Tải bản đầy đủ (.doc) (69 trang)

ứng dụng mô hình toán kinh tế trong xếp hạng tín dụng tại ngân hàng đầu tư và phát triển chi nhánh thăng long

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (962.52 KB, 69 trang )


TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA TOÁN KINH TẾ
&
CHUYÊN ĐỀ
THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
Đề tài:
ỨNG DỤNG MÔ HÌNH TOÁN KINH TẾ TRONG XẾP HẠNG
TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN
CHI NHÁNH THĂNG LONG
Giáo viên hướng dẫn : TS. Nguyễn Thị Minh
ThS. Hoàng Bích Phương
Sinh viên thực hiện : Trần Thế Hưng
Lớp : Toán Kinh Tế
Khoa : Toán Kinh Tế
Khóa : 48
Hà Nội – Tháng 5/2010
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Toán Kinh Tế
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG BIỂU
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
NHẬN XÉT CỦA CƠ QUAN THỰC TẬP
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN
Trần Thế Hưng Toán Kinh Tế
48
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Toán Kinh Tế
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Từ viết tắt Nội dung
BIDV Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
NHNN Ngân hàng Nhà nước


NHTM Ngân hàng thương mại
NH Ngân hàng
XHTD Xếp hạng tín dụng
TD Tín dụng
NIC
S
Các nước công nghiệp mới
CIC Trung tâm thông tin tín dụng Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam
ROA Tỷ số lợi nhuận ròng trên tài sản
ROE Tỷ số lợi nhuận ròng trên vốn chủ sở hữu
VCSH Vốn chủ sở hữu
Trần Thế Hưng Toán Kinh Tế
48
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Toán Kinh Tế
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Xếp hạng tín dụng sử dụng cho nợ dài hạn Error: Reference
source not found
Bảng 2.2: Xếp hạng tín dụng sử dụng cho nợ ngắn hạn Error: Reference
source not found
Bảng 2.3: Xếp hạng tín dụng doanh nghiệp tại Việt Nam Error: Reference
source not found
Bảng 2.4: Các mức xếp hạng và ý nghĩa các mức xếp hạng khách hàng
trong hệ thống tín dụng nội bộ của BIDV Error: Reference
source not found
Bảng 2.5: Phân loại nợ theo hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ Error:
Reference source not found
Bảng 2.6: Số liệu các nhóm nợ năm 2008 tại BIDV chi nhánh Thăng Long
Error: Reference source not found
Bảng 3.1: Các chỉ tiêu xếp hạng doanh nghiệp Error: Reference source not

found
Bảng 3.2: Bảng thống kê mô tả với bộ số liệu Error: Reference source not
found
Bảng 3.3: Bảng ma trận hệ số tương quan giữa các biến Error: Reference
source not found
Bảng 3.4: Mô hình Logit với đầy đủ biến số (Mô hình 1) Error: Reference
source not found
Bảng 3.5: Mô hình Logit không có biến X
1
, X
2
(Mô hình 2) Error: Reference
source not found
Bảng 3.6: Mô hình Logit khi loại biến X
4
(Mô hình 3) Error: Reference
source not found
Bảng 3.7: Mô hình Logit khi không có hệ số chặn (Mô hình 4) Error:
Reference source not found
Bảng 3.8: Mô hình hồi quy khi không có X
5
, X
7
(Mô hình 5) Error: Reference
source not found
Bảng 3.9: Mô hình hồi quy khi không có biến X
6
(Mô hình 6) Error:
Reference source not found
Trần Thế Hưng Toán Kinh Tế

48
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Toán Kinh Tế
Bảng 3.10: So sánh kết quả hạng và xác suất nợ xấu của 53 doanh nghiệp
Error: Reference source not found
Bảng 3.11: Mô tả hạng dựa trên xác suất có nợ xấu và hạng của khách hàng
Error: Reference source not found
Bảng 3.12: Chỉ tiêu đánh giá doanh nghiệp X Error: Reference source not
found
Bảng 3.13: Chỉ tiêu đánh giá doanh nghiệp Y . Error: Reference source not found
Trần Thế Hưng Toán Kinh Tế
48
Chuyên đề tốt nghiệp - 1 - Khoa Toán Kinh Tế
LỜI MỞ ĐẦU
Ngân hàng là một trong những tổ chức tài chính có tầm quan trọng bậc nhất
trong nền kinh tế của mọi quốc gia trên thế giới. Với chức năng trung gian tài chính,
ngân hàng có hoạt động chủ yếu là huy động tiền nhàn rỗi trong xã hội và cho các
doanh nghiệp cũng như cá nhân vay lại (hay còn gọi là hoạt động tín dụng). Mức
chênh lệch giữa lãi suất huy động vốn và lãi suất cho vay chính là lợi nhuận nhằm
duy trì hoạt động và phát triển ngân hàng. Ngoài ra ngân hàng còn cung cấp các dịch
vụ về trao đổi ngoại tệ, chuyển tiền, dịch vụ liên quan đến thư tín dụng, bảo lãnh…
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển là một trong bốn ngân hàng thương mại lớn
nhất Việt Nam đã có thâm niên hoạt động và kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng
hàng chục năm nay. Hoạt động tín dụng của ngân hàng là hoạt động mang lại lợi
nhuận lớn nhất cho ngân hàng, song đi kèm với nó là mức rủi ro cao tương ứng với
mức lợi nhuận đó. Chính vì vậy, đảm bảo an toàn tín dụng là một công việc được
Ngân hàng hết sức quan tâm chú ý. Đặc biệt, việc xếp hạng tín dụng người đi vay là
khâu quan trọng đầu tiên trong việc ra quyết định cho vay hay không cho vay của
ngân hàng.
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua, hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam đã từng

bước đổi mới và được coi là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền
kinh tế, đóng vai trò vô cùng quan trọng trong sự phát triển kinh tế toàn cầu. Với hoạt
động chính là huy động vốn để sử dụng nhằm thu lợi nhuận, trong đó hoạt động tín
dụng (là quan hệ vay mượn gồm cho vay và đi vay) là hoạt động sinh lời lớn nhất,
song đi kèm với nó là rủi ro cao nhất cho các NHTM. Đối với hệ thống ngân hàng
Việt Nam, kể từ khi chuyển sang cơ chế thị trường đã không ngừng lớn mạnh và đã
thu được những thành tựu nhất định, nhưng trong quá trình đó các Ngân hàng cũng
đã vấp phải không ít những rủi ro trong hoạt động kinh doanh gây tổn thất nặng nề.
Có những rủi ro lớn làm đổ vỡ hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Nên đánh giá
rủi ro tín dụng là khâu đầu tiên, là điều kiện tiên quyết trước khi cho vay.
Để tín dụng có hiệu quả là hết sức khó khăn nhưng cũng hết sức quan trọng
đối với các ngân hàng thương mại nói chung và đối với ngân hàng Đầu tư và Phát
triển chi nhánh Thăng Long nói riêng. Xuất phát từ yêu cầu này, cùng với những kiến
thức đã được tiếp thu trong trường em đã tập trung nghiên cứu nghiệp vụ tín dụng và
chọn lựa chọn đề tài nghiên cứu về đảm bảo an toàn tín dụng.
Trần Thế Hưng Toán Kinh Tế
48
Chuyên đề tốt nghiệp - 2 - Khoa Toán Kinh Tế
2. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là các doanh nghiệp hiện đang có quan hệ tín dụng với
BIDV chi nhánh Thăng Long.
Phạm vi nghiên cứu là sử dụng các chỉ tiêu tài chính của khách hàng, được
tổng hợp tại phòng phục vụ khách hàng doanh nghiệp tại ngân hàng BIDV chi nhánh
Thăng Long. Ứng dụng mô hình Logistic trong xếp hạng tín dụng bằng chương trình
Eviews và SPSS.
3. Phương pháp nghiên cứu
Bằng phương pháp tiếp cận xử lý số liệu thực tế, ứng dụng tư duy và các mô
hình lượng hóa của toán học nhằm đưa được ra những đánh giá và dự báo.
4. Nguồn thông tin dữ liệu
Sử dụng các chỉ tiêu tài chính của 53 doanh nghiệp trong năm 2009 và các tài

liệu liên quan đến việc quản lý rủi ro, xếp hạng khách hàng của phòng phục vụ khách
hàng doanh nghiệp tại BIDV chi nhánh Thăng Long.
5. Tên và cấu trúc của đề tài
Đề tài: Ứng dụng mô hình toán kinh tế trong xếp hạng tín dụng tại Ngân
hàng Đầu tư và Phát triển chi nhánh Thăng Long.
Cấu trúc đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Lý thuyết vể rủi ro tín dụng và quản trị rủi ro ở các Ngân hàng
thương mại Việt Nam hiện nay.
Chương 2: Thực trạng tình hình đánh giá rủi ro tín dụng tại BIDV.
Chương 3: Ứng dụng mô hình Logit định lượng để đánh giá rủi ro tín dụng tại
BIDV chi nhánh Thăng Long.
Qua đây em xin trân thành cảm ơn ban lãnh đạo chi nhánh cùng tập thể cán bộ,
nhân viên trong Ngân hàng đã tạo điều kiện thuận lợi cho em trong quá trình thực tập,
để em có thể hiểu hơn về các nghiệp vụ trong Ngân hàng.
Em cũng chân thành cảm ơn TS Nguyễn Thị Minh và ThS Hoàng Bích
Phương đã tận tình chỉ bảo, giúp đỡ em trong quá trình lựa chọn đề tài, xác định
hướng nghiên cứu sửa chữa và hoàn thiện chuyên đề. Em xin được gửi lời cảm ơn sâu
sắc tới các thầy cô giáo trong khoa Toán kinh tế đã dạy dỗ chỉ bảo em trong quá trình
học tập tại trường.
CHƯƠNG 1
Trần Thế Hưng Toán Kinh Tế
48
Chuyên đề tốt nghiệp - 3 - Khoa Toán Kinh Tế
LÝ THUYẾT VỀ RỦI RO TÍN DỤNG VÀ QUẢN TRỊ RỦI RO
Ở CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG VÀ THỰC TRẠNG
RỦI RO TÍN DỤNG Ở VIỆT NAM.
1.1.1. Khái niệm rủi ro.
Rủi ro là khả năng xảy ra tổn thất ngoài dự kiến. Do đó trong bất kỳ lĩnh vực
nào của đời sống đều có thể xảy ra rủi ro. Các ngân hàng thuơng mại luôn luôn phải

đối mặt với các loại rủi ro đó có thể là rủi ro do khách hàng trả nợ không đúng hạn,
cũng có thể là do ngân hàng không đáp ứng đuợc nhu cầu rút tiền của người gửi tiền.
Ngân hàng thuơng mại là doanh nghiệp kinh doanh loại hàng hoá đặc biệt
(hàng hoá tiền tệ), tiềm ẩn rất nhiều rủi ro và chủ yếu trong đó là các loại tiền gửi
phải trả khi có yêu cầu. Nguồn tiền của các ngân hàng thuơng mại đang có thay đổi
mạnh mẽ do sự gia tăng cạnh tranh trong hệ thống ngân hàng, giữa các ngân hàng với
các tổ chức tài chính dưới ảnh hưởng của công nghệ thông tin và quá trình toàn cầu
hoá. Các nguồn tiền của cá nhân và doanh nghiệp dễ dàng di chuyển hơn, nhạy cảm
với lãi suất hơn. Điều này tạo thuận lợi cho ngân hàng trong việc tìm kiếm nguồn tiền
song lại làm tăng tính kém ổn định của cả hệ thống. Ngoài ra tài sản của các ngân
hàng chủ yếu là các động sản tài chính như các khoản cho vay, chứng khoán với tính
rủi ro thị trường và rủi ro tín dụng rất cao. Công nghệ của Ngân hàng ngày càng phát
triển cho phép các Ngân hàng có thể chuyển nguồn tiền đầu tư của mình tới những
vùng xa trụ sở. Điều này vừa làm giảm bớt rủi ro của Ngân hàng do đa dạng hoá
khách hàng nhưng đồng thời cũng làm tăng tính rủi ro so những biến động lớn trên
thị trường Thế giới, khu vực và do Ngân hàng không kiểm soát tốt được các khoản
vay…Điều này không chỉ xảy ra ở thị trường Việt Nam mà còn diễn ra ở trên Thế
giới. Tóm lại tất cả các loại rủi ro của ngân hàng đều có bản chất chung đó là khả
năng xảy ra tổn thất cho ngân hàng.
1.1.2. Các loại rủi ro trong kinh doanh ngân hàng.
Dựa vào những tiêu thức khác nhau mà rủi ro của ngân hàng được chia thành
những loại khác nhau. Tuy nhiên trong phạm vi hoạt động của các Ngân hàng thuơng
mại có thể tổng hợp thành một số loại rủi ro cơ bản sau:
a) Rủi ro tín dụng
Trần Thế Hưng Toán Kinh Tế
48
Chuyên đề tốt nghiệp - 4 - Khoa Toán Kinh Tế
Rủi ro tín dụng là khả năng gây ra những tổn thất mà Ngân hàng phải gánh
chịu do khách hàng không trả đầy đủ cả gốc và lãi của khoản vay, hoặc là việc thanh
toán nợ gốc và lãi không đúng hạn.

Khi thực hiện bất kỳ một hoạt động cho vay cụ thể nào đó thì Ngân hàng
không dự kiến khoản cho vay đó sẽ bị tổn thất. Tuy nhiên những khoản cho vay đó
luôn hàm chứa rủi ro. Một số ý kiến cho rằng trên quan điểm quản lý toàn bộ Ngân
hàng, tỷ lệ tổn thất dự kiến đối với hoạt động tín dụng luôn được xác định trước trong
chiến lược hoạt động chung. Vì vậy, khi tổn thất dưới mức tổn thất dự kiến, Ngân
hàng coi đó là một thành công trong quản lý.
b) Rủi ro lãi suất
Khi huy động vốn của doanh nghiệp hoặc dân cư, Ngân hàng sẽ phải trả lãi.
Còn khi tài trợ thì Ngân hàng sẽ thu lãi. Lãi suất của các khoản cho vay, tiền gửi và
chứng khoán thường xuyên biến động, có thể làm gia tăng lợi nhuận cho Ngân hàng
và ngược lại cũng có thể gât ra tổn thất cho Ngân hàng. Do đó rủi ro lãi suất là khả
năng thu nhập giảm do chênh lệch lãi suất giảm, khi lãi suất thị trường thay đổi ngoài
dự kiến. Ngoài ra rủi ro lãi suất có thể có một số hình thức khác nhau như rủi ro xác
định lại lãi suất, rủi ro đường cong lãi suất thay đổi, rủi ro tương quan lãi suất, và rủi
ro quyền chọn đi kèm.
• Một số nguyên nhân gây ra rủi ro lãi suất có thể là:
- Sự không phù hợp về kỳ hạn của nguồn và tài sản, và chế độ lãi suất cố định.
- Sự thay đổi của lãi suất thị trường ngoài dự kiến.
Rủi ro lãi suất là một loại rủi ro thị trường quan trọng, đặc biệt trong điều kiện
lãi suất thay đổi như hiện nay. Vì thế, việc thực hiện các biện pháp để hạn chế rủi ro
lãi suất cũng là một nội dung quan trọng trong quản lý rủi ro của Ngân hàng thuơng
mại.
• Một số giải pháp phòng ngừa rủi ro lãi suất:
- Cần duy trì cân đối các khoản vay nhạy cảm với lãi suất bên tài sản nợ và tài
sản có.
- Cần sử dụng một chính sách lãi suất linh hoạt, đặc biệt với những khoản vay
lớn, thời hạn dài cần tìm kiếm nguồn vốn tương xứng, hoặc thực hiện cơ chế lãi suất
thả nổi.
- Sử dụng các công cụ tài chính mới để hạn chế rủi ro ngoại bang, như sử dụng
các nghiệp vụ kỳ hạn về lãi suất tiền vay, thực hiện hợp động tương lai do không cân

xứng tài sản có; thực hiện các nghiệp vụ hoán đổi lãi suất, quyền lựa chọn lãi suất.
Trần Thế Hưng Toán Kinh Tế
48
Chuyên đề tốt nghiệp - 5 - Khoa Toán Kinh Tế
c) Rủi ro tỷ giá
Rủi ro tỷ giá là khả năng xảy ra những tổn thất mà Ngân hàng phải gánh chịu
khi tỷ giá hối đoái thay đổi vượt quá thay đổi dự tính. Trong cơ chế thị trường, tỷ giá
thường xuyên có sự dao động. Sự thay đổi này cùng với trạng thái hối đoái của Ngân
hàng hàng tạo ra thu nhập thặng dư hoặc thâm hụt tạm thời. Mặc dù vậy cũng có
những thay đổi tỷ giá ngoài dự kiến dẫn đến tổn thất cho Ngân hàng.
• Các nhân tố tác động đến rủi ro tỷ giá:
- Lãi suất.
- Các chính sách của chính phủ.
- Sự đầu cơ trên thị trương.
- Tính nhạy cảm của thị trường.
- Lạm phát
- Sự ổn định về chính trị.
• Loại tiền kinh doanh:
Một số đồng tiền có sự biến động về tỷ giá rất lớn trong khi đó một số đồng
tiền lại có sự biến động ít hơn.
• Một số giải pháp để hạn chế rủi ro tỷ giá:
Sử dụng một số công cụ - các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ để quản lý rủi ro.
Việc phòng ngừa rủi ro của giao dịch kỳ hạn bằng một giao dịch Swap, dùng giao
dịch quyền chọn để hạn chế rủi ro.
Việc nắm giữ một loại ngoại tệ nào đó quá nhiều là mạo hiểm vì khiến Ngân
hàng phải gánh chịu rủi ro tỷ giá phát sinh. Do đó Ngân hàng nên thực hiện đa dạng
hoá các loại ngoại tệ kinh doanh tránh những phị thuộc quá nhiều vào Đôla Mỹ, phân
tán rủi ro, thích nghi được với nhũng biến động bất thường về tỷ giá.
d) Rủi ro thanh toán
Rủi ro thanh toán là những tác động do sự biến động của Tài sản Nợ và Tài

sản Có trong quá trình hoạt động của Ngân hàng, làm cho Ngân hàng không có đủ
tiền để thực hiện các cam kết với khách hàng, nói cách khác Ngân hàng không có khả
năng thanh toán các giao dịch của khách hàng theo các cam kết.
Một số nguyên nhân có thể gây ra rủi ro thanh khoản:
- Do Ngân hàng sử dụng vốn để đầu tư, cho vay, nhưng chưa thu hồi được vì
chưa đến kỳ hạn khách hàng trả nợ, nhưng Ngân hàng phải thanh toán các khoản nợ
đến hạn (do sự biến động của tài sản Nợ và Tài sản Có trong quá trình hoạt động).
Trần Thế Hưng Toán Kinh Tế
48
Chuyên đề tốt nghiệp - 6 - Khoa Toán Kinh Tế
- Do có nhiều khoản vay kém chất lượng nên Ngân hàng không thu được nợ,
điều này làm cho Ngân hàng không đủ tiền để thực hiện các cam kết với khách hàng,
nói cách khác Ngân hàng không có khả năng thanh toán các giao dịch của khách hàng
theo các cam kết như thiếu hoặc mất khả năng thanh toán.
- Do những người gửi tiền đồng thời có nhu cầu rút tiền gửi ở Ngân hàng ngay
lập tức. Hoặc có dòng tiền lớn rút ra đột ngột do yếu tố mất ổn định vĩ mô, do thông
tin bất lợi cho Ngân hàng.
Việc thiếu khả năng thanh toán là thiếu tiền theo dự kiến, điều này đòi hỏi
Ngân hàng phải bù đắp lượng tiền thiếu với chi phí cao hơn bình thường dẫn đến làm
giảm lợi nhuận. Khi lợi nhuận giảm qua số cân bằng thu chi làm cho NH bị lỗ trong
kinh doanh. Nếu số lỗ này không được bù đắp và ngày càng tăng lên do việc huy
động vốn đảm bảo khả năng thanh toán sẽ dẫn đến việc NH bị phá sản. Ngược lại khi
Ngân hàng thừa khả năng thanh toán (tức là duy trì số tiền không sinh lời hoặc là sinh
lời thấp quá lớn để đảm bảo khả năng thanh toán) cũng sẽ dẫn đến thu nhập thấp, làm
giảm khả năng sinh lời của Ngân hàng.
Trong trường hợp mất khả năng thanh toán cũng sẽ dẫn đến việc NH bị phá
sản vì mọi khách hàng là chủ nợ của NH sẽ cùng rút tiền ồ ạt (kể cả những khoản nợ
chưa đến hạn) trong khi những khách nợ của Ngân hàng lại không thanh toán vì các
khoản nợ chưa đến hạn mà NH không thể huy động được tiền, kể cả việc chi phí cao
hơn mức bình thường.

Khi bị phá sản do mất khả năng thanh toán, hậu quả không phải chỉ xảy ra đối
với chính Ngân hàng đó mà nó còn thường kéo theo sự rút tiền ồ ạt của khách hàng
tại các Ngân hàng khác. Vì vậy các Ngân hàng phải tính toán nhu cầu khả năng thanh
toán, đó là việc tính toán nhu cầu phải chi và có thể phải chi của Ngân hàng.
e) Rủi ro trong dịch vụ bảo quản và quản lý chứng từ có giá
Trong điều kiện kinh tế thị trường như hiện nay thì việc các Ngân hàng thuơng
mại đa dạng hoá hoạt động của mình được coi là những thay đổi tất yếu. Một trong
những hoạt động đó là bảo quản và quản lý chứng từ có giá, một công việc có thể
được xem là có rất nhiều rủi ro. Các loại rủi ro mà Ngân hàng phải gánh chịu khi kinh
doanh chứng khoán rất cao; những rủi ro đó bao gồm:
• Rủi ro thị trường: các giấy tờ có giá do các Ngân hàng thuơng mại nắm giữ
luôn có khả năng thay đổi giá trị do các tác động từ thị trường, hay từ chính bản thân
Ngân hàng thuơng mại, hoặc Chính phủ…Vì thế các Ngân hàng thuơng mại sẽ bị
Trần Thế Hưng Toán Kinh Tế
48
Chuyên đề tốt nghiệp - 7 - Khoa Toán Kinh Tế
giảm giá trị tài sản nếu dự đoán không đúng về tình hình thị trường, gây ra những
thiệt hại nhất định đối với Ngân hàng.
• Rủi ro do người phát hành giấy tờ có giá không thể thanh toán được: mọi
giấy tờ có giá mà một Ngân hàng thuơng mại nắm giữ đều tiềm ẩn rủi ro này (ngoại
trừ trái phiếu Chính phủ). Các Ngân hàng thuơng mại có thể chọn loại hình giấy tờ có
giá để đầu tư cho phù hợp với mục đích chính của mình, nhưng phải luôn đánh giá
đúng mức rủi ro của chứng khoán đó. Việc người phát hàng không thể thanh toán
được luôn gây ra những thiệt hại đáng kể cho các Ngân hàng, nó gián tiếp gây ra
những thiệt hại đối với toàn bộ hệ thống kinh tế quốc gia. Chính vì vậy mà các quốc
gia đều đã đặt ra những quy định chỉ cho phép Ngân hàng thuơng mại được phép
kinh doanh số chứng khoán đã được xếp hạng ở một mức nào đó.
• Rủi ro nhân sự: Hoạt động kinh doanh giấy tờ có giá của Ngân hàng
thuơng mại rất đa dạng. Nó đòi hỏi sự độc lập của các cá nhân và nhân viên Ngân
hàng. Chính vì vậy mà những rủi ro phát sinh bởi chính các nhân viên của Ngân hàng

là điều không thể tránh khỏi, đặc biệt trong hoạt động môi giới đầu tư cho khách
hàng.
• Rủi ro do yêu cầu thanh khoản: các Ngân hàng luôn phải đáp ứng một nhu
cầu thanh khoản nhất định và việc đầu tư vào giấy tờ có giá có thể làm giảm khả năng
thanh khoản của Ngân hàng, làm tăng rủi ro do yêu cầu thanh khoản.
• Rủi ro khác: Ngân hàng còn phải đối mặt với một số rủi ro khác trong quản
lý và kinh doanh giấy tờ có giá như rủi cháy, mất mát, cướp…Và còn nhiều rủi ro tới
từ các hoạt động khác của Ngân hàng, chúng luôn luôn tác động qua lại lẫn nhau.
• Ngoài các rủi ro trên Ngân hàng còn phải đối mặt với nhiều loại rủi ro
quan trọng khác như:
- Rủi ro chính trị: xảy ra khi những quy định về pháp luật trong và ngoài nước
thay đổi sẽ có những ảnh hưởng xấu tới thu nhập của Ngân hàng.
- Rủi ro phạm tội: xảy ra khi những người chủ Ngân hàng, nhân viên hay các
khách hàng có hành vi phạm pháp như thực hiện các hành động lừa đảo, biến thủ,
trộm cắp, hay các hành động bất hợp pháp khác làm cho Ngân hàng bị thua lỗ.
• Rủi ro do các tình huống bất ngờ: đó là các tình huống mang tính chất bất
ngờ như động đất, núi lửa, hoả hoạn…
1.2. RỦI RO TÍN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG.
1.2.1. Tín dụng
a) Khái niệm tín dụng
Trần Thế Hưng Toán Kinh Tế
48
Chuyên đề tốt nghiệp - 8 - Khoa Toán Kinh Tế
Tín dụng là là loại tài sản mà có thể nói là chiếm tỷ trọng lớn nhất ở phần lớn
các NHTM, phản ánh hoạt động đặc trưng của NH.
Tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ người sở hữu
sang người sử dụng và sau một thời gian nhất định được quay lại người sở hữu với
giá trị lớn hơn ban đầu.
b) Phân loại tín dụng
Ngân hàng thường cung cấp rất nhiều loại tín dụng và cho nhiều đối tượng

khách hàng với những mục đích khác nhau. Để tránh nhầm lẫn và để có cái nhìn tổng
quát về các loại tín dụng thì người ta phân loại tín dụng theo một số tiêu chí sau:
● Theo thời hạn:
- Tín dụng ngắn hạn: Có thời hạn dưới 1 năm.
- Tín dụng trung hạn: Có thời hạn từ 1 đến 5 năm.
- Tín dụng dài hạn: Có thời hạn trên 5 năm.
● Theo đối tượng khách hàng:
- Tín dụng với khách hàng cá nhân.
- Tín dụng với khách hàng doanh nghiệp.
● Theo mức độ tín nhiệm khách hàng:
- Tín dụng có bảo đảm: Là tín dụng có tài sản cầm cố, thế chấp hay bảo lãnh
của người thứ ba.
- Tín dụng không có bảo đảm: Là tín dụng không có tài sản cầm cố, thế chấp
hay bảo lãnh của người thứ ba.
1.2.2. Rủi ro tín dụng
a) Khái niệm rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng là khoản lỗ tiềm tàng vốn có được tạo ra khi cấp tín dụng cho
khách hàng.
Bất kì một khoản tín dụng nào được cấp ra thì đều phải tuân thủ theo ba
nguyên tắc cơ bản sau đây:
i) Khoản tín dụng đó phải được sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả
ii) Khoản tín dụng đó phải có tài sản đảm bảo.
iii) Khoản tín dụng đó phải được hoàn trả cả vốn và lãi theo đúng kì hạn đã
cam kết.
Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, vì một lý
do nào đó (có thể là chủ quan hoặc khách quan) khiến cho nguyên tắc thứ 3 bị vi
phạm, tức là khoản tín dụng đó không được hoàn trả đúng kì hạn đã cam kết. Thì điều
Trần Thế Hưng Toán Kinh Tế
48
Chuyên đề tốt nghiệp - 9 - Khoa Toán Kinh Tế

này sẽ khiến cho NH sẽ phải chịu một số tổn thất như: Thiếu vốn khả dụng, mất khả
năng thanh toán… những tổn thất này người ta gọi là rủi ro tín dụng. Vậy ta có thể
đưa ra một khái niệm đầy đủ về rủi ro tín dụng như sau:
“Rủi ro tín dụng là những thiệt hại, mất mát mà ngân hàng phải gánh chịu do
người vay vốn hay người sử dụng vốn của ngân hàng không trả đúng hạn, không
thực hiện đúng nghĩa vụ đã cam kết trong hợp đồng tín dụng với bất kì lý do nào”.
b) Phân lại rủi ro tín dụng
Căn cứ vào khái niệm rủi ro tín dụng, thì ta có thể chia rủi ro tín dụng ra thành
các loại sau:
• Rủi ro không hoàn trả nợ đúng hạn: Điều này có thể gây ra hai ảnh hưởng:
i) Ảnh hưởng tới kế hoạch sử dụng vốn của NH
Chẳng hạn khi NH huy động nguồn vốn có kỳ hạn 12 tháng với trị giá là 1
triệu USD để tiến hành hoạt động cho vay đảm bảo sử dụng vốn một cách có hiệu
quả. Nếu như NH cho khách hàng A vay thời hạn là 9 tháng, để sử dụng tối đa đồng
vốn, NH dự định cho khách hàng B vay 3 tháng tiếp. Nhưng nếu sau 9 tháng, khách
hàng A không hoàn trả được vốn tín dụng, lúc này buộc NH phải huy động ở trên thị
trường để bù đắp vốn cho vay chưa được thu hồi từ khác hàng A. Có thể là đi vay
ngân hàng khác, hoặc đi vay ngân hàng trung ương, hoặc là phải bán các giấy tờ có
giá, thậm chí có thể bán ngay khoản tín dụng đó. Nhưng trong trường hợp đó, NH
vẫn phải chịu một khoản tổn thất do chi phí vay vốn cao hơn, và tốn một khoản thời
gian, đấy là chưa nói đến khả năng không thể huy động được. Khi đó NH sẽ mất đi
một cơ hội đầu tư, tức là không thể cho khách hàng B vay được, do đó sẽ làm giảm
hiệu quả sử dụng vốn và ảnh hưởng đến lợi nhuận và uy tín của chính NH.
ii) Gây cản trở và khó khăn cho việc chi trả cho người gửi tiền
NH là một tổ chức đi vay để cho vay. Chính vì vậy, khi NH huy động được
một khoản tiền thì ngay lập tức, NH sẽ dùng số tiền đó để đầu tư cho vay. Nếu khi
đến hạn trả mà người vay không trả nợ cho NH, NH sẽ không đủ tiền để thanh toán
cho khách hàng gửi tiền vào, điều này sẽ làm giảm khả năng thanh toán và uy tín của
NH.
• Rủi ro không có khả năng trả nợ: Là rủi ro sẽ xảy ra trong trường hợp khi

doanh nghiệp đi vay đã mất khả năng chi trả. Vì vậy, NH chỉ còn trông chờ vào giá
trị thanh lý tài sản của doanh nghiệp để đỡ đi một phần nợ gốc. Mặc dù vậy, vấn đề
này hết sức khó khăn vì một số nguyên nhân sau:
 Giá trị thanh lý bị giảm rất nhiều so với thời điểm thẩm định ban đầu.
Trần Thế Hưng Toán Kinh Tế
48
Chuyên đề tốt nghiệp - 10 - Khoa Toán Kinh Tế
 Bản thân tài sản thanh lý đó rất khó bán vì không ai muốn mua chúng.
 Giá trị của tài sản thường bị chia sẻ với các chủ nợ ưu tiên trước như: nộp
thuế cho nhà nước hay trả lương cho cán bộ nhân viên…
Nói tóm lại thì các món nợ thuộc loại rủi ro này rất phức tạp, khó thu hồi và là
gánh nặng thật sự đối với NH. Có nhiều cách phân loại nợ:
- Theo phương pháp định lượng: Phân ra làm 5 nhóm
Nhóm 1: Nợ đủ tiêu chuẩn, bao gồm nợ trong hạn được đánh giá có khả năng
thu hồi đủ gốc và lãi đúng hạn và các khoản nợ có thể phát sinh trong tương lai như là
các khoản bảo lãnh, cam kết cho vay hay chấp nhận thanh toán.
Nhóm 2: Nợ cần chú ý, bao gồm có nợ quá hạn dưới 90 ngày và cơ cấu lại thời
hạn trả nợ.
Nhóm 3: Nợ dưới tiêu chuẩn, bao gồm có nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180 ngày
và nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn 90 ngày.
Nhóm 4: Nợ nghi ngờ, bao có gồm nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày và
nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ từ 90 ngày đến 180 ngày.
Nhóm 5: Nợ có khả năng mất vốn, bao gồm có nợ quá hạn trên 360 ngày, nợ
cơ cấu lại thời hạn trả nợ trên 180 ngày và nợ khoanh trờ chính phủ xử lý.
- Theo phương pháp định tính:
Nhóm 1: Nợ đủ tiêu chuẩn, bao gồm có nợ được đánh giá là có khả năng thu
hồi đầy đủ gốc và lãi đúng hạn.
Nhóm 2: Nợ cần chú ý, bao gồm có nợ được đánh giá là có khả năng thu hồi
đầy đủ gốc và lãi nhưng có dấu hiệu khách hàng suy giảm khả năng trả nợ.
Nhóm 3: Nợ dưới tiêu chuẩn, bao gồm nợ được đánh giá là không có khả năng

thu hồi gốc và lãi khi đến hạn.
Nhóm 4: Nợ nghi ngờ, bao gồm nợ được đánh giá là có khả năng tổn thất cao.
Nhóm 5: Nợ có khả năng mất vốn, bao gồm nợ được đánh giá là không có khả
năng thu hồi, mất vốn.
1.2.3. Nguyên nhân xảy ra rủi ro tín dụng
a) Những nguyên nhân khách quan
● Những nguyên nhân bất khả kháng: Những nguyên nhân bất khả kháng sẽ
tác động tới người vay, làm cho họ mất khả năng thanh toán cho ngân hàng.
● Do tác động của chu kì khách quan của nền kinh tế: Bất kì nền kinh tế nào
cũng có chu kì phát triển theo một ngưỡng nhất định.
Trần Thế Hưng Toán Kinh Tế
48
Chuyên đề tốt nghiệp - 11 - Khoa Toán Kinh Tế
● Cơ chế chính sách của nhà nước: Sự thay đổi trong cơ chế và chính sách
của nhà nước có thể tạo thuận lợi hoặc gây khó khăn cho doanh nghiệp trong quá
trình sản xuất kinh doanh.
● Biến động về kinh tế, chính trị của các nước trên thế giới: Vấn đề môi
trường kinh tế, chính trị ổn định là tiền đề để doanh nghiệp phát triển lành mạnh, ổn
định và các ngân hàng mới có thể phát triển ổn định.
b) Những nguyên nhân chủ quan từ phía khách hàng:
Khả năng gây ra rủi ro phổ biến và hay gặp nhất là từ phía khách hàng
● Với khách hàng cá nhân: Nguồn trả nợ chủ yếu đó là thu nhập. Sau khi vay
vốn NH thường có rủi ro do những nguyên nhân sau đây:
+ Công việc bị thay đổi hoặc mất việc làm.
+ Có thu nhập không ổn định.
+ Rủi ro đạo đức do việc cố tình không hoàn trả nợ vay.
● Với khách hàng doanh nghiệp: Nguyên nhân gây ra rủi ro gồm:
+ Về phía thị trường của doanh nghiệp: Chi phí sản xuất tăng cao làm cho sản
phẩm của doanh nghiệp kém khả năng cạnh tranh về giá cả, sản phẩm làm ra thì kém
chất lượng… điều này làm cho sản phẩm của doanh nghiệp không tiêu thụ được và

khó khăn trong việc hoàn trả nợ NH.
+ Khách hàng sử dụng vốn sai mục đích do đó việc mất vốn hoặc hiệu quả đầu
tư thấp dẫn đến không trả được nợ.
+ Do tình trạng gian lận, tham nhũng diễn ra trong nôi bộ doanh nghiệp.
+ Do sự thay đổi nhân sự hoặc thay đổi chủ sở hữu doanh nghiệp.
c) Những nguyên nhân chủ quan từ phía Ngân hàng.
• Cán bộ tín dụng không thực hiên nghiêm túc quá trình cho vay, dẫn tới
đánh giá không đầy đủ, chính xác về khách hàng trước khi cho vay hoặc không kiểm
tra, giám sát chặt chẽ việc sử dụng vốn vay của khách hàng.
• Thiếu thông tin tín dụng hoặc thông tin không đầy đủ, kịp thời, chính xác.
• Trình độ quản lý, năng lực chuyên môn của các cán bộ NH nhiều khi chưa
bắt kịp được với cơ chế thị trường luôn luôn biến động, dẫn đến hạn chế trong vấn đề
quản lý các món vay.
• Cán bộ tín dụng thiếu đạo đức nghề nghiệp, cố tình làm sai nguyên tắc.
1.2.4. Các chỉ tiêu phản ánh rủi ro tín dụng
Trần Thế Hưng Toán Kinh Tế
48
Chuyên đề tốt nghiệp - 12 - Khoa Toán Kinh Tế
a) Nợ quá hạn
Nợ quá hạn là một khoản tín dụng được cấp ra nhưng không thể thu hồi được
đúng hạn, do những nguyên nhân khác nhau gây ra. Nợ quá hạn sẽ làm tăng lên các
khoản chi phí cho việc đi đòi nợ, làm tăng chi phí cho hoạt động kinh doanh nên có
ảnh hưởng xấu tới hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Nợ quá hạn cũng sẽ làm mất
cân bằng các cân đối tài sản chính và ảnh hưởng xấu tới tính chủ động trong kế hoạch
nguồn vốn của Ngân hàng. Nếu quy mô nợ quá hạn càng lớn thì tính rủi ro sẽ càng
cao. Tuy vậy, nó còn phụ thuộc vào cả quy mô cho vay của Ngân hàng.
Tỷ lệ nợ quá hạn = ( Nợ quá hạn / Tổng dư nợ ) là một chỉ tiêu mà hầu hết các
Ngân hàng đều sử dụng để đánh giá mức độ rủi ro trong hoạt động tín dụng. Nếu tỷ
lên đó cao thì có thể nói rằng hoạt động tín dụng của Ngân hàng là không hiệu quả và
nguy cơ rủi ro tín dụng rất có khả năng sẽ xảy ra, Ngân hàng cần phải xem xét lại quy

trình cho vay của mình để làm giảm bớt nợ quá hạn. Ngược lại, nếu như tỷ lệ đó là
thấp thì rủi ro tín dụng nếu có xảy ra thì cũng không có ảnh hưởng lớn tới hoạt động
kinh doanh của Ngân hàng.
b) Nợ khó đòi
Nợ khó đòi là nợ quá hạn không được thanh toán, mặc dù Ngân hàng đã gia
hạn nợ. Chính vì vậy có thể nói đây là chỉ tiêu rõ ràng nhất để phản ánh mức độ tổn
thất trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng. Hầu hết là các Ngân hàng thuơng mại
đều thực hiện việc lập quỹ dự phòng rủi ro bằng 100% số nợ khó đòi.
Tỷ lệ nợ khó đòi = ( Nợ khó đòi / Tổng dư nợ )
Cho biết Ngân hàng cho vay 100 đơn vị tiền tệ thì tỷ lệ tổn thất là bao nhiêu
đơn vị tiền tệ. Nợ khó đòi và tỷ lệ nợ khó đòi = ( Nợ khó đòi / Tổng dư nợ ) nó phản
ánh trực tiếp chất lượng tín dụng nói riêng và hoạt động kinh doanh của Ngân hàng
nói chung. Nếu nợ khó đòi cao làm cho Ngân hàng phải trích lập quỹ dự phòng rủi ro
nhiều hơn, chi phí hoạt động kinh doanh của Ngân hàng sẽ tăng, qua đó đẩy lãi suất
cho vay của Ngân hàng tăng lên, làm giảm tính cạnh tranh của Ngân hàng.
c) Nợ có vấn đề
Khi thực hiện nghiệp vụ cho vay thì các Ngân hàng thuơng mại luôn mong
muốn rằng khoản cho vay đó sẽ được hoàn trả đầy đủ, đúng thời hạn như đã thoả
thuận. Vì thế, để đảm bảo an toàn cho hoạt động của mình, sau khi cấp tín dụng cho
khách hàng, Ngân hàng phải thường xuyên giám sát khoản tín dụng đã cấp đó, để
xem khách hàng có sử dụng vốn đúng mục đích đã thoả thuận hay không? Và mức độ
hiệu quả sử dụng vốn vay của khách hàng như thế nào?
Trần Thế Hưng Toán Kinh Tế
48
Chuyên đề tốt nghiệp - 13 - Khoa Toán Kinh Tế
Vì vậy, có thể nói rằng hoạt động giám sát có vai trò hết sức quan trọng: nó
hướng vào những dấu hiệu báo trước các vấn đề kinh doanh nảy sinh, cũng như
những biện pháp khắc phục, điều đó giúp cho Ngân hàng nhận biết và phát hiện được
các khoản nợ xấu có vấn đề, để có hành động và biện pháp cần thiết, kịp thời để ngăn
ngừa hoặc xử lý.

Nợ có vấn đề là những khoản vay, trong đó thoả thuận hoàn trả của khách
hàng có khả năng bị đổ vỡ, dù hiện tại những khoản vay đó chưa đến kỳ hạn trả nợ
gốc và lãi.
Để tránh được những thiệt hại và tổn thất, thì cán bộ tín dụng cần sớm phát
hiện ra được những khoản nợ có vấn đề, để có thể kịp thời ngăn ngừa hoặc xử lý.
Trong thực tế có nhiều dấu hiệu biểu hiện khoản vay sẽ gặp khó khăn. Một số trường
hợp cho ta thấy khó khăn xuất hiện ngay khi bắt đầu cho vay, một số khác thì có thể
xuất hiện chậm hơn, và một số lại đột ngột phát sinh mà không hề có dấu hiệu nào
báo trước. Điều đó có nghĩa là không có một mô hình nhất định nào về các biến cố
thường xuyên xảy ra để có thể kết luận rằng một khoản cho vay sẽ khó hoàn trả. Tuy
nhiên, ta cũng có thể dựa vào một số nhóm dấu hiệu để cảnh báo rủi ro tín dụng trong
hoạt động tín dụng của Ngân hàng.
d) Lãi treo
Lãi treo là số tiền lãi mà khách hàng không trả được cho Ngân hàng khi đến kỳ
hạn thanh toán. Và đây cũng là một dấu hiệu quan trọng để có thể nhận biết rủi ro tín
dụng. Vì việc thanh toán lãi thường không gắn liền với việc trả gốc, và có giá trị nhỏ
hơn gốc rất nhiều, được trả vào những thời điểm nhất định, tuỳ theo sự thoả thuận của
Ngân hàng và khách hàng. Khi khách hàng không thanh toán được tiền lãi của khoản
vay thì có thể coi đấy chính là một dấu hiệu thể hiện rằng doanh nghiệp đang gặp khó
khăn về mặt tài chính.
Tỷ lệ lãi treo = ( lãi treo phát sinh / Tổng thu nhập ) từ hoạt động tín dụng,
cũng là một chỉ tiêu quan trọng trong việc đánh giá mức độ rủi ro của Ngân hàng.
Tuy nhiên việc nhận biết rủi ro tín dụng nếu mà chỉ thông qua các khoản nợ có
vấn đề, nợ quá hạn, nợ khó đòi và lãi treo thì dường như đã khá là muộn đối với các
Ngân hàng. Bởi vì chỉ khi tình hình của khách hàng là khó khăn đặc biệt thì những
dấu hiệu này mới bộc lộ. Đến lúc đó thì tổn thất mà Ngân hàng có thể gặp phải có thể
sẽ là rất lớn. Vì vậy nên, điều mà các Ngân hàng quan tâm đó là những dấu hiệu có
thể tạo ra rủi ro tín dụng; để từ đó có thể chủ động và kịp thời đưa ra những biện pháp
phù hợp, nhằm hạn chế được những khó khăn tổn thất cho cả Ngân hàng và khách
Trần Thế Hưng Toán Kinh Tế

48
Chuyên đề tốt nghiệp - 14 - Khoa Toán Kinh Tế
hàng. Do đó, ngoài các dấu hiệu ở trên, các cán bộ tín dụng còn có thể nhận biết rủi
ro tín dụng thông qua một số dấu hiệu khác.
e) Cơ cấu dư nợ tín dụng
Giống như mọi hoạt động đầu tư khác thì hoạt động tín dụng của Ngân hàng
cũng phải tuân thủ theo nguyên tắc “không bỏ tất cả trứng vào một giỏ - not put all
your eggs in one basket”. Bởi vì doanh thu của Ngân hàng chủ yếu là từ lãi do hoạt
động tín dụng mạng lại. Nếu như tỷ trọng cho vay đối với một khách hàng trong tổng
dư nợ quá lớn thì khi khách hàng này sẽ gặp khó khăn trong việc trả nợ cho Ngân
hàng, sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới doanh thu của Ngân hàng. Cũng như vậy, nếu như
Ngân hàng chỉ tập trung cho các doanh nghiệp hoạt động trong một lĩnh vực nào đó
vay thì rủi ro sẽ rất lớn nếu ngành đó hoạt động không hiệu quả.
f) Một số dấu hiệu khác
Nhóm các dấu hiệu về hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Khả năng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp giảm sút, điều này thể hiện
ở giá trị sản lượng và doanh thu của doanh nghiệp bị giảm.
- Thu nhập không thường xuyên và ổn định: Cơ cấu doanh thu thay đổi một
cách bất thường, như doanh thu các hoạt động phụ chiếm tỷ trọng lớn hơn…
- Hệ số quay vòng của vốn lưu động thấp, có sự gia tăng bất thường về hàng
tồn kho và sự gia tăng các khoản nợ thương mại, đặc biệt là các khoản nợ với thời
gian dài.
Nhóm các dấu hiệu liên quan đến phương pháp quản lý và tổ chức khách hàng.
-Thay đổi thường xuyên cơ cấu của hệ thống quản lý hoặc ban điều hành
- Có sự mất đoàn kết, tranh giành quyền lực trong nội bộ doanh nghiệp, có
hiện tượng nhân tài rời bỏ doanh nghiệp.
mục đích, điều hành độc đoán hoặc quá phân tán.
- Cơ cấu nhân lực của doanh nghiệp không hợp lý, bộ phận quản lý thì ngày
càng phình to, có các hoạt động sát nhập với các doanh nghiệp yếu kém khác.
- Có những khoản chi phí bất hợp lý.

Bên cạnh đó, còn có một số dấu hiệu khác như: nhóm các dấu hiệu thuộc về
mặt pháp luật, nhóm các dấu hiệu thuộc về mặt kỹ thuật và thương mại….
1.2.5. Hậu quả của rủi ro tín dụng đối với Ngân hàng thương mại
- Rủi ro làm giảm uy tín của Ngân hàng
- Rủi ro làm ảnh hưởng tới khả năng thanh toán
Trần Thế Hưng Toán Kinh Tế
48
Chuyên đề tốt nghiệp - 15 - Khoa Toán Kinh Tế
- Rủi ro làm giảm lợi nhuận của Ngân hàng
- Rủi ro có thể làm phá sản Ngân hàng
1.3. QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG.
1.3.1. Sự cần thiết phải quản lý rủi ro tín dụng
a) Đối với các tổ chức tín dụng
Trong nền kinh tế thị trường, việc cung cấp tín dụng là chức năng kinh tế cơ
bản của NH. Đối với hầu hết các NH thì dư nợ tín dụng thường chiếm hơn 1/2 tổng
tài sản có và thu nhập từ tín dụng thì chiếm khoảng 1/2 đến 2/3 trong tổng thu nhập
của NH. Tuy nhiên, rủi ro trong kinh doanh NH lại có xu hướng tập trung chủ yếu và
danh mục tín dụng. Trong hoạt động của mình, nhìn chung là các NH chỉ chấp nhận
rủi ro tín dụng mà mức thiệt hại tối đa không cao hơn mức lợi nhuận mong đợi
b) Đối với nền kinh tế
Rủi ro tín dụng không chỉ gây ra thiệt hại cho NH, vì nguồn vốn của NH chủ
yếu được huy động từ nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội. Vì thế, rủi ro tín dụng có thể
làm giảm niềm tin của người gửi tiền, ở mức độ rất nghiêm trọng, hiện tượng rút tiền
hàng loạt có thể xảy ra. Nếu không có đủ dự phòng và xử lý kịp thời, NH có thể bị
sụp đổ và có thể gây ra hiệu ứng lan truyền đặc trưng của hệ thống NH, ảnh hưởng tồi
tệ một cách sâu rộng tới nền kinh tế.
Ở khía cạnh hiệu quả đầu tư xã hội, rủi ro tín dụng xảy ra có là thể đồng nghĩa
với khoản đầu tư của người vay tiền không có hiệu quả, không mang lại lợi ích cho
xã hội. Mặt khác, nếu như NHTM nhà nước gặp phải rủi ro tín dụng, có thể nhận
được sự hỗ trợ của ngân sách nhà nước. Khi đó ngân sách của nhà nước sẽ phải cắt

giảm khoản chi cho các mục tiêu khác. Điều này ít nhiều ảnh hưởng tới các mục tiêu
ổn định và phát triển kinh tế của đất nước.
Do đó việc quản trị rủi ro tín dụng, cụ thể hơn là việc hoàn thiện và nâng cao
năng lực quản trị tín dụng là tiền đề của của việc mở rộng tín dụng có hiệu quả, cũng
là mở rộng tín dụng của NH.
1.3.2. Đo lường rủi ro tín dụng
a) Phân tích tín dụng
Đối với mỗi một đơn xin vay thì cán bộ tín dụng cần phải trả lời được 3 câu
hỏi căn bản sau:
- Người xin vay có thể tín nhiệm và anh biết họ như thế nào?
- Hợp đồng tín dụng có được ký kết một cách đúng đắn và hợp lệ, nhằm bảo
vệ được ngân hàng và người gửi tiền, và người xin vay có khả năng hoàn trả nợ mà
không cần đến một sức ép nào?
Trần Thế Hưng Toán Kinh Tế
48
Chuyên đề tốt nghiệp - 16 - Khoa Toán Kinh Tế
- Trong trường hợp khách hàng không trả nợ, liệu ngân hàng có thể thu hồi nợ
bằng tài sản hay thu nhập của người vay một cách nhanh chóng với chi phí thấp và
rủi ro thấp?
 Người xin vay có thể tín nhiệm?
• Tư cách người vay: Cán bộ tín dụng phải chắc chắn tin rằng: Người xin
vay phải có mục đích tín dụng rõ ràng và có thiện chí nghiêm chỉnh trả nợ cho NH
khi đến hạn. Nếu cán bộ tín dụng không biết chính xác được tại sao khách hàng lại
xin vay tiền, thì cần phải làm rõ ràng mục đích xin vay là gì. Khi mục đích xin vay đã
rõ ràng thì cán bộ tín dụng lại phải xác định xem có phù hợp với chính sách tín dụng
hiện hành của ngân hàng hay không. Tinh thần trách nhiệm, tính trung thực, mục đích
rõ ràng, và thiện chí trả nợ của người vay gọi chung là “ tư cách người vay”
(character). Nếu như phát hiện thấy người vay giả dối trong kế hoạch sử dụng và trả
nợ như đã thỏa thuận, thì cán bộ tín dụng phải từ chối cho vay, nếu không, rủi ro tín
dụng sẽ phát sinh cho ngân hàng.

• Năng lực của người vay: Cán bộ tín dụng phải chắc chắn rằng người xin
vay phải có đủ năng lực hành vi và năng lực pháp lý để ký kết hợp đồng tín dụng với
NH. Ví dụ, ở hầu hết các nước đều quy định đối với người dưới 18 tuổi sẽ không đủ
tư cách pháp lý để ký kết hợp đồng tín dụng. Tương tự, cán bộ tín dụng cũng phải
chắc chắn rằng người đại diện cho công ty ký kết hợp đồng tín dụng phải là người
được ủy quyền hợp pháp của công ty.
• Thu nhập của người vay: Tiêu chí thu nhập của người vay tập chung vào
câu hỏi: Người vay có khả năng tạo ra đủ tiền để trả nợ ? Nhìn chung, người vay có
ba khả năng để có thể tạo ra tiền, đó là: (i) luồng tiền từ doanh thu bán hàng hay từ
thu nhập, (ii) bán thanh lý tài sản, (iii) tiền từ phát hành chứng khoán nợ hay chứng
khoán vốn. Bất cứ nguồn thu nào từ ba khả năng này đều có thể sử dụng để trả nợ vay
cho ngân hàng.
• Bảo hiểm tiền vay: Khi đánh giá về khía cạnh bảo đảm tiền vay, cán bộn
tín dụng phải tự đặt ra câu hỏi: liệu người vay có sở hữu một giá trị nào hay tài sản
nào có chất lượng để hộ trợ cho khoản vay? Cán bộ tín dụng phải đặc biệt chú ý đến
những yếu tố nhạy cảm như: điều kiện, tuổi thọ và mức độ chuyên dụng của tài sản
người vay. Công nghệ là một khía cạnh cũng phải đặc biệt chú ý, bởi vì nếu như tài
sản của người vay có công nghệ lạc hậu, thì giá trị giảm đi rất nhiều và rất khó tìm
được người mua trong khi công nghệ lại thay đổi hàng ngày.
• Các điều kiện: Cán bộ tín dụng và nhà phân tích tín dụng cần phải biết
được xu hướng hiện hành về công việc kinh doanh, ngành nghề của người vay, cũng
Trần Thế Hưng Toán Kinh Tế
48
Chuyên đề tốt nghiệp - 17 - Khoa Toán Kinh Tế
như khi điều kiện kinh tế thay đổi sẽ có ảnh hưởng như thế nào đến khoản tín dụng.
Để đánh giá xu hướng ngành và điều kiện kinh tế có ảnh hưởng đến hoạt động kinh
doanh của khách hàng, thì hầu hết các ngân hàng đều duy trì các phai dữ liệu thông
tin bao gồm các mẫu báo cáo có liên quan, các bài tạp chí, và các báo cáo nghiên cứu.
• Kiểm soát: Thường tập trung vào những vấn đề như: Các thay đổi trong
luật pháp và quy chế có ảnh hưởng xấu đến người vay? Yêu cầu tín dụng của người

vay có đáp ứng được tiêu chuẩn của ngân hàng và của nhà quản lý về chất lượng tín
dụng?
 Ngân hàng có thể đòi nợ thuận lợi bằng tài sản bảo đảm?
• Lý do nhận bảo đảm tín dụng:
Mục đích của việc ngân hàng nhận bảo đảm tín dụng là:
 Thứ nhất, nếu như người vay không trả nợ theo quy định, thì ngân hàng có
quyền bán tài sản cầm cố hay thế chấp để thu hồi nợ.
 Thứ hai, việc nhận bảo đảm tín dụng tạo cho ngân hàng lợi thế về tâm lý so
với người vay. Bởi vì một tài sản khi đã là vật đặt cọc( như xe hơi, đất
đai…), thì buộc người đặt cọc( người vay) phải có trách nhiệm nhiều hơn
trong việc hoàn trả nợ vay để khỏi phải gánh những tài sản giá trị của
mình.
• Các loại bảo đảm tín dụng thông thường:
 Tài khoản phải thu: Ngân hàng nhận bảo đảm tín dụng bằng việc quy định
tỷ lệ % (thường là 40% – 90% ) giá trị của tài khoản phải thu theo số liệu
cân đối trên bảng cân đối tài chính. Khi khách hàng của người vay thanh
toán tiền hàng mua chịu, thì số tiền này được dùng để trả nợ cho ngân hàng.
 Bao thanh toán: Ngân hàng có thể mua tài khoản phải thu của người vay
theo một tỷ lệ % nhất định theo giá trị ghi sổ. Tỷ lệ % này phụ thuộc vào
chất lượng và thời hạn của các khoản phải thu.
 Hàng tồn kho: Để bảo đảm tín dụng, ngân hàng có thể nhận hàng tồn kho,
nguyên liệu, vật tư của người vay để làm tài sản cầm cố. Thông thường,
ngân hàng chỉ cho vay với một tỷ lệ phần trăm nhất định ( từ 30 đến 80 % )
trên giá trị thị trường hiện hành của tài sản cầm cố, nhằm phòng ngừa hàng
hóa giảm giá.
 Thế chấp tài sản cố định: Các ngân hàng cũng có thể chấp nhận bảo đảm tín
dụng bằng tài sản cố định như đất đai và những công trình gắn liền với đất.
 Bảo lãnh của bên thứ ba: Trong trường hợp người vay không có tài sản bảo
bảo đảm tín dụng thì khi đó phải có một bên thứ ba đứng ra để bảo lãnh. Bảo
Trần Thế Hưng Toán Kinh Tế

48
Chuyên đề tốt nghiệp - 18 - Khoa Toán Kinh Tế
lãnh là việc của bên thứ ba cam kết với bên cho vay là sẽ thực hiện nghĩa vụ
trả nợ thay cho người vay, nếu như người vay không trả được nợ khi đến
hạn. Bảo lãnh có thể là có bảo đảm bằng tài sản hoặc uy tín.
b) Kiểm tra tín dụng
Những gì xảy ra đối với hợp đồng tín dụng sau khi đã được ký kết giữa người
vay và ngân hàng? Có thể cho qua và quên đi tất cả cho đến khi hợp đồng đến hạn và
người vay hoàn trả lần cuối? Rõ ràng thật là khờ dại nếu như ngân hàng làm như vậy,
bởi vì các điều kiện cấp tín dụng thường thay đổi liên tục theo thời gian, có ảnh
hưởng đến điều kiện tài chính của người vay và khả năng hoàn trả nợ vay của khách
hàng. Những biến động trong nền kinh tế làm suy yếu một số công ty và làm tăng nhu
cầu tín dụng đối với các công ty khác, trong khi đó, từng cá nhân thì lại có thể bị mất
việc làm, nhiễm bệnh hiểm nghèo làm cho người vay không còn khả năng trả nợ. Cán
bộ tín dụng cần phải nhạy cảm với những diễn biến như vậy và định kỳ phải kiểm tra
tất cả các khoản tín dụng cho đến khi chúng đến hạn.
Trong khi ngày nay các ngân hàng phải sử dụng rất nhiều các quy trình khác
nhau để kiểm tra tín dụng, tuy nhiên, những nguyên lý chung đang được áp dụng tại
hầu hết các ngân hàng bao gồm:
i) Tiến hành kiểm tra tất cả các loại tín dụng theo định kỳ nhất định, ví dụ
định kỳ 30, 60, hay 90 ngày đối với các khoản tín dụng nhỏ và vừa; đối với
những khoản tín dụng lớn thì phải tiến hành kiểm tra thường xuyên hơn.
ii)Xây dựng kế hoạch, chương trình, nội dung cho quá trình kiểm tra một cách
thận trọng và chi tiết, để có thể bảo đảm rằng những khía cạnh quan trọng
nhất của mỗi khoản tín dụng phải được kiểm tra, gồm:
 Kế hoạch trả nợ của khách hàng, nhằm bảo đảm rằng khách hàng
không trậm trễ trong việc thanh toán nợ cho NH theo kế hoạch.
 Chất lượng và điều kiện của tài sản dùng để làm bảo đảm tín dụng.
 Tính đầy đủ và hợp lệ của hợp đồng tín dụng, bảo đảm rằng ngân hàng
có đầy đủ thẩm quyền hợp pháp để sở hữu các tài sản bảo đảm tín dụng

đối với người vay trước tòa án nếu như cần thiết.
 Đánh giá điều kiện tài chính và những dự váo về người vay xem đã thay
đổi, trên cơ sở đó xem xét lại nhu cầu tín dụng của người vay thay đổi
như thế nào.
 Đánh giá xem khoản tín dụng có tuân thủ chính sách cho vay của ngân
hàng và các tiêu chuẩn do cơ quan quản lý đặt ra.
Trần Thế Hưng Toán Kinh Tế
48
Chuyên đề tốt nghiệp - 19 - Khoa Toán Kinh Tế
iii)Thường xuyên kiểm tra các khoản tín dụng lớn, bởi vì nếu các “ đại gia” bị
vỡ nợ sẽ có ảnh hưởng nghiêm trọng đến điều kiện tài chính của ngân
hàng.
iv) Quản lý chặt chẽ thường xuyên các khoản tín dụng có vấn đề, tăng cường
kiểm tra giám sát khi phát hiện những dấu hiệu không lành mạnh liên quan
đến khoản tín dụng của ngân hàng.
Tăng cường kiểm việc tra tín dụng khi nền kinh tế có những biểu hiện đi
xuống, hoặc những ngành nghề sử dụng nhiều tín dụng của ngân hàng có biểu hiện
những vấn đề nghiêm trọng phát triển. Việc kiểm tra tín dụng không phải là công
viện thừa, lãng phí, mà là rất cần thiết để hình thành chính sách cho vay của ngân
hàng một cách lành mạnh. Điều đó không những giúp cho nhà quản lý nhận ra những
vấn đề một chách nhanh chóng, mà còn có tác dụng kiểm tra thường xuyên xem cán
bộ tín dụng có chấp hành đúng chính sách cho vay của ngân hàng hay không.
c) Xử lý tín dụng có vấn đề
Mặc dù hầu hết các ngân hàng đã xây dựng một cơ chế bảo đảm an toàn tín
dụng, nhưng điều không thể tránh khỏi là một số khoản tín dụng có vấn đề thường
gồm các trường hợp như: người vay không thể trả nợ đúng hạn một hay nhiều kỳ hay
tài sản bảo đảm tín dụng bị giảm giá đáng kể. Trong khi nội dung tín dụng có vấn đề
ít nhiều là khác nhau trong các tình huống khác nhau, nhưng một số đặc điểm trung
cho hầu hết các khoản tín dụng có vấn đề có thể nêu ra như sau:
i)Sự trậm trễ bất thường và không có lý do trong việc cung cấp các báo cáo tài

chính và trả nợ theo lịch đã thỏa thuận: hoặc chậm trễ trong việc liên lạc
với cán bộ tín dụng.
ii) Đối với tín dụng doanh nghiệp, bất cứ một sự thay đổi bất thường nào
trong phương thức hạch toán khấu hao, kế hoạch trả lương và phụ cấp, giá
trị hàng tồn kho, tài khoản thuế và thu nhập.
iii)Đối với tín dụng doanh nghiệp, việc cơ cấu lại nợ hay hạn chế thanh toán
cổ tức, hoặc có sự thay đổi vị trí xếp hạng tín nhiệm.
iv) Giá cổ phiếu của công ty thay đổi bất lợi.
v) Thu nhập ròng giảm đi trong một hay nhiều năm, đặc biệt là các chỉ tiêu
như là: tỷ lệ sinh lời trên vốn cổ phần (ROE), tỷ lệ sinh lời trên tổng tài sản
(ROA), hay lợi tức trước thuế và lãi suất (EBIT).
vi) Những thay đổi bất lợi trong cơ cấu của nguồn vốn (chỉ tiêu vốn cổ phần
trên nợ vay), thanh khoản (chỉ tiêu thanh khoản hiện hành), hay mức độ
hoạt động.
Trần Thế Hưng Toán Kinh Tế
48
Chuyên đề tốt nghiệp - 20 - Khoa Toán Kinh Tế
vii) Những thay đổi bất ngờ, ngoài dự kiến và không có lý do đối với số dư
tiền gửi của khách hàng tại ngân hàng.
Vì vậy ngân hàng phải làm gì khi tín dụng có vấn đề? Sau đây là một số giải
pháp nhằm thu hồi những khoản tín dụng có vấn đề:
 Luôn luôn đặt ra mục tiêu là: Tận dụng tối đa các cơ hội để thu hồi đầy
đủ nợ đã cho vay.
 Khẩn trương khám phá và báo cáo kịp thời mọi vấn đề thực chất liên
quan đến tín dụng, mọi trậm trễ đều có thể làm cho tín dụng trở nên xấu hơn.
 Trách nhiệm sử lý tín dụng có vấn đề phải được độc lập với chức năng
cho vay nhằm tránh những xung đột có thể xảy ra đối với quan điểm của cán
bộ tín dụng trực tiếp cho vay.
 Xử lý tín dụng cần hội ý khẩn với các khách hàng về các giải pháp có
thể, đặc biệt là tinh giảm chi phí, tăng nguồn thu, và tăng cường cải tiến công

tác quản lý.
 Dự tính những nguồn có thể dùng để thu nợ có vấn đề ( gồm nguồn thu
từ thanh lý tài sản và số dư tiền gửi tại ngân hàng).
 Cần tiến hành nghiên cứu về nghĩa vụ thuế và những tranh chấp xem
khách hàng có còn nghĩa vụ tài chính nào chưa thực hiện.
 Đối với doanh nghiệp, cần đánh giá về chất lượng, năng lực và sự nhất
quán trong quản lý, đồng thời trực tiếp tiến hành khảo sát các hoạt động và
các tài sản của doanh nghiệp.
 Cần phải cân nhắc mọi phương án có thể để hoàn thành việc thu hồi nợ
có vấn đề, gồm cả việc thỏa thuận gia hạn nợ tạm thời nếu khách hàng chỉ gặp
khó khăn trước mắt, hoặc tìm kiếm giải pháp nhằm tăng cường lưu chuyển
tiền tệ cho khách hàng.
CHƯƠNG 2
Trần Thế Hưng Toán Kinh Tế
48

×