Tải bản đầy đủ (.docx) (76 trang)

phân tích chất lượng tín dụng tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn agribank chi nhánh hà thành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (505.8 KB, 76 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
KHOA TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
PHÂN TÍCH CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP
VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN AGRIBANK CHI NHÁNH HÀ THÀNH
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN;
- PGS.TS Trần Thị Thái Hà
SINH VIÊN THỰC HIỆN: Nguyễn Cao Sơn
LỚP: QH – 2010 E TCNH
HỆ: Chính Quy
1
Hà Nội – Tháng 5 Năm 2014

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
KHOA TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
PHÂN TÍCH CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP
VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN AGRIBANK CHI NHÁNH HÀ THÀNH
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN;
- PGS.TS Trần Thị Thái Hà
GIÁO VIÊN PHẢN BIỆN;
-
SINH VIÊN THỰC HIỆN: Nguyễn Cao Sơn
LỚP: QH 2010 – E TCNH
HỆ: Chính Quy
2

Hà Nội – Tháng 5 Năm 2014
3
Mục lục
Danh mục các ký hiệu, chữ viết tắt


Chữ viết tắt Nguyên nghĩa
NHNo&PTNT Ngân hàng nông nghiệp và phát triển
nông thôn
VND Đồng Việt Nam
USD Đô la Mỹ
NHTM Ngân hàng thương mại
NĐ-CP Nghị định chính phủ
QĐ-NHNN Quyết định – Ngân hàng nhà nước.
CSTK Chính sách tài khóa
4
CSTT Chính sách tiền tệ
L/C Letter of credit ( Thư tín dụng )
TCCB&ĐT Tổ chức cán bộ và đào tạo
QĐ/HĐQT- TCCB Quyết đinh/ Hội đồng quản trị - Tổ
chức cán bộ
NHTW Ngân hàng trung ương
LỜI NÓI ĐẦU
Ngân hàng là một trong những mắt xích quan trọng cấu thành nên sự vận động
nhịp nhàng của nền kinh tế. Cùng với các ngành kinh tế khác, ngân hàng có nhiệm vụ
tham gia bình ổn thị trường tiền tệ, kiềm chế và đẩy lùi lạm phát, tạo công ăn việc làm
cho người lao động, giúp đỡ các nhà đầu tư, phát triển thị trường vốn, thị trường ngoại
hối, tham gia thanh toán và hỗ trợ thanh toán
Trong hoạt động của ngân hàng thì hoạt động tín dụng là một lĩnh vực quan
trọng, quan hệ tín dụng là quan hệ xương sống, quyết định mọi hoạt động kinh tế trong
nền kinh tế quốc dân và nó còn là nguồn sinh lợi chủ yếu, quyết định sự tồn tại, phát
triển của ngân hàng. Tín dụng Ngân hàng còn được coi là đòn bẩy quan trọng cho nền
kinh tế. Nghiệp vụ này không chỉ có ý nghĩa với nền kinh tế mà nó còn là nghiệp vụ
hàng đầu, có ý nghĩa quan trọng, quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của từng
5
ngân hàng. Tuy nhiên, sự phát triển hay trì trệ của hoạt động tín dụng một ngân hàng

lại phụ thuộc vào chất lượng của hoạt động tín dụng đó. Chính vì vậy, làm thế nào để
củng cố và nâng cao chất lượng tín dụng là điều mà trước đây, bây giờ và sau này đều
được các nhà quản lý Ngân hàng, các nhà chính sách và các nhà nghiên cứu quan tâm.
Từ những nhận định nếu trên, nhờ sự giúp đỡ của thầy cô giáo và các bạn sinh
viên, em đã cân nhắc và đi tới quyết định chọn đề tài “Giải pháp nâng cao tín dụng
trong ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Agribank chi nhánh Hà
Thành ” làm đề tài niên luận của mình. Mục đích đề tài nhằm đưa ra những nhận định
có tính khoa học cao góp phần nâng cao chất lượng tín dụng trong ngân hàng cũng như
giải quyết những vấn đề còn tồn đọng trong chất lượng tín dụng tại ngân hàng nông
nghiệp và phát triển nông thôn Agribank chi nhánh Hà Thành.
BÀI NIÊN LUẬN ĐƯỢC CHIA LÀM 3 CHƯƠNG.
Chương 1: Những vấn đề chung về chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại.
Chương 2: Chất lượng tín dụng tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
Agribank chi nhánh Hà Thành
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng nông nghiệp
và phát triển nông thôn Agribank chi nhánh Hà Thành .
6
7
8
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG CỦA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
1.1. Giới thiệu về ngân hàng thương mại.
Ngân hàng thương mại đã hình thành, tồn tại và phát triển gắn liền với sự phát
triển của nền kinh tế hàng hoá. Sự phát triển của hệ thống ngân hàng thương mại đã có
tác động rất lớn và quan trọng đến quá trình phát triển của nền kinh tế hàng hoá, ngược
lại kinh tế hàng hoá phát triển mạnh mẽ đến giai đoạn cao của nó – kinh tế thị trường –
thì ngân hàng thương mại cũng ngày càng được hoàn thiện và trở thành những định chế
tài chính không thể thiếu được.
Ngân hàng thương mại là một tổ chức trung gian tài chính có vị trí quan trọng
trong nền kinh tế quốc dân và hoạt động theo định chế trung gian mang tính chất tổng

hợp.
Luật các tổ chức tín dụng năm 2010: NHTM là tổ chức tín dụng được thực hiện
toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan vì mục
tiêu lợi nhuận theo quy định của Luật Các tổ chức tín dụng và các quy định khác của
pháp luật. (theo điều số 59/2009/NĐ-CP của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của
NHTM)
1.2. Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại.
1.2.1. Khái niệm về hoạt động tín dụng.
Tín dụng ngân hàng là một khái niệm dùng để chỉ mối quan hệ kinh tế giữa bên
cho vay (ngân hàng và các định chế tài chính khác) và bên đi vay. Trong đó bên cho
vay chuyển giao cho bên đi vay sử dụng một lượng giá trị (thường dưới hình thái tiền)
trong một thời gian nhất dịnh theo những điều kiện mà hai bên đã thoả thuận (thời
9
gian, phương thức thanh toán lãi- gốc, thế chấp ) ( Theo điều 20, Luật các tổ chức tín
dụng Việt Nam ).
Tín dụng là sự chuyển nhượng một lượng giá trị có thời hạn. Đặc trưng này của
tín dụng xuất phát từ tính chuyển nhượng tạm thời. Để đảm bảo thu hồi nợ đúng hạn,
ngân hàng xác định thời hạn cho vay dựa vào quá trình luân chuyển vốn của khách
hàng và tính chất vốn của ngân hàng. Nếu ngân hàng định kỳ hạn nợ một cách phù hợp
với khách hàng thì khả năng trả nợ đúng hạn cao và ngược lại.
Tín dụng dựa trên nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi. Sở dĩ như vậy là vì vốn hoạt
động của ngân hàng chủ yếu là huy động từ bên ngoài, vốn chủ sở hữu ít khi được sử
dụng để sản xuất kinh doanh mà được sử dụng chủ yếu để đầu tư vào tài sản cố định.
Chính vì vậy, sau một thời gian nhất định ngân hàng phải trả lại cho người gửi ngân
hàng. Mặt khác ngân hàng cần phải có nguồn để bù đắp chi phí như trả lương, khấu
hao… Do đó, người vay ngoài việc trả gốc còn phải trả cho ngân hàng một khoản lãi.
Đó là nguồn thu nhập chính của ngân hàng, là cơ sở để ngân hàng tồn tại và phát triển.
Khi cho vay, cái mà ngân hàng thu được là lợi nhuận sau khi đã trừ đi tất cả các
khoản phí. Đồng thời đi kèm với lợi nhuận dự kiến có rủi ro. Rủi ro tín dụng sẽ xảy ra
khi khách hàng không thực hiện đầy đủ những cam kết trong hợp đồng tín dụng

(Không trả đúng hạn hoặc không trả). Ngân hàng luôn phải xem xét mối quan hệ giữa
lợi nhuận và rủi ro để định ra một mức lãi suất phù hợp. Rõ ràng, với một dự án có độ
rủi ro cao hơn thì chi phí nợ của doanh nghiệp đó phải cao hơn và ngược lại.
1.2.2. Đặc điểm và phân loại hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại.
Ngân hàng thương mại là một trong những định chế tài chính mà đặc trưng là
cung cấp đa dạng các dịch vụ tài chính với nghiệp vụ cơ bản là nhận tiền gửi, cho vay
10
và cung ứng các dịch vụ thanh toán. Trong các hoạt động của ngân hàng, hoạt động
nhận tiền gửi và cho vay là hoạt động chủ yếu đem lại lợi nhuận cho Ngân hàng
thương mại. Qui mô, chất lượng tín dụng ảnh hưởng quyết định đến sự tồn tại và phát
triển của ngân hàng.
Phân loại tín dụng là việc sắp xếp các khoản vay theo nhóm dựa trên một số tiêu
thức nhất định. Mục đích của việc phân loại tín dụng là một công cụ giúp cho nhà quản
trị lập một quy trình tín dụng thích hợp, giảm thiểu rủi ro tín dụng. Có rất nhiều cách
khác nhau để phân loại tín dụng, dưới đây là một số tiêu chí đáp ứng nhu cầu đánh giá
chất lượng tín dụng hiệu quả.
• Theo mục đích sử dụng của khoản vay.
Căn cứ vào tiêu thức này, người ta chia tín dụng ra làm hai loại:
Tín dụng cho sản xuất và lưu thông hàng hoá: Là việc ngân hàng cấp vốn cho cho
các đơn vị kinh doanh để tiến hành sản xuất, lưu thông hàng hoá. Nguồn trả nợ của
hoạt động này được lấy từ kết quả hoạt động kinh doanh của chính các đơn vị kinh
doanh đó. Vì vậy, ngân hàng cần phải có đầy đủ các thông tin cần thiết về khách hàng
của mình .Ví du: phương án sản xuất kinh doanh của họ.
Tín dụng cho tiêu dùng: Là việc ngân hàng cấp vốn cho các cá nhân để đáp ứng
nhu cầu tiêu dùng như mua sắm nhà cửa, xe cộ, các loại hàng hoá lâu bền như máy
giặt, điều hoà, tủ lạnh Nguồn trả nợ được lấy từ thu nhập trong tương lai của người
vay. Vì vậy, ngân hàng cần phải có đầy đủ các thông tin cơ bản về các khách hàng. Ví
dụ: bảng lương, nơi làm việc v v…
Tín dụng cho bất động sản: là việc ngân hàng cấp vốn cho khách hàng vay căn cứ
vào mục đích vay vốn của khách hàng liên quan đến bất động sản. Khi các cá nhân đi

11
vay thì nguồn trả nợ sẽ được lấy từ thu nhập trong tương lai của họ còn đối với các tổ
chức, doanh nghiệp thì nguồn trả nợ sẽ được lấy từ kết quả hoạt động kinh doanh. Vì
vậy, ngân hàng cần phải có đầy đủ các thông tin về tổ chức, doanh nghiệp hay cá nhân
nhằm tránh rủi ro tín dụng.
Với cách phân loại này, ngân hàng sẽ có quy trình nghiệp vụ cụ thể để đảm bảo
ngân hàng có đủ tiền để cho vay và thu hồi nợ theo đánh giá mức độ rủi ro và mức lãi
xuất được đặt ra cho từng loại đối tượng.
• Theo thời hạn sử dụng các khoản vay.
Căn cứ vào tiêu thức này, người ta chia tín dụng ra làm hai loại: tín dụng không
thời hạn và tín dụng có thời hạn.
+ Tín dụng không thời hạn: Là loại tín dụng mà thời hạn hoàn trả tiền vay không
được xác định khi ký hợp đồng vay mà thay vào đó là điều kiện về việc thu hồi khoản
tiền cho vay của ngân hàng hoặc việc trả nợ của người vay. Ngân hàng không thu hồi
theo thời hạn nhất định mà chỉ thu lãi; người vay sẽ trả nợ cho Ngân hàng khi nhu cầu
vay thêm không cần thiết nữa do quy mô sản xuất giảm hoặc doanh nghiệp lấy nguồn
khác để tự bổ xung; ngân hàng muốn thu hồi gốc phải báo trước cho người vay. Như
vậy khi quy mô sản xuất của doanh nghiệp tăng lên, doanh nghiệp sẽ đi vay không thời
hạn .
+ Tín dụng có thời hạn: Là loại tín dụng mà thời điểm trả nợ được xác định cụ thể.
- Tín dụng ngắn hạn: Là loại tín dụng có thời hạn dưới một năm và được sử dụng để
bổ sung sự thiếu hụt tạm thời về vốn lưu động của doanh nghiệp và phục vụ các nhu
cầu sinh hoạt của các cá nhân. Với loại tín dụng này, ngân hàng sẽ chịu ít rủi ro vì thời
12
gian cho vay ngắn nên ít có biến động xảy ra và nếu có xảy ra thì ngân hàng có thể dự
tính được.
- Tín dụng trung hạn: Là loại tín dụng có thời hạn từ một năm đến năm năm và chủ
yếu được sử dụng để mua sắm tài sản cố định, cải tiến và đổi mới kỹ thuật, mở rộng
sản xuất và xây dựng các công trình nhỏ, có thời hạn thu hồi vốn nhanh. Với loại tín
dụng này, ngân hàng sẽ chịu mức độ rủi ro lớn hơn mức độ rủi ro của các khoản tín

dụng ngắn hạn nhưng vẫn không quá cao vì ngân hàng có khả năng dự đoán được
những biến động có thể xảy ra.
- Tín dụng dài hạn: Là loại tín dụng có thời hạn trên năm năm, được sử dụng để cấp
vốn cho xây dựng cơ bản, đầu tư xây dựng các xí nghiệp mới, các công trình thuộc cơ
sở hạ tầng( đường xá, bến cảng, sân bay ), cải tiến và mở rộng sản xuất với quy mô
lớn. Với loại tín dụng này, ngân hàng sẽ phải chịu mức độ rủi ro rất lớn vì trong thời
gian dài thì có những biến động xảy ra không lường trước được.
• Theo điều kiện đảm bảo
Căn cứ vào tiêu thức này, tín dụng được chia làm hai loại:
- Tín dụng có bảo đảm: Là loại tín dụng dựa trên cơ sở các bảo đảm như thế chấp,
cầm cố, hoặc có sự bảo lãnh của người thứ ba. Ngân hàng nắm giữ tài sản của người
vay để xử lý thu hồi nợ khi người vay không thực hiện được các nghĩa vụ đã được cam
kết trong hợp đồng tín dụng. Hình thức này được áp dụng đối với những khách hàng
không có uy tín cao với ngân hàng. Mặc dù là có tài sản đảm bảo nhưng hình thức tín
dụng này vẫn có độ rủi ro cao vì tài sản có thể bị mất giá hay người bảo lãnh không
thực hiện nghĩa vụ của mình.
13
- Tín dụng không có bảo đảm: Là loại tín dụng không có tài sản thế chấp, cầm cố,
hoặc không có sự bảo lãnh của người thứ ba. Việc cấp tín dụng chỉ dựa vào uy tín của
bản thân khách hàng. Muốn vậy, ngân hàng phải đánh giá hiệu quả sử dụng tiền vay
của người vay, khách hàng không được phép giao dịch với bất kỳ ngân hàng nào khác.
Mặc dù không có tài sản đảm bảo nhưng đây là một loại tín dụng ít rủi ro cho ngân
hàng vì khách hàng có uy tín rất lớn và khả năng trả nợ rất cao th́ mới được cấp tín
dụng mà không cần đảm bảo.
• Theo đồng tiền được sử dụng trong cho vay
Căn cứ vào tiêu thức này, tín dụng được chia làm hai loại:
- Cho vay bằng đồng bản tệ: Là loại tín dụng mà ngân hàng cấp tiền cho khách
hàng bằng VND. Nước ta quy định, cho vay để thanh toán trong nước thì chỉ được vay
bằng VND.
- Cho vay bằng ngoại tệ: Là loại tín dụng mà ngân hàng cấp tiền cho khách hàng

bằng đồng ngoại tệ. Cho vay bằng ngoại tệ chỉ phục vụ cho nhập khẩu; đối với khách
hàng thu mua hàng xuất khẩu thì Ngân hàng cho vay bằng ngoại tệ nhưng phải bán
luôn cho ngân hàng và dùng VND đi mua hàng xuất khẩu.
• Các cách phân loại khác
Theo xuất xứ của tín dụng có:
- Tín dụng gián tiếp.
- Tín dụng trực tiếp.
Theo đối tượng được cho vay có:
14
- Tín dụng cho doanh nghiệp, tổ chức tài chính khác vay.
- Tín dụng cho nhà nước vay.
- Tín dụng cho người tiêu dùng vay.
Dựa vào các cách phân loại trên, các nhà phân tích sẽ biết được kết cấu của từng
loại tín dụng. Bằng việc so sánh kết cấu của từng loại tín dụng với kết cấu nguồn huy
động, so với nhu cầu của nền kinh tế sẽ giúp cho các nhà phân tích đánh giá, xem xét
kết cấu tín dụng đã phù hợp với ngân hàng chưa. Từ đó đưa ra các giải pháp thích hợp.
1.3. Chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại.
1.3.1. Khái niệm chất lượng tín dụng
Chất lượng tín dụng là một khái niệm thông dụng, bởi tính tín dụng bao hàm các
hoạt động khác nhau khó đồng nhất và đo lường: cho vay, bảo lãnh, phát hành
L/C,chiết khấu, bao thanh toán… Việc nâng cao chất lượng tín dụng sẽ góp phần đảm
bảo sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng cùng với đó là sự phù hợp với sự phát triển
kinh tế và xã hội.
Để có thể hiểu rõ hơn về chất lượng tín dụng, ta xem xét sự thể hiện chất lượng
tín dụng trên các khía cạnh sau:
- Đối với khách hàng: Chất lượng tín dụng được thể hiện ở chỗ số tiền mà Ngân hàng
cho vay phải có lãi suất và kỳ hạn hợp lý, thủ tục đơn giản, thuận lợi, thu hút được
nhiều khách hàng nhưng vẫn đảm bảo nguyên tắc tín dụng.
- Đối với Ngân hàng thương mại: Chất lượng tín dụng được thể hiện ở phạm vi, mức
độ, giới hạn tín dụng phải phù hợp với thực lực của bản thân ngân hàng và đảm bảo

được tính cạnh tranh trên thị trường với nguyên tắc hoàn trả đúng hạn và có lãi. Đối
15
với một ngân hàng nhỏ thì nên cấp tín dụng với mức độ và trong phạm vi nhất định để
thoả mãn một cách tốt nhất khách hàng của mình.
- Đối với Chính phủ, với sự phát triển kinh tế xã hội: Chất lượng tín dụng được thể
hiện ở việc tín dụng phục vụ sản xuất và lưu thông hàng hoá, góp phần giải quyết công
ăn việc làm, khai thác khả năng tiềm tàng trong nền kinh tế, thúc đẩy quá trình tích tụ
và tập trung sản xuất, giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng tín dụng với tăng
trưởng kinh tế.
1.3.2. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng
Dựa trên những dữ liệu lịch sử bằng những con số có được, các chỉ tiêu đánh giá
chất lượng tín dụng được hình thành giúp khách hàng và các nhà đầu tư sẽ có những
thông tin mang tính chính xác cao trong hoạt động của ngân hàng trong một khoảng
thời gian đủ dài để có những nhận định chung về ngân hàng.
1. Tỷ lệ tăng trưởng dư nợ (%)
(Dư nợ năm nay - Dư nợ năm trước)
Tỷ lệ tăng trưởng dư nợ (%) = x 100%
Dư nợ năm trước
- Chỉ tiêu này dùng để so sánh sự tăng trưởng dư nợ tín dụng qua các năm để đánh
giá khả năng cho vay, tìm kiếm khách hàng và đánh tình hình thực hiện kế hoạch tín
dụng của ngân hàng.
- Chỉ tiêu càng cao thì mức độ hoạt động của NH càng ổn định và có hiệu quả,
ngược lại NH đang gặp khó khăn, nhất là trong việc tìm kiếm khách hàng và thể hiện
việc thực hiện kế hoạch tín dụng chưa hiệu quả.
2. Tỷ lệ thu lãi (%)
Tổng lãi đã thu trong năm
Tỷ lệ thu lãi (%) = x 100%
16
Tổng lãi phải thu trong năm
- Chỉ tiêu này dùng để đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch tài chính của ngân

hàng, đánh giá khả năng đôn đốc, thu hồi lãi và tình hình thực hiện kế hoạch doanh thu
của ngân hàng từ việc cho vay
- Chỉ tiêu càng cao thì tình hình thực hiện kế hoạch tài chính cũng như tình hình tài
chính của NH càng tốt, ngược lại NH đang gặp khó khăn trong việc thu lãi, ảnh hưởng
nghiêm trọng đến doanh thu của ngân hàng, chỉ tiêu này cũng thể hiện tình hình bất ổn
trong cho vay của ngân hàng, có thể nợ xấu (tín dụng đen) trong ngân hàng tăng cao
nên ảnh hưởng đến khả năng thu hồi lãi của ngân hàng, và có thể ảnh hưởng đến khả
năng thu hồi nợ trong tương lai. (Thông thường tỷ lệ này phải trên 95% mới là tốt)
3. Tỷ lệ Dư nợ/Vốn huy động ( % )
Tổng Dư nợ
Tỷ lệ Dư nợ/ Vốn huy động = x 100%
Vốn huy động
- Chỉ tiêu này phản ánh NH cho vay được bao nhiêu so với nguồn vốn huy động,
nó còn nói lên hiệu quả sử dụng vốn huy động của ngân hàng, thể hiện ngân hàng đã
chủ động trong việc tích cực tạo lợi nhuận từ nguồn vốn huy đông hay chưa.
- Chỉ tiêu này lớn thể hiện khả năng tranh thủ vốn huy động, nếu chỉ tiêu này lớn
hơn 1 thì ngân hàng chưa thực hiện tốt việc huy động vốn, vốn huy động tham gia vào
cho vay ít, khả năng huy động vốn của NH chưa tốt, nếu chỉ tiêu này nhỏ hơn 1 thì
ngân hàng chưa sử dụng hiệu quả toàn bộ nguồn vốn huy động, gây lãng phí.
4. Tỷ lệ nợ quá hạn (%) và tỷ lệ nợ xấu ( %)
17
Nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn ( % ) = x 100
Tổng dư nợ
- Chỉ tiêu này cho thấy tình hình nợ quá hạn tại ngân hàng, đồng thời phản ánh khả
năng quản lý tín dụng của ngân hàng trong khâu cho vay, đôn đốc thu hồi nợ của ngân
hàng đối với các khoản vay.
- Đây là chỉ tiêu được dùng để đánh giá chất lượng tín dụng cũng như rủi ro tín
dụng tại ngân hàng
- Tỷ lệ nợ quá hạn càng cao thể hiện chất lượng tín dụng của ngân hàng càng kém ,

và ngược lại.
Tổng nợ xấu
Tỷ lệ nợ xấu ( % ) = x 100
Tổng dư nợ
- Bên cạnh chỉ tiêu tỷ lệ nợ quá hạn, người ta còn dùng chỉ tiêu tỷ lệ nợ xấu để
phân tích thực chất tình hình chất lượng tín dụng tại ngân hàng. Tổng nợ xấu của ngân
hàng bao gồm nợ quá hạn, nợ có khả năng mất vốn. Chính vì vậy chỉ tiêu này cho thấy
thực chất tình hình chất lượng tín dụng tại ngân hàng, đồng thời phản ánh khả năng
quản lý tín dụng của ngân hàng trong khâu cho vay, đôn đốc thu hồi nợ của ngân hàng
đối với các khoản vay.
- Tỷ lệ nợ xấu càng cao thể hiện chất lượng tín dụng của ngân hàng càng kém và
ngược lại.
18
Theo Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22 tháng 4 năm 2005 của Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam quy định về Phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự
phòng để xử lý rủi ro tín dụng ta có:
- Nợ nhóm 1 (nợ đủ tiêu chuẩn) bao gồm các khoản nợ trong hạn và được đánh giá là có
khả năng thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi đúng hạn, cộng với các khoản nợ quá hạn dưới
10 ngày và được đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ nợ gốc và lãi bị quá hạn cùng
với nợ gốc và lãi còn lại đúng hạn.
- Nợ nhóm 2 (nợ cần chú ý) bao gồm nợ quá hạn từ 10 đến 90 ngày, các khoản nợ được
điều chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu.
- Nợ nhóm 3 (nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm nợ quá hạn từ 91 ngày đến 180 ngày,
nợ gia hạn lần đầu và nợ được miễn giảm lãi do khách hàng không đủ khả năng trả lãi
đầy đủ theo hợp đồng tín dụng.
- Nợ nhóm 4 (nợ nghi ngờ) sẽ bao gồm các khoản nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360
ngày; nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn trả nợ
được cơ cấu lại lần đầu; Nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ 2; Nợ phải thu hồi theo
kết luận thanh tra nhưng đã quá thời hạn thu hồi đến 60 ngày mà vẫn chưa thu hồi
được

- Nợ nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn) bao gồm nợ quá hạn trên 360 ngày, nợ cơ
cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn từ 90 ngày trở lên theo thời hạn trả nợ được cơ
cấu lại lần đầu; nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai quá hạn theo thời hạn trả nợ
được cơ cấu lại lần thứ hai; nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ ba trở lên, kể cả chưa
bị quá hạn hoặc đã quá hạn.
Chỉ tiêu nợ quá hạn là các loại nợ trong nhóm 2 đến nhóm 5 và chỉ tiêu nợ xấu là các
loại nợ từ nhóm 3 đến nhóm 5.
19
5. Lãi suất cho vay và lãi suất huy động.
Lãi suất là tỷ lệ mà theo đó tiền lãi được người vay trả cho việc sử dụng tiền mà
họ vay từ một người cho vay. Lãi suất huy động là lãi suất mà tại đó ngân hàng sẽ phải
trả một khoản lãi từ việc sử dụng tiền của các nhà đầu tư. Cùng với đó, lãi suất cho vay
là lãi suất mà khách hàng sẽ phải trả cho ngân hàng để được vay một lượng tiền nhất
định phục vụ cho các hoạt động của mình.
Một cơ chế ổn định giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động sẽ giúp cho ngân
hàng có lượng vốn cần thiết để tham gia vào các hoạt động đầu tư của mình. Lãi suất
huy động phải được áp dụng một cách hợp lý để các cá nhân và tổ chức cảm thấy hài
lòng khi gửi tiền vào ngân hàng. Mặt khác, ngân hàng không phải chịu một mức phí
tiền gửi quá lớn so với mặt bằng chung so với các ngân hàng khác.
Một lãi suất cho vay hợp lí là lãi suất mà tại đó các cá nhân hay doanh nghiệp có
thể tiếp cận được nguồn vốn để thực hiện các hoạt động kinh doanh của mình. Mặt
khác ngân hàng có thể thu được một nguồn lợi lớn từ hoạt động cho vay của mình. Khi
đó, các cá nhân và doanh nghiệp sẽ có thể mở rộng kinh doanh sản xuất, thu nhập của
họ sẽ tăng lên và có thể thực các nghĩa vụ trả nợ và lãi cho ngân hàng.
1.3.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng của Ngân hàng
Là hoạt động cơ bản của một ngân hàng, hoạt động tín dụng phát triển cũng kéo theo
các hoạt động khác của ngân hàng phát triển. Nâng cao chất lượng tín dụng đã, đang,
và sẽ là cái đích mà tất cả các ngân hàng thương mại hướng tới. Có nhiều nhân tố ảnh
hưởng đến chất lượng tín dụng. Trong bài phân tích này, chúng ta phân loại thành 2
nhân tố chủ quan và khách quan để đánh giá được các yếu tố tác động đến hoạt động

tín dụng của ngân hàng.
20
1.3.3.1 Các nhân tố chủ quan.
Các nhân tố chủ quan là nhân tố thuộc về ngân hàng mà ngân hàng có thể điều
chỉnh và thay đổi nhằm đạt được lợi ích tối đa cho ngân hàng cũng như đưa ra những
quyết định tốt nhất tới khách hàng.
- Chính sách tín dụng của Ngân hàng.
Chính sách tín dụng của là một trong những chính sách trong chiến lược kinh
doanh của doanh nghiệp. Đó là yếu tố đầu tiên tác động dến việc cung ứng vốn cho nền
kinh tế.
Chính sách tín dụng được hiểu là đường lối, chủ trương của ngân hàng đảm bảo
cho hoạt động tín dụng đi đúng quỹ đạo, liên quan đến việc mở rộng hay thu hẹp tín
dụng. Chính sách tín dụng bao gồm: hạn mức tín dụng, kỳ hạn của các khoản vay, lãi
suất cho vay và mức lệ phí, các loại cho vay được thực hiện.
Một chính sách tín dụng đúng đắn sẽ thu hút nhiều khách hàng, đảm bảo khả
năng sinh lời từ hoạt động tín dụng trên cơ sở hạn chế rủi ro, tuân thủ phương pháp,
đường lối chính sách của Nhà nước và đảm bảo công bằng xã hội. Điều đó cũng có
nghĩa chất lượng tín dụng tuỳ thuộc vào việc xây dựng chính sách tín dụng của ngân
hàng thương mại có đúng đắn hay không. Bất cứ Ngân hàng nào muốn có chất lượng
tín dụng tốt cũng đều phải có chính sách tín dụng khoa học, phù hợp với thực tế của
ngân hàng cũng như của thị trường.
- Quy trình tín dụng.
Quy trình tín dụng là tập hợp những nội dung, nghiệp vụ cơ bản, các bước tiến
hành trong quá trình cho vay, thu nợ nhằm đảm bảo an toàn vốn tín dụng. Nó bao gồm
21
các bước bắt đầu từ khâu chuẩn bị cho vay, phát tiền vay, kiểm tra trong quá trình cho
vay cho đến khi thu hồi được nợ.
Trong quy trình tín dụng, bước chuẩn bị cho vay rất quan trọng (khách hàng nhập
hồ sơ vay vốn ). Bao gồm 3 giai đoạn: khai thác và tìm kiếm khách hàng; hướng dẫn
khách hàng về điều kiện tín dụng và thành lập hồ sơ vay; phân tích thẩm định khách

hàng và phương án, dự án vay vốn. Chất lượng tín dụng tuỳ thuộc nhiều vào chất lượng
công tác thẩm định và quy định về điều kiện, thủ tục cho vay của từng ngân hàng
thương mại.
- Công tác tổ chức phòng ban của ngân hàng.
Công tác tổ chức là việc ngân hàng quy định hay phân loại các phòng ban chịu
trách nhiệm và thực hiện các hoạt động của ngân hàng. Một ngân hàng chú trọng tới
công tác tổ chức sẽ là tiền đề để đạt được những thành công trong thời gian gần. Chính
vì điều này, hầu hết tất cả các ngân hàng bất kể lớn hay nhỏ đều coi khâu tổ chức là
một trong những khâu quan trọng nhất khi mới thành lập hay trong quá trình hoạt động
của mình. Công tác tổ chức của ngân hàng cần cụ thể hoá và sắp xếp có khoa học, có
tính linh hoạt trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc đã quy định. Ngân hàng được tổ chức
một cách có khoa học sẽ đảm bảo được sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa các
phòng ban, giữa các ngân hàng với nhau trong toàn hệ thống cũng như với các cơ quan
liên quan khác. Qua đó sẽ tạo điều kiện đáp ứng kịp thời các yêu cầu của khách hàng,
quản lý có hiệu quả các khoản vốn tín dụng, phát hiện và giải quyết kịp thời các khoản
tín dụng có vấn đề, từ đó nâng cao chất lượng tín dụng.
- Phẩm chất và trình độ cán bộ.
Đội ngũ cán bộ nhân viên luôn đóng một vai trò hết sức quan trọng đối với việc
tồn tại và phát triển của ngân hàng. Chất lượng đội ngũ cán bộ ngân hàng là nhân tố
quyết định đến sự thành bại trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói chung và
22
trong hoạt động tín dụng nói riêng .Đối với từng phòng ban khác nhau sẽ đòi hỏi những
nhân viên có trình độ và năng lưc khác nhau nhằm đáp ứng yêu cầu công việc cụ thể.
Mặc dù vậy, theo thời gian, sự đòi hỏi về khả năng và trình độ đối với nhân viên
mà ngân hàng đề ra càng ngày càng khó hơn, đặc biệt là đối với nhân viên tín dụng. Sở
dĩ như vậy là vì cán bộ tín dụng là người tham gia trực tiếp vào mọi khâu của quy trình
tín dụng, từ bước đầu tiên đến bước cuối cùng. Một nhân viên tín dụng tốt là người có
trình độ, hiểu biết và luôn nắm bắt thông tin nhanh, kịp thời để có thể dự đoán và có
những hành động nhất định nhằm ứng phó trước những diễn biến phức tạp của nền
kinh tế hiện nay.

- Kiểm soát nội bộ.
Hệ thống kiểm soát nội bộ là các quy định và các thủ tục kiểm soát do đơn vị
được kiểm toán ( ngân hàng ) xây dựng và áp dụng nhằm đảm bảo cho đơn vị tuân thủ
pháp luật và các quy định, để kiểm tra, kiểm soát, ngăn ngừa và phát hiện gian lận, sai
sót; để lập báo cáo tài chính trung thực và hợp lý, nhằm bảo vệ, quản lý và sử dụng có
hiệu quả tài sản của đơn vị. ( theo đoạn 10 chuẩn mực kiểm toán số 400).
Đây là biện pháp giúp cho ban lãnh đạo Ngân hàng có được các thông tin về tình trạng
kinh doanh nhằm duy trì có hiệu quả các hoạt động kinh doanh đang xúc tiến, phù hợp
với các chính sách, đáp ứng các mục tiêu đã định.
Trong lĩnh vực tín dụng, hoạt động kiểm soát bao gồm:
+ Kiểm soát chính sách tín dụng và các thủ tục có liên quan đến các khoản vay
( thẩm quyền về điều hành, quản lý, giám sát các khoản tiền cho vay, hồ sơ, thủ tục cho
vay… ).
23
+ Kiểm tra định kỳ do kiểm soát viên nội bộ thực hiện, báo cáo các trường hợp
ngoại lệ, những vi phạm chính sách, thủ tục, kiểm soát kế toán cả các nghiệp vụ cho
vay.
Chất lượng tín dụng tuỳ thuộc vào mức độ phát hiện kịp thời nguyên nhân các sai sót
phát sinh trong quá trình thực hiện một khoản tín dụng của công tác nội bộ để có các
biện pháp khắc nhanh chóng.
Để kiểm soát nội bộ có hiệu quả, Ngân hàng cần phải có cơ cấu tổ chức hợp lý, cán bộ
kiểm tra phải giỏi nghiệp vụ, trung thực và có chính sách thưởng phạt nghiêm minh.
1.3.3.2 Các nhân tố khách quan
Các nhân tố khách quan là những nhân tố mà ngân hàng không thể can thiệp mà
chỉ có thể đánh giá được thông qua những thông tin có được từ bên ngoài từ đó đưa ra
những nhận định thích hợp để cung cấp các dịch vụ của mình cho khách hàng.
- Môi trường kinh tế - xã hội.
Bất kì sự thay đổi nào của môi trường kinh tế đều sẽ ảnh hưởng đến chất lượng
tín dụng của ngân hàng. Các khoản tín dụng ngắn hạn, trung hạn và dài hạn đều bị ảnh
hưởng khi nền kinh tế có những sự biến đổi bất thường. Khi nền kinh tế đang ở trong

giai đoạn tăng trưởng thì chất lượng của các khoản tín dụng sẽ được nâng cao. Ngược
lại, nếu nền kinh tế đang ở trong giai đoạn suy thoái thì sẽ làm cho chất lượng các
khoản tín dụng xấu đi ngoài ý muốn. Mặc dù vậy chất lượng các khoản tín dụng ngắn
hạn sẽ ít bị ảnh hưởng hơn khi nền kinh tế biến động vì các khoản tín dụng này tồn tại
trong thời gian ngắn. Chính vì điều này sẽ giúp cho ngân hàng có thể dễ dàng hơn
trong việc xoay vòng vốn cũng như có được những giải pháp kịp thời để ứng phó lại
những biến đổi bất thường của nền kinh tế.
- Môi trường kinh tế - xã hội trong nước.
24
Môi trường kinh tế trong nước thay đổi không ngừng theo thời gian. Nhất là
trong thời gian gần đây, khi nền kinh tế Việt Nam đang ở trong giai đoạn suy thoái.
Tình trạng lạm phát tăng cao, đồng tiền mất giá đã khiến cho ngân hàng gặp nhiều khó
khăn trong hoạt động tín dụng, đặc biệt là đối với các khoản tín dụng cho sản xuất và
lưu thông. Các doanh nghiệp trong lĩnh vực này sẽ gặp nhiều khó khăn trong hoạt động
kinh doanh của mình. Chính vì điều này đã gây ra ảnh hưởng tiêu cực tới kết quả hoạt
động kinh doanh cho các doanh nghiệp. Từ đó khả năng cho vay cũng như thu hồi các
khoản vốn và lãi của của ngân hàng gặp nhiều rủi ro. Đây cũng chính là một trong
những nguyên nhân làm giảm chất lượng tín dụng của ngân hàng.
Cũng là một nhân tố tác động đến chất lượng tín dụng của ngân hàng. Nếu môi
trường chính trị - xã hội tương đối ổn định sẽ giúp cho các doanh nghiệp mạnh dạn đầu
tư lâu dài cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Ngược lại, nếu môi trường chính trị - xã
hội mà bất ổn thì các doanh nghiệp sẽ không dám mạnh dạn đầu tư mà chỉ duy trì ở
mức tái sản xuất giản đơn để bảo đảm an toàn vốn. Điều này sẽ ảnh hưởng tới quy mô
các khoản tín dụng của ngân hàng, các món vay chủ yếu sẽ là ngắn hạn, còn khoản tín
dụng sẽ rất nhỏ vì sự bất ổn chính trị - xã hội dẫn đến việc kinh doanh của doanh
nghiệp gặp nhiều rủi ro, ảnh hưởng tới công tác thu nợ của ngân hàng.
- Môi trường kinh tế - xã hội nước ngoài.
Sự biến động về tỷ giá đã và đang khiến các doanh nghiệp phải nhập thiết bị
nước ngoài lẽ ra đã vay ngân hàng đủ tiền sẽ trở thành không đủ tiền để nhập, từ đó
gây ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng khoản vay. Nói như vậy không có nghĩa là chỉ

môi trường kinh tế trong nước thay đổi mới tác động tới chất lượng tín dụng mà sự
thay đổi của môi trường kinh tế thế giới cũng gây ảnh hưởng không nhỏ, đặc biệt là đối
với doanh nghiệp hoạt động xuất nhập khẩu. Sự thay đổi ấy thể hiện trực tiếp qua sự
biến động về nhu cầu thị trường, sự biến động về tỷ giá khiến cho các doanh nghiệp
25

×