Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Tiểu luận Kinh tế vĩ mô NỢ CÔNG CHÂU ÂU VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (678.84 KB, 26 trang )

NỢ CÔNG CHÂU ÂU VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM GVHD: TS TRẦN BÍCH DUNG
MỤC LỤC
Lời mở đầu
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NỢ CÔNG 2
CHƯƠNG 2: TÌNH HÌNH NỢ CÔNG CHÂU ÂU 10
CHƯƠNG 3: ẢNH HƯỞNG CỦA KHỦNG HOẢNG NỢ CÔNG CHÂU ÂU ĐẾN NỀN KINH
TẾ VIỆT NAM VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM 17
Kết luận
NHÓM 3 – LỚP ĐÊM 4 K 22 Trang 1
NỢ CÔNG CHÂU ÂU VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM GVHD: TS TRẦN BÍCH DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NỢ CÔNG
1.1 Khái niệm nợ công
Khái niệm nợ công là một khái niệm tương đối phức tạp. Tuy nhiên, hầu hết những cách tiếp
cận hiện nay đều cho rằng, nợ công là khoản nợ mà Chính phủ của một quốc gia phải chịu trách
nhiệm trong việc chi trả khoản nợ đó. Chính vì vậy, thuật ngữ nợ công thường được sử dụng cùng
nghĩa với các thuật ngữ như nợ Nhà nước hay nợ Chính phủ. Tuy nhiên, nợ công hoàn toàn khác với
nợ quốc gia. Nợ quốc gia là toàn bộ khoản nợ phải trả của một quốc gia, bao gồm hai bộ phận là nợ
của Nhà nước và nợ của tư nhân (doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân). Như vậy, nợ công chỉ là một bộ
phận của nợ quốc gia mà thôi.
Theo cách tiếp cận của Ngân hàng Thế giới, nợ công được hiểu là nghĩa vụ nợ của bốn nhóm
chủ thể bao gồm: (1) nợ của Chính phủ Trung Ương (2) nợ của các cấp chính quyền địa phương; (3)
nợ của Ngân hàng trung ương; và (4) nợ của các tổ chức độc lập mà Chính phủ sở hữu trên 50%
vốn, hoặc việc quyết lập ngân sách phải được sự phê duyệt của Chính phủ hoặc Chính phủ là người
chịu trách nhiệm trả nợ trong trường hợp tổ chức đó vỡ nợ
1
. Cách định nghĩa này cũng tương tự như
quan niệm của Hệ thống quản lý nợ và phân tích tài chính của Hội nghị của Liên hiệp quốc về
thương mại và phát triển (UNCTAD).
1.2 Bản chất kinh tế của nợ công
Xét về bản chất kinh tế, khi Nhà nước mong muốn hoặc bắt buộc phải chi tiêu vượt quá khả
năng thu của mình (khoản thuế, phí, lệ phí và các khoản thu khác) thì phải vay vốn và điều đó làm


phát sinh nợ công. Như vậy, nợ công là hệ quả của việc Nhà nước tiến hành vay vốn và Nhà nước
phải có trách nhiệm hoàn trả. Do đó, nghiên cứu về nợ công phải bắt nguồn từ quan niệm về việc
Nhà nước đi vay là như thế nào.
Trong lĩnh vực tài chính công, một nguyên tắc quan trọng của ngân sách nhà nước được các
nhà kinh tế học cổ điển hết sức coi trọng và hiện nay vẫn được ghi nhận trong pháp luật ở hầu hết
các quốc gia, đó là nguyên tắc ngân sách thăng bằng. Theo nghĩa cổ điển, ngân sách thăng bằng
được hiểu là một ngân sách mà ở đó, số chi bằng với số thu. Về ý nghĩa kinh tế, điều này giúp Nhà
nước hạn chế chi tiêu hoang phí, còn về ý nghĩa chính trị, nguyên tắc này sẽ giúp hạn chế tình
trạng Chính phủ lạm thu thông qua việc quyết định các khoản thuế.
Các nhà kinh tế học cổ điển như A.Smith, D.Ricardo, J.B.Say là những người khởi xướng và
ủng hộ triệt để nguyên tắc này trong quản lý tài chính công. Và chính vì thế, các nhà kinh tế học cổ
điển không đồng tình với việc Nhà nước có thể vay nợ để chi tiêu.
Ngược lại với các nhà kinh tế học cổ điển, một nhà kinh tế học được đánh giá là có ảnh hưởng
mạnh mẽ nhất ở nửa đầu thế kỷ XX là John M.Keynes (1883-1946) và những người ủng hộ mình
(gọi là trường phái Keynes) lại cho rằng, trong nhiều trường hợp, đặc biệt là khi nền kinh tế suy
thoái dẫn đến việc đầu tư của tư nhân giảm thấp, thì Nhà nước cần ổn định đầu tư bằng cách vay tiền
(tức là cố ý tạo ra thâm hụt ngân sách) và tham gia vào các dự án đầu tư công cộng như đường xá,
cầu cống và trường học, cho đến khi nền kinh tế có mức đầu tư tốt trở lại. Học thuyết của Keynes
(cùng với sự chỉnh sửa nhất định từ những đóng góp cũng như phản đối của một số nhà kinh tế học
NHÓM 3 – LỚP ĐÊM 4 K 22 Trang 2
NỢ CÔNG CHÂU ÂU VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM GVHD: TS TRẦN BÍCH DUNG
sau này là Milton Friedman và Paul Samuelson) được hầu hết các Chính phủ áp dụng để vượt qua
khủng hoảng và tình trạng trì trệ của nền kinh tế.
Ngược lại với Keynes, Milton Friedman cho rằng, việc sử dụng chính sách tài khóa nhằm tăng
chi tiêu và việc làm sẽ không có hiệu quả và dễ dẫn đến lạm phát trong thời suy thoái vì người dân
thường chi tiêu dựa trên kỳ vọng về thu nhập thường xuyên chứ không phải thu nhập hiện tại và
mọi chính sách đều có độ trễ nhất định. Thay vì thực hiện chính sách tài khóa thiếu hụt, Nhà nước
nên thực thi chính sách tiền tệ hiệu quả. Còn Paul Samuelson, đã có những bổ sung quan trọng
trong quan niệm về chính sách tài khóa của Keynes. Ông cho rằng, để kích thích nền kinh tế vượt
qua sự trì trệ, cần thiết phải thực hiện cả chính sách tài khóa mở rộng và chính sách tiền tệ linh

hoạt.
Hiện nay trên thế giới, mặc dù tài chính công vẫn dựa trên nguyên tắc ngân sách thăng bằng,
nhưng khái niệm thăng bằng không còn được hiểu một cách cứng nhắc như quan niệm của các nhà
kinh tế học cổ điển, mà đã có sự uyển chuyển hơn. Ví dụ, theo quy định của pháp luật Việt Nam, các
khoản chi thường xuyên không được vượt quá các khoản thu từ thuế, phí và lệ phí; nguồn thu từ vay
nợ chỉ để dành cho các mục tiêu phát triển.
Hầu hết các quốc gia thực hiện nền kinh tế thị trường đều có hoạt động vay nợ. Việc vay nợ của
Nhà nước thường được thực hiện dựa trên quan điểm của Keynes, nhưng có hai điều chỉnh quan
trọng: một là, việc cố ý thâm hụt ngân sách và bù đắp bằng các khoản vay không được thực hiện
vĩnh viễn, bởi lẽ xét về lý thuyết thì những tác động từ các khoản vay chỉ có ích trong ngắn hạn còn
về dài hạn lại có ảnh hưởng tiêu cực và do đó Nhà nước cần phải có giới hạn về mặt thời gian trong
việc sử dụng các khoản vay; và hai là, các khoản nợ công phải được kiểm soát kỹ lưỡng nhằm đảm
bảo hiệu quả sử dụng, đồng thời hạn chế những tác động không mong muốn từ việc sử dụng các
khoản vay. Việc quản lý nợ công hiệu quả sẽ giúp mục đích vay vốn đạt được với chi phí thấp nhất,
đồng thời đảm bảo khả năng trả nợ đúng hạn.
1.3 Các đặc trưng cơ bản của nợ công
Tuy có nhiều cách tiếp cận rộng hẹp khác nhau về nợ công, nhưng về cơ bản, nợ công có những
đặc trưng sau đây:
- Nợ công là khoản nợ ràng buộc trách nhiệm trả nợ của Nhà nước
Khác với các khoản nợ thông thường, nợ công được xác định là một khoản nợ mà Nhà nước
(bao gồm các cơ quan nhà nước có thẩm quyền) có trách nhiệm trả khoản nợ ấy. Trách nhiệm trả nợ
của Nhà nước được thể hiện dưới hai góc độ trực tiếp và gián tiếp. Trực tiếp được hiểu là cơ quan
nhà nước có thẩm quyền sẽ là người vay và do đó, cơ quan nhà nước ấy sẽ chịu trách nhiệm trả nợ
khoản vay (ví dụ: Chính phủ Việt Nam hoặc chính quyền địa phương). Gián tiếp là trong trường hợp
cơ quan nhà nước có thẩm quyền đứng ra bảo lãnh để một chủ thể trong nước vay nợ, trong trường
hợp bên vay không trả được nợ thì trách nhiệm trả nợ sẽ thuộc về cơ quan đứng ra bảo lãnh (ví dụ:
Chính phủ bảo lãnh để Ngân hàng Phát triển Việt Nam vay vốn nước ngoài).
- Nợ công được quản lý theo quy trình chặt chẽ với sự tham gia của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền
NHÓM 3 – LỚP ĐÊM 4 K 22 Trang 3

NỢ CÔNG CHÂU ÂU VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM GVHD: TS TRẦN BÍCH DUNG
Việc quản lý nợ công đòi hỏi quy trình chặt chẽ nhằm đảm bảo hai mục đích: một là, đảm bảo
khả năng trả nợ của đơn vị sử dụng vốn vay và cao hơn nữa là đảm bảo cán cân thanh toán vĩ mô và
an ninh tài chính quốc gia; hai là, để đạt được những mục tiêu của quá trình sử dụng vốn.
- Mục tiêu cao nhất trong việc huy động và sử dụng nợ công là phát triển kinh tế - xã hội vì lợi
ích chung
Nợ công được huy động và sử dụng không phải để thỏa mãn những lợi ích riêng của bất kỳ cá
nhân, tổ chức nào, mà vì lợi ích chung của đất nước. Xuất phát từ bản chất của Nhà nước là thiết
chế để phục vụ lợi ích chung của xã hội, Nhà nước là của dân, do dân và vì dân nên đương nhiên
các khoản nợ công được quyết định phải dựa trên lợi ích của nhân dân, mà cụ thể là để phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước và phải coi đó là điều kiện quan trọng nhất.
1.4 Phân loại nợ công
Có nhiều tiêu chí để phân loại nợ công, mỗi tiêu chí có một ý nghĩa khác nhau trong việc quản
lý và sử dụng nợ công.
Theo tiêu chí nguồn gốc địa lý của vốn vay thì nợ công gồm có hai loại: nợ trong nước và nợ
nước ngoài.
Việc phân loại nợ trong nước và nợ nước ngoài có ý nghĩa quan trọng trong quản lý nợ. Việc
phân loại này về mặt thông tin sẽ giúp xác định chính xác hơn tình hình cán cân thanh toán quốc tế.
Và ở một số khía cạnh, việc quản lý nợ nước ngoài còn nhằm đảm bảo an ninh tiền tệ của quốc gia
vay nợ.
Theo phương thức huy động vốn, thì nợ công có hai loại là nợ công từ thỏa thuận trực tiếp và nợ
công từ công cụ nợ.
Nợ công từ thỏa thuận trực tiếp là khoản nợ công xuất phát từ những thỏa thuận vay trực tiếp
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền với cá nhân, tổ chức cho vay. Chính phủ vay tiền trực tiếp từ
các ngân hàng thương mại, các thể chế siêu quốc gia (ví dụ: Quỹ Tiền tệ Quốc tế) Hình thức này
thường được Chính phủ của các nước có độ tin cậy tín dụng thấp áp dụng vì khi đó khả năng vay nợ
bằng hình thức phát hành trái phiếu chính phủ của họ không cao.
Nợ công từ công cụ nợ là khoản nợ công xuất phát từ việc chính phủ các quốc gia phát hành các
công cụ nợ để huy động vốn. Các công cụ nợ này có thời hạn ngắn hoặc dài, thường có tính vô danh
và khả năng chuyển nhượng trên thị trường tài chính. Chính phủ phát hành Trái phiếu chính phủ để

vay từ các tổ chức, cá nhân. Trái phiếu chính phủ phát hành bằng nội tệ được coi là không có rủi
ro tín dụng vì Chính phủ có thể tăng thuế thậm chí in thêm tiền để thanh toán cả gốc lẫn lãi khi đáo
hạn. Trái phiếu chính phủ phát hành bằng ngoại tệ (thường là các ngoại tệ mạnh có cầu lớn) có rủi ro
tín dụng cao hơn so với khi phát hành bằng nội tệ vì chính phủ có thể không có đủ ngoại tệ để thanh
toán và ngoài ra còn có rủi ro về tỷ giá hối đoái.
1.5 Rủi ro nợ công
1.5.1 Rủi ro thanh toán
 Thâm hụt ngân sách và thâm hụt thương mại
Khi một quốc gia có thâm hụt ngân sách và buộc phải đi vay nợ để bù đắp sự bội chi này, rủi ro
đầu tiên đến từ việc liệu quốc gia đó có thể trả được các khoản nợ công này trong tương lai hay
NHÓM 3 – LỚP ĐÊM 4 K 22 Trang 4
NỢ CÔNG CHÂU ÂU VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM GVHD: TS TRẦN BÍCH DUNG
không. Điều này phụ thuộc vào khối lượng nợ, có thể được so sánh trên GDP, xuất khẩu (thường
đối với nợ nước ngoài), hoặc thu ngân sách chính phủ. Đối với tổng toàn bộ nợ công, chính phủ
được xem là có khả năng thanh toán nếu như giá trị chiết khấu của cán cân ngân sách trong tương lai
sẽ lớn hơn hoặc bằng giá trị hiện tại của khối lượng nợ. Tương tự đối với nợ công nước ngoài, do
vay bằng ngoại tệ nên sẽ phải chi trả bằng ngoại tệ, mà nguồn ngoại tệ bền vững đến từ xuất khẩu
ròng hay cán cân thương mại. Chính vì vậy, chính phủ được xem là có khả năng thanh toán nợ công
nước ngoài nếu như giá trị chiết khấu của cán cân thương mại trong tương lai lớn hơn hoặc bằng giá
trị hiện tại của khối lượng nợ công nước ngoài. Điều này có thể được mô tả một cách đơn giản và dễ
hiểu hơn. Lấy ví dụ về tổng nợ công, xuất phát từ khoản nợ công đầu tiên tại thời điểm t-1, ký hiệu
là B
t-1
, khi đó ràng buộc ngân sách thời kỳ t sẽ được biểu diễn bởi phương trình:
G
t
+ r
t
*B
t-1

= T
t
+ B
t
Trong đó Gt là chi tiêu chính phủ, T
t
là thu ngân sách chính phủ, r
t
*B
t-1
là dư nợ phải trả, và
Bt = B
t
– B
t-1
là khoản nợ công vay thêm, tất cả đều ở thời kỳ t. Biến đổi phương trình này ta có
phương trình biểu diễn cán cân ngân sách tại thời kỳ này:
T
t
– G
t
= r
t
*B
t-1
– B
t
Cho dù cán cân ngân sách đang cân bằng tại thời điểm t thì cũng chứng tỏ chính phủ đang ngày
một vay nợ nhiều hơn, do tốc độ vay nợ (B
t

– B
t-1
)/B
t-1
= r
t
và điều này là rất nguy hiểm. Để duy trì
không vay thêm nợ và có khả năng chi trả nợ cũ, đồng nghĩa với việc giữ cho B
t
ít nhất bằng 0 hoặc
nhỏ hơn. Do đó:
T
t
– G
t
r
t
*B
t-1
hay (T
t
– G
t
)/ r
t
B
t-1
Chính vì vậy, thâm hụt ngân sách và thâm hụt thương mại kéo dài không những không thể bù
đắp được nợ công cũng như nợ công nước ngoài mà còn có khả năng làm gia tăng nợ công. Việc
định giá đồng nội tệ quá cao sẽ làm giảm xuất khẩu, tăng nhập khẩu dẫn đến thâm hụt thương mại

và gia tăng nợ công nước ngoài. Do đó, một quốc gia có khối lượng nợ công nước ngoài lớn, sẽ thực
sự mẫn cảm với những thay đổi trong tỉ giá đồng nội tệ so với các đồng tiền ngoại tệ khác. Xét đến
quy mô nợ công trên GDP, thì tốc độ tăng trưởng GDP cũng ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng trả
nợ. Nếu như tốc độ tăng trưởng GDP lớn hơn tốc độ gia tăng nợ công, đồng nghĩa với việc quy mô
nợ sẽ giảm đi.
 Quy mô nợ
Ngưỡng nợ nguy hiểm thường được định nghĩa như một mức độ mà nếu như khối lượng nợ
(tính trên phần trăm GDP) vượt quá ngưỡng này, nền kinh tế sẽ gặp nhiều rủi ro bất ổn vĩ mô, mà
điển hình nhất là suy giảm tăng trưởng. Chính vì vậy, nhiều nghiên cứu sử dụng các mô hình định
lượng để xác định mối quan hệ giữa mức nợ công và tăng trưởng. Bên cạnh đó, khối lượng nợ nước
ngoài cũng đóng một vài trò quan trọng trong việc đánh giá rủi ro của nền kinh tế, đặc biệt là tại các
quốc gia đang phát triển, khi các quốc gia này khó có thể, hoặc không có điều kiện, vay nợ nước
ngoài bằng đồng tiền của mình (original sin).
Một nghiên cứu tiên phong được xây dựng bởi Reinhart và Rogoff (2010) dựa trên số liệu quan
sát của 44 nền kinh tế tiến bộ và mới nổi cùng số liệu thống kê trong khoảng hai thế kỷ đã đưa ra các
ngưỡng nợ cơ bản nhất, thu hút được rất nhiều sự quan tâm của giới kinh tế cũng như các nhà hoạch
định chính sách. Cụ thể hơn, mối quan hệ giữa tỉ lệ nợ công, tăng trưởng và lạm phát được phân tích
NHÓM 3 – LỚP ĐÊM 4 K 22 Trang 5


NỢ CÔNG CHÂU ÂU VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM GVHD: TS TRẦN BÍCH DUNG
dựa trên hơn 3700 số liệu định kỳ hàng năm về hệ thống chính trị, thể chế, những thay đổi về tỉ giá
cũng như hệ thống tiền tệ, và các điều kiện lịch sử khác. Kết quả chỉ ra rằng ngưỡng nợ nguy hiểm
là 90% GDP, khi các quốc gia có mức nợ công vượt quá con số này, tăng trưởng kinh tế sẽ bắt đầu
suy giảm. Tuy nhiên, các tác giả lại không cho rằng có một mối quan hệ chắc chắn giữa việc nợ
công cao có thể dẫn đến lạm phát đối với các nền kinh tế tiến bộ. Còn đối với các nền kinh tế mới
nổi, lạm phát thường leo thang mạnh khi nợ công gia tăng.
Reinhart và Rogoff cũng phân tích thêm dựa trên những số liệu kể từ sau khủng hoảng về nợ
nước ngoài, bao gồm cả nợ công và nợ tư. Do các nền kinh tế tiến bộ thường không phụ thuộc nhiều
vào các khoản vay nước ngoài, nên nghiên cứu này chỉ tập trung vào các nền kinh tế mới nổi. Kết

quả chỉ ra rằng, khi dư nợ nước ngoài chạm mức 60% GDP, tăng trưởng kinh tế sẽ bắt đầu suy giảm
2%, và nếu như vượt quá 90% GDP, mức tăng trưởng sẽ giảm một nửa.
Một nghiên cứu khác của Caner, Grennes và Koehler-Geib (2011) tiếp tục đi sâu phân tích thêm
về ngưỡng nợ nguy hiểm. Nghiên cứu này sử dụng số liệu nhiều hơn so với nghiên cứu của Reinhart
và Rogoff, bao gồm các số liệu về nợ công, tăng trưởng, độ mở của nền kinh tế, lạm phát và GDP
trong thời kỳ trước của 101 quốc gia (75 đang phát triển và 26 đã phát triển) trong giai đoạn 1980-
2008, đồng thời sử dụng mô hình kinh tế lượng. Kết quả cho thấy ngưỡng nợ nguy hiểm trung bình
cho tất cả các quốc gia đã được lấy số liệu là 77% GDP, vượt qua ngưỡng này tăng trưởng kinh tế
bắt đầu suy giảm. Bên cạnh đó, áp dụng tương tự mô hình cho nhóm các quốc gia đang phát triển thì
con số này là 64% GDP.
Kumar và Woo (2010) cũng thực hiện một nghiên cứu tương tự, với số liệu của 38 nền kinh tế
tiến bộ và mới nổi với dân số trên 5 triệu người, kéo dài trong 4 thập kỷ và cũng sử dụng mô hình
kinh tế lượng. Giống như Reinhart và Rogoff, các tác giả cũng chỉ tìm thấy một mối quan hệ đối
nghịch giữa nợ công và tăng trưởng nếu như nợ công vượt quá 90% GDP. Các tác giả cũng tìm ra
rằng. đối với các nền kinh tế mới nổi, tác động của nợ công lớn hơn so với các nền kinh tế tiến bộ.
Cụ thể, nếu quy mô nợ công tăng thêm 10% GDP, tăng trưởng kinh tế sẽ suy giảm từ 0,15% đến
0,2% tại các nền kinh tế tiến bộ, trong khi con số này tại các nền kinh tế mới nổi là từ 0,3% đến
0,4%. Ngoài ra, mức nợ ban đầu cao cũng sẽ tạo nên nhiều rủi ro hơn. Đối với các quốc gia mà nợ
công đã vượt quá 90% GDP, một mức gia tăng nợ công thêm 10% GDP sẽ đi kèm với tăng trưởng
giảm 0,19%; còn nếu mức nợ ban đầu chỉ từ 30% đến 60% GDP thì con số này chỉ là 0,11%. Ngoài
ra, Kumar và Woo cũng mở rộng mô hình của mình nhằm xác định những kênh khác mà hệ quả từ
nợ công có thể chuyển đến. Kết luận cho thấy rằng nợ công cao sẽ làm giảm đầu tư, làm chậm tốc
độ tăng trong lượng vốn tư bản cho mỗi lao động, dẫn đến hệ quả là suy giảm năng suất.
Một nghiên cứu nữa của Presbitero (2010) dựa trên số liệu tổng nợ công tại 92 quốc gia có thu
nhập thấp và trung bình trong khoảng thời gian 1990-2007 cũng nhằm tìm kiếm ngưỡng nợ nguy
hiểm. Nghiên cứu này tìm ra hệ quả xấu đối với tăng trưởng nếu nợ công vào mức khoảng 90%
GDP. Vượt trên mức này, một hệ quả xấu hơn rất nhiều sẽ xảy ra với tăng trưởng bởi quản lý kinh tế
kinh tế nghèo nàn cũng như những thể chế tồi tệ. Presbitero kết luận rằng những quốc gia công
nghiệp thành công hơn nhiều so với các quốc gia đang phát triển trong việc vay mượn và sử dụng
những khoản tài chính trong nước và quốc tế mà không phải hứng chịu những rủi ro có thể gây ra

cho đầu tư bởi sự tháo vốn, xoay vòng chính sách hay lấn át đầu tư thường xuyên xảy ra với mức
NHÓM 3 – LỚP ĐÊM 4 K 22 Trang 6
NỢ CÔNG CHÂU ÂU VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM GVHD: TS TRẦN BÍCH DUNG
nợ công lớn. Ngược lại, đối với các quốc gia đang phát triển, hệ quả xấu từ vay nợ quá nhiều thường
có xu hướng lấn át những lợi ích có thể đạt được từ những nguồn lực khác.
1.5.2 Rủi ro thanh khoản
Rủi ro từ nợ công còn được đo lường thông qua khả năng thanh khoản, hay khả năng trả nợ
nhanh của chính phủ. Chỉ mình khả năng thanh toán không đủ đảm bảo cho sự an toàn của một quốc
gia khi vay nợ, mà còn cần phải có khả năng thanh khoản. Một quốc gia có thể có khả năng thanh
toán về lý thuyết bởi quốc gia đó có thể gia tăng nguồn thu của mình trong tương lai để chi trả cho
các khoản nợ của mình cũng như để bù đắp cho thâm hụt ngân sách. Tuy nhiên, cũng quốc gia đó
hoàn toàn có khả năng vỡ nợ ngay trong ngắn hạn do đánh mất khả năng thanh khoản của mình.
Điều này xảy ra khi các thị trường đánh mất niềm tin vào quốc gia này, khiến nó không thể tiếp cận
được các nguồn tài chính cần thiết để trả nợ trong ngắn hạn, hoặc có thể tiếp cận được với lãi suất
rất cao. Chính vì vậy, một cuộc khủng hoảng thanh khoản hoàn toàn có thể chuyển thành một cuộc
khủng hoảng thanh toán, và đây là điều mà Hy Lạp đã gặp phải trong năm 2010.
Nhằm đo lường tính thanh khoản, có thể sử dụng tỉ lệ nợ ngắn hạn so với lượng dự trữ. Theo
như Manasse và Roubini (2005) thì tính thanh khoản chỉ thực sự nghiêm trọng nếu nợ ngắn hạn
vượt quá 130% lượng dự trữ. Đối với nợ công trong nước, chính phủ có thể dễ dàng trả nợ bằng
cách tăng cung tiền và chấp nhận lạm phát. Do đó, rủi ro thanh khoản thường đến từ các khoản nợ
nước ngoài. Rất nhiều bằng chứng có thể kể ra về việc nợ nước ngoài ngắn hạn có thể dẫn đến
khủng hoảng. Những cuộc khủng hoảng tại Mexico và Đông Á đã nổ ra tại những thời điểm mà dư
nợ ngắn hạn vượt quá khối lượng tài sản tại các quốc gia này.
Tuy nhiên, vẫn cần phải thận trọng với mối quan hệ nhân quả này, bởi không phải nợ ngắn hạn
nhiều là nguyên nhân chính dẫn đến khủng hoảng. Nếu một quốc gia có lịch sử nợ công tốt cùng
một lượng dự trữ ngoại hối lớn đột nhiên bị đẩy ra khỏi các thị trường tài chính vì một vài lý do nào
đó không liên quan đến thời gian đáo hạn các khoản nợ của mình, dự trữ ngoại hối có thể suy giảm
và quốc gia đó sẽ gặp khó khăn trong việc trả các khoản nợ trong dài hạn. Mỹ Latinh là minh họa
điển hình cho điều này. Sau cuộc khủng hoảng kinh tế tại Mexico năm 1994, chính phủ và các tập
đoàn kinh tế tại các quốc gia trong khu vực mong muốn kéo dài thời gian đáo hạn cho các khoản nợ

đồng thời giám sát mối quan hệ giữa dư nợ và các tài sản trong ngắn hạn.
Theo sự tổng hợp của Eichengreen & Hausmann (1999), nợ ngắn hạn trung bình cho toàn khu
vực Mỹ Latinh năm 1998 chiếm 26% tổng dư nợ, chỉ khoảng một nửa so với khu vực Đông Á. Tỉ lệ
này còn đặc biệt thấp tại Argentina và Brazil. Tuy nhiên, điều này cũng không cho phép các quốc
gia Mỹ Latinh có thể duy trì khả năng tiếp tục vay từ các thị trường tài chính quốc tế khi các quốc
gia này bị ảnh hưởng bởi những cú sốc thương mại. Khi dòng vốn tài chính chảy vào bị ảnh hưởng,
các quốc gia này bị buộc phải thực hiện những chính sách thắt chặt để thúc đẩy xuất khẩu nhằm gia
tăng thặng dư thương mại, điều này làm cho đồng tiền bị trượt giá nghiêm trọng.
1.5.3 Rủi ro từ bất ổn vĩ mô
Ngoài những rủi ro trong khả năng thanh toán nợ và khả năng thanh khoản, nền kinh tế còn gặp
nhiều rủi ro do những bất ổn từ các biến số vĩ mô có thể ảnh hưởng trực tiếp lên nợ công. Các biến
NHÓM 3 – LỚP ĐÊM 4 K 22 Trang 7
NỢ CÔNG CHÂU ÂU VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM GVHD: TS TRẦN BÍCH DUNG
số này bao gồm tăng trưởng, nguồn thu ngân sách chính phủ, lạm phát và tỉ giá. Những biến số thể
hiện khả năng thanh toán cũng như khả năng sẵn sàng trong việc trả nợ của nền kinh tế.
Tăng trưởng kinh tế có thể ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của nền kinh tế, bởi nó thể hiện rằng
liệu quốc gia đó có đang phát triển bền vững và ổn định hay không. Điều này sẽ quyết định đến khả
năng tiếp cận với các nguồn tài chính mới nhằm bù đắp các khoản nợ công cũng như thâm hụt ngân
sách của mình.
Thông thường các quốc gia có nợ công cao là các quốc gia đang phát triển hoặc các nền kinh tế
mới nổi, nơi chính phủ còn đóng vai trò quan trọng thúc đẩy kinh tế. Các quốc gia hay các nền kinh
tế này thường xuất khẩu các hàng hóa thô, giá trị gia tăng thấp, trong khi lại có nhu cầu nhập khẩu
máy móc thiết bị công nghệ cao với chi phí lớn. Chính vì vậy, thâm hụt thương mại là chuyện
thường thấy, đồng nghĩa với việc các quốc gia này phải có thặng dư cán cân vốn để bù đắp mức
thâm hụt này. Do các khoản tín dụng nước ngoài từ xuất khẩu thường không bù đắp đủ, các quốc gia
này phải thường xuyên vay nợ mới để trả các khoản nợ cũ. Và để có điều kiện tiếp tục vay nợ, các
quốc gia này phải thể hiện một bộ mặt tích cực trong phát triển kinh tế. Nếu mức tăng trưởng đang
suy giảm hoặc thậm chí nền kinh tế tăng trưởng âm, sẽ rất khó cho các quốc gia này trong việc tiếp
cận thêm các nguồn vốn tín dụng mới.
Nguồn thu ngân sách cũng có ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng trả nợ. Việc tăng nguồn thu

ngân sách sẽ làm giảm thâm hụt tài khóa, giúp giảm gánh nặng nợ công cho chính phủ. Theo như
ước tính của Reinhart và Rogoff (2009), nợ công thường tăng khoảng hai phần ba trong khoảng thời
gian ngay sau khi diễn ra khủng hoảng tài chính. Đồng thời, dư âm của khủng hoảng tài chính cũng
dẫn đến một giai đoạn tăng trưởng dưới mức trung bình, nền kinh tế bị thu hẹp và bước vào giai
đoạn suy thoái. Điều này làm cho nguồn thu ngân sách của chính phủ suy giảm, trong khi nhu cầu
vay nợ lại tăng mạnh. Phương thức giải quyết cho tình trạng này có thể là cắt giảm chi tiêu công
hoặc tìm cách gia tăng nguồn thu của mình. Tuy nhiên, cả hai điều này lại rất khó có thể được thực
hiện trong ngắn hạn mà không tránh khỏi gây ra những bất ổn trong xã hội.
Reinhart và Rogoff (2009) cũng chỉ ra rằng 84% cuộc khủng hoảng nợ đến ngay sau cuộc một
cuộc khủng hoảng tiền tệ. Do vậy, các biến số tạo rủi ro cho một cuộc khủng hoảng tiền tệ cũng có
thể là tác nhân gây nên một cuộc khủng hoảng nợ. Trong đó, lạm phát cao cùng cú sốc tỉ giá có thể
làm giảm giá trị của đồng tiền nội địa, đồng nghĩa với việc dư nợ nước ngoài sẽ tăng lên, đi kèm với
rủi ro vỡ nợ.
1.5 Những tác động của nợ công
Như trên đã phân tích, nợ công vừa có nhiều tác động tích cực nhưng cũng có một số tác động
tiêu cực. Nhận biết những tác động tích cực và tiêu cực nhằm phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt
tiêu cực là điều hết sức cần thiết trong xây dựng và thực hiện pháp luật về quản lý nợ công.
Những tác động tích cực chủ yếu của nợ công bao gồm:
- Nợ công làm gia tăng nguồn lực cho Nhà nước, từ đó tăng cường nguồn vốn để phát triển cơ
sở hạ tầng và tăng khả năng đầu tư đồng bộ của Nhà nước. Với chính sách huy động nợ công
hợp lý, nhu cầu về vốn sẽ từng bước được giải quyết để đầu tư cơ sở hạ tầng, từ đó gia tăng
năng lực sản xuất cho nền kinh tế.
NHÓM 3 – LỚP ĐÊM 4 K 22 Trang 8
NỢ CÔNG CHÂU ÂU VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM GVHD: TS TRẦN BÍCH DUNG
- Nợ công sẽ tận dụng được sự hỗ trợ từ nước ngoài và các tổ chức tài chính quốc tế. Tài trợ
quốc tế là một trong những hoạt động kinh tế - ngoại giao quan trọng của các nước phát triển
muốn gây ảnh hưởng đến các quốc gia nghèo, cũng như muốn hợp tác kinh tế song phương.
Nếu Việt Nam biết tận dụng tốt những cơ hội này, thì sẽ có thêm nhiều nguồn vốn ưu đãi để
đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, trên cơ sở tôn trọng lợi ích nước bạn, đồng thời giữ vững độc
lập, chủ quyền và chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước.

Bên cạnh những tác động tích cực nêu trên, nợ công cũng gây ra những tác động tiêu cực nhất
định. Nợ công sẽ gây áp lực lên chính sách tiền tệ, đặc biệt là từ các khoản tài trợ ngoài nước. Nếu
kỷ luật tài chính của Nhà nước lỏng lẻo, nợ công sẽ tỏ ra kém hiệu quả và tình trạng tham nhũng,
lãng phí sẽ tràn lan nếu thiếu cơ chế giám sát chặt chẽ việc sử dụng và quản lý nợ công.
NHÓM 3 – LỚP ĐÊM 4 K 22 Trang 9
NỢ CÔNG CHÂU ÂU VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM GVHD: TS TRẦN BÍCH DUNG
CHƯƠNG 2: TÌNH HÌNH NỢ CÔNG CHÂU ÂU
2.1 Diễn biến nợ công châu Âu
Cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu bắt đầu từ nửa sau năm 2009 với sự gia tăng mức nợ công
của nhóm PIIGS (Bồ Đào Nha, Ireland, Ý, Hy Lạp và Tây Ban Nha). Ngày 5/11/2009 Thủ tướng Hy
Lạp cho biết thâm hụt ngân sách năm 2009 sẽ ở mức 12,7% GDP, cao gấp đôi con số công bố trước
đó và sẽ cố gắng cứu Hy Lạp khỏi khả năng vỡ nợ. Thực tế, mức thâm hụt ngân sách đạt tới 13,6%
GDP. Nợ công Hy Lạp cũng lên tới 236 tỉ euro, chiếm khoảng 115% GDP của Hy Lạp vào năm
2009. Trước đó, 22/12/2009, Moody hạ xếp hạng nợ của Hy Lạp xuống mức A2 từ mức A1 bởi
thâm hụt ngân sách của nước này tăng cao. Đây là cơ quan thứ 3 hạ xếp hạng tín dụng của Hy Lạp.
Đây là kết quả của một quá trình thực hiện chính sách tài khóa không bền vững nhằm kích thích
kinh tế sau suy thoái toàn cầu cuối năm 2007. Ngày 14/1/2010 Chính phủ Hy Lạp công bố kế hoạch
bình ổn, chính phủ Hy Lạp tuyên bố muốn giảm thâm hụt ngân sách xuống mức 2,8% GDP vào năm
2012.
Tháng 04/2010, EU và IMF đã phải đưa ra một gói cứu trợ trị giá 110 tỉ euro nhằm cứu lấy Hy
Lạp. Đi kèm với gói cứu trợ này là các điều khoản buộc Hy Lạp phải cắt bỏ nhiều khoản lương
thưởng đối với nhân công, không tăng lương chính phủ trong vòng 3 năm, thuế giá trị gia tăng tăng
từ 21% lên 23%, mức giảm chi tiêu lên đến 30 tỷ euro trong 03 năm tới. Ngoài ra chính phủ cũng
nâng tuổi nghỉ hưu từ 60 lên 65 đối với nam và 55 lên 60 đối với nữ.
Tình hình của Hy Lạp lúc này làm dấy lên nỗi bất an của không chỉ các quốc gia vay nợ nhiều
như Ireland, Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha, Italia mà còn cả những quốc gia hùng mạnh trong khối
EU như Đức. Chính vì lẽ đó, chính phủ các quốc gia này đã có những biện pháp nhằm tránh khủng
hoảng vỡ nợ như sau:
Tháng 1/2010 Chính phủ Tây Ban Nha công bố kế hoạch tiết kiệm 50 tỷ euro tương đương 70 tỷ
USD trong đó tổng số tiền chi tiêu giảm tương đương 4% GDP. Lương lao động trong lĩnh vực công

giảm 4%. Đến tháng 05/2010, Quốc hội Tây Ban Nha chấp thuận kế hoạch thắt chặt ngân sách nhằm
tiết kiệm 15 tỷ euro tương đương 18,4 tỷ USD. Ngày 28/5/2010: Fitch hạ xếp hạng tín dụng của Tây
Ban Nha từ AAA xuống AA+. Tháng 6/2010: Công đoàn Tây Ban Nha công bố 75% người lao
động trong lĩnh vực công sự phản đối kế hoạch thắt chặt chi tiêu của chính phủ bằng cách nghỉ làm.
18/5/2010: Chính phủ Đức công bố cấm bán khống vô căn cứ cổ phiếu của 10 tổ chức tài chính
lớn nhất tại Đức, trái phiếu chính phủ đồng euro và hợp đồng hoán đổi vỡ nợ tín dụng (CDS).
7/6/2010: Đức thông qua kế hoạch “thắt lưng buộc bụng” nhằm mục tiêu đưa thâm hụt ngân sách về
mức quy định của EU trước năm 2013.
25/5/2010: Italia bỏ phiếu thông qua kế hoạch thắt chặt ngân sách, tiết kiệm 24 tỷ euro với mục
tiêu đến năm 2012 đưa thâm hụt ngân sách về mức 2,7% GDP từ mức 5,3% của năm 2009.
29/5/2010: Nở rộ biểu tình ở Lisbon - Bồ Đào Nha để phản đối kế hoạch thắt chặt ngân sách của
chính phủ.
NHÓM 3 – LỚP ĐÊM 4 K 22 Trang 10
NỢ CÔNG CHÂU ÂU VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM GVHD: TS TRẦN BÍCH DUNG
Tháng 11/2010, Ireland chính thức trở thành nạn nhân thứ hai của cơn bão khủng hoảng nợ công
khi phải cầu viện tới EU và IMF. Bản chất của khủng hoảng ở Ireland vẫn là thâm hụt ngân sách
trầm trọng, nhưng nguồn gốc chính lại không giống như Hy Lạp. Chính phủ Ireland đã phải bỏ ra 50
tỉ euro nhằm cứu lấy sáu ngân hàng lớn của quốc gia này trước sự đổ vỡ của bong bóng tài sản.
Nguồn chi này làm cho thâm hụt ngân sách lên tới 32% GDP. Cụ thể hơn, chính phủ đã tạo ra một
định chế tài chính mới, gọi tắt là NAMA (National Asset Management Agency) nhằm biến những
khoản nợ tư nhân thành những tài sản công.
Bảng: Nợ công và thâm hụt ngân sách nhóm PIIGS 2006-2011 (% GDP)
2006 2007 2008 2009 2010 2011
Nợ
công
Thâm
hụt
Nợ
công
Thâm

hụt
Nợ
công
Thâm
hụt
Nợ
công
Thâm
hụt
Nợ
công
Thâm
hụt
Nợ
công
Thâm
hụt
Poturgal
64,7 -3,9 63,6 -2,6 66,3 -2,8 76,8 -9,4 85,8 -8,5 91,1 -7,9
Ireland
24,9 3,0 25,0 0,1 43,9 -7,3 64,0 14,3 98,6 -32,0
Italia
106,5 -3,3 103,5 -1,5 106,1 -2,7 115,8 -5,3 118,2 -5,3 118,9 -5,0
Hy Lạp
97,8 -3,6 95,7 -5,1 99,2 -7,7 115,1 -13,6 133,3 -8,1 145,1 -7,6
Spain
39,6 2,0 36,2 1,9 39,7 -4,1 53,2 -11,2 64,9 -9,8 72,5 -8,8
Nguồn: Featherstone (2011)
Bước sang năm 2011, Bồ Đào Nha tiếp tục là quốc gia thứ ba rơi vào khủng hoảng khi tuyên bố
mức thâm hụt ngân sách đã lên tới 8,5% GDP, cùng với đó nợ công cũng đã vượt quá 90% GDP.

Đây tiếp tục là hậu quả của việc chi tiêu công không hiệu quả của chính phủ quốc gia này. Vào
tháng 5/2011, EU và IMF đã quyết định viện trợ 78 tỉ euro nhằm giúp Bồ Đào Nha thoát khỏi khủng
hoảng, với điều kiện quốc gia này phải có lộ trình cắt giảm thâm hụt ngân sách xuống định mức
chung của khối eurozone xuống còn 3% vào năm 2013.
Ý và Tây Ban Nha mặc dù chưa thực sự rơi vào khủng hoảng nhưng cũng ở vào trong vòng nguy
hiểm. Thâm hụt ngân sách của Ý vào năm 2011 mới chỉ ở mức 5% GDP nhưng nợ công đã xấp xỉ
120% GDP. Tây Ban Nha thì mặc dù nợ công chỉ mới ở mức 72% GDP nhưng thâm hụt ngân sách
lại rất cao, gần 9% GDP.
Ngày 6/2/2012 Chính phủ Romania là chính phủ thứ 6 ở châu Âu sụp đổ do khủng hoảng nợ.
Chính phủ Romania sụp đổ sau khi chính phủ và người dân nước này bắt đầu cảm nhận được tác
động của gói cắt giảm quy mô lớn để đổi lấy khoản cứu trợ 20 tỷ euro (26 tỷ USD) từ Quỹ tiền tệ
quốc tế (IMF), Liên minh châu Âu (EU) và Ngân hàng thế giới năm 2009.
NHÓM 3 – LỚP ĐÊM 4 K 22 Trang 11
NỢ CÔNG CHÂU ÂU VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM GVHD: TS TRẦN BÍCH DUNG
2.2 Nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng nợ công châu Âu
2.2.1 Nguyên nhân bên trong
Vấn đề tổ chức tài chính và điều hành kinh tế của EU: Do vấn đề về cơ cấu nên EU có hạn chế về
điều hành nền kinh tế của Khối, đó là cơ chế đồng tiền chung nhưng lại độc lập về chính sách tài
chính. EU và Ngân hàng TW Châu Âu (ECB) phản ứng chậm với các nền kinh tế gặp khủng hoảng.
Cuộc khủng hoảng bắt đầu từ Hy Lạp: Chính phủ Hy Lạp phạm sai lầm trong quản lý và không
trung thực khi thông báo số liệu kinh tế trong nhiều năm. Chính sự mất niềm tin làm cho việc giải
quyết khủng hoảng gặp nhiều khó khăn. Bất kỳ quyết định nào của chính phủ Hy Lạp về giải quyết
vấn đề ngân sách đều bị hoài nghi. Ngoài việc vốn đầu tư chạy khỏi Hy Lạp, khoảng 30% hoạt động
kinh tế của nước này có gian lận, 90% người có thu nhập cao khai thu nhập dưới 30.000 euro để
tránh nộp thuế. Toàn Hy Lạp chỉ có khoảng 15.000 người khai thu nhập trên 100.000 euro/ năm.
Bên cạnh đó, chính phủ Hy Lạp coi lĩnh vực công là nhân tố bảo hộ chứ không phải là động lực
của nền kinh tế.
Các Chính phủ thu không đủ chi: các nhà phân tích kinh tế cho rằng, khủng hoảng nợ công châu
Âu là do chi tiêu của các chính phủ quá lớn, thậm chí còn cho rằng, những chính phủ đó không có
trách nhiệm khi quyết định chi tiêu quá lớn so với nền kinh tế và tăng trưởng kinh tế của nước mình.

Việc chi tiêu quá lớn đã tạo ra thâm hụt ngân sách và khủng hoảng nợ công (lương cao cho các nhà
chính trị; công chức, hệ thống an sinh xã hội và lao động, chế độ nghỉ hưu )
Áp lực của các nhóm tài phiệt: các nhà đầu cơ, các tổ chức tài chính lớn và các trung tâm quyền
lực kinh tế lớn đã thuyết phục được các chính phủ chỉ điều chỉnh thể chế chứ không áp dụng các
biện pháp cải cách thể chế. Chính phủ các nước đã tiêu tốn hàng tỷ euro hỗ trợ các ngân hàng và cho
các chương trình hỗ trợ hoạt động kinh tế nhằm cứu ngân hàng và nền kinh tế không đổ vỡ, điều này
không tránh khỏi nợ công tăng. Trong khi đó, các NHTM nhận vốn với lãi suất 1% năm từ NHTW
với mục đích tài trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh, phát triển sản xuất. Tuy nhiên, các NHTM
lãi dùng tiền đó để mua nợ chính phủ với lãi suất 4 – 5%/ năm.
2.2.2 Nguyên nhân bên ngoài
Chiến dịch tấn công đồng euro: tháng 02/2010, Bộ trưởng Xây dựng TBN José Blanco cho rằng
có một chiến dịch tấn công vào đồng euro mà cụ thể là Tây Ban Nha. Giới đầu cơ đang thực hiện
các chiến dịch hạ thấp đồng euro và kiếm lời. Chủ yếu là đầu cơ ngắn hạn. Cũng có ý kiến cho rằng
cuộc khủng hoảng xảy ra do Anh và Mỹ tiến hành để hạ giá trị đồng euro. Việc tấn công đồng euro
cũng để chuyển hướng dư luận về sự yếu kém của đồng Bảng Anh và đồng USD Mỹ.
Các cơ quan đánh giá rủi ro đầu tư trái phiếu: thị trường tài chính đóng vai trò gây bất ổn tình
hình kinh tế châu Âu: chỉ một năm trước khủng hoảng nợ công, lãi suất trái phiếu xuống mức thấp
kỷ lục. Bắt đầu từ cuộc khủng hoảng nợ tại Dubai, các cơ quan đánh giá phát hiện có một cuộc
khủng hoảng và hạ thấp trái phiếu của Dubai, và giới đầu cơ thu lời. Tiếp đó, các cơ quan đánh giá
tiếp tục nhắm tới các nước Nam Âu cụ thể là Hy Lạp. Hy Lạp với nền kinh tế yếu, nợ công cao dễ
dàng bị tổn thương. Các cơ quan xếp hạng tín nhiệm tín dụng Standar & Poor’s và Fitch bắt đầu
NHÓM 3 – LỚP ĐÊM 4 K 22 Trang 12
NỢ CÔNG CHÂU ÂU VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM GVHD: TS TRẦN BÍCH DUNG
đánh giá nợ Hy Lạp, hạ thấp trái phiếu nước này thành trái phiếu rác. Kể từ đó, lãi suất trái phiếu
của chính phủ Hy Lạp không ngừng tăng, thị trường chứng khoán liên tục giảm. Cuối tháng
04/2010, Moody’s cảnh báo nợ công của Hy Lap, hạ tiếp trái phiếu chính phủ Hy Lạp. Làm cho lãi
suất trái phiếu chính phủ Hy Lạp lại tăng cao. Chính các cơ quan đánh giá rủi ro là nhân tố góp phần
vào sự bất ổn của các thị trường, đẩy các nước lấn sâu vào khủng hoảng.
Hoạt động đầu cơ tài chính: Hy Lạp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Ý và Ireland đối mặt với hoạt
động đầu cơ tài chính rất cao. Mục đích của đầu cơ là tăng lãi suất trái phiếu chính phủ lên mức cao

nhất có thể để thu lời.
Môi trường quốc tế không thuận lợi: khi mối đe dọa khủng hoảng nợ công lan rộng, các nhà đầu
tư sẽ rút tiền khỏi các thị trường này, làm cho các nền kinh tế này rơi vào tình trạng mất thanh
khoản, dẫn đến tình hình nợ ngày càng xấu hơn.
2.3 Khó khăn trong việc tháo gỡ cho nợ công Châu Âu
Cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu lan rộng và kéo dài từ Hy Lạp đến Tây Ban Nha, Italia và
gây ảnh hưởng đến toàn khu vực đã bộc lộ điểm yếu nhất của Eurozone, đó là cơ chế đồng tiền
chung nhưng lại độc lập về chính sách tài chính. Các giải pháp giải quyết vấn đề nợ công châu Âu
trong thời gian qua tuy có tác dụng nhất định. Tuy nhiên, giải pháp cho vấn đề nợ công châu Âu
đang gặp phải một số những thách thức cản trở đó là:
Thứ nhất, sự bất cập trong việc góp vốn vào các quỹ cứu trợ. Quỹ cứu trợ ngắn hạn (EFSF) trị giá
khoảng 440 tỷ Euro (tương đương 610 tỷ USD) với thời hạn hoạt động 3 năm nhưng đến tháng
3/2011, các nước mới chỉ đóng góp được 50%. Trong khi đó, các Bộ trưởng tài chính của 27 nước
thành viên EU lại quyết định tăng gấp đôi khả năng cho vay thực tế của Quỹ. Đức và Pháp là những
quốc gia đóng góp nhiều nhất cho Quỹ EFSF, nhất trí ủng hộ việc mở rộng Quỹ nhưng với điều kiện
phải dùng quỹ để mua trái phiếu chính phủ của các nước sử dụng đồng Euro trên thị trường mở. Tuy
nhiên, yêu cầu này của Đức và Pháp lại gặp phải sự chống đối của các nền kinh tế khác trong khu
vực, bởi lẽ họ cho rằng, biện pháp này có thể làm chệch hướng các nỗ lực giám sát của Ủy ban châu
Âu (EC). Ngoài ra, nếu các nước trong khu vực không nỗ lực “thắt lưng buộc bụng”, thì quỹ cứu trợ
vẫn không thể san bằng núi nợ công ở châu Âu.
Thứ hai, sự khác biệt về tốc độ tăng trưởng kinh tế giữa các nước thành viên. Sau một số năm gia
nhập EU, khoảng cách và sự chênh lệch về phát triển kinh tế - xã hội của khu vực này không những
không thu hẹp mà còn nới rộng hơn, trong khi các nước Nam Âu tăng trưởng rất chậm, thì Đức
nhanh chóng trở thành “đầu tàu kinh tế” của châu Âu. Thực tế này đòi hỏi ECB phải đưa ra được
chính sách tiền tệ phù hợp cho các nền kinh tế trong khu vực. Tuy nhiên, việc tìm được một chính
sách tiền tệ như thế là rất khó khăn.
Thứ ba, thiếu ý chí chính trị chung trong giải pháp ứng phó khủng hoảng nợ công. Điều mà châu
Âu cần là phải thiết lập các thể chế, các cơ chế phát triển để đảm bảo tính ổn định của đồng tiền
châu Âu. Khu vực Eurozone không thể tiền tệ hóa số nợ công như trường hợp của Nhật Bản (do
châu Âu bao gồm nhiều Chính phủ và nhiều lợi ích quốc gia khác nhau). Dù ECB có khả năng chấm

NHÓM 3 – LỚP ĐÊM 4 K 22 Trang 13
NỢ CÔNG CHÂU ÂU VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM GVHD: TS TRẦN BÍCH DUNG
dứt khủng hoảng nhưng họ không thể hành động chỉ dựa trên lợi ích của những quốc gia đang gặp
khó khăn (Italia, Hy Lạp…). Đó là lý do khiến cho giải pháp nợ công của khu vực đồng Euro gặp
nhiều khó khăn. Khủng hoảng nợ công châu Âu không phải là một cuộc khủng hoảng kinh tế mà là
cuộc khủng hoảng chính trị bởi lẽ tiền tệ hóa số nợ công ở châu Âu đã gặp phải sự phản đối chính
trị, tư tưởng và tâm lý không chỉ của ECB mà của cả các nước phát triển mạnh khác như Đức, Pháp.
Thứ tư, trong số những giải pháp khắc phục khủng hoảng nợ công, thì 2 biện pháp được xem là
cơ bản nhất đó là chính sách “thắt lưng buộc bụng” và chiến lược mua trái phiếu của những quốc gia
mắc nợ của ECB để giúp họ tái thiết nền kinh tế. Tuy nhiên, trong bối cảnh nền kinh tế thế giới và
bản thân nền kinh tế châu Âu đang hết sức khó khăn do suy thoái thì biện pháp “thắt lưng buộc
bụng” lại càng đẩy nền kinh tế vào khó khăn lớn hơn và có thể tiếp tục lún sâu vào suy thoái. Điều
này cũng đồng nghĩa với sản xuất đình đốn, thất nghiệp gia tăng…
Thứ năm, chia rẽ trong nội bộ khu vực châu Âu ngày càng tăng. Càng bị khủng khoảng, châu Âu
và Eurozone càng bị “chia rẽ” khi nhiều quốc gia có nền kinh tế ổn định lại phải chung tay gánh vác
các quốc gia gặp khủng khoảng. Mọi giải pháp đều liên quan và phải có sự đồng thuận của các nước
thành viên nhưng thực tế không phải lúc nào sự đồng thuận cũng ở mức cao nhất. Liên minh châu
Âu hay khu vực Eurozone không phải là quốc gia thống nhất nên không có cơ chế kiểm soát và can
thiệp thống nhất để tránh khủng hoảng. Không như hệ thống ngân hàng tại Mỹ và Nhật Bản (nơi
doanh nghiệp chủ động tìm vốn trên thị trường chứng khoán), hệ thống ngân hàng châu Âu giữ vị trí
trọng yếu trong việc tài trợ doanh nghiệp. Các doanh nghiệp châu Âu trông cậy vốn vào ngân hàng.
Khi ngân hàng thiếu vốn thì doanh nghiệp châu Âu cũng gặp khó khăn. Tuy nhiên, giải pháp nâng
vốn ngân hàng để tăng thêm khả năng trả nợ và để trấn an thị trường cũng chưa hoàn toàn thuyết
phục được giới ngân hàng và các chuyên gia tài chính. Giải pháp này chỉ tạo thêm hoảng loạn trên
thị trường thay vì trấn an dư luận và các nhà đầu tư. Trên thực tế, nhiều ngân hàng châu Âu không
thiếu vốn để phải huy động thêm vốn. Các cơ quan tài chính chỉ tạm đóng van tín dụng để chờ Liên
minh châu Âu có giải pháp rõ ràng trong chính sách giải quyết khủng hoảng.
2.4 Phản ứng chính sách và kết quả đạt được
Nhằm đối phó với cuộc khủng hoảng, các quốc gia châu Âu đã phải thực hiện hàng loạt những
chính sách thắt chặt ngân sách một cách hết sức khắc khổ nhằm chứng minh quyết tâm giảm thâm

hụt ngân sách xuống chỉ còn 3% GDP và nợ công dưới mức 60% GDP, bên cạnh sự hỗ trợ trực tiếp
từ EU và IMF.
EU không hề có ý định muốn khu vực đồng tiền chung châu Âu tan vỡ, bởi nó sẽ gây hậu quả
tiêu cực đến toàn bộ các quốc gia khác không chỉ ở châu Âu mà còn trên toàn thế giới. Tuy nhiên,
nhằm kéo các quốc gia thành viên ra khỏi cơn bão khủng hoảng là một vấn đề hết sức khó khăn và
tốn kém. Bên cạnh việc hỗ trợ trực tiếp thông qua việc thành lập Quỹ bình ổn tài chính châu Âu
EFSF (European Financial Stability Facility), EU yêu cầu các quốc gia này phải tự mình có những
biện pháp nhằm cắt giảm mức thâm hụt ngân sách hiện có. Những chính sách này phải có lộ trình rõ
ràng và được công bố chi tiết. Ngày 9/5/2010,
NHÓM 3 – LỚP ĐÊM 4 K 22 Trang 14
NỢ CÔNG CHÂU ÂU VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM GVHD: TS TRẦN BÍCH DUNG
Bộ trưởng Bộ Tài chính châu Âu đã thông qua gói giải cứu trị giá 750 tỷ euro nhằm đảm bảo sự
ổn định tài chính ở khu vực châu Âu, và lập ra Ủy ban Ổn định Tài chính châu Âu (European
Financial Stability Facility – EFSF). Phản ứng của các nước phát triển trước áp lực nợ công ngày
càng phình to là thực thi những chính sách thắt lưng buộc bụng để nhận được các gói cứu trợ.
Ngày 2/5/2010, các nước thành viên khu vực eurozone và IMF đã thông qua khoản vay 110 tỷ
euro cho Hy Lạp, với điều kiện nước này phải thực thi các biện pháp thắt lưng buộc bụng khắc
nghiệt.
Tháng 11/2011, EU và IMF thông qua gói cứu trợ trị giá 85 tỷ euro cho Ireland. Thặng dư thương
mại của Ireland trong năm 2011 đạt kỷ lục 44,697 tỷ euro (58,347 tỷ USD), nhờ xuất khẩu tăng
mạnh. Nước này hiện vẫn đang phụ thuộc rất lớn vào hoạt động xuất khẩu trong nỗ lực nhằm vực
dậy nền kinh tế. Sự tăng trưởng xuất khẩu là một tín hiệu tích cực cho thấy kinh tế Ireland có thể
còn phục hồi mạnh mẽ hơn nữa.
Tháng 05/2011, thông qua gói cứu trợ 78 tỷ euro cho Bồ Đào Nha. Đến năm 2012, theo đánh giá
của IMF, Bồ Đào Nha có thể đạt mục tiêu giảm thâm hụt ngân sách xuống còn 4,5% GDP trong
năm nay. Bên cạnh đó, nước này cũng đang giảm mức nợ nhanh hơn dự báo.
Vào tháng 8/2011, Ngân hàng Trung ương Châu Âu (ECB) đã tung ra số tiền khá lớn để mua lại
trái phiếu Chính phủ của Ý và Tây Ban Nha, với điều kiện các nước này phải cắt giảm chi tiêu mạnh
mẽ hơn.
Sau khi Hy Lạp hoàn tất thỏa thuận hoán đổi nợ lịch sử với các chủ nợ tư nhân vào ngày

12/3/2012, các bộ trưởng tài chính khu vực đồng euro (Eurozone) trong cùng ngày đã thông qua lần
cuối đối với gói cứu trợ thứ hai trị giá 130 tỷ euro (170 tỷ USD) cho nước này và hai ngày sau đã
quyết định giải ngân các khoản cho vay đầu tiên 39,4 tỷ euro.
Ngày 15/3/2012, Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) cũng thông qua khoản vay 28 tỷ euro cho Hy Lạp
như một phần của gói cứu trợ và sẽ giải ngân ngay lập tức 1,65 tỷ euro. Sự phê chuẩn này của IMF
đã kết thúc nhiều tháng lo âu của Hy Lạp, khi đất nước cận kề nguy cơ phá sản, với nghĩa vụ thanh
toán 14,5 tỷ euro vào ngày 20/3. Hi Lạp thoát ra khỏi nguy cơ vỡ nợ.
Ngày 21/3/2012 các Bộ trưởng Tài chính châu Âu đã đạt được sự đồng thuận về các phương thức
của ESM - Cơ chế ổn định châu Âu, một dạng quỹ cứu trợ tài chính thường trực với số vốn cơ bản
lên tới 700 tỷ Euro nhằm tránh tái diễn các cuộc khủng hoảng tài chính trong tương lai. Quỹ cứu trợ
dài hạn EMS đã bắt đầu đi vào hoạt động (10/2012). Theo giới lãnh đạo tài chính Eurozone, EMS là
một phần của kế hoạch tổng thể nhằm kiểm soát chặt chẽ hoạt động tài chính ở Eurozone và hỗ trợ
các nước thành viên gặp khó khăn tài chính.
Về phía Đức, chỉ số lòng tin của các nhà đầu tư đang làm gia tăng hy vọng kinh tế Đức sẽ trụ
vững trong năm tới. Thêm vào đó, Italy đã thành công lớn trên thị trường trái phiếu, khi đã phát
hành được 6 tỷ euro (7,8 tỷ USD) trái phiếu với lãi suất đã giảm. Điều này cho thấy các nhà đầu tư
đang trở nên tin tưởng hơn vào kinh tế Italy và hơn thế, đây là dấu hiệu cho thấy cuộc khủng hoảng
nợ ở Eurozone đang dịu bớt phần nào. Như vậy, với những giải pháp hầu hết các nước từng dẫn đầu
NHÓM 3 – LỚP ĐÊM 4 K 22 Trang 15
NỢ CÔNG CHÂU ÂU VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM GVHD: TS TRẦN BÍCH DUNG
trong khủng hoảng nợ công Châu Âu đều đã có những dấu hiệu tích cực, cho thấy cuộc khủng hoảng
này hiện đang dịu bớt phần nào và mang lại hy vọng.
2.5 Tương lai nợ công của EU
Trong dự báo kinh tế công bố cuối tháng 2/2013, Ủy ban châu Âu (EC) đã đưa ra phân tích, cảnh
báo Khu vực đồng tiền chung châu Âu (Eurozone) đang đối mặt với nguy cơ suy thoái kéo dài trong
suốt cả năm 2013. Theo đó, sản lượng kinh tế của 17 nước thành viên Eurozone trong năm nay sẽ
giảm 0,3%, sau khi đã giảm 0,6% trong năm 2012. Trong toàn bộ 27 nước thành viên EU chỉ có Ba
Lan và Anh sẽ đạt mức tăng trưởng 0,1% trong năm nay và 1,6% vào năm 2014. Điều này cũng
đồng nghĩa với việc khu vực đang chìm ngập trong nợ công này sẽ có thêm hàng triệu người nữa bị
mất việc làm và tỷ lệ thất nghiệp sẽ lập kỷ lục (12,2%) vào cuối năm nay.

Tình trạng ốm yếu của khu vực tư nhân cộng với chính sách "thắt lưng, buộc bụng" cắt giảm chi
tiêu ở nhiều nước khiến tiến trình phục hồi của Eurozone thêm chậm chạp. Mặc dù có thể giúp giảm
phần nào thâm hụt ngân sách, tiết kiệm chi tiêu, song những chính sách này dẫn tới tình trạng giảm
phát, vốn là nhân tố làm trì trệ tốc độ tăng trưởng kinh tế, đồng thời còn làm gia tăng tỷ lệ thất
nghiệp, giảm tiêu thụ và nguồn thu thuế, dẫn đến kìm hãm khả năng giảm nợ của toàn Eurozone.
Bên cạnh đó, vẫn còn có quá nhiều lực cản đối với tiến trình phục hồi của nền kinh tế châu Âu.
Chi phí tiếp cận nguồn vốn quá cao khi lãi suất cho vay trung bình đối với các doanh nghiệp phi tài
chính của Eurozone là 3,4% trong quý cuối năm ngoái, cao hơn rất nhiều so với tốc độ tăng trưởng
GDP, khiến khu vực tư nhân khó vươn dậy để đảm nhận vai trò là động lực cho tốc độ phục hồi của
nền kinh tế châu lục. Thất nghiệp gia tăng do doanh nghiệp thu hẹp hoạt động trong khi chính phủ
thực hiện chính sách "thắt lưng, buộc bụng" cũng góp thêm những gam màu tối vào bức tranh toàn
cảnh của kinh tế châu Âu. Đó là chưa kể đến một nguy cơ mới đang đe dọa tương lai của Eurozone:
đồng euro tăng giá.
Cuối tháng 1/2013 vừa qua, đồng euro đột ngột tăng giá lên mức 1,37 USD. Chỉ đến giữa tháng
2/2013, đồng euro mới ổn định ở mức 1,33 USD. Như vậy, không thể khẳng định nguy cơ đổ vỡ của
đồng euro đã được vô hiệu hóa. Nếu đồng euro tiếp tục duy trì tỷ giá cao, hoạt động xuất khẩu của
Eurozone khó có thể phục hồi. Eurozone vẫn đang đối mặt với nguy cơ khủng hoảng tái bùng phát
vào bất cứ lúc nào do tình trạng căng thẳng về tài chính và tiền tệ.
Mặc dù thời khắc tồi tệ nhất đe dọa đến sự tồn vong của Eurozone đã qua và tổ chức này vẫn tiếp
tục tồn tại, nhưng vấn đề đặt ra là nó tồn tại như thế nào, vượt qua và phục hồi ra sao sau khủng
hoảng. Để giải quyết những bất ổn này, châu Âu cần có giải pháp toàn diện gồm cả tài chính công,
sức cạnh tranh của nền kinh tế và cơ chế ổn định trong tương lai. Tuy nhiên, giải pháp này sẽ không
thể đạt được nếu từng quốc gia châu Âu vẫn tiếp tục đặt lợi ích cá nhân lớn hơn mục tiêu chung của
khu vực. Nghĩa là, EU cần đoàn kết hơn nữa, hy sinh quyền lợi riêng, vì lợi ích chung toàn khối,
mới mong sớm thoát khỏi “bão” nợ công. Chính vì vậy, câu chuyện về việc phục hồi khu vực
Eurozone sẽ vẫn là một con đường dài, đầy quanh co.
NHÓM 3 – LỚP ĐÊM 4 K 22 Trang 16
NỢ CÔNG CHÂU ÂU VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM GVHD: TS TRẦN BÍCH DUNG
CHƯƠNG 3: ẢNH HƯỞNG CỦA KHỦNG HOẢNG NỢ CÔNG CHÂU
ÂU ĐẾN NỀN KINH TẾ VIỆT NAM VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM

3.1 Tình hình nợ công Việt Nam
3.1.1 Quy mô nợ công
Theo The Economist Intelligence Unit, nợ công của Việt Nam năm 2001 mới là 11,5 tỷ USD,
tương đương 36% GDP, bình quân mỗi người gánh số nợ công xấp xỉ 144 USD. Nhưng tính đến
hết năm 2010, nợ công đã tăng lên 55,2 tỷ USD, tương đương 54,3% GDP và hiện tại, Việt Nam
được xếp vào nhóm nước có mức nợ công trên trung bình. Như vậy, trong vòng 10 năm từ 2001
đến nay, quy mô nợ công đã tăng gấp gần 5 lần với tốc độ tăng trưởng nợ trên 15% mỗi năm (Biểu
đồ 1). Nếu tiếp tục với tốc độ này thì chỉ trong vòng 5 năm nữa, đến năm 2016, nợ công của Việt
Nam sẽ vượt quá 100% GDP như hai nước thành viên EU mới lâm vào khủng hoảng nợ công gần
đây là Hy Lạp (133,6%), Ailen (129,2%). Nợ công đạt trên 100% GDP là một con số không nhỏ đối
với một nền kinh tế đang phát triển và quy mô nhỏ, phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu sản phẩm nông
nghiệp thô và công nghiệp nhẹ như Việt Nam.
3.1.2 Tình hình sử dụng nợ công
Thông qua các chương trình đầu tư công, nợ công của Việt Nam được chuyển tải vào các dự án
đầu tư nhằm cải thiện cơ sở hạ tầng, tạo nền tảng cho sự phát triển kinh tế bền vững. Tuy nhiên,
tình hình sử dụng nợ công ở Việt Nam không đạt hiệu quả cao, thể hiện ở hai khía cạnh sau:
Thứ nhất, tình trạng dự án, công trình thi công dở dang, chuyển tiếp, kéo dài, chậm tiến độ vẫn
chậm được khắc phục. Điều này cùng với sự thiếu kỷ luật tài chính trong đầu tư công và trong hoạt
động của các doanh nghiệp Nhà nước cũng như các tập đoàn lớn, dẫn đến đầu tư dàn trải, lãng phí,
thất thoát vốn đầu tư ở tất cả các khâu của quá trình quản lý dự án đầu tư.
NHÓM 3 – LỚP ĐÊM 4 K 22 Trang 17
NỢ CÔNG CHÂU ÂU VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM GVHD: TS TRẦN BÍCH DUNG
Thứ hai, hiệu quả đầu tư thấp, thể hiện qua chỉ số ICOR (Biểu đồ 2): Năm 2009, trong khi tổng
mức đầu tư toàn xã hội lên tới 42,2% GDP, thì tốc độ tăng trưởng lại chỉ đạt 5,2%. Chỉ số ICOR
năm 2009 đã tăng tới mức quá cao, trên 8 so với 6,6 của năm 2008. Điều này có nghĩa là, nếu năm
2001 Việt Nam cần 5,24 đồng vốn để tạo ra được 1 đồng sản lượng, thì giờ đây cần phải đầu tư
thêm gần 3 đồng vốn nữa.
2.1.3 Tình hình trả nợ công
Từ năm 2006 đến nay, tình hình trả nợ công của Việt Nam không ổn định và hầu như không có
sự gia tăng đáng kể về giá trị, trung bình hàng năm Việt Nam dành ra trên 3,5% GDP để chi trả nợ

và viện trợ. Tỷ lệ trả nợ/tổng nợ công giảm dần qua các năm, từ 9,09% năm 2006 xuống còn 6,53%
năm 2010. Trong khi đó, quy mô của các khoản nợ công ngày càng tăng lên với tốc độ chóng mặt
với gần 20%/năm; mặt khác, tình hình sử dụng nợ công ở Việt Nam còn đang tồn tại nhiều bất cập
như chậm trễ trong giải ngân và sự kém hiệu quả trong sử dụng vốn vay vào các dự án đầu tư. Điều
này tác động tiêu cực tới khả năng trả nợ của Việt Nam trong tương lai.
3.2. Những ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu đến nền kinh tế Việt Nam
Khủng hoảng nợ ở châu Âu kéo theo một loạt hệ quả tất yếu: tốc độ phục hồi kinh tế thế giới
chậm lại, đặc biệt khu vực châu Âu sẽ phải chứng kiến tình hình thất nghiệp kéo theo suy thoái kinh
NHÓM 3 – LỚP ĐÊM 4 K 22 Trang 18
NỢ CÔNG CHÂU ÂU VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM GVHD: TS TRẦN BÍCH DUNG
tế; đồng euro mất giá; làm cho thu nhập thực tế của người dân và cầu tiêu dùng đối với hàng nhập
khẩu giảm mạnh. Do đó, nền kinh tế Việt Nam cũng không tránh khỏi những tác động do cuộc
khủng hoảng này gây ra.
3.2.1. Xuất khẩu gặp khó khăn
Theo Tổng cục thống kê Việt Nam, EU là thị trường xuất khẩu lớn thứ hai của Việt Nam chỉ
sau Mỹ khi tiêu thụ khoảng 15,8% sản phẩm do Việt Nam sản xuất trong năm 2010. Riêng 11 tháng
đầu năm 2011, xuất khẩu của Việt Nam vào EU đạt 16,5 tỉ USD, tăngtrưởng khá cao với 45,4%. Vì
vậy, năm 2012, các nền kinh tế trong khu vực Eurozone tiếp tục gặp khó khăn (thu nhập của người
dân suy giảm, lạm phát cao, gia tăng thất nghiệp ) dẫn đến xu hướng thắt chặt chi tiêu dung của
người dân. Theo đó, hàng hóa nhập khẩu vào EU sẽ bị ảnh hưởng nhất định.
Bên cạnh đó, các nước EU cũng tang cường chính sách bảo hộ hàng sản xuất trong nước, do đó
hàng xuất khẩu Việt Nam sẽ gặp phải các rào cản từ vấn đề này cũng như sự cạnh tranh từ các nước
xuất khẩu khác. Tuy nhiên, có một lợi thế: các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam vào EU chủ yếu là
nhu yếu phẩm như nông - lâm - thuỷ sản, thực phẩm chế biến có giá thành khá rẻ, nên dự báo nhu
cầu suy giảm sẽ không cao. Nhưng riêng các mặt hàng khác như gỗ mỹ nghệ, may mặc, da giày thì
khả năng sẽ giảm sút bởi xu hướng thắt chặt chi tiêu của người dân.
3.2.2. Gia tăng mức độ cạnh tranh đối với thị trường nội địa
Trong bối cảnh khủng hoảng ở châu Âu nói riêng và thế giới nói chung hiện nay, các doanh
nghiệp trên thế giới đang và sẽ thay đổi cơ bản chiến lược xuất khẩu, chuyển hướng sang các quốc
gia đang phát triển để đa dạng hóa thị trường và giảm thiểu rủi ro. Do đó, Việt Nam sẽ là thị trường

tiềm năng của các doanh nghiệp nước ngoài trong thời gian tới, vì vậy các doanh nghiệp trong nước
sẽ gặp nhiều khó khăn khi phải cạnh tranh ngay tại thị trường nội địa. Về mặt tài chính, doanh
nghiệp nước ngoài trước hết được ưu đãi về thuế khi mới thành lập ở Việt Nam, ngoài ra, họ còn
được vay nợ để đầu tư vào Việt Nam với mức lãi suất thấp trên thị trường tài chính ở nước sở tại;
trong khi đó, doanh nghiệp Việt Nam phải chịu mức lãi suất ngân hàng rất cao nên gặp thách thức
rất lớn trong việc cạnh tranh về giá thành hàng hóa. Hơn nữa, các doanh nghiệp nước ngoài có vốn
hiểu biết, năng lực và thương hiệu vượt xa các doanh nghiệp trong nước. Chênh lệch này khiến các
doanh nghiệp Việt Nam bị lép vế trên chính thị trường nước mình.
3.2.3. Vốn đầu tư nước ngoài suy giảm
Khủng hoảng nợ công châu Âu có thể tạo ra hai tác động trái chiều hoàn toàn với luồng vốn
FDI trên phạm vi toàn cầu. Trong những quốc gia có trình độ phát triển tương đương với các nước
thuộc EU sẽ hưởng lợi do nguồn vốn FDI sẽ dịch chuyển từ châu Âu sang các quốc gia này khi nhà
đầu tư muốn tránh thuế thu nhập doanh nghiệp đang có xu hướng tăng cao tại các quốc gia châu
Âu.Ngược lại, các nước có trình độ phát triển thấp như Việt Nam lại hoàn toàn không được hưởng
lợi từ việc dịch chuyển luồng vốn FDI khỏi châu Âu do sự chênh lệch quá lớn về trình độ công
nghệ, trong khi luồng vốn từ các nhà đầu tư châu Âu vào các quốc gia này giảm sút do cuộc khủng
hoảng nợ.
NHÓM 3 – LỚP ĐÊM 4 K 22 Trang 19
NỢ CÔNG CHÂU ÂU VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM GVHD: TS TRẦN BÍCH DUNG
Mặt khác, do ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu cùng với chính sách tài khóa
thắt chặt sẽ gây khó khăn cho việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Việt Nam hiện
đang được đánh giá là nhóm các quốc gia đang phát triển mới nổi (cùng với Indonesia và Nam Phi)
và chỉ đứng sau Ấn Độ, Trung Quốc, Braxin và Nga. Tuy nhiên, theo đánh giá của Ngân hàng Thế
giới (World Bank) thì hiện chỉ số môi trường kinh doanh của Việt Nam đang sụt giảm (xếp thứ 98
trên 183 nền kinh tế, giảm 8 bậc so với năm 2010) thể hiện sự suy giảm lòng tin của các nhà đầu tư
nước ngoài vào môi trường kinh doanh tại Việt Nam. Sự sụt giảm này một phần là do Việt Nam
chịu những tác động từ thị trường quốc tế qua sự bất ổn của nền kinh tế Mỹ và cuộc khủng hoảng nợ
công châu Âu.
Ngoài ra, cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu cũng khiến các nhà đầu tư nước ngoài quan tâm
hơn đến vấn đề nợ công của các quốc gia đang phát triền trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Năm

2011, với mức nợ công chiếm 54,6% GDP, bội chi ngân sách ở mức 4,9% GDP Việt Nam đang
được các tổ chức tín nhiệm đánh giá có mức độ rủi ro cao nhất so với các nước trong khu vực
ASEAN với mức tín nhiệm của S&P là BB Điều này không chỉ ảnh hưởng đến khả năng thu hút
các vốn đầu tư, nguồn vốn vay nước ngoài mà còn làm gia tăng chi phí vay từ các tổ chức tài chính
thế giới.
3.2.4. Gia tăng rủi ro tỷ giá
Khủng hoảng nợ công châu Âu cũng tạo ra những biến động khó lường về tỷ giá. Đồng EUR
tiếp tục bị áp lực giảm giá trên thị trường tiền tệ nói chung và với USD nói riêng. Điều này sẽ làm
giảm sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam xuất khẩu vào khu vực EU do chủ yếu hàng xuất khẩu
được tính bằng giá USD. Bên cạnh đó, đồng USD tăng giá mạnh trong khi thâm hụt thương mại của
Việt Nam đang gia tăng, cộng với thời điểm đáo hạn của các khoản vay tín dụng ngoại tệ, sẽ gia
tăng sức ép tăng rủi ro hối đoái và biến động tỷ giá vào các tháng cuối năm.
3.3 Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong việc quản lý nợ công
3.3.1 Hoàn thiện pháp chế quản lý nợ công
 Hoàn thiện pháp luật về quản lý nợ công
- Cần sửa đổi khái niệm về nợ công. Theo đó, nợ công không chỉ bao gồm nợ Chính phủ, nợ
chính quyền địa phương, nợ do Chính phủ bảo lãnh mà còn bao gồm nợ của Ngân hàng Phát
triển Việt Nam và nợ của doanh nghiệp do Nhà nước sở hữu 100% vốn hoặc giữ vốn chi
phối. Tuy nhiên, để hạn chế sự chồng chéo trong thống kê (ví dụ: nợ doanh nghiệp nhà nước
cũng là nợ Chính phủ bảo lãnh…) thì cần xây dựng và ban hành quy chế thống kê và thông
tin về nợ công sao cho khoa học, chính xác và hợp lý. Điều này là hết sức quan trọng trong
quản lý nhà nước về nợ công cũng như hoạch định chính sách đối với nợ công.
- Cần bổ sung các quy định về chính sách nợ công cũng như chiến lược nợ công. Về chính
sách nợ công, cần nêu rõ cơ quan quyết định chính sách, nội dung cơ bản của chính sách là
gì và chính sách đó được xây dựng dựa trên những cơ sở khoa học nào. Cần bổ sung quy
định để định nghĩa chiến lược nợ theo những khuyến nghị của các chuyên gia WB và IMF,
đồng thời phù hợp với điều kiện của nền kinh tế Việt Nam hiện nay.
NHÓM 3 – LỚP ĐÊM 4 K 22 Trang 20
NỢ CÔNG CHÂU ÂU VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM GVHD: TS TRẦN BÍCH DUNG
- Cần phân tách rõ chức năng quản lý nhà nước về nợ công với giám sát nợ công. Đối với hoạt

động giám sát nợ công, cần quy định rõ các cơ quan có thẩm quyền giám sát, nội dung và
phương thức giám sát nhằm đảm bảo cho hoạt động giám sát diễn ra hiệu quả.
 Hoàn thiện bộ máy tổ chức quản lý nợ công, hiện đại hóa và nâng cao hiệu quả
hoạt động của các cơ quan quản lý nợ công
- Chuyên nghiệp hoá, hiện đại hoá bộ máy tổ chức, hoàn thiện quy chế hoạt động. Nâng cao
năng lực quản lý nợ thông qua hình thức đào tạo mới và đào tạo lại cán bộ quản lý nợ có đủ
đức, đủ tài. Lực lượng cán bộ quản lý nợ của hầu hết các cơ quan có liên quan còn mỏng và
kiến thức quản lý còn nhiều điểm yếu dẫn đến hiệu quả quản lý chưa cao, đặc biệt ở các địa
phương. Do vậy, cần tăng cường tổ chức các hội thảo, tọa đàm, mở các lớp đào tạo, bồi
dưỡng nghiệp vụ cán bộ làm công tác quản lý nợ nước ngoài một cách đồng bộ, đáp ứng yêu
cầu thực tế như các kỹ năng giám sát số liệu và phân tích nợ, quản lý hành chính, nâng cao
hiểu biết về pháp luật, ứng dụng công nghệ tin học, sử dụng ngoại ngữ thành thạo. Ngoài ra,
Chính phủ nên tạo điều kiện cho cán bộ đi khảo sát, thực tập nghiệp vụ để tiếp thu kinh
nghiệm tại các nước có nhiều thành công trong công tác quản lý nợ nước ngoài.
- Nâng cao tinh thần trách nhiệm của các cán bộ quản lý. Cần có một chế tài nghiêm khắc với
những cán bộ quản lý nợ công khi họ mắc những sai phạm. Tổ chức kiểm điểm và xử lý
nghiêm túc các sai phạm của tập thể và cá nhân có liên quan.
3.3.2 Đổi mới đầu tư công hướng tới mục tiêu bền vững tài khóa
 Nâng cao hiệu quả huy động và sử dụng vốn vay
- Kiểm soát chặt chẽ tốc độ tăng và hiệu quả sử dụng nợ công, trên cơ sở kiểm soát thâm hụt
ngân sách hợp lý và có chiến lược cụ thể về huy động và sử dụng hiệu quả. Tiếp tục nâng
cao hiệu quả sử dụng vốn vay. Huy động, sử dụng vốn vay đáp ứng các mục tiêu và nguyên
tắc quản lý nợ; Vay cho ngân sách phải kiểm soát chặt chẽ đảm bảo bù đắp bội chi ngân sách
Nhà nước không quá 5% GDP; Rà soát danh mục dự án sử dụng vốn trái phiếu Chính phủ,
vay lại vốn vay nước ngoài và bảo lãnh; Nâng cao chất lượng công tác thẩm định, đấu thầu;
Tăng cường theo dõi, giám sát và dự báo thị trường. Tránh việc vay nợ quá nhiều, đầu tư
công quá lớn và quá dàn trải. Do vậy, đối với các dự án đầu tư dài hạn bằng vốn vay ODA ở
Việt Nam cần được giám sát chặt chẽ về điều kiện vay nợ, hiệu quả đầu tư, khả năng trả nợ.
 Thay đổi cơ cấu nợ công
- Có phương án huy động nguồn lực trong nước mà không phải tìm đến các nguồn nước ngoài.

Việt Nam thực sự nên thay đổi cơ cấu nợ công theo hướng tăng tỷ trọng nợ trong nước nhiều
hơn nữa. Để thay đổi cơ cấu nợ công, Chính phủ Việt Nam cần làm những công việc sau
đây:
+ Tăng cường phát hành trái phiếu chính phủ trong nước. Nâng cao chất lượng các đợt
đấu thầu mua trái phiếu chính phủ, chính phủ nên đưa ra một mức lãi suất phù hợp hơn
với lãi suất thị trường và yêu cầu của nhà đầu tư.
NHÓM 3 – LỚP ĐÊM 4 K 22 Trang 21
NỢ CÔNG CHÂU ÂU VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM GVHD: TS TRẦN BÍCH DUNG
+ Phát triển thị trường chứng khoán một cách bền vững. Đây là thị trường hỗ trợ tốt cho
việc huy động nguồn vốn trong nước của Chính phủ.
 Tái cấu trúc đầu tư công
- Thực hiện có hiệu quả việc tái cấu trúc đầu tư công. Phát huy vai trò định hướng của đầu tư
công trong phát triển kinh tế - xã hội, thu hút các nguồn lực khác. Từng bước điều chỉnh cơ
cấu đầu tư theo hướng giảm dần tỷ trọng đầu tư công trong tổng đầu tư xã hội, nhất là đầu tư
từ nguồn vốn NSNN. Ưu tiên sử dụng vốn NSNN tập trung đầu tư các dự án lớn, quan trọng
quốc gia, đặc biệt là hạ tầng giao thông, hạ tầng đô thị quy mô lớn, dự án có tính chiến lược
quốc gia và vùng kinh tế Nguồn vốn vay nước ngoài của DNNN có bảo lãnh của Chính
phủ cần tập trung cho các dự án trọng điểm trong sản xuất kinh doanh có tính hiệu quả và
tính khả thi cao.
- Thực hiện rà soát, đánh giá thực trạng và kết quả cụ thể của công tác thực hiện quy hoạch
một số ngành then chốt, các vùng kinh tế để có quy hoạch tổng thể, đồng bộ về ngành, lĩnh
vực và vùng miền. Trên cơ sở đó, đưa ra một số danh mục dự án đầu tư quan trọng trên
phạm vi cả nước để làm cơ sở cho việc xây dựng kế hoạch đầu tư trung và dài hạn và đảm
bảo việc thực hiện trên thực tế được gắn với kế hoạch này. Đồng thời, phải tăng cường kỷ
cương trong việc thực hiện quy hoạch, dự án.
- Hình thành các tiêu chí xác định các ưu tiên ngân sách cũng như xây dựng hệ thống tiêu chí
đánh giá hiệu quả chi NSNN cho các dự án đầu tư. Trên cơ sở đó thực hiện phân loại các
nhiệm vụ chi theo thứ tự ưu tiên gắn với các định hướng phát triển trong từng lĩnh vực, từng
vùng, miền. Xây dựng kế hoạch tài chính trung hạn và kế hoạch chi tiêu trung hạn, bảo đảm
việc phân bổ nguồn lực hàng năm định hướng vào các mục tiêu kinh tế - xã hội trong trung

và dài hạn, tăng cường tính tiên đoán, chủ động, tính hệ thống trong phân bổ nguồn lực.
- Sửa đổi các quy chế về phân cấp đầu tư, quy định rõ về quyền quyết định đầu tư của từng
cấp gắn với quyền phân bổ nguồn lực và cân đối vốn. Thực hiện bảo đảm nguyên tắc chỉ
quyết định đầu tư khi dự án có đủ thủ tục theo quy định, xác định rõ nguồn vốn và khả năng
cân đối nguồn vốn ở từng cấp ngân sách. Nghiên cứu hình thành cơ chế mở cho tất cả các địa
phương trong thu hút các nguồn lực cho phát triển phù hợp với quy hoạch, năng lực cũng
như đặc điểm của từng địa phương cùng với việc hoàn thiện các các cơ chế giám sát, bảo
đảm sự phù hợp trong định hướng phát triển của địa phương với định hướng phát triển của
từng vùng, miền.
- Thực hiện tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước. Thực hiện tái cấu trúc các tập đoàn, tổng công
ty nhà nước, định vị lại vai trò của khu vực này trong nền kinh tế, xác định rõ vai trò chủ sở
hữu của nhà nước, lành mạnh hóa năng lực tài chính của các DNNN, qua đó góp phần lành
mạnh hóa năng lực tài chính của nhà nước. Thực hiện đẩy nhanh quá trình cổ phần hóa, giảm
bớt số lượng doanh nghiệp mà Nhà nước cần nắm giữ cổ phần chi phối trên cơ sở thực hiện
rà soát lại ngành, nghề kinh doanh. Kiên quyết khắc phục tình trạng các DNNN đầu tư ra các
ngành mà không phải ngành nghề chính.
NHÓM 3 – LỚP ĐÊM 4 K 22 Trang 22
NỢ CÔNG CHÂU ÂU VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM GVHD: TS TRẦN BÍCH DUNG
3.3.3 Nâng cao hiệu quả công tác quản lý nợ công, bảo đảm an toàn nợ công
 Thiết lập ngưỡng an toàn nợ công, duy trì giới hạn nợ ở mức an toàn, đảm bảo an
ninh tài chính quốc gia
- Đảm bảo tính bền vững về quy mô và tốc độ tăng trưởng của nợ công, có khả năng thanh
toán trong nhiều tình huống khác nhau và hạn chế rủi ro, chi phí. Muốn vậy, cần thiết lập
ngưỡng an toàn nợ công; đồng thời thường xuyên đánh giá các rủi ro phát sinh từ các khoản
vay nợ Chính phủ trong mối liên hệ với GDP, thu ngân sách nhà nước, tổng kim ngạch xuất
khẩu, cán cân thương mại, dự trữ ngoại hối, dự trữ tài chính, quỹ tích lũy để trả nợ…
- Bảo đảm kỷ luật tài khóa, an ninh, an toàn tài chính. Từng bước giảm dần mức bội chi
NSNN theo lộ trình xác định trước với các bước đi thích hợp, bảo đảm cân đối giữa mục tiêu
bảo đảm tổng vốn đầu tư toàn xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững nhưng vẫn lành
mạnh hóa được tình hình tài khóa. Trong điều hành ngân sách hàng năm cần ưu tiên sử dụng

số tăng thu so với dự toán để giảm bội chi ngân sách hoặc dành để trả nợ trước hạn.
- Tăng cường sự phối hợp giữa chính sách tài khóa và tiền tệ, bảo đảm việc thực hiện các
chính sách này được gắn với các mục tiêu và định hướng thống nhất. Cụ thể là nâng cao sự
phối hợp và trao đổi thông tin giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa ngay từ khâu
xây dựng và hoạch định chính sách. Thiết lập cơ chế phối hợp hiệu quả giữa các bộ, ngành
trong điều hành chính sách kinh tế vĩ mô, trong việc giám sát và duy trì các cân đối lớn của
nền kinh tế; ứng phó hiệu quả với những tác động bất lợi đối với nền kinh tế. Củng cố năng
lực tổ chức thực hiện, đánh giá tác động và dự báo chính sách tài chính. Đẩy mạnh công tác
tuyên truyền, thông tin chính sách. Hình thành hệ thống thu nhận thông tin phản hồi về các
chính sách, cơ chế tài chính từ người dân và doanh nghiệp để khắc phục kịp thời những bất
cập và hạn chế của chính sách và quá trình thực hiện chính sách.
- Đổi mới phương thức và cách thức giám sát tài chính vĩ mô thông qua việc thiết lập hệ thống
cảnh báo sớm về tài chính - tiền tệ để kịp thời cảnh báo những nguy cơ làm mất an ninh
trong hệ thống tài chính trên cả ba cấp độ: quốc gia, ngành và doanh nghiệp. Hoàn thiện cơ
sở thông tin dữ liệu và hệ thống hóa các chỉ tiêu thu thập thông tin, phân tích và xử lý các dữ
liệu kinh tế - tài chính vĩ mô để phục vụ cho công tác hoạch định chính sách tài chính và tiền
tệ. Xây dựng và ứng dụng các mô hình phân tích và dự báo kinh tế - tài chính vĩ mô.
- Tổ chức thực hiện trả nợ đầy đủ, đúng hạn, không để xảy ra tình trạng nợ quá hạn, mất kiểm
soát. Muốn vậy, cần phải kiểm soát thường xuyên và nghiêm ngặt luồng vốn vào nước ta,
nhất là các khoản vay thương mại. Xử lý dứt điểm nguồn vốn vay bị chi tiêu lãng phí, thất
thoát, sử dụng sai mục đích, không đạt hiệu quả; gạt bỏ dự án rủi ro cao, không có điều kiện
thu hồi vốn , chú trọng biện pháp giảm chi phí vốn vay. Đảm bảo cân đối giữa vốn vay và
trả nợ, giữa huy động vốn vay nước ngoài với vốn vay trong nước (vốn vay trong nước dưới
hình thức phát hành trái phiếu chính phủ, công trái quốc gia, tín phiếu kho bạc và vay nợ
nước ngoài dưới hình thức ODA, vay thương mại, phát hành trái phiếu chính phủ trên thị
trường quốc tế). Về lâu dài, điều chỉnh cơ cấu dư nợ của Chính phủ theo hướng giảm dần sự
phụ thuộc vào vay nợ nước ngoài, tăng tỷ lệ nợ trong nước, khuyến khích tiết kiệm và đầu tư
nhiều hơn.
NHÓM 3 – LỚP ĐÊM 4 K 22 Trang 23
NỢ CÔNG CHÂU ÂU VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM GVHD: TS TRẦN BÍCH DUNG

- Nâng cao hiệu quả công tác quản lý nợ công, duy trì các chỉ số nợ công trong giới hạn an
toàn. Cụ thể là xây dựng và thực hiện Chiến lược quản lý nợ, trong đó nêu rõ mục đích, công
cụ và phạm vi hoạt động cũng như các quan điểm dài hạn trong quản lý nợ. Đồng thời, kiểm
tra, giám sát chặt chẽ việc thực hiện Chiến lược, chấp hành các chính sách quản lý nợ, bao
gồm cả việc xây dựng các hạn mức về nợ và giám sát việc tuân thủ các hạn mức đã đặt ra.
Chú trọng công tác quản lý rủi ro đối với danh mục nợ, bao gồm rủi ro về đồng tiền vay, lãi
suất, tỷ giá, khả năng thanh toán và hoạt động. Tiến hành phân tích bền vững nợ để hình
thành các đối sách phù hợp. Đa dạng hóa các công cụ quản lý nợ trong nước thông qua việc
tiếp tục phát triển thị trường thứ cấp nhằm, tăng cường khả năng tự quản lý rủi ro thông qua
các nghiệp vụ phái sinh. Xác định phạm vi quản lý và cách thức ứng xử rõ ràng đối với các
khoản nghĩa vụ nợ công dự phòng cũng như giám sát được các khoản nợ tự vay tự trả của
khu vực tư nhân và các khoản nợ ngắn hạn. Đổi mới tổ chức quản lý nợ theo hướng hiện đại
và từng bước củng cố và phát huy vai trò cơ quan quản lý nợ để thống nhất quản lý nợ trong
nước và ngoài nước.
 Thu hút, đa dạng hóa nguồn lực trong xã hội
- Thu hút có hiệu quả, đa dạng hóa các nguồn lực trong xã hội để đầu tư phát triển hạ tầng
kinh tế - xã hội để từng bước giảm dần sự phụ thuộc vào đầu tư công. Đẩy mạnh việc thực
hiện cơ chế hợp tác Nhà nước và tư nhân đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng thông qua các dự án
PPP. Tạo hành lang pháp lý đẩy mạnh mô hình quỹ đầu tư phát triển địa phương để góp phần
huy động và đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội địa phương. Đẩy mạnh việc
thực hiện chính sách xã hội hóa đầu tư trong một số lĩnh vực như y tế, giáo dục, văn hóa, thể
thao để một mặt tăng thêm nguồn vốn đầu tư, mặt khác cũng tăng tính cạnh tranh trong cung
cấp sản phẩm dịch vụ, tạo cơ hội cho người dân được tiếp cận với một chất lượng của dịch
vụ ngày càng cao.
 Minh bạch, công khai việc sử dụng nguồn lực công
- Cải thiện tính minh bạch, công khai và nâng cao trách nhiệm giải trình trong việc sử dụng
nguồn lực công. Mở rộng hình thức và nội dung công khai; tăng cường trách nhiệm giải
trình, khắc phục được tình trạng công khai còn mang tính hình thức như hiện nay. Tạo điều
kiện cho người dân tiếp cận được với các thông tin về nguyên tắc, mục tiêu và định hướng
của chính sách tài khóa, về số liệu liên quan đến NSNN để mở rộng và nâng cao sự phản

biện chính sách của cộng đồng và xã hội. Đề cao trách nhiệm giám sát của QH đối với các
công trình trọng điểm quốc gia, của HĐND đối với các dự án đầu tư trên địa bàn; tăng cường
giám sát cộng đồng, hoàn thiện cơ chế để người dân kiểm tra công việc có liên quan đến
ngân sách, đất đai, tài sản của nhà nước. Hoàn thiện hệ thống thông tin, báo cáo; xây dựng
các chỉ số tài khóa phù hợp với thông lệ quốc tế, ví dụ như phương thức tính bội chi NSNN
theo chuẩn của GFS.
- Đẩy mạnh quan hệ hợp tác quốc tế: Tăng cường quảng bá, giới thiệu trái phiếu Chính phủ
trên thị trường quốc tế; Tạo các kênh cập nhật thông tin về kinh tế vĩ mô, nợ công, nợ nước
ngoài của quốc gia; Tích cực cập nhật tin tức và dữ liệu thị trường từ các cổng thông tin tài
NHÓM 3 – LỚP ĐÊM 4 K 22 Trang 24
NỢ CÔNG CHÂU ÂU VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM GVHD: TS TRẦN BÍCH DUNG
chính quốc tế; Học hỏi kinh nghiệm quản lý và xây dựng chính sách từ các tổ chức quốc tế
có uy tín, các quốc gia thành công trong công tác quản lý nợ; Nghiên cứu để từng bước cải
thiện hệ số tín nhiệm quốc gia.
 Thanh tra, kiểm toán việc sử dụng nợ công
- Để hỗ trợ thực hiện tốt các vấn đề nêu trên, Kiểm toán Nhà nước với tư cách là cơ quan độc
lập về kiểm tra tài chính nhà nước cần được quy định rõ nhiệm vụ kiểm toán nợ công trong
Luật Quản lý nợ công và Luật Kiểm toán nhà nước. Kiểm toán Nhà nước kiểm tra, xác nhận
số liệu nợ, đánh giá tính bền vững của nợ Chính phủ so với GDP, trong mối quan hệ với bảo
đảm an ninh tài chính quốc gia; cơ cấu nợ, tỷ lệ vay nợ nước ngoài trong tổng số nợ; cơ chế
quản lý nợ, mục đích sử dụng các khoản vay nợ (nhất là nợ nước ngoài); tính minh bạch và
đầy đủ trong các khoản nợ… giúp Chính phủ có số liệu xác thực và thực trạng trung thực để
đề ra các giải pháp tổng thể bảo đảm bền vững của ngân sách trong tương lai. Kiểm toán nợ
công cần được tiến hành thường xuyên để có thể kiểm soát kịp thời các rủi ro trong quản lý.
Để tổ chức kiểm toán thường xuyên nợ công có hiệu quả thì hàng năm phải kiểm toán các
báo cáo thường niên về nợ công đồng thời tăng cường số lượng và chất lượng các cuộc kiểm
toán chuyên đề về nợ công, như chuyên đề kiểm toán vay nợ nước ngoài của Chính phủ, vay
nợ trong nước, các khoản nợ Chính phủ bảo lãnh, chi phí vay nợ Mặt khác, tăng cường
kiểm toán việc sử dụng và đánh giá hiệu quả sử dụng vốn vay, vốn được Chính phủ bảo lãnh
tại các dự án đầu tư, các doanh nghiệp, ngân hàng thương mại từ đó cảnh báo nguy cơ rủi ro

có thể xảy ra đe dọa tính bền vững của nợ công và ngân sách nhà nước.
-
NHÓM 3 – LỚP ĐÊM 4 K 22 Trang 25

×