dụng: 9.309.000ha chiếm 28,27% tổng diện tích tự nhiên.
(Theo báo cáo kết quả tổng điều tra đất năm 2000)
Đất đai là loại tài nguyên không tái tạo và nằm trong nhóm tài nguyên
hạn chế của Việt Nam. Do đặc điểm "Đất chật người đông” bình quân đất
nông nghiệp trên đầu ngươì chỉ có 1.074 m
2
, với 80% dân số sống ở nông
thôn nên bình quân đất nông nghiệp trên một lao động nông nghiệp chỉ gần
3 345 m
2
. Hiện nay nước ta vẫn còn thuộc nhóm 40 nước có nền kinh tế kém
phát triển vì vậy đặc điểm hạn chế về đất đai càng thể hiện rõ và đòi hỏi việc
sử dụng đất đai phải dựa trên những cơ sở khoa học .
Sử dụng đất đai một cách khoa học, hợp lý là nhiệm vụ mang tính cấp
bách lâu dài của nước ta. Trong thực tế, một thời gian dài việc sử dụng đất
đai khoa học, hợp lý chủ yếu hướng về đất nông nghiệp và từng thời kỳ được
thực hiện một cách phiến diện. Có thời kỳ chủ yếu hướng vào việc sử dụng
đất canh tác với mục tiêu tự túc lương thực theo lãnh thổ hành chính bằng

mọi giá, đôi khi trọng tâm lại hướng vào đổi mới cơ cấu diện tích gieo trồng
với mục tiêu hiệu quả, kinh tế Trong khi đó sử dụng hợp lý đất đai là vấn
đề phức tạp, chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố quan trọng khác nhau, về thực
chất đây là vấn đề kinh tế liên quan đến toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Nhiệm
vụ đặt ra là sử dụng tối đa quỹ đất quốc gia để phục vụ phát triển nền kinh tế
quốc dân và xã hội ,dựa trên nguyên tắc ưu tiên đất đai cho sản xuất nông
nghiệp.
2. Vai trò và ý nghĩa của đất đai trong sản xuất của xã hội
"Đất đai" về một thuật ngữ khoa học được hiểu theo nghĩa rộng như
sau: "Đất đai là một diện tích cụ thể của bề mặt trái đất, bao gồm tất cả các
cấu thành của môi trường sinh thái ngay trên và dưới bề mặt đó bao gồm khí
hậu bề mặt, thổ nhưỡng, dạng địa hình, mặt nước (sông, hồ, suối, đầm, lầy )
các lớp trầm tích sát bề mặt cùng với nước ngầm và khoáng sản trong lòng
Nguyễn Công Sánh Lớp KTQL Địa Chính K39
- 4 -
ĐHSDĐ Nông Lâm Nghiệp Huyện Sơn Động đến năm 2010
đất, tập đoàn thực vật và động vật, trạng thái định cư của con người, những
kết quả của con người trong quá khứ và hiện tại để lại (san nền, hồ chứa
nước hay hệ thống tiêu thoát nước, đường xá, nhà cửa ).
Các chức năng của đất đai đối với hoạt động sản xuất và sinh tồn của
xã hội loài người được thể hiện qua các mặt sau: Sản xuất, môi trường, cân
bằng sinh thái, tàng trữ và cung cấp nguồn nước, dự trữ, không gian sự sống
bảo tồn, bảo tàng sự sống, vật mang sự sống.
Luật đất đai 1993 của nước CHXHCNVN đã khẳng định đất đai: Là tài
nguyên quốc gia vô cùng quý giá; Là tư liệu sản xuất đặc biệt; Là thành phần
quan trọng hàng đầu của môi trường sống; Là địa bàn phân bố các khu dân
cư, xây dựng các cơ sổ kinh tế, văn hoá xã hội, an ninh - quốc phòng.
Thực vậy, trong các điều kiện vật chất cần thiết, đất đai giữ vị trí và có
ý nghĩa đặc biệt quan trọng, là điều kiện đầu tiên, là cơ sở thiên nhiên của
mọi quá trình sản xuất, là nơi tìm đươc công cụ lao động, nguyên liệu lao

động và nơi sinh tồn của xã hội loài người.
Đất đai là điều kiện chung đối với mọi quá trình sản xuất trong các
ngành kinh tế quốc dân và họat động của con người. Điều này có nghĩa là
thiếu khoảng đất thì không một ngành nào, xí nghiệp nào có thể bắt đầu công
việc và hoạt động được. Nói cách khác không có đất sẽ không có sản xuất
cũng như không có sự tồn tại của chính con người.
Tuy nhiên, vai trò của đất đai đối với từng ngành rất khác nhau.
- Đối với các ngành không phải là nông, lâm nghiệp.
Đất đai giữ vai trò thụ động với chức năng là cơ sở không gian và vị
trí để hoàn thiện quá trình lao đông, là khoảng dự trữ trong lòng đất. Quá
trình sản xuất và sản phẩm được tạo ra không phụ thuộc vào đặc điểm, độ phì
nhiêu của đất, chất lượng thảm thực vật và các tính chất tự nhiên sẵn có
trong đất.
- Đối với các ngành nông, lâm nghiệp.
Đất đai là yếu tố tích cực của quá trình sản xuất là điều kiện vật chất
cơ sở không gian, đồng thời là đối tượng lao động và công cụ lao động. Quá
trình sản xuất nông - lâm nghiệp luôn liên quan chặt chẽ với độ phì nhiêu và
quá trình sinh học tự nhiên của đất.
3. Những nhân tố ảnh hưởng tới việc sử dụng đất.
Phạm vi sử dụng đất, cơ cấu và phương thức sử dụng đất một mặt bị
sự chi phối bởi các điều kiện tự nhiên và các quy luật sinh thái tự nhiên, mặt
khác bị kiềm chế bởi các điều kiện quy luật kinh tế - xã hội và các yếu tố kỹ
thuật. Vì vậy, có thể khái quát những điều kiện và nhân tố ảnh hưởng đến
viêc sử dụng đất theo 3 nhóm nhân tố sau:
3.1. Nhân tố tự nhiên: Khi sử dụng đất đai ngoài bề mặt không gian,
cần chú ý tới việc thích ứng với điều kiện tự nhiên và quy luật sinh thái tự
nhiên của đất cũng như của các yếu tố bao quanh mặt đất. Trong nhân tố điều
kiện tự nhiên, điều kiện khí hậu là nhân tố hạn chế hàng đầu của việc sử
Nguyễn Công Sánh Lớp KTQL Địa Chính K39
- 5 -

ĐHSDĐ Nông Lâm Nghiệp Huyện Sơn Động đến năm 2010
dụng đất đai, sau đó là điều kiện đất đai (chủ yếu là địa hình, thổ nhưỡng) và
các nhân tố khác.
a. Điều kiện khí hậu: Các yếu tố khí hậu ảnh hưởng rất lớn, trực tiếp
đến sản xuất nông nghiệp và điều kiện sinh hoạt của con người. Tổng tích ôn
nhiều hoặc Ýt, nhiệt độ bình quân cao hoặc thấp, sự sai khác nhiệt độ về thời
gian và không gian, sù sai khác về nhiệt độ tối cao và tối thấp, trực tiếp ảnh
hưởng đến sự phân bố, sinh trưởng và phát dục của cây trồng, cây rừng và
thực vật thuỷ sinh Cường độ ánh sáng mạnh hay yếu, thời gian chiếu sáng
dài hay ngắn cũng là tác dụng ức chế đối với sinh trưởng, phát dục và phát
triển của cây trồng. Chế độ nước vừa là điều kiện quan trọng để cây trồng
vận chuyển dinh dưỡng, vừa là vật chất giúp cho sinh vật sinh trưởng và phát
triển. Lượng mưa nhiều hay Ýt, bốc hơi mạnh hay yếu, có ý nghĩa quan trọng
trong việc giữ nhiệt độ và độ Èm của đất, cũng như khả năng đảm bảo cung
cấp nước cho sinh trưởng của cây trồng, cây rừng, gia sóc
b. Điều kiện đất đai (địa hình và thổ nhưỡng): Sự sai khác giữa địa
hình, địa mạo, độ cao so với mặt nước biển, độ dốc và hướng dốc, sự bào
mòn mặt đất và mức độ xói mòn thường dẫn tới sự khác nhau về đất đai và
khí hậu, từ đó ảnh hưởng đến sản xuất và phân bố các ngành nông nghiệp,
lâm nghiệp. Địa hình và độ dốc ảnh hưởng đến phương thức sử dụng đất
nông nghiệp, đặt ra yêu cầu xây dựng đồng ruộng để thuỷ lợi hoá và cơ giới
hoá. Đối với đất phi nông nghiệp, địa hình phức tạp sẽ ảnh hưởng tới giá trị
công trình và gây khó khăn cho thi công. Điều kiện thổ nhưỡng quyết định
rất lớn đến hiệu quả sản xuất nông nghiệp. Độ phì của đất là tiêu chí quan
trọng về sản lượng cao hay thấp, độ dày tầng đất và diện tích đất có ảnh
hưởng lớn đối với sinh trưởng của cây trồng.
Đặc thù của nhân tố điều kiện tự nhiên mang tính khu vực, vị trí địa lý
cùng với sự khác biệt về điều kiện ánh sáng, nhiệt độ, nguồn nước và các
điều kiện tự nhiên khác sẽ quyết định đến khả năng, công dụng và hiệu quả
sử dụng đất. Vì trong thực tiễn sử dụng đất cần tuân thủ quy luật tự nhiên,

tận dụng các lợi thế nhằm đạt các lợi Ých cao nhất về xã hội, môi trường và
kinh tế. Tình trạng phổ biến hiện nay là nhiều địa phương sử dụng đất chưa
hợp lí, đặc biệt là trong công cuộc đổi mới, một số địa phương đã sử dụng đất
nông nghiệp để phát triển, mở rộng khu công nghiệp, khu kinh tế, xây dựng
và phát triển đô thị một cách tràn lan, thiếu tính toán, nhiều nơi dành đất rồi
để đấy không sử dụng, gây lãng phí đất canh tác, phá hoại môi trường.
3.2. Nhân tố kinh tế xã hội :
Bao gồm các yếu tố như: Chế độ xã hội, dân số và lao động, thông tin,
quản lý, chính sách môi trường và chính sách đất đai, yêu cầu quốc phòng,
sức sản xuất trình độ phát triển của kinh tế hàng hoá, cơ cấu kinh tế và phân
bố sản xuất, các điều kiện về công nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp, giao
thông vận tải, sự phát triển của khoa học kỹ thuật trình độ quản lý, sử dụng
lao động, điều kiện và trang thiết bị vật chất cho công tác phát triển nguồn
nhân lực đưa khoa học kỹ thuật vào sản xuất
Nhân tè kinh tế - xã hội thường có ý nghĩa quyết định, chủ đạo đối với
việc sử dụng đất đai. Thực vậy, phương hướng sử dụng đất được quyết định
Nguyễn Công Sánh Lớp KTQL Địa Chính K39
- 6 -
ĐHSDĐ Nông Lâm Nghiệp Huyện Sơn Động đến năm 2010
bởi yêu cầu của xã hội và mục tiêu kinh tế trong từng thời kỳ nhất định. Điều
kiện tự nhiên của đất đai cho phép xác định khả năng thích ứng và phương
thức sử dụng đất. Còn sử dụng đất như thế nào, được quyết định bởi sự năng
động của con người và các điều kiện kinh tế - xã hội kỹ thuật hiện có; Quyết
định bởi tính hợp lý, tính khả thi về kinh tế, kỹ thuật và mức độ đáp ứng của
chúng; Quyết định bởi nhu cầu thị trường
Trong một vùng hoặc trên phạm vi một nước, điều kiện vật chất tự
nhiên của đất đai thường có sự khác biệt không lớn, về cơ bản là giống nhau.
Như điều kiện kinh tế - xã hôị khác nhau dẫn đến tình trạng có vùng đất
được khai thác triệt để từ lâu đời và đã đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội rất
cao; Có nơi thì bỏ hoang hoá hoặc khai thác với hiệu quả rất thấp có thể

nhận thấy, điều kiện tự nhiên của đất đai chỉ là một tồn tại khách quan, khai
thác, sử dụng đất đai vẫn do con người quyết định. Cho dù điều kiện tự nhiên
có nhiều lợi thế, nhưng các điều kiện xã hội, kinh tế, kỹ thuật không tương
ứng, thì ưu thế tài nguyên cũng khó có thể trở thành sức sản xuất hiện thực,
cũng như chuyển hoá thành ưu thế kinh tế. Ngược lại, khi điều kiện kinh tế,
kỹ thuật được ứng dụng vào khai thác sử dụng sẽ phát huy tiềm lực sản xuất
của đất, đồng thời góp phần cải tạo điều kiện môi trường tự nhiên, biến điều
kiện tự nhiên từ bất lợi thành điều kiện có lợi cho phát triển kinh tế - xã hội.
Chế độ sở hữu tư liệu sản xuất và chế độ kinh tế - xã hội khác nhau đã
tác động đến việc quản lý của xã hội về quản lý đất đai, khống chế phương
thức và hiệu quả sử dụng đất. Trình độ phát triển xã hội và kinh tế khác nhau
dẫn đến trình độ sử dụng đất khác nhau. Nền kinh tế và các ngành càng phát
triển, yêu cầu về đất đai sẽ càng lớn, lượng vật chất dành cho việc sử dụng
đất càng được tăng cường, năng lực sử dụng đất của con người sẽ được nâng
cao.
Ảnh hưởng của điều kiện kinh tế đến việc sử dụng đất được đánh giá
bằng hiệu quả sử dụng đất. Thực trạng sử dụng đất liên quan đến lợi Ých
kinh tế của người sở hữu sử dụng và kinh doanh đất đai. Trong điều kiện nền
kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đất được dùng cho việc
xây dựng cơ sở hạ tầng đều dựa trên nguyên tắc hạch toán kinh tế, thông qua
việc tính toán hiệu quả kinh doanh sản xuất. Tuy nhiên, nếu có chính sách ưu
đãi sẽ tạo điều kiện cải thiện và hạn chế việc sử dụng theo kiểu bóc lột đất
đai. Mặt khác, sự quan tâm quá mức đến lợi nhuận tối đa, cũng dẫn đến tình
trạng đất đai bị sử dụng không hợp lý, thậm trí huỷ hoại đất đai.
Từ các vấn đề nêu trên cho thấy, các nhân tố điều kiện tự nhiên và
điều kiện kinh tế - xã hội tạo ra nhiều tổ hợp ảnh hưởng đến việc sử dụng đất
đai. Tuy nhiên mỗi nhân tố giữ vị trí và có vai trò tác động khác nhau. Trong
đó điều kiện tự nhiên là nhân tố cơ bản để xác định công dụng của đất đai có
ảnh hưởng trực tiếp, cụ thể và sâu sắc, nhất là đối với sản xuất nông nghiệp.
Điều kiện xã hội tạo ra khả năng khác nhau cho các yếu tố kinh tế và tự

nhiên tác động tới việc sử dụng đất. Vì vậy cần phải dựa vào quy luật tự
nhiên và quy luật kinh tế - xã hội để nghiên cứu, xử lý mối quan hệ giữa các
nhân tố tự nhiên, kinh tế - xã hội trong lĩnh vực sử dụng đất đai. Căn cứ vào
yêu cầu của thị trường và của xã hội, xác định mục đích sử dụng đất, kết hợp
chặt chẽ yêu cầu sử dụng đất với ưu thế tài nguyên của đất, để đạt tới cơ cấu
Nguyễn Công Sánh Lớp KTQL Địa Chính K39
- 7 -
ĐHSDĐ Nông Lâm Nghiệp Huyện Sơn Động đến năm 2010
tổng thể hợp lý nhất, với diện tích đất đai có hạn sẽ mang lại hiệu quả kinh
tế, hiệu quả xã hội ngày càng cao và sử dụng đất đai được bền vững.
3.3. nhóm nhân tố kỹ thuật và ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào việc
khai thác, cải tạo bồi dưỡng đất đai.
4. Xu thế phát triển sử dụng đất
4.1. Sử dụng đất phát triển theo chiều rộng và tập trung: Lịch sử
phát triển loài người cũng chính là lịch sử của quá trình sử dụng đất. Khi con
người còn sống bằng phương thức săn bắn và hái lượm chủ yếu dựa vào sự
ban phát của tự nhiên và thích ứng với tự nhiên để tồn tại vấn đề sử dụng đất
hầu như không tồn tại. Thời kỳ du mục con người sống trong lều cỏ những
vùng đất có nước và đồng cỏ bắt đầu được sử dụng. Khi xuất hiện ngành
trồng trọt với những công cụ sản xuất thô sơ diện tích đất đai được sử dụng
tăng lên nhanh chóng, năng lực sử dụng và ý nghĩa kinh tế của đất đai cũng
gia tăng. Tuy nhiên trình độ sử dụng vẫn còn rất thấp phạm vi sử dụng cũng
rất hạn chế mang tính kinh doanh thô, đất khai phá nhiều nhưng thu nhập rất
thấp. Với sự tăng trưởng của dân số và phát triển của kinh tế kỹ thuật văn
hoá và khoa học quy mô phạm vi và chiều sâu của việc sử dụng đất ngày một
nâng cao yêu cầu sinh hoạt vật chất và tinh thần của người dân ngày một
nâng cao các nghành nghề cũng phát triển theo xu hướng phức tạp và đa
dạng dần phạm vi sử dụng đất càng mở rộng.
Cùng với việc phát triển sử dụng đất theo không gian trình độ tập
trung cũng sâu hơn. Đất canh tác cũng như đất sử dụng vào các mục đích

khác đều được phát triển theo hướng kinh doanh tập trung với diện tích đất
Ýt nhưng hiệu quả sử dụng cao.
Tuy nhiên thời kỳ quá độ chuyển từ kinh doanh quảng canh sang kinh
doanh thâm canh cao trong sử dụng đất là một quá trình lâu dài. Để nâng cao
sức sản xuất và sức tải của một đơn vị diện tích đòi hỏi phải liên tục nâng
mức đầu tư về vốn và lao động thường xuyên cải tiến kỹ thuật và công tác
quản lý. ở những khu vực khác nhau của một vùng hoặc một quốc gia do có
sự khác nhau về trình độ phát triển kinh tế kỹ thuật cũng như các điều kiện
đặc thù, do đó phải áp dụng linh hoạt sáng tạo nhiều phương thức tuỳ từng
thời điểm khác nhau.
4.2. Cơ cấu sử dụng đất phát triển theo hướng phức tạp hoá và
chuyên môn hoá.
Khoa học kỹ thuật và kinh tế của xã hội phát triển, sử dụng đất đai từ
hình thức quảng canh chuyển sang thâm canh đã kéo theo xu thế từng bước
phức tạp hoá và chuyên môn hoá cơ cấu sử dụng đất.
Thực tế cho thấy khi kinh tế phát triển nhu cầu của con người về vật
chất văn hoá tinh thần và môi trường ngày một nâng cao sẽ trực tiếp hoặc
gián tiếp đòi hỏi yêu cầu cao hơn đối với đất đai. ở thời kỳ mức sống còn
thấp việc sử dụng đất chủ yếu tập trung vào sản xuất nông nghiệp nhằm giải
quyết vấn đề thường nhật của cuộc sống là đủ cơm ăn áo mặc và chỗ ở. Khi
Nguyễn Công Sánh Lớp KTQL Địa Chính K39
- 8 -
ĐHSDĐ Nông Lâm Nghiệp Huyện Sơn Động đến năm 2010
đời sống nâng cao, chuyển sang giai đoạn hưởng thụ, sử dụng đất ngoài việc
sản xuất vật chất phải thoả mãn được nhu cầu vui chơi, giải trí, văn hoá thể
thao và môi trường trong sạch đã làm cho cơ cấu sử dụng đất phức tạp hơn.
Tiến bé khoa học kỹ thuật đã cho phép mở rộng khả năng kiểm soát tự
nhiên của con người, áp dụng các biện pháp bồi bổ và cải tạo sẽ nâng cao sức
sản xuất của đất đai, thoả mãn các loại nhu cầu của xã hội. Trước đây việc sử
dụng đất rất hạn chế trong kinh tế và khoa học kỹ thuật còn ở trình độ thấp,

chủ yếu sử dụng bề mặt đất đai, nông nghiệp thì độc canh, đất lâm nghiệp,
đồng cỏ mặt nước Ýt được khai thác. Khi khoa học kỹ thuật hiện đại phát
triển, ngay cả đất xấu cũng được khai thác triệt để, hình thức sử dụng đa
dạng, ruộng nước phát triển đã làm cho nội dung sử dụng đất ngày một phức
tạp hơn theo hướng sử dụng toàn diện, triệt để các chất dinh dưỡng, sức tải,
vật chất cấu thành và sản phẩm của đất đai để phục vụ con người.
Hiện đại hoá nÒn kinh tế quốc dân vào phát triển kinh tế hàng hoá dẫn
đến sự phân công trong sử dụng đất theo hướng chuyên môn hoá. Do đất đai
có đặc tính khu vực mạnh, sự sai khác về ưu thế tài nguyên hết sức rõ rệt,
phương hướng và biện pháp sử dụng đất của các vùng rÊt khác nhau. Để sử
dụng hợp lý đất đai, đạt được sản lượng và hiệu quả kinh tế cao nhất cần có
sự phân công và chuyên môn hoá theo khu vực. Cùng với việc đầu tư, trang
bị và ứng dụng các công cụ kỹ thuật, công cụ quản lý hiện đại sẽ nảy sinh
yêu cầu phát triển các vùng sản xuất nông nghiệp có quy mô lớn và tập
trung, đồng thời cũng hình thành các khu vực chuyên môn hoá sử dụng đất
khác nhau về quy mô và diện tích.
4.3. Sử dụng đất đai phát triển theo hướng xã hội hoá và công hữu
hoá.
Sự phát triển của khoa học kỹ thuật và xã hội dẫn tới việc xã hội hoá
sản xuất. Mỗi vùng đất thực hiện sản xuất tập trung một loại sản phẩm và hỗ
trợ bổ xung lẫn nhau đã hình thành nên sự phân công hợp tác mang tính xã
hội hoá sản xuất, cũng như xã hội hoá việc sử dụng đất đai.
Đất đai là cơ sở vật chất và công cụ để con người sinh sống và xã hội
tồn tại. Vì vậy việc chuyên môn hoá theo yêu cầu xã hội hoá sản xuất phải
đáp ứng nhu cầu của xã hội hướng tới lợi Ých cộng đồng và tiến bộ xã hội.
Ngay cả ở chế độ xã hội mà mục tiêu sử dụng đất chủ yếu vì lợi Ých tư nhân,
những vùng đất đai hướng dụng cộng đồng: Nguồn nước, núi rừng, khoáng
sản, sông ngòi vẫn cần có những quy định về chính sách thực thi hoặc tiến
hành công quản, kinh doanh của nhà nước nhằm ngăn chặn, phòng ngừa
việc tư hữu tạo nên những mâu thuẫn gay gắt của xã hội.

Xã hội hoá sử dụng đất đai là sản phẩm tất yếu và là yêu cầu khách
quan của sự phát triển xã hội hoá sản xuất. Vì vậy xã hội hoá sử dụng đất và
công hữu hoá là xu thế tất yếu. Muốn kinh tế phát triÓn và thúc đẩy xã hội
sản xuất cao hơn, cần phải thực hiện xã hội hoá và công hữu hoá sử dụng đất.
II/. VAI TRÒ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC TRONG QUÁ TRÌNH SỬ DỤNG ĐẤT ĐAI.
Nguyễn Công Sánh Lớp KTQL Địa Chính K39
- 9 -
ĐHSDĐ Nông Lâm Nghiệp Huyện Sơn Động đến năm 2010
1. Quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất.
'Quy hoạch và kế hoạch ' là việc xác định của một trật tự nhất định
bằng những hoạt động như: Phân bố, bố trí, sắp xếp, tổ chức 'Đất đai' là một
phần lãnh thổ nhất định (vùng đất, khoảnh đât, mảnh đất ) có vị trí, hình
thể, diện tích với những tính chất tự nhiên đặc điểm tạo thành (đặc tính thổ
nhưỡng, địa hình, địa chất, thuỷ văn ), tạo ra những điều kiện nhất định cho
việc sử dụng theo các mục đích khác nhau. Như vậy, để sử dụng đất cần phải
làm quy hoạch và kế hoạch đây là quá trình nghiên cứu, lao động sáng tạo
nhằm xác định ý nghĩa mục đích của từng phần lãnh thổ và đề xuất một trật
tự sử dụng nhất định.
Về mặt bản chất cần được xác định dựa trên quan điểm nhận thức: Đất
đai là đối tượng của các mối quan hệ sản xuất trong lĩnh vực sử dụng đất đai
(gọi là các mối quan hệ đất đai) và việc tổ chức sử dụng đất như: ("Tư liệu
sản xuất đặc biệt" gắn chặt với phát triển kinh tế - xã hội). Như vậy quy
hoạch và kế hoạch sử dụng đất đai sẽ là một hiện tượng kinh tế - xã hội thể
hiện đồng thời 3 tính chất: Kinh tế, kỹ thuật và pháp chế.
Trong đó cần tìm hiểu:
- Tính kinh tế: Thể hiện bằng hiệu quả sử dụng đất đai.
- Tính kỹ thuật: Bao gồm các tác nghiệp chuyên môn kỹ thuật như:
Điều tra, khảo sát, xây dựng bản đồ, khoanh định, xử lý số liệu
- Tính pháp chế: Xác nhận tính pháp lý về mục đích và quyền sử dụng
đất theo định hướng nhằm đảm bảo sử dụng và quản lý đất đai đúng pháp

luật.
Từ đó có thể tạm đưa ra khái niệm: "Quy hoạch và kế hoạch sử dụng
đất đai là hệ thống các biện pháp kinh tế, kỹ thuật và pháp chế của Nhà
nước về tổ chức sử dụng và quản lý đất đai đầy đủ, hợp lý, khoa học và
có hiệu quả cao nhất thông qua việc phân bổ quỹ đất đai và tổ chức sử
dụng đất đai như một tư liệu sản xuất, nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất
của xã hội, tạo điều kiện bảo vệ đất đai và môi trường".
Trong đó:
+ Tính đầy đủ: Mọi loại đất đều được đưa vào sử dụng theo mục đích
nhất định.
+ Tính hợp lý: Đặc điểm tính chất tự nhiên, vị trí, diện tích, phù hợp
với yêu cầu và mục đích sử dụng.
+ Tính khoa học: áp dụng thành tựu khoa học - kỹ thuật và các biện
pháp tiên tiến.
+ Tính hiệu quả: Đáp ứng đồng bộ cả 3 lợi Ých kinh tế - xã hội - môi
trường.
Nguyễn Công Sánh Lớp KTQL Địa Chính K39
- 10 -
ĐHSDĐ Nông Lâm Nghiệp Huyện Sơn Động đến năm 2010
Như vậy, về thực chất quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất đai là quá
trình hình thành các quyết định nhằm tạo điều kiện đưa đất đai vào sử dụng
bền vững để mang lại lợi Ých cao nhất, thực hiện đồng thời hai chức năng:
Điều chỉnh các mối quan hệ đất đai và tổ chức sử dụng đất như tư liệu sản
xuất đặc biệt với mục đích nâng cao hiệu quả sản xuất của xã hội kết hợp bảo
vệ đất và môi trường.
Từ những phân tích nêu trên cho thấy việc định hướng sử dụng đất đai
có ý nghĩa đặc biệt quan trọng không chỉ cho trước mắt và cả lâu dài. Căn cứ
vào đặc điểm điều kiện tự nhiên, phương hướng, nhiệm vụ và mục tiêu phát
triển kinh tế - xã hội của mỗi vùng lãnh thổ, định hướng sử dụng đất đai được
tiến hành nhằm định hướng cho các cấp, các ngành trên địa bàn, lập định

hướng và kế hoạch sử dụng đất đai chi tiết của mình; Xác lập sự ổn định về
mặt pháp lý cho công tác quản lý Nhà nước về đất đai; Làm cơ sở để tiến
hành giao cấp đất và đầu tư để phát triển sản xuất, đảm bảo an toàn lương
thực, phục vụ các nhu cầu dân sinh, văn hoá - xã hội.
Mặt khác, quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai còn là biện pháp hữu
hiệu của Nhà nước nhằm tổ chức lại việc sử dụng đất đai theo đúng mục
đích, hạn chế sự chồng chéo gây lãng phí đất đai, tránh tình trạng chuyển
mục đích tuỳ tiện, làm giảm sút nghiêm trọng quỹ đất nông, lâm nghiệp;
Ngăn chặn các hiện tượng tiêu cực, tranh chấp, lấn chiếm huỷ hoại đất, phá
vỡ cân bằng sinh thái, gây ô nhiễm môi trường dẫn đến sự tổn thất hoặc kìm
hãm sản xuất, phát triển kinh tế - xã hội và các hậu quả khó lường về tình
hình bất ổn định chính trị, an ninh quốc phòng ở từng địa phương, đặc biệt là
trong giai đoạn chuyển sang nền kinh tế thị trường.
2. Chế độ đất đai.
- Chế độ sở hữu đất đai:
Xét về nguồn gốc , đất đai là sản phẩm của tự nhiên có trước lao
động và do vậy là tài sản chung của xã hội. Trong quá trình vận động, đất đai
trở thành tư liệu sản xuất đặc biệt, một yếu tố hết sức quan trọng cho các quá
trình sản xuất, cho các hoạt động kinh tế xã hội. Xuất phát từ đặc điểm đất
đai, chế độ sở hữu đất đai cũng có những đặc thù riêng. Dưới các chế độ
phong kiến và tư bản , đại bộ phận đất đai thuộc sở hữu tư nhân, cho nên
pháp luật chủ yếu nhằm duy trị bảo vệ quyền lợi sở hữu tư nhân đối với đất
đai. ở nước ta, quá trình chuỷển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập chung
sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước đã và đang đặt ra một
yêu cầu khách qua là phải xây dựng và hoàn thiện chế độ sở hữu đất đai cho
phù hợp với cơ chế mới. Nhà nước ta là chủ thể đặc biệt của quyền sở hữu
đất đai. đất đai trên toàn bộ lãnh thổ của cả nước thuộc quyền sở hữu Nhà
nước. Trên cơ sở đó Nhà nước vừa là chủ thể quyền sở hữu , vừa là chủ thể
quản lý đối với đất đai.
- Chế độ sử dụng đất đai.

Chế độ sử dụng đất đai là một chế định quan trọng của Luật đất đai.
Nó bao gồm các quy phạm pháp luật quy định và bảo vệ quyền và nghía vụ
Nguyễn Công Sánh Lớp KTQL Địa Chính K39
- 11 -
ĐHSDĐ Nông Lâm Nghiệp Huyện Sơn Động đến năm 2010
của các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân được Nhà nước giao đất, cho thuê đất
để sử dụng. Nhà nước là chủ sử hữu toàn bộ đất đai trên phạm vi cả nước, có
quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt đất đai. Tuy nhiên, đất
đai là tư liệu sản xuất đặc biệt, trên thực tế Nhà nước không trực tiếp sử dụng
đất mà giao một phần đất đai cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trong qua
trình sử dụng đất đai. điều đó một mặt thể hiện ý chí của Nhà nước đối với
chức năng nắm quyền lực trong tay, ban hành luật pháp, mặt khác biểu hiện
ý chí của Nhà nước với tư cách là người chủ sở hữu đất đai. Thông qua các
quy phạm pháp luật về đất đai. Quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ của
người sử dụng đất đai là cơ sở pháp lý để người sử dụng đất tuân thủ nhằm sử
dụng đất đai hợp pháp, đạt hiệu quả kinh tế cao và tiết kiệm. Chính vì lẽ đó
mà việc hoàn thiện chế độ quản lý sử dụng đất đai là rất cần thiết.
Chế độ quản lý Nhà nước đối với đất đai là toàn bộ các quy phạm pháp
luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình quản lý Nhà
nước đối với đất đai. Các quan hệ xã hội đối với đất đai bao gồm quan hệ về
sở hữu đất đai, quan hệ về sử dụng đất đai, quan hệ về phân phối các sản
phẩm được tạo ra do sử dụng đất.
Chế độ quản lý Nhà nước đối với đất đai được bắt nguồn từ nội dung
quản lý Nhà nước đối với đất đai. Nội dung quản lý Nhà nước đối với đất
đai bao gồm những hoạt động của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để
thực hiện quyền sở hữu của Nhà nước và bảo vệ quyền sở hữu đó về đất đai.
Nó bao gồm các hoạt động của Nhà nước trong việc nắm tình hình sử dụng
đất đai, hoạt động của Nhà nước về việc phân phối và phân phối lại quỹ đất
đai trên cơ sở kế hoạch và quy hoạch đất đai. Các hoạt động của Nhà nước
về kiểm tra, giám sát quá trình sử dụng đất đai. Quá trình hoạt động của các

cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về quản lý đất đai được diễn ra đa dạng
biểu hiện ở những quan hệ giữa các cơ quan Nhà nước với nhau và giữa các
cơ quan Nhà nước đối với các đối tượng sử dụng đất.
CHƯƠNG II: HIỆN TRẠNG SỬ DỤNG ĐẤT NÔNG-LÂM NGHIỆP
CỦA HUYỆN SƠN ĐỘNG TỈNH BẮC GIANG
I. ĐẶC ĐIỂM ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI HUYỆN
SƠN ĐỘNG
1. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN.
a. Vị trí địa lý
Sơn Động là huyện miền núi phía Đông của tỉnh Bắc Giang, có diện
tích tự nhiên 84.432,4 ha, bằng 22,09% diện tích tự nhiên của tỉnh và là
huyện có diện tích tự nhiên lớn thứ 2 trong tỉnh.
Huyện Sơn Động nằm trong tọa độ địa lý:
Từ 106
0
41
/
11
//
đến 107
0
02
/
40
//
kinh độ Đông.
Từ 21
0
08
/

46
//
đến 21
0
30
/
28
//
vĩ độ Bắc.
Phía Bắc giáp tỉnh Lạng Sơn.
Phía Đông và phía Nam giáp tỉnh Quảng Ninh.
Phía Tây giáp huyện Lục Ngạn và Lục Nam - tỉnh Bắc Giang.
Nguyễn Công Sánh Lớp KTQL Địa Chính K39
- 12 -
ĐHSDĐ Nông Lâm Nghiệp Huyện Sơn Động đến năm 2010
Trung tâm huyện lỵ là thị trấn An Châu, nằm trên ngã ba của quốc lộ
31 và quốc lộ 279, cách thị xã Bắc Giang 80 km về phía Đông - Bắc.
Là huyện miền núi nhưng Sơn Động có điều kiện để giao lưu kinh tế,
văn hóa với các huyện khác trong tỉnh, với các tỉnh lân cận và với Trung
Quốc qua cửa khẩu tỉnh Quảng Ninh và Lạng Sơn.
b. Địa hình, địa mạo
Sơn Động có địa hình đặc trưng miền núi, bị chia cắt mạnh, hướng dốc
chính từ Đông Bắc xuống Tây Nam, độ dốc khá lớn, đặc biệt là các xã nằm
ven dãy núi Yên Tử (bình quân trên 25
o
). Huyện có độ cao trung bình 450 m,
cao nhất là đỉnh núi Yên Tử 1.068 m, và các đỉnh Bảo Đài 875 m, Ba Nồi 862 m
( đều thuộc dãy Yên Tử ), thấp nhất là 52 m thuộc khu vực thung lũng sông
Lục Nam. Ngoài ra huyện còn có các cánh đồng nhỏ, hẹp nằm xen kẽ với
những dải đồi núi.

Nhìn chung, Sơn Động nằm trong khu vực núi cao, có đặc điểm địa
hình, địa mạo khá đa dạng, cao hơn các khu vực xung quanh, độ dốc lớn, là
đầu nguồn của sông Lục Nam nên việc khai thác sử dụng đất đai phải gắn với
phát triển rừng, bảo vệ đất, bảo vệ môi trường. Nó có ý nghĩa hết sức quan
trọng đối với sản xuất và đời sống nhân dân trong huyện nói riêng và cả khu
vực hạ lưu nói chung.
c. Khí hậu
Huyện Sơn Động nằm cách bờ biển Quảng Ninh không xa, nhưng do bị
án ngữ bởi dãy núi Yên Tử ở phía Đông nên Sơn Động có đặc điểm khí hậu
lục địa vùng núi. Hàng năm có 4 mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông. Mùa Xuân và
Thu là 2 mùa chuyển tiếp, khí hậu ôn hòa, mùa Hạ nóng và mùa Đông lạnh.
Theo chế độ mưa có thể chia khí hậu của huyện thành 2 mùa:
- Mùa mưa từ tháng 4 đến tháng 9, hướng gió thịnh hành là gió Đông
Nam, nhiệt độ cao nhất trung bình tháng là 32,9
0
C, mưa nhiều, lượng mưa
chiếm 85% lượng mưa cả năm, tập trung vào các tháng 7 và tháng 8 ( trung
bình tháng 8 là 304 mm ).
- Mùa khô từ tháng 10 năm trước đến tháng 3 năm sau, hướng gió thịnh
hành là gió Đông Bắc, nhiệt độ thấp nhất trung bình tháng là 11,6
0
C. Mùa
này lượng mưa Ýt, chiếm 15% của cả năm (tháng 1 lượng mưa trung bình chỉ
đạt 15,2 mm), khí hậu khô hanh, độ Èm thấp, nhiệt độ xuống thấp do ảnh
hưởng của gió mùa Đông Bắc, đã ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và phát triển
của một số cây trồng vật nuôi.
Có thể tóm tắt các nét đặc trưng về khí hậu của Sơn Động như sau:
* Nhiệt độ: Nhiệt độ trung bình hàng năm là 22,6
0
C.

Nhiệt độ trung bình cao nhất: 32,9
0
C.
Nhiệt độ trung bình thấp nhất: 11,6
0
C.
Nhiệt độ thấp tuyệt đối: - 2,8
0
C.
Biên độ nhiệt giữa ngày và đêm không quá cao: từ 6,4
0
C đến 9,9
0
C.
Nguyễn Công Sánh Lớp KTQL Địa Chính K39
- 13 -
ĐHSDĐ Nông Lâm Nghiệp Huyện Sơn Động đến năm 2010
Tổng tích ôn tương đối cao thuận lợi cho việc phát triển nhiều loại cây
trồng, trong năm có thời gian nhiệt độ xuống thấp thích hợp cho phát triển
của một số cây ăn quả nhất là cây vải thiều.
* Lượng mưa: Lượng mưa trung bình cả năm là 1.564 mm, thuộc khu
vực có lượng mưa trung bình trong vùng. Số ngày mưa trung bình trong năm
là 128,5 ngày, những ngày có lượng mưa lớn nhất thuộc mùa mưa, vào tháng
8, đạt 310,6 mm.
* Nắng: Sơn Động nằm trong khu vực có lượng bức xạ trung bình so
với vùng khí hậu nhiệt đới. Số giờ nắng trung bình cả năm là 1.571 giờ, bình
quân số giờ nắng trong ngày đạt 4,3 giờ, tháng có số giờ nắng cao nhất là
tháng 7 (199 giê ), cho phép nhiều loại cây trồng phát triển và trồng được
nhiều vụ trong năm.
* Độ Èm không khí: Độ Èm không khí trung bình cả năm là 81%, các

tháng có độ Èm cao thường rơi vào mùa mưa, cao nhất là tháng 8 (86%), thấp
nhất vào tháng 12 (77%) và tháng 1 (78%).
* Lượng bốc hơi: Lượng bốc hơi trung bình hàng năm 961,2 mm, tháng
có lượng bốc hơi cao nhất là tháng 5 (112,3 mm) và thấp nhất vào tháng 2
(61,8mm).
* Chế độ gió, bão: Huyện nằm trong khu vực chịu ảnh hưởng của gió
mùa, với 2 hướng gió chính: Gió mùa Đông Bắc và gió mùa Đông Nam. Tốc
độ gió trung bình 1,1 m/s. Do nằm trong khu vực che chắn bởi vòng cung
Đông Triều nên huyện Ýt chịu ảnh hưởng của bão.
* Các hiện tượng thời tiết khác:
Sương mù: Số ngày sương mù trung bình hàng năm là 75,9 ngày,
nhiÒu nhất vào các tháng 9 (12,8 ngày) và tháng 10 (14 ngày).
Sương muối: Số ngày có sương muối không đáng kể, trung bình hàng
năm có 1,1 ngày và chỉ rơi vào tháng 12 và tháng 1 năm sau.
Mưa phùn: Số ngày có mưa phùn trung bình hàng năm 16,6 ngày. Đặc
biệt trong các tháng mùa xuân ( khi cây ăn quả ra hoa) số ngày có mưa phùn
không đáng kể ( từ 1-5 ngày), Ýt ảnh hưởng đến sự thụ phấn và kết quả của
cây trồng.
Mưa đá: Theo số liệu quan trắc khí tượng nhiều năm cho thấy trên địa
bàn huyện hầu như không có mưa đá.
(Chi tiết xem biểu 34 - Phần phụ biểu)
Do tác động của các yếu tố địa hình nên Sơn Động được chia thành 3
khu vực khí hậu đặc trưng:
- Khu vực 1: Gồm các xã Yên Định, Long Sơn, Dương Hưu, Bồng Am,
Tuấn Đạo, Thanh Luận và Thanh Sơn. Do ảnh hưởng của dãy Yên Tử nên
mùa mưa trong khu vực thường đến sớm hơn các khu vực khác 20 - 30 ngày.
- Khu vực 2: Gồm các xã Thạch Sơn, Phúc Thắng, Cẩm Đàn, Giáo
Liêm, Chiên Sơn, Quế Sơn, mùa mưa đến muộn và mưa Ýt hơn các vùng
khác.
Nguyễn Công Sánh Lớp KTQL Địa Chính K39

- 14 -
ĐHSDĐ Nông Lâm Nghiệp Huyện Sơn Động đến năm 2010
- Khu vực 3: Gồm Thị trấn, An Châu, An Lập, An Bá, Vân Sơn, Hữu
Sản, An Lạc, Lệ Viễn, Vĩnh Khương, có lượng mưa và độ Èm khá lớn, điều
kiện khí hậu tương đối thuận lợi.
d. Thủy văn
Sơn Động là thượng nguồn của sông Lục Nam. Trên địa bàn huyện có
3 nhánh sông chính gặp nhau ở Cẩm Đàn:
- Sông Cẩm Đàn, bắt nguồn từ khu vực 2 xã Thạch Sơn và Phúc
Thắng, chảy theo hướng Bắc Nam, dài 21 km, qua Yên Định và đổ về sông
chính ở Cẩm Đàn.
- Sông Tuấn Đạo hay còn gọi là sông Thanh Luận, bắt nguồn từ khu
vực 2 xã Thanh Sơn, Thanh Luận, dài 11 km.
- Sông Lục Nam, còn có tên là sông Bè, sông Còng, bắt nguồn từ Hữu
Sản, An Lạc nơi có khu rừng nhiệt đới tự nhiên Khe Rỗ, đây là nguồn sinh
thủy lớn nhất của sông Lục Nam. Nhánh chính chảy trong địa phận Sơn
Động dài khoảng 40 km, từ Khe Rỗ sông chảy theo hướng Đông Bắc - Tây
Nam, đến Lệ Viễn sông đổi theo hướng Đông Tây về Cẩm Đàn gặp các
nhánh sông Thanh Luận, sông Cẩm Đàn rồi sang đất Lục Ngạn.
Nhìn chung mật độ sông suối của huyện khá dày, nhưng đa phần là đầu
nguồn nên lòng sông, suối hẹp, độ dốc lớn, lưu lượng nước hạn chế, đặc biệt
là về mùa khô.
e.Tài nguyên thiên nhiên
* Tài nguyên đất
Tổng diện tích đất tự nhiên của huyện là 84.432,4 ha và có những đặc
điểm chính sau:
- Căn cứ vào nguồn gốc phát sinh, huyện Sơn Động có hai nhóm đất
chính:
+ Nhóm đất địa thành, được phát sinh tại chỗ do sù phong hóa trong
quá trình hình thành đất lâu dài.

+ Nhóm đất thủy thành, được bồi tích trong quá trình bồi tụ của phù sa
của các sông.
- Căn cứ vào tính chất đất, toàn huyện có 7 loại đất chính:
+ Đất đỏ vàng trên phiến thạch sÐt (F
s
), là loại đất có diện tích lớn
nhất, phân bố ở hầu hết các xã trên địa bàn huyện. Loại đất này phân bố trên
các vùng đồi núi, có độ dốc tương đối lớn, tầng đất dầy từ 30 cm đến trên 1
m. Đất có kết cấu tốt, khả năng giữ nước và giữ phân khá, thích hợp cho phát
triển lâm nghiệp, nhiều khu vực thuận lợi cho trồng cây công nghiệp và cây
ăn quả ( vải thiều, nhãn, mận ).
+ Đất vàng nhạt trên đá cát và đá dăm cuội kết (F
q
), diện tích nhỏ
(khoảng 7.000 ha ), nhưng khá tập trung, phân bố ở các khu vực núi cao và
đồi có độ dốc lớn thuộc các xã An Lạc, An Châu, Vĩnh Khương, Dương Hưu.
Nguyễn Công Sánh Lớp KTQL Địa Chính K39
- 15 -
ĐHSDĐ Nông Lâm Nghiệp Huyện Sơn Động đến năm 2010
Loại đất này chủ yếu thích hợp cho phát triển rừng, một số Ýt diện tích có
thể trồng cây ăn quả.
+ Đất đỏ vàng biến đổi do trồng lúa nước (F
l
), diện tích khoảng 3.500 ha,
tập trung thành các cánh đồng bằng phẳng, thuộc các xã Hữu Sản, Thạch
Sơn, Yên Định, An Châu, An Lập. Loại đất này có tầng khá dầy, thích hợp
cho trồng lúa, tuy nhiên hiện nay đã có những khu vực do quá trình sử dụng
đất chưa hợp lý, còn nặng về khai thác mà không chó ý đến bồi dưỡng đất
nên cũng đã bị bạc màu.
+ Đất phù sa ngòi suối (P

j
), diện tích khoảng 2.7000 ha. Phân bố thành
các dải nhỏ ven các suối trong huyện, tập trung nhiều ở An Châu, Yên Định,
Cẩm Đàn, Bồng Am, Thạch Sơn, Nằm trên địa hình bằng phẳng ( độ dốc từ
0 - 8
0
). Là loại đất chủ yếu để cấy lúa, trồng cây rau màu, lương thực.
+ Đất bạc màu trên phù sa cổ (B), diện tích nhỏ, tập trung ở vùng đồi
núi trọc thuộc các xã Bồng Am, Tuấn Đạo, Thanh Sơn, Thanh Luận, Vĩnh
Khương, Loại đất này tuy nghèo đạm, lân và mùn song lại có ưu điểm là
giàu kali, đất tơi xốp, thoát nước tốt, thích hợp với các loại cây lấy củ như
khoai các loại, cà rốt, đậu, lạc, rau và thuốc lá.
+ Đất nâu tím trên đá sét màu tím và đất dốc tụ, hai loại đất này chỉ có
ở xã Dương Hưu, phía Đông Nam của huyện, là loại đất phân bố kẹp giữa các
núi đồi là sản phẩm dốc tụ thung lòng.
Tóm lại, đặc điểm đất đai của huyện khá đa dạng, phong phú với
nhiều loại đất được phân bố ở cả địa hình bằng và địa hình dốc, cho phép
phát triển hệ sinh thái nông - lâm nghiệp với nhiều loại cây trồng có giá
trị, từ cây lương thực như lúa và rau màu trên các dải đất phù sa, đến việc
khai thác đất dốc vào phát triển lâm nghiệp. Đặc biệt nếu sử dụng hợp lý
đất đai vừa tạo độ che phủ tránh xói mòn vừa trồng cây ăn quả đem lại
giá trị kinh tế cao.
* Tài nguyên nước
Nguồn nước của huyện chủ yếu là nước ở các sông suối và hồ ao, trong
đó sông Lục Nam là nguồn cung cấp nước chính cho huyện. Các sông, suối
đều là đầu nguồn nên lòng sông nhỏ hẹp, độ dốc lớn, chênh lệch lưu lượng
nước giữa các mùa khá lớn. Mùa khô thường gây hạn hán, ảnh hưởng đến
sản xuất nông, lâm nghiệp.
Ngoài diện tích sông suối 1.292 ha ( chiếm 1,53% diện tích tự nhiên )
trong huyện còn có 65 hồ chứa lớn nhỏ và 50 đập dâng các loại. Đây chính là

nguồn cung cấp nước quan trọng cho sản xuất và sinh hoạt của nhân dân
trong huyện. Về nguồn nước ngầm hiện tại chưa được điều tra, khảo sát để
đánh giá về trữ lượng và chất lượng. Qua điều tra sơ bộ các giếng nước trong
huyện cho thấy việc khai thác nước ngầm còn gặp khó khăn, một số khu vực
tổ chức khoan khai thác rất tốn kém, do mực nước ngầm ở khá sâu, nhìn
chung chất lượng nước ngầm khá tốt.
Tóm lại, nguồn cung cấp nước chủ yếu hiện nay của huyện vẫn từ
nguồn nước mặt, song chất lượng chưa thật tốt, cần phải xử lý cả về vật lý và
Nguyễn Công Sánh Lớp KTQL Địa Chính K39
- 16 -
ĐHSDĐ Nông Lâm Nghiệp Huyện Sơn Động đến năm 2010
hóa học để đảm bảo có nước sạch, hơn thế nữa là việc giữ gìn và phòng hộ
nguồn sinh thủy - đó là việc trồng rừng và bảo vệ các khu rừng đầu nguồn.
* Tài nguyên rừng
Năm 2000, huyện Sơn Động có 39.125 ha rừng, trong đó diện tÝch
rừng tự nhiên 34.682 ha chiếm 88,64% diện tích đất có rừng, diện tích rừng
trồng 4.443 ha chiếm 11,36% diện tích đất có rừng.
Rừng tự nhiên phân bố chủ yếu ở các xã An Lạc, Vân Sơn, Hữu Sản,
Dương Hưu, Bồng Am, Tuấn Đạo đặc biệt là khu rừng đặc dụng: Khu bảo
tồn thiên nhiên Khe Rỗ ( xã An Lạc ). Thảm thực vật rừng ở đây vẫn còn có
độ che phủ lớn ( 68% ), chủ yếu là các loài cây bản địa và các loại gỗ quí,
như: Lim, lát, pơ - mu, gụ, nghiến, dẻ Tổng trữ lượng gỗ rừng tự nhiên của
huyện khoảng 600 - 700 nghìn m
3
, lượng tăng trưởng bình quân 2%/ năm.
Diện tích rừng trồng ngày càng tăng với các loại cây phù hợp đặc điểm
của địa phương như các giống keo tai tượng, trám, thông, lát Những năm
gần đây nhân dân đã chú ý nhiều đến việc trồng các loại cây ăn quả, trồng
rừng theo chương trình 327, chương trình phủ xanh đất trống đồi núi trọc, do
đó thảm thực vật ở các vùng dự án ngày càng phát triển.

Về động vật, trước đây khi diện tích rừng tự nhiên còn lớn, rừng Sơn
Động có rất nhiều loài chim, thú quí hiếm như: Hổ, báo, hươu, nai, gấu, lợn
rừng, khỉ Hiện nay do rừng đã bị khai thác nhiều và do con người săn bắn
nên chỉ còn lại một số loài như: Khỉ, nai, lợn rừng Đặc biệt là ở Khu bảo
tồn thiên nhiên Khe Rỗ có loài Voọc Đen khoảng 60 con - là loài động vật
quí hiếm ở Việt Nam cũng như trên thế giới.
* Tài nguyên khoáng sản
Sơn Động có mỏ đá xây dựng ở Vân Sơn, đây là nguồn nguyên liệu
chính để sản xuất vật liệu xây dựng. Ngoài ra Sơn Động còn có mỏ đồng ở xã
Cẩm Đàn, mỏ than đá ở Đồng Rì - Thanh Luận, nhưng trữ lượng không lớn,
chất lượng thấp, điều kiện khai thác gặp nhiều khó khăn. Nhìn chung tài
nguyên khoáng sản của huyện nghèo cả về chủng loại và trữ lượng.
f. Cảnh quan môi trường
- Về cảnh quan
Những dãy núi cao ở phía Bắc và chạy dài dọc theo phía Đông của
huyện, xen kẽ với các dải đồi thấp, các vùng bằng, thung lũng đan xen và hệ
thống sông, suối, hồ ao đã tạo nên một cảnh quan khá hùng vĩ và thơ mộng.
Nói đến những cảnh quan đẹp của Sơn Động ta không thể không nhắc đến
Sông Lục Nam, rừng nguyên sinh Khe Rỗ, những rừng lát, rừng thông và
những vườn đồi cây ăn quả.
Sông Lục Nam trên địa bàn Sơn Động gồm 3 nhánh chính với tổng
chiều dài trên 70 km, đều là đầu nguồn của hệ thống sông nên có nhiều cảnh
sắc rất thơ mộng, tất cả các sông, suối đều nhỏ hẹp và chảy uốn khúc ven
theo các chân đồi, tạo ra các gềnh, thác đẹp, đặc biệt là sự kết hợp với cảnh
thiên nhiên kỳ thú trong khu rừng nguyên sinh Khe Rỗ.
Nguyễn Công Sánh Lớp KTQL Địa Chính K39
- 17 -
ĐHSDĐ Nông Lâm Nghiệp Huyện Sơn Động đến năm 2010
Hiện nay khi có chủ trương phát triển kinh tế trang trại, phong trào
trồng cây ăn quả đang phát triển mạnh trong huyện đã tạo ra một diện mạo

mới. Những quả đồi trọc khô cằn được phủ xanh bằng những cây vải thiều
đầy sức sống, kết hợp với mô hình nuôi ong lấy mật, đắp đập làm các hồ nuôi
cá, vừa tạo điều kiện để phát triển kinh tế vừa tạo ra những cảnh quan khá
hấp dẫn, làm cho cảnh quan của huyện ngày càng thêm phong phú và đa
dạng.
- Về môi trường
Sơn Động là một huyện miền núi, nền kinh tế hiện nay chủ yếu dựa
vào phát triển nông - lâm nghiệp. Trong một thời gian dài việc bảo vệ rừng,
bảo vệ hệ động - thực vật rừng không được chú trọng đã làm cho diện tích
rừng cũng như các loại cây rừng, động vật quý hiếm giảm đi nghiêm trọng.
Tỷ lệ che phủ chỉ đạt trên 40%, đã có ảnh hưởng không nhỏ tới sự cân bằng
sinh thái, từ việc điều hoà môi trường không khÝ, bảo vệ đất chống xói mòn,
đến việc tạo nguồn sinh thuỷ và điều hòa nguồn nước. Bên cạnh đó việc khai
thác khoáng sản, phá rừng làm rẫy, sử dụng phân hóa học, bụi đường và chất
thải sinh hoạt trong các khu dân cư đã gây ảnh hưởng lớn đến môi trường.
Đặc biệt gần đây có sự phát triển tự phát, không theo quy hoạch của các lò
gạch tư nhân đã ảnh hưởng đến phát triển chăn nuôi, trồng trọt và sức khoẻ
của nhân dân trong vùng.
Tuy nhiên môi trường của Sơn Động cơ bản vẫn giữ được trong sạch.
Trong những năm gần đây, bảo vệ rừng và trồng rừng phủ xanh đất trống đồi
núi trọc đã được các cấp các ngành ở Trung ương và địa phương quan tâm,
Khu bảo tồn thiên nhiên Khe Rỗ đã được đầu tư bảo vệ rừng và bảo tồn
nguồn gen động - thực vật. Nhiệm vụ trồng rừng và bảo vệ rừng ngày càng
được coi trọng vì vậy thảm thực vật của huyện ngày càng phát triển, góp
phần quan trọng trong việc cải tạo môi trường sinh thái.
2. ĐIỀU KIỆN KINH TẾ - XÃ HỘI HUYỆN SƠN ĐỘNG
a. Khái quát thực trạng phát triển kinh tế
- Tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Trong những năm qua, thực hiện đổi mới cơ chế kinh tế, cùng với sự
phát triển về kinh tế - xã hội của tỉnh Bắc Giang và cả nước, tình hình

kinh tế của huyện từng bước đi lên ổn định.
Trong giai đoạn 1991 - 1995, nền kinh tế của huyện đã có bước tăng
trưởng với nhịp độ cao. Giá trị của các ngành sản xuất tăng bình quân
hàng năm 7,5%. Thu nhập bình quân đầu người năm 1995 đạt 723 nghìn
đồng (tương đương 65,5 USD).
Thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ 1996 -
2000 nền kinh tế của huyện có sự chuyển biến tích cực, đúng hướng. Ước
tính từ năm 1998 đến năm 2000, tăng trưởng kinh tế của huyện đạt xấp xỉ
10%/năm, trong đó giá trị sản xuất: Nông nghiệp tăng 6,3%, lâm nghiệp
tăng 55%, tiểu thủ công nghiệp tăng 39% và ngành thương mại dịch vụ
Nguyễn Công Sánh Lớp KTQL Địa Chính K39
- 18 -
ĐHSDĐ Nông Lâm Nghiệp Huyện Sơn Động đến năm 2010
tăng 40%. Nền kinh tế của huyện đã xuất hiện nhiều mô hình làm ăn khá
trên các lĩnh vực nông - lâm nghiệp và dịch vụ, đặc biệt là mô hình kinh tế
trang trại khai thác tiềm năng đất đồi, phát triển rừng và trồng cây ăn quả,
thả cá, nuôi ong lấy mật, đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao, đã mở ra
hướng đi quan trọng để phát triển kinh tế trong những năm tới trên địa bàn
huyện. Năm 2000, giá trị tổng sản phẩm đạt 107.349 triệu đồng, bình quân
giá trị các ngành sản xuất tăng 17,2% và thu nhập bình quân đầu người đạt
khoảng 1.531 nghìn đồng, Tuy nhiên, trong nền kinh tế của huyện, nông
- lâm nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng cao ( trên dưới 90% ) và còn mang nặng
tính tự cấp, tự túc.
- Phát triển một số ngành chính
+ Ngành nông - lâm nghiệp - thuỷ sản:
- Nông nghiệp: Sản xuất nông nghiệp trong thời gian qua có sự tăng
trưởng liên tục, giá trị sản xuất nông nghiệp từ 46,40 tỷ đồng năm 1995
tăng lên 65,06 tỷ đồng năm 1999 (theo giá cố định năm 1994), bình quân
tăng 8,8% /năm. Giá trị tổng sản lượng nông nghiệp năm 2000 đạt 69.870
triệu đồng, chiếm 65,11% giá trị tổng sản lượng của nền kinh tế. Diện tích

đất nông nghiệp tăng từ 3.159,27 ha năm 1990 lên 8.592,96 ha vào năm
2000, bình quân mỗi năm tăng 543 ha.
+ Trồng trọt: Trong những gần đây, mặc dù sản xuất còn gặp rất
nhiều khó khăn do ảnh hưởng của thiên tai hạn hán, sâu bệnh, nhưng
ngành trồng trọt vẫn giữ thế ổn định và chuyển dịch cơ cấu cây trồng đúng
hướng, đặc biệt là khai thác triệt để diện tích đất lúa, chuyển dần đất
nương rẫy, đồi trọc sang trồng cây ăn quả đem lại giá trị kinh tế cao. Năm
2000 tổng diện tích gieo trồng 6.285,30 ha, năng suất lúa đạt 30,5 tạ/ha,
sản lượng quy thóc 14.715,80 tấn, bình quân lương thực 277,70 kg/người.
Giá trị sản lượng cây ăn quả đạt 4 tỷ đồng.
+ Chăn nuôi: Do có sự phân vùng kinh tế, xác định rõ vùng phát
triển lâm nghiệp, vùng chăn nuôi và tác động của khoa học kỹ thuật, sự hỗ
trợ của Nhà nước, đàn gia sóc, gia cầm phát triển nhanh và liên tục. Năm
2000 đàn trâu có 18,024 con, đàn bò 1000 con, đàn lợn 26.500 con và đàn
ong 2.500 đàn, sản lượng thịt hơi 22.000 tấn, sản lượng cá thịt 90 tấn.
Sản xuất nông nghiệp trong thời gian qua có bước phát triển đã góp
phần ổn định đời sống nhân dân, nhưng chưa ổn định, chưa tạo ra những
sản phẩm mũi nhọn, sản xuất vẫn mang tính tự cấp, tự túc, năng suất thấp,
chất lượng chưa cao. Nguyên nhân chính một phần do chưa được đầu tư
đúng mức, việc ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật chưa được rộng rãi mặt
khác do tập quán sản xuất của nhân dân chưa được đổi mới.
- Lâm nghiệp: Được sự quan tâm của Tỉnh và Trung ương, các
chương trình dự án chăm sóc, bảo vệ và trồng rừng triển khai trên địa bàn
đạt kết quả khả quan: Trong thời gian 1996 - 2000 toàn tuyện đã trồng mới
4.419,7 ha rừng, khoanh nuôi tái sinh bảo vệ 33.991,0 ha. Giá trị sản lượng
lâm nghiệp năm 2000 đạt 29.864 triệu đồng, chiếm 27,81% giá trị tổng sản
phẩm của nền kinh tế. Tuy nhiên sản xuất lâm nghiệp cũng còn nhiều hạn
Nguyễn Công Sánh Lớp KTQL Địa Chính K39
- 19 -
ĐHSDĐ Nông Lâm Nghiệp Huyện Sơn Động đến năm 2010

chế bất cập, đất trống đồi núi trọc còn nhiều, hiệu quả kinh doanh lâm
nghiệp thấp, nạn chặt phá rừng vẫn xẩy ra và chưa ngăn chặn được.
- Thủy sản: Diện tích đất có nặt nước nuôi cá của huyện là 35,67 ha,
chủ yếu nuôi thả tự nhiên nên năng suất, sản lượng hàng năm đạt thấp.
Năm 2000, sản lượng cá đạt khoảng 90 tấn.
+ Ngành công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp:
Trong những năm gần đây, ngành công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp
của huyện có bước tăng trưởng khá, từng bước thích ứng với cơ chế thị
trường. Giai đoạn 1996 - 2000, giá trị sản lượng tăng bình quân
24,90%/năm. Năm 2000 giá trị sản lượng công nghiệp đạt 3.920 triệu
đồng.
Cơ cấu nhóm, ngành hàng và thành phần kinh tế như sau:
Ngành Đơn vị
tính
Thực hiện
năm 1999
Kế hoạch
năm 2000
- Phân theo nhóm công nghiệp
+ Nhóm A % 32,78 32,80
+ Nhóm B % 67,22 67,20
- Phân theo thành phần kinh tế
+ Hợp tác xã % 44,96 45,00
+ Công nghiệp nhỏ % 55,04 55,00
- Phân theo ngành hàng
+ CN VLXD % 28,34 25,41
+ CN Chế biến lâm sản % 24,87 24,92
+ CN Chế biến thực phẩm % 11,52 11,53
+ CN Sửa chữa và gia công cơ khí % 9,25 9,24
(Báo cáo tổng kết phát triển kinh tế- xã hội của huyện năm 1999-

2000)
Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp của huyện đã góp phần cung ứng
những sản phẩm thông thường cho nhu cầu của nhân dân. Tuy nhiên giá
trị sản xuất công nghiệp của huyện còn rất nhỏ bé, mới chiếm tỷ trọng 3 -
4% tổng giá trị sản xuất của nền kinh tế và chủ yếu là tiểu thủ công
Nguyễn Công Sánh Lớp KTQL Địa Chính K39
- 20 -
ĐHSDĐ Nông Lâm Nghiệp Huyện Sơn Động đến năm 2010
nghiệp với quy mô nhỏ, công nghệ lạc hậu, chất lượng sản phẩm chưa
cao, khả năng cạnh tranh kém. Các cơ sở sản xuất tập trung ở Thị trấn An
Châu, xã An Châu, An Lập, Vân Sơn, Quế Sơn, Yên Định, còn các nơi
khác chưa phát triển. Công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp chưa trở thành
động lực lôi kéo và thúc đẩy các ngành nông, lâm nghiệp và phát triển
nông thôn.
+ Ngành dịch vụ - du lịch:
Thương nghiệp của huyện đã có nhiều đổi mới và từng bước phát
triển, đặc biệt trong khâu bán lẻ, thị trường được mở rộng, hàng hóa
phong phú, đa dạng. Thương nghiệp quốc doanh giữ vững, có bước phát
triển, đáp ứng được các mặt hàng thiết yếu phục vụ sản xuất và đời sống
của nhân dân Các mặt hàng chính sách phục vụ miền núi như: Muối i ốt,
than, giấy vở học sinh hàng năm đều tăng từ 180 đến 370%. Thương
nghiệp dịch vụ ngoài quốc doanh đóng góp đáng kể vào việc lưu thông
hàng hoá phục vụ đời sống nhân dân. Tổng doanh số thương nghiệp dịch
vụ năm 2000 đạt 3.695 triệu đồng, chiếm 3,44% giá trị sản phẩm nền kinh
tế.
Toàn huyện có gần 500 hé kinh doanh thương mại, dịch vụ tại 6
chợ ở các xã: Vân Sơn, Quế Sơn, Long Sơn, Thanh Sơn, Tuấn Đạo và thị
trấn An Châu và 1 trung tâm thương mại ở thị trấn An Châu, nhưng cơ sở
hạ tầng của các chợ còn rất thấp kém, diện tích chật hẹp.
Tuy nhiên hệ thống chợ nông thôn chưa phát triển, cơ sở vật chất

còn rất nghèo nàn, việc trao đổi hàng hóa của nhân dân còn nhiều khó
khăn, các hoạt động dịch vụ du lịch chưa phát triển, chưa khai thác được
tiềm năng của huyện.
b. Dân số lao động và phát triển xã hội.
- Dân sè lao động và dân cư.
Là huyện miền núi có nền kinh tế - xã hội chậm phát triển. Huyện
chỉ có một thị trấn mới được thành lập - Thị trấn huyện lỵ An Châu (đô thị
cấp V) có diện tích tự nhiên 213,3 ha, với dân số năm 1999 là 4.286 người,
mật độ trung bình 2.009 người/ km
2
và đang trong quá trình xây dựng. Một
số công sở mới được xây dựng kiên cố, các công trình dân dụng đa phần là
nhà cấp IV, nhà tạm. Hệ thống giao thông, công trình cấp, thoát nước và
chiếu sáng đô thị đang trong quá trình xây dựng.
Dân cư nông thôn phân bố trên địa bàn 21 xã, với mật độ dân số
trung bình 74 người/ km
2
, nhưng không đều. Mật độ dân số cao ở các xã:
An Lập 372 người/km
2
, Chiên Sơn 355 người/km
2
, Quế Sơn 232
người/km
2
. Dân cư phân bố thưa ở các xã Thạch Sơn 25 người/km
2
, An
Lạc 29 người/km
2

. Các làng của người Kinh, người Nùng, người Tày
thường tập trung đông hơn và phân bố dọc theo các trục đường giao thông,
ven các chợ, các trung tâm xã còn các thôn bản của người Dao, người
Sán Chỉ thường thưa thớt và nằm rải rác trong các vùng sâu, vùng xa.
MẬT ĐỘ DÂN SỐ HUYỆN SƠN ĐỘNG
Nguyễn Công Sánh Lớp KTQL Địa Chính K39
- 21 -
ĐHSDĐ Nông Lâm Nghiệp Huyện Sơn Động đến năm 2010
Tên xã,
thị trấn
Mật độ
(người/km
2
)
Hệ sè so
với BQ
huyện
Tên xã,
thị trấn
Mật độ
(người/km
2
)
Hệ sè so
với BQ
huyện
Toàn huyện 79 1,00
TT An Châu 2.009 25,43 Lệ Viễn 216 2,72
An Bá 115 1,45 Long Sơn 73 0,93
An Châu 207 2,62 Quế Sơn 232 2,94

An Lạc 29 0,36 Phúc Thắng 47 0,59
An Lập 372 4,71 Thạch Sơn 25 0,32
Bồng Am 37 0,47 Vĩnh khương 115 1,46
Cẩm Đàn 117 1,48 Yên định 132 1,68
Chiên Sơn 355 4,50 Vân Sơn 58 0,73
Dương Hưu 60 0,77 Tuấn Đạo 52 0,66
Giáo Liêm 135 1,73 Thanh Sơn 53 0,67
Hữu Sản 54 0,68 Thanh Luận 45 0,57
Nhìn chung, cơ sở hạ tầng cả khu vực đô thị và nông thôn của Sơn
Động chưa phát triển, đang ở mức thấp so với trình độ chung của khu vực và
cả tỉnh Bắc Giang. Trong quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội huyện cần
phải đầu tư có trọng điểm và nhiều hơn nữa cho phát triển cơ sở hạ tầng,
nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống cho đồng bào các dân tộc trong huyện.
+ Dân số
Năm 1999, dân số trung bình toàn huyện là 66.709 người, trong đó nữ
có 33.448 người ( chiếm 50,14% ) và nam có 33.261 người ( chiếm 49,86% ).
Tổng số hộ gia đình là 12.907 hé, qui mô hộ trung bình 5,16 người/hộ. Trong
đó có 12.000 hộ nông nghiệp, với 61.500 nhân khẩu, chiếm 93,01% dân số,
còn lại trên 900 hộ với 5.209 nhân khẩu thuộc các thành phần khác. Cơ cấu
dân tộc trong huyện: Chủ yếu là người Kinh chiếm 57,5%, người Tày chiếm
20%, Nùng chiếm 7%, Dao chiếm 4%, Cao Lan chiếm 5,2%, Sán Chí chiếm
4,3%, các dân tộc khác còn lại chiếm 2%.
Những năm gần đây do làm tốt công tác kế hoạch hóa gia đình, tổ chức
tốt mạng lưới cộng tác viên dân số - kế hoạch hoá gia đình, nên tốc độ gia
tăng dân số giảm nhanh từ 1,71% năm 1997 xuống 1,5% năm 1999.
+ Lao động, việc làm và đời sống dân cư
Năm 1999, toàn huyện có 30.075 người trong độ tuổi lao động, chiếm
45,08% dân số. Trong đó, lao động nữ có 15.270 người (50,77%), lao động
nam 14.805 người (49,23%). Lao động của huyện chủ yếu làm việc trong
ngành nông, lâm nghiệp. Hiện nay diện tích đất nông nghiệp toàn huyện là

8.593 ha, bình quân 0,29 ha/lao động, bình quân đất cây hàng năm chỉ đạt
0,12 ha/lao động, đây là chỉ số bình quân thấp, nên soố lao động nông nhàn
và lao động chưa có việc làm còn rất lớn. Năm 1999 các cơ sở tiểu thủ công
nghiệp và dịch vụ mới thu hút và đảm bảo việc làm thường xuyên cho hơn
900 lao động và 500 lao động thời vụ. Giải quyết việc làm cho người lao
động đã và đang là một yêu cầu bức bách của huyện. Theo kế hoạch từ nay
Nguyễn Công Sánh Lớp KTQL Địa Chính K39
- 22 -
ĐHSDĐ Nông Lâm Nghiệp Huyện Sơn Động đến năm 2010
đến năm 2005 toàn huyện sẽ có 256 hộ đi xây dựng kinh tế mới tại các tỉnh
Tây Nguyên, trong đó xã Phúc Thắng 200 hộ, xã Thạch Sơn 56 hé.
Trong những năm gần đây do sản xuất phát triển đời sống nhân dân cơ
bản được ổn định, tuy nhiên còn ở mức thấp. Toàn huyện còn 38,80% hộ đói
nghèo và có 17 xã thuộc diện đặc biệt khó khăn rất cần được sự trợ giúp của
Nhà nước.
- Nhân văn.
Sơn Động là một huyện miền núi, là nơi cư trú và phát triển từ lâu đời
của gần 7 vạn người với nhiều dân tộc anh em cùng chung sống trên 22 đơn
vị hành chính ( gồm 21 xã và 1 thị trấn ). Mỗi dân tộc đều có phong tục tập
quán, tiếng nói, trang phục, những món ăn đặc thù riêng biệt, với bản sắc và
truyền thống văn hoá khác nhau. Nhưng cao hơn cả là cùng sống trên một
mảnh đất, cùng đấu tranh với thiên nhiên và sát cánh trong các cuộc kháng
chiến chống kẻ thù xâm lược. Nhân dân Sơn Động luôn ý thức giữ gìn và
phát huy truyền thống đoàn kết cùng nhau xây dựng, bảo vệ quê hương, đất
nước.
Hoạt động văn hoá, văn nghệ quần chúng cũng đã góp phần bảo lưu,
gìn giữ và phát triển nguồn tài nguyên nhân văn - một nguồn tài nguyên quý
giá của địa phương nói riêng và cả nước nói chung. Được sự quan tâm của
các cấp uỷ Đảng, chính quyền và các tổ chức xã hội, nhiều đội tuyên truyền
văn hoá, văn nghệ đã được thành lập và tập luyện để trình diễn phục vụ nhân

dân, những tiết mục mang đúng sắc thái dân tộc như đàn tính và hát then của
dân tộc Tày ở Vân Sơn, hát, múa của dân tộc Nùng ở Quế Sơn, kèn gọi bạn
của người Dao ở Hữu Sản, Một số hoạt động vừa mang nội dung giáo dục
sâu sắc về giá trị con người, về kinh nghiệm trong cuộc sống hàng ngày,
trong hoạt động sản xuất vừa chứa đựng những bản sắc dân tộc, phong cách
nghệ thuật độc đáo. Đến cuối năm 1999 toàn huyện có 12 làng đạt danh hiệu
"Làng văn hóa".
Tóm lại, những nét độc đáo trong kho tàng văn hoá của các dân tộc
trong huyện được thể hiện qua những làn điệu hát, điệu múa, nhạc cụ dân
tộc, các đặc trưng về tập quán sản xuất, phương thức canh tác, đã có sự hoà
quyện, cùng với những điều kiện thiên nhiên ưu đãi về địa hình đa dạng, các
khu rừng nhiệt đới đã tạo cho Sơn Động một nguồn tài nguyên nhân văn có ý
nghĩa, đặc biệt là có thể phát triển các hình thức du lịch sinh thái, tìm hiểu
văn hoá dân tộc góp phần tích cực vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội
của huyện trong thời gian tới.
- Giáo dục, ytế, thể dục thể thao.
+Ngành giáo dục và đào tạo:
Trong thời gian qua ngành giáo dục - đào tạo của huyện đã khắc
phục khó khăn và đạt được những kết quả quan trọng: Đạt các chỉ tiêu
phát triển về qui mô, đa dạng loại hình giáo dục, các ngành học, cấp học.
Số học sinh ở tất cả các ngành học, các bậc học hàng năm tăng nhanh, tỷ
lệ bỏ học giảm đáng kể, đặc biệt ở bậc học trung học cơ sở đã giảm
xuống dưới 3%.
Nguyễn Công Sánh Lớp KTQL Địa Chính K39
- 23 -
ĐHSDĐ Nông Lâm Nghiệp Huyện Sơn Động đến năm 2010
Năm học 1999 - 2000 toàn huyện có 23.753 người theo học văn hóa
chiếm 36,9% dân số. Chất lượng giáo dục toàn diện tốt hơn, tỷ lệ học
sinh chuyển lớp và tốt nghiệp cao (tiểu học 97,3%, trung học cơ sở
97,7%, trung học phổ thông 98,5%). Đến nay toàn huyện có 185 phòng

học kiên cố, chiếm 35,5% số phòng học hiện có và đã chấm dứt tình trạng
học 3 ca. Cơ sở vật chất trường lớp, đồ dùng và phương tiện dạy học đã
được huyện chú trọng đầu tư, xây dựng. Huyện đã được UBND tỉnh công
nhận là huyện đã hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học và chống mù chữ.
Tuy nhiên ở 17 xã đặc biệt khó khăn, cơ sở vật chất trường lớp còn
hạn chế, chất lượng dạy và học chưa cao, tỷ lệ học sinh học ở bậc cao,
học sinh trúng tuyển vào các trường đại học, trung học và dạy nghề còn
thấp.
+ Ngành y tế:
Huyện có một trung tâm y tế, một bệnh viện 70 giường bệnh và 1
phòng khám đa khoa khu vực Vân Sơn với tổng số 70 cán bộ y tế cấp
huyện (gồm 14 bác sỹ, 3 dược sỹ còn lại là cán bộ trung sơ cấp). Tuyến
cơ sở có 22 trạm y tế ở các xã và thị trấn với 84 cán bộ y tế chủ yếu là y
tá, y sỹ, hiện còn thiếu 24 biên chế y tế cho các xã vùng cao. Trong năm
1999 đã tổ chức khám bệnh cho 40.500 lượt người, điều trị bệnh nội trú
cho 3.079 người, thực hiện tốt công tác tiêm chủng mở rộng, công tác
phòng chống sốt rét và các bệnh xã hội khác. tỷ lệ các cháu được tiêm
chủng đạt trên 90%, trong thời gian qua không để xẩy ra dịch bệnh lớn.
Tuy nhiên cơ sở vật chất, phương tiện khám chữa bệnh ở tuyến cơ sở
của huyện còn rất hạn chế. Cơ cấu đội ngũ thầy thuốc còn chưa hợp lý, đặc
biệt ở tuyến xã, thiếu y bác sỹ, thiếu các phòng khám đa khoa khu vực.
+ Ngành văn hóa thể thao:
Huyện có một nhà văn hóa được xây dựng kiên cố và hiện đại, một sân
vận động đang được xây dựng theo đúng tiêu chuẩn thi đấu. Tất cả các xã
hầu như chưa có nhà văn hóa và sân thể thao, chủ yếu còn sử dụng kết hợp
với các công trình công cộng của xã và trường học.
Sự nghiệp thông tin văn hoá có nhiều tiến bộ, công tác thông tin,
tuyên truyền, cổ động, truyền thanh, truyền hình được tăng cường cả về cơ
sở vật chất và kỹ thuật đã góp phần nâng cao dân trí và đời sống văn hoá
tinh thần của nhân dân

Các hoạt động thể dục thể thao như bóng đá, cầu lông thường được tổ
chức nhân dịp các ngày lễ, tết, phong trào thể dục thể thao quần chúng phát
triển tốt và đều khắp. Năm 1999 huyện có thêm 7 làng đạt danh hiệu "Làng
văn hóa", đưa tổng số làng đạt danh hiệu "Làng văn hóa" lên 12 làng. Nhìn
chung phong trào văn hóa, thể thao của huyện còn hạn chế, chưa phát huy
hết tiềm năng sẵn có của địa phương do còn nhiều khó khăn về phương tiện,
cơ sở vật chất.
c. Cơ sở vật chất kỹ thuật và hạ tầng.
- Giao thông:
Nguyễn Công Sánh Lớp KTQL Địa Chính K39
- 24 -
ĐHSDĐ Nông Lâm Nghiệp Huyện Sơn Động đến năm 2010
Mạng lưới giao thông của huyện chủ yếu là đường bộ. Toàn huyện có
543 km đường bộ, bình quân 0,64 km/ km
2
đất tự nhiên, bao gồm:
- Đường Quốc lộ có 2 tuyến dài 63 km:
+ Quốc lộ 31 từ Cẩm Đàn qua thị trấn An Châu đến Hữu Sản và sang
Lạng Sơn.
+ Quốc lộ 279 từ An Châu đi Quảng Ninh qua đèo Hạ My.
- Đường trục huyện gồm có 5 tuyến, tổng chiều dài 89 km.
- Đường liên xã , liên thôn có tổng chiều dài 265 km.
- Hệ thống đường thôn, bản, xóm có tổng chiều dài 126 km.
Nhìn chung, hệ thống giao thông đường bộ trên địa bàn huyện được
phân bố tương đối hợp lý, đang được mở mang và cải tạo. Song hầu hết
các tuyến chưa đạt được tiêu chuẩn cấp hạng, qui mô kỹ thuật theo quy
định, thiếu hệ thống cầu cống qua suối. Chất lượng mặt đường thấp, chủ
yếu là đường cấp phối và đường đất, phương tiện vận tải qua lại rất khó
khăn và gây ra bụi ảnh hưởng xấu đến môi trường, sức khoẻ của nhân dân
trong vùng và ảnh hưởng lớn đến việc giao lưu kinh tế - xã hội trong

huyện nhất là ở các xã vùng sâu, vùng cao vào mùa mưa.
- Năng lượng:
Nguồn năng lượng hiện nay của huyện chủ yếu là dùng điện lưới
quốc gia và một phần thủy điện vừa và nhỏ ở vùng sâu, vùng xa. Chất đốt
được sử dụng phổ biến là than và củi.
- Điện lưới quốc gia gồm 4 tuyến, chia làm 2 loại:
+ Đường dây 35 KV gồm 3 tuyến: Cẩm Đàn - Phúc Thắng, Yên Định
- Thanh Luận và An Lập - An Bá.
+ Đường dây 10KV có 1 tuyến từ thị trấn An Châu đi Vĩnh Khương.
Hiện nay toàn huyện có 20 trạm hạ thế, công suất từ 50-180 KVA,
có 16 xã (đạt 72,7%) đã có điện lưới quốc gia, với tổng số hộ được dùng
điện là 8.470 hộ (chiếm 65% số hộ, kể cả các hộ dùng nhờ trạm hạ thế của
quân đội).
- Thủy điện: Các xã hiện đã và đang dùng thủy điện nhỏ gồm có: An
Lạc, Long Sơn, Bồng Am, Thanh Luận, Thanh Sơn và Dương Hưu, công
suất trung bình khoảng 200 W/ máy.
Nhìn chung, việc cung cấp điện cho sản xuất và sinh hoạt của nhân
dân trong huyện còn gặp nhiều khó khăn, kể cả những khu vực đã được
dùng điện, do thiếu kinh phí xây dựng các trạm hạ thế và kéo đường dây.
Mặt khác do việc xuống cấp của mạng lưới cung cấp điện làm hao phí điện
năng và tăng giá bán điện nên đã hạn chế việc sử dụng điện của nhân dân.
3. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI
VÀ ÁP LỰC ĐỐI VỚI ĐẤT ĐAI
Căn cứ vào vị trí địa lý, đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội, Sơn Động
có các đặc trưng cơ bản sau:
Nguyễn Công Sánh Lớp KTQL Địa Chính K39
- 25 -

×