Tải bản đầy đủ (.doc) (97 trang)

hình thành phương pháp tự học cho học sinh trong dạy học chương chất khí vật lí 10 thpt với sự hỗ trợ của máy vi tính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.19 MB, 97 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
LÊ THỊ NHƯ NGUYỆN
HÌNH THÀNH PHƯƠNG PHÁP TỰ HỌC CHO HỌC SINH
TRONG DẠY HỌC CHƯƠNG CHẤT KHÍ
VẬT LÍ 10 THPT VỚI SỰ HỖ TRỢ
CỦA MÁY VI TÍNH
Chuyên ngành: LÍ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC MÔN VẬT LÍ
Mã số: 60 14 10
LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC
Người hướng dẫn khoa học
PGS.TS. LÊ CÔNG TRIÊM
Huế, năm 2013
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi,
các số liệu và kết quả nghiên cứu nêu trong luận văn là trung thực,
được các đồng tác giả cho phép sử dụng và chưa từng được công bố
trong bất kì một công trình nào khác.
Tác giả
Lê Thị Như Nguyện
ii
Lời Cảm Ơn
Tác giả xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, Phòng Đào
tạo Sau đại học, quý thầy cô giáo Khoa Vật lí trường Đại học Sư
phạm Huế và quý thầy cô giáo trực tiếp giảng dạy, giúp đỡ trong
suốt quá trình học tập.
Tác giả xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, quý thầy, cô
giáo Tổ Vật lí trường THCS & THPT HÀ TRUNG đã nhiệt tình
giúp đỡ, trao đổi và tạo điều kiện thuận lợi cho tác giả trong quá


trình nghiên cứu và thực hiện đề tài.
Đặc biệt, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Nhà
giáo Ưu tú, PGS.TS. Lê Công Triêm - người đã tận tình hướng
dẫn cho tác giả trong suốt thời gian nghiên cứu và hoàn thành
luận văn.
Cuối cùng, tác giả bày tỏ lòng biết ơn đối với gia đình,
người thân và bạn bè đã giúp đỡ và động viên tác giả hoàn thành
luận văn này.
Huế, tháng 9 năm 2013
Tác giả

Lê Thị Như Nguyện
iii
iii
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa i
Lời cam đoan ii
Lời cảm ơn iii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT 3
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ VÀ ĐỒ THỊ 4
MỞ ĐẦU 4
1. Lí do chọn đề tài 4
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu 7
3. Mục tiêu nghiên cứu 8
4. Giả thuyết khoa học 8
5. Nhiệm vụ nghiên cứu 8
6. Đối tượng nghiên cứu 9
7. Phương pháp nghiên cứu 9
8. Giới hạn đề tài 9

9. Cấu trúc luận văn 9
NỘI DUNG 9
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VIỆC HÌNH THÀNH 9
PHƯƠNG PHÁP TỰ HỌC CHO HỌC SINH VỚI SỰ HỖ TRỢ 9
CỦA MÁY VI TÍNH TRONG DẠY HỌC VẬT LÍ 10
1.1. Khái niệm tự học 10
1.2. Phương pháp tự học 12
1.3. Năng lực tự học 13
1.4. Kĩ năng tự học 15
1.5. Các biện pháp hình thành phương pháp tự học cho học sinh 18
1.5.1. Xây dựng động cơ hứng thú học tập cho người học 18
1.5.2. Xây dựng kế hoạch tự học 19
1.5.3. Tăng cường làm việc với sách giáo khoa và tài liệu hướng dẫn tự học 19
1.5.4. Phối hợp các hình thức tổ chức dạy học một cách linh hoạt 20
1.5.5. Nghe giảng và ghi chép theo tinh thần tự học 20
1.5.6. Sử dụng các phương pháp dạy học tích cực 21
1.5.7. Sử dụng các phương tiện dạy học hiện đại 21
1.5.8. Kết hợp nhiều loại hình kiểm tra, đánh giá trong dạy học 22
1.6. Sự hỗ trợ của máy vi tính trong việc hình thành phương pháp tự học cho học sinh.22
1.6.1. Máy vi tính hỗ trợ việc tổ chức các hoạt động dạy học, hỗ trợ quá trình tự học giáp
mặt 22
1.6.2. Máy vi tính hỗ trợ việc hình thành kĩ năng thu thập dữ liệu 23
1.6.3. Máy vi tính hỗ trợ việc tổ chức tình huống có vấn đề, kích thích hứng thú tự học
cho học sinh 24
1.6.4. Máy vi tính hỗ trợ việc xây dựng sơ đồ tư duy, rèn luyện kĩ năng tóm tắt, ôn tập 25
1.7. Xây dựng tiến trình dạy học với sự hỗ trợ của máy vi tính 27
1.7.1. Lập sơ đồ tiến trình dạy học với sự hỗ trợ của máy vi tính 28
1.7.2. Xác định các phương tiện tổ chức dạy học cho học sinh với sự hỗ trợ của máy vi
tính 29
1.8. Kết luận chương 1 30

1
CHƯƠNG 2. HÌNH THÀNH PHƯƠNG PHÁP TỰ HỌC 30
CHO HỌC SINH TRONG DẠY HỌC CHƯƠNG CHẤT KHÍ 30
VẬT LÍ 10 THPT VỚI SỰ HỖ TRỢ CỦA MÁY VI TÍNH 30
2.1. Đặc điểm và cấu trúc chương Chất khí 31
2.2. Một số biện pháp dạy học theo hướng hình thành phương pháp tự học cho học sinh
trong dạy học chương Chất khí với sự hỗ trợ của máy vi tính 32
2.2.1. Sử dụng máy vi tính theo hướng hình thành phương pháp tự học cho học sinh
trong khâu mở đầu 32
2.2.2. Sử dụng máy vi tính theo hướng hình thành phương pháp tự học cho học sinh
trong quá trình nghiên cứu kiến thức mới 34
2.2.3. Sử dụng máy vi tính theo hướng hình thành phương pháp tự học cho học sinh
trong khâu vận dụng, củng cố 36
2.2.4. Sử dụng máy vi tính theo hướng hình thành phương pháp tự học cho học sinh khi
tự học ở nhà 38
2.3. Tiến trình dạy học một số bài chương Chất khí 39
2.4. Hệ thống giáo án chương Chất khí được thiết kế theo hướng hình thành phương
pháp tự học cho học sinh với sự hỗ trợ của máy vi tính 43
Bài 31. PHƯƠNG TRÌNH TRẠNG THÁI CỦA KHÍ LÍ TƯỞNG 54
2.5. Kết luận chương 2 61
CHƯƠNG 3. THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM 63
3.1. Mục đích và nhiệm vụ của thực nghiệm sư phạm 63
3.1.1. Mục đích của thực nghiệm sư phạm 63
3.1.2. Nhiệm vụ của thực nghiệm sư phạm 63
3.2. Phương pháp thực nghiệm sư phạm 63
3.2.1. Chọn mẫu thực nghiệm 63
3.2.2. Các bài kiểm tra 64
3.3. Kết quả thực nghiệm sư phạm 64
3.3.1. Kết quả định tính 64
3.3.2. Kết quả định lượng 66

3.3.3. Kiểm định giả thuyết thống kê 69
3.4. Kết luận chương 3 70
KẾT LUẬN 70
1. Những kết quả đã đạt được 70
2. Một số kiến nghị 72
Để việc vận dụng kết quả nghiên cứu của đề tài vào thực tế giảng dạy ở trường THPT có
hiệu quả, chúng tôi có một số ý kiến đề xuất sau: 72
3. Hướng phát triển của luận văn 72
TÀI LIỆU THAM KHẢO 72
2
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ĐC : Đối chứng
GV : Giáo viên
HS : Học sinh
MVT : Máy vi tính
PPDH : Phương pháp dạy học
PTDH : Phương tiện dạy học
TN : Thí nghiệm
TNg : Thực nghiệm
TNSP : Thực nghiệm sư phạm
THPT : Trung học phổ thông


3
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ VÀ ĐỒ THỊ
Trang
Bảng 3.1. Bảng thống kê điểm số (Xi) của bài kiểm tra 66
Bảng 3.2. Bảng phân phối tần suất 66
Bảng 3.3. Bảng phân phối tần suất tích lũy 67
Bảng 3.4. Bảng phân loại theo học lực 68

Bảng 3.5. Bảng tổng hợp các tham số 69
Hình ảnh sơ đồ tư duy 25
Đồ thị 3.1. Đồ thị phân phối tần suất của hai nhóm 67
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
4
Trong thời đại khoa học công nghệ phát triển, bùng nổ thông tin như hiện
nay, người lao động muốn tồn tại và phát triển đòi hỏi phải có trình độ và vốn tri
thức được cập nhật thường xuyên. Muốn đạt được điều đó con người phải có
phương pháp và năng lực tự học suốt đời đồng thời phải biết sử dụng những phương
tiện mới, hiện đại trong việc nâng cao tri thức cho bản thân.
Đổi mới phương pháp dạy và học là một trong những mục tiêu lớn được
ngành giáo dục và đào tạo đặt ra và là một mục tiêu chính đã được nghị quyết trung
ương 2, khóa VIII chỉ rõ : “ Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục đào tạo.
Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương pháp hiện đại vào quá
trình dạy học để phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của HS; phù
hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn
luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại
niềm vui, hứng thú học tập cho HS” [8].
Chiến lược phát triển giáo dục 2001 – 2010 , mục 5.2 ghi rõ: “Đổi mới và
hiện đại hóa phương pháp giáo dục. Chuyển từ việc truyền thụ tri thức thụ động,
thầy giảng, trò ghi sang hướng dẫn người học chủ động tư duy trong quá trình tiếp thu
tri thức; dạy cho người học phương pháp tự học; tự thu nhận thông tin một cách có hệ
thống và có tư duy phân tích, tổng hợp; phát triển năng lực cho mỗi cá nhân; tăng
cường tính chủ động, tính tự chủ của HS, sinh viên trong quá trình học tập ” [2].
Chỉ thị 29/2001/CT – BGD&ĐT của Bộ trưởng Bộ giáo dục – Đào tạo về
việc tăng cường giảng dạy và ứng dụng công nghệ thông tin trong ngành giáo dục
giai đoạn hiện nay: “Đổi mới giáo dục và đào tạo, công nghệ thông tin có tác động
mạnh mẽ, làm thay đổi nội dung, phương pháp, phương thức dạy và học. Công
nghệ thông tin là phương tiện để tiến tới một “xã hội học tập”. Mặt khác, giáo dục

và đào tạo đóng vai trò quan trọng bậc nhất thúc đẩy sự phát triển công nghệ thông
tin thông qua nguồn nhân lực cho công nghệ thông tin” [1].
Tự học là hoạt động tất yếu gắn liền với quá trình học tập, nhưng thái độ, kĩ
năng, phương pháp tự học của mỗi người là khác nhau. Vì vậy việc hình thành
phương pháp tự học cho HS là rất quan trọng và cần thiết. Tự học không những
giúp HS không ngừng nâng cao chất lượng và hiệu quả học tập khi còn ngồi trên
5
ghế nhà trường, mà còn trang bị cho HS năng lực, hứng thú, thói quen, có phương
pháp tự học thường xuyên và suốt đời. Qua đó giúp HS rèn luyện đức tính tự lập, ít
phụ thuộc vào người khác. Từ đó chất lượng học tập của học sinh sẽ được đánh giá
thực chất hơn.
Chính vì lẽ đó mà giáo dục không ngừng đổi mới, hiện đại hóa về mục tiêu,
nội dung và PPDH. Một xu hướng được nhiều nước quan tâm đó là MVT với tư
cách là một PTDH hiện đại sẽ được sử dụng nhằm nâng cao chất lượng dạy và học
của tất cả các môn. MVT ngày càng tỏ ra ưu việt ở những chỗ mà không một
phương tiện truyền thống nào trước đây có thể giải quyết được. Nhờ khả năng tương
tác cao, sự tích hợp của nhiều khả năng khác mà MVT có được những đặc trưng mới
về chất so với các PTDH trước đó. Xu thế dạy học với sự hỗ trợ của MVT là một
trong những biện pháp cơ bản để đổi mới PPDH, góp phần bồi dưỡng và hình thành
phương pháp tự học cho HS, nâng cao chất lượng dạy học.
Thực tế hiện nay đa số HS còn thụ động trong việc tiếp thu kiến thức, chưa
biết cách chủ động tự học, coi việc học là sự bắt buộc và giải quyết nó một cách đối phó.
Giải quyết các mâu thuẫn trên là yêu cầu cấp thiết trong tiến trình đổi mới
giáo dục phổ thông hiện nay, trong đó cần chú trọng bồi dưỡng phương pháp học
tập cho HS mà cốt lõi là phương pháp tự học. Nếu người học được bồi dưỡng, rèn
luyện phương pháp, kĩ năng, thói quen, ý chí tự học thì sẽ tạo cho họ lòng ham học,
khơi dậy nội lực vốn có trong mỗi người, kết quả học tập sẽ được nâng lên và về lâu
dài sẽ trang bị cho họ phương pháp, năng lực học tập suốt đời [3].
Trong thời gian qua việc sử dụng MVT vào dạy học đã được áp dụng ngày
càng nhiều. Tuy nhiên vấn đề hình thành phương pháp tự học cho HS với sự hỗ trợ

của MVT ở trường phổ thông hiện nay vẫn chưa được quan tâm nhiều. Ưu điểm của
MVT vẫn chưa được khai thác triệt để, thông thường chỉ được dùng trong việc trình
chiếu bài giảng hay để HS quan sát các hình ảnh rõ hơn nên hiệu quả vẫn chưa cao.
Đối với chương Chất khí, nếu GV chỉ dạy theo kiểu diễn giảng để truyền đạt
kiến thức thì hiệu quả dạy học sẽ không cao. TN được GV mô tả bằng lời sẽ khiến
cho hiện tượng càng thêm trừu tượng, còn nếu TN được thực hiện thì có khi không
cho kết quả rõ ràng và khó để HS cả lớp quan sát. Với sự hỗ trợ của MVT, GV có
6
thể làm cho các hình ảnh sinh động, các TN được phóng to lên để HS quan sát dễ
dàng, từ đó kích thích hứng thú học tập cho HS.
Với những lí do trên, chúng tôi đã chọn đề tài “Hình thành phương pháp tự
học cho học sinh trong dạy học chương Chất khí vật lí 10 THPT với sự hỗ trợ
của máy vi tính” với mong muốn xây dựng một số biện pháp hình thành phương
pháp tự học cho HS. Hi vọng đề tài sẽ góp một phần nhỏ vào việc đổi mới PPDH
trong giai đoạn hiện nay.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Vấn đề tự học là đề tài được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Nhiều công
trình đăng trên tạp chí giáo dục của các tác giả như : Lê Công Triêm, Thái Duy
Tuyên, Nguyễn Cảnh Toàn đã xây dựng cơ sở lí luận và đề xuất một số biện pháp
về việc bồi dưỡng, rèn luyện kĩ năng tự học cũng như việc ứng dụng công nghệ
thông tin vào dạy học nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục.
Đề tài luận văn thạc sĩ “Nâng cao hiệu quả dạy học vật lí ở trường THPT
thông qua các biện pháp tổ chức hoạt động tự học cho học sinh” của Nguyễn Thị
Thiên Nga đã góp phần xây dựng hệ thống cơ sở lí luận về tự học và nghiên cứu đề
xuất một số biện pháp để nâng cao hiệu quả dạy học qua việc tổ chức các hoạt động
tự học của HS. Ngoài ra còn có các đề tài nghiên cứu sử dụng các PTDH và ứng
dụng công nghệ thông tin vào việc dạy và học. Đề tài : “Nghiên cứu sử dụng bài tập
vật lí theo hướng bồi dưỡng năng lực tự học cho HS trong dạy học phần Dòng điện
không đổi vật lí 11 THPT” của Nguyễn Phú Đồng đã đề cập đến việc sử dụng bài
tập theo hướng bồi dưỡng năng lực tự học cho học sinh. Về việc sử dụng TN và

phiếu học tập vào dạy học để bồi dưỡng năng lực tự học cho HS có các đề tài
“Nghiên cứu sử dụng thí nghiệm theo hướng bồi dưỡng năng lực tự học cho học
sinh trong dạy học chương Điện tích – Điện trường và Dòng điện không đổi vật lí
11 nâng cao THPT” của Nguyễn Tương Thảo Uyên và “Bồi dưỡng năng lực tự học
cho học sinh qua phiếu học tập trong dạy học phần Quang hình học vật lí 11 nâng
cao THPT” của Hà Thế Nhân.
Bên cạnh đó có nhiều đề tài nghiên cứu về khả năng ứng dụng của MVT
trong dạy học vật lí như: “Nghiên cứu xây dựng và sử dụng phần mềm dạy học cho
7
chương trình động học và động lực học lớp 10 phổ thông trung học” của Phan Gia
Anh Vũ, đề tài đã nghiên cứu khai thác phần mềm Pakma trong các TN cũng như
trong các quá trình xây dựng mô hình về động học và động lực học; Vương Đình
Thắng với đề tài “Nghiên cứu sử dụng MVT với multimedia thông qua việc xây
dựng và khai thác website dạy học môn vật lí 6 ở trường trung học cơ sở”.
Những công trình trên cho thấy việc sử dụng các PTDH trong việc bồi dưỡng
năng lực tự học đã góp phần tăng tính tích cực, chủ động của HS trong quá trình
dạy học.
Tuy nhiên các đề tài chỉ tập trung nghiên cứu riêng rẽ, chưa có sự kết hợp
giữa việc hình thành phương pháp tự học và việc ứng dụng các PTDH nói chung và
MVT nói riêng. Vì vậy nghiên cứu việc hỗ trợ của MVT trong việc hình thành
phương pháp tự học cho HS là rất cần thiết.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Đề xuất được một số biện pháp và xây dựng được tiến trình dạy học theo
hướng hình thành phương pháp tự học cho HS trong dạy học chương Chất khí Vật lí
10 THPT với sự hỗ trợ của MVT.
4. Giả thuyết khoa học
Nếu đề xuất được một số biện pháp, tiến trình dạy học theo hướng hình
thành phương pháp tự học với sự hỗ trợ của MVT và vận dụng chúng vào dạy học
chương Chất khí thì sẽ phát huy tính tích cực, chủ động, say mê tìm tòi, học hỏi của
HS, từ đó nâng cao chất lượng và hiệu quả dạy học vật lí ở trường phổ thông.

5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lí luận của việc hình thành phương pháp tự học cho HS
trong dạy học vật lí ở trường phổ thông
- Nghiên cứu khả năng hỗ trợ của MVT trong việc hình thành phương pháp
tự học cho HS trong dạy học chương Chất khí vật lí 10 THPT
- Thiết kế một số giáo án chương Chất khí vật lí 10 THPT với sự hỗ trợ của
MVT theo hướng hình thành phương pháp tự học cho HS
- Tiến hành TNSP ở trường phổ thông để đánh giá kết quả nghiên cứu và rút
ra kết luận
8
6. Đối tượng nghiên cứu
Hoạt động dạy học chương Chất khí vật lí 10 THPT với sự hỗ trợ của MVT.
7. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lí thuyết
+ Nghiên cứu các văn kiện của Đảng, chính sách của Nhà nước cùng với các
chỉ thị của Bộ Giáo Dục và Đào Tạo về vấn đề đổi mới PPDH hiện nay ở trường
phổ thông
+ Nghiên cứu cơ sở lí luận về vấn đề tự học
+ Nghiên cứu chương trình, sách giáo khoa vật lí 10 THPT chương Chất khí
- Phương pháp TNSP
Tiến hành TNSP ở trường THPT có đối chứng để kiểm tra tính khả thi của đề tài
- Phương pháp thống kê toán học
Sử dụng phương pháp thống kê toán học xử lí các kết quả TNSP nhằm kiểm
định giả thuyết thống kê về sự khác biệt trong kết quả học tập của hai nhóm đối
tượng (TNg và ĐC).
8. Giới hạn đề tài
Do thời gian và trình độ còn hạn chế, chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu việc
hình thành phương pháp tự học cho HS trong dạy học chương Chất khí vật lí 10
THPT với sự hỗ trợ của MVT.
9. Cấu trúc luận văn

MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
Chương 1. Cơ sở lí luận của việc hình thành phương pháp tự học cho
học sinh với sự hỗ trợ của máy vi tính trong dạy học vật lí
Chương 2. Hình thành phương pháp tự học cho học sinh trong dạy
học chương Chất khí vật lí 10 THPT với sự hỗ trợ của máy vi tính
Chương 3. Thực nghiệm sư phạm
KẾT LUẬN
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VIỆC HÌNH THÀNH
PHƯƠNG PHÁP TỰ HỌC CHO HỌC SINH VỚI SỰ HỖ TRỢ
9
CỦA MÁY VI TÍNH TRONG DẠY HỌC VẬT LÍ
1.1. Khái niệm tự học
Khái niệm về tự học (Selt Directed learning – SDL) bắt nguồn từ việc giáo
dục cho người trưởng thành, là một giải pháp thực hiện bởi học viên người lớn ở
tiểu học và trung học. Hiện nay, việc định nghĩa về tự học đã có nhiều thay đổi
nhưng tựu trung lại có một số quan điểm sau:
Theo Bolhuis và Garrison, tự học là sự tích hợp của việc tự quản lí với tự
kiểm soát của người học, đó là quá trình mà người học tự theo dõi, đánh giá và điều
chỉnh chiến lược nhận thức của mình. Người học là chủ thể trong sự hợp tác chặt
chẽ của GV và các bạn học cùng lớp [9].
Theo GS. Nguyễn Cảnh Toàn thì tự học là tự mình động não, suy nghĩ, sử
dụng các năng lực trí tuệ và có khi cả cơ bắp cùng với các phẩm chất của mình, rồi
cả động cơ, tình cảm, cả nhân sinh quan, thế giới quan để chiếm lĩnh một lĩnh vực
hiểu biết mới nào đó của nhân loại, biến lĩnh vực đó thành sở hữu của mình [22].
Nguyễn Kỳ cho rằng tự học nghĩa là người học tích cực chủ động tự mình
tìm ra bằng hành động của mình, tự thể hiện mình và hợp tác với các bạn, học bạn,
học thầy và học mọi người. Tự học là tự đặt mình vào tình huống học, vào vị trí của
người tự nghiên cứu, xử lí các tình huống, giải quyết các vấn đề đặt ra để nhận biết

vấn đề, thu thập xử lí thông tin cũ, xây dựng các giải pháp giải quyết vấn đề, thử
nghiệm các giải pháp [16].
Theo Lưu Xuân Mới, tự học là hình thức hoạt động nhận thức của cá nhân
nhằm nắm vững hệ thống tri thức và kĩ năng do chính bản thân người học tiến hành
ở trên lớp hoặc ở ngoài lớp, theo hoặc không theo chương trình và sách giáo khoa
đã được quy định [18].
Như vậy, tự học là một hoạt động tất yếu trong quá trình học tập. Đã có hoạt
động học tập thì có hoạt động tự học.
Trong quá trình nhận thức, người học huy động mọi phẩm chất, năng lực tư
duy của bản thân một cách độc lập nhằm mục đích chiếm lĩnh tri thức, khi đó ta nói
người học đã tiến hành hoạt động tự học. Hoạt động tự học của HS có thể diễn ra
10
dưới sự điều khiển trực tiếp của GV, trong trường hợp này GV là người giữ vai trò
tổ chức, hướng dẫn quá trình nhận thức. HS là chủ thể của quá trình nhận thức, họ
phải phát huy mọi chức năng tâm lí của cá nhân, phải tiến hành các hoạt động nhận
thức để lĩnh hội tri thức dựa vào sự hướng dẫn của GV. Khi không có GV trực tiếp
điều khiển, hướng dẫn, HS phải biết tự mình sắp xếp, vạch kế hoạch, tận dụng tối
đa các điều kiện học tập, nhất là năng lực chủ động của bản thân để tìm hiểu, ôn tập,
củng cố, đào sâu, mở rộng và hoàn thiện tri thức nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ học
tập mà GV đã giao đồng thời lĩnh hội và khắc sâu kiến thức mới.
Đối với người học nói chung và đối với HS nói riêng thì tự học có vai trò rất
quan trọng, tự học là chìa khóa tiến vào thế kỉ XXI, một thế kỉ với quan niệm học
suốt đời, xã hội học tập [23]. Tự học là phương châm cơ bản, là mục tiêu chiến lược
của giáo dục Việt Nam nói riêng và thế giới nói chung [18]:
- Tự học đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng kiến thức
và hiệu quả học tập
Khi tự học, người học phải vận dụng các năng lực trí tuệ tới mức tối đa để tự
mình giải quyết vấn đề. Điều này đòi hỏi người học tự tìm tòi, đào sâu suy nghĩ,
động não từ đó tạo điều kiện cho việc thấu hiểu kiến thức sâu sắc hơn. Lê-nin đã
viết: “Không có sự lao động tự lực thì không thể tìm thấy chân lí trong bất kì vấn đề

hệ trọng nào và ai sợ tốn công sức thì không sao tìm ra sự thật được”.
- Tự học là nội lực của người học, đóng vai trò cốt lõi của hoạt động học
Như đã nói, kết quả của tự học bao giờ cũng là sự chiếm lĩnh kiến thức, biến
kiến thức chung của nhân loại thành kiến thức riêng của mình. Người biết tự học là
người có khả năng thu thập và xử lí thông tin, biết vận dụng thông tin và biết tự
kiểm tra, đánh giá hoạt động học tập của mình. Vì thế, người biết tự học là người có
khả năng tự giải quyết vấn đề tốt, có khả năng tự làm giàu kiến thức cho mình.
11
- Tự học góp phần rèn luyện kĩ năng, cách học
Khi tự học, các thao tác tư duy và thao tác chân tay được lặp đi lặp lại nhiều
lần góp phần hình thành kĩ năng, phương pháp học cho người học. Tự học là cốt lõi
của cách học. Bác Hồ đã từng nói: “Về cách học phải lấy tự học làm cốt”.
- Tự học có vai trò quan trọng trong việc rèn luyện tư duy
Khi tự học, người học phải sử dụng các thao tác tư duy để giải quyết vấn đề,
vì thế tư duy được rèn luyện một cách thường xuyên. Các nhiệm vụ đặt ra ngày
càng cao cùng với lượng kiến thức, kĩ năng, năng lực thu được ngày càng nhiều sẽ
góp phần nâng cao dần khả năng tư duy của HS.
- Tự học có vai trò to lớn trong sự sinh tồn của mỗi người
Ngày nay nguồn cung cấp thông tin rất đa dạng và phong phú, từ sách, mạng
internet, băng, đĩa CD nên nếu có kĩ năng tự học tốt thì sẽ tận dụng được nguồn
thông tin phong phú, đa dạng đó trong việc thu nhận kiến thức cho mỗi cá nhân.
Trong thời đại bùng nổ thông tin như hiện nay, tự học có vai trò quan trọng hơn bao
giờ hết, tự học là điều kiện quyết định sự thành công của mỗi người. Một triết gia đã
từng nói: “Anh đang tư duy nghĩa là anh đang tồn tại”. Vì thế con người muốn tồn
tại đúng nghĩa thì phải tự học, tự học là tự cứu lấy mình.
1.2. Phương pháp tự học
Để hoạt động tự học đạt hiệu quả cao, người học phải có phương pháp tự học.
Tự học không có nghĩa là chỉ là việc học ở nhà, việc tự học có phương pháp
phải bắt đầu từ trên lớp học. Không thể tách rời việc học ở lớp với việc học ở nhà.
Trên lớp học, phải biết chú ý lắng nghe lời thầy giảng, tập trung tư tưởng theo dõi

một cách không thụ động, biết đề xuất những thắc mắc, những chỗ chưa hiểu rõ để
thầy giải đáp, cùng với người thầy xây dựng bài giảng.
Thời gian tự học ở nhà cũng rất quan trọng, đây là lúc HS có nhiều thời giờ
suy ngẫm, đào sâu vấn đề, tiếp tục đề xuất những thắc mắc để thầy giải đáp, suy
nghĩ liên hệ hoặc vận dụng vào thực tế. Đây cũng là cách để tri thức khắc sâu trong
bộ óc, khó bị quên lãng và trở thành hữu ích, là cách học kết hợp với hành mà Bác
Hồ luôn luôn nhắc nhở. Việc học ở nhà còn phải làm tốt việc chuẩn bị trước theo
yêu cầu của từng bài giảng.
12
Việc HS giúp đỡ nhau trong học tập cũng rất quan trọng. GV có thể phân
chia cho HS giỏi ngồi gần HS yếu hơn để các em có thể tương trợ nhau trong học
tập. Đây là một cách phát động quần chúng HS cùng chung sức với thầy giáo và
nhà trường giải quyết vấn đề chất lượng. HS kém học bạn, hỏi bạn cũng dễ dàng,
thoải mái hơn do đó dễ tiến bộ. HS giỏi giúp đỡ bạn thì tự mình cũng giỏi thêm.
Như vậy có nhiều cách tự học khác nhau như [18]
- Tự học giáp mặt: Những hoạt động như nghe giảng, ghi chép bài, thảo luận
nhóm, làm việc với sách, làm thí nghiệm, quan sát của HS, được HS thực hiện
một cách chủ động, tích cực thì đều được gọi là hoạt động tự học, hoạt động này
diễn ra ngay trong quá trình dạy học với sự điều khiển trực tiếp của GV đứng lớp
nên gọi là tự học giáp mặt.
- Tự học không giáp mặt: Đó là sự tự học không có sự điều khiển trực tiếp
của người GV mà do HS tự mình độc lập tiến hành với sự hỗ trợ của các phương
tiện học tập để tự mình chiếm lĩnh tri thức và tự mình đạt được các mục đích, nhiệm
vụ học tập. Tự học loại này có thể tồn tại ở ba mức
+ Tự học mức cao: Người học tự học qua sách, qua các phương tiện thông
tin. Người học tự học tập một cách độc lập hoàn toàn.
+ Tự học với sự hướng dẫn (hay điều khiển từ xa): Người học có sách giáo
khoa, có các tài liệu hướng dẫn học tập hay có sự hướng dẫn thông qua các phương
tiện thông tin như băng ghi hình, ghi tiếng, ti-vi, mạng internet, các phần mềm dạy
học Sự hướng dẫn tự học chủ yếu là sự hướng dẫn tư duy trong việc chiếm lĩnh tri

thức, hướng dẫn phương pháp học tập, hướng dẫn tra cứu, hướng dẫn thí nghiệm.
Dưới sự hướng dẫn từ xa ấy, người học tự mình tiến hành các hành động học tập để
hoàn thành các nhiệm vụ học tập. Hiện nay hình thức tự học này rất được khuyến
khích nhưng chất lượng của nó là vấn đề cần quan tâm.
+ Tự học có sự hướng dẫn trên lớp của thầy: HS nhận nhiệm vụ và tự học ở
nhà để tự mình hoàn thành các nhiệm vụ học tập. Có thể gọi hình thức này là tự học
có hướng dẫn hay tự học sau giờ lên lớp.
1.3. Năng lực tự học
Năng lực là khả năng đảm nhận công việc và thực hiện tốt, nhờ có phẩm chất
đạo đức và trình độ chuyên môn [31]. Năng lực của người hoàn toàn không phải do
tự nhiên mà có, mà một phần lớn do công tác, do luyện tập mà có [9].
13
Theo PGS.TS Lê Công Triêm thì năng lực tự học là khả năng tự mình tìm
tòi, nhận thức và vận dụng kiến thức vào tình huống mới hoặc tương tự với chất
lượng cao. Năng lực tự học của người học bao gồm các nhóm sau [9], [23]:
- Nhóm năng lực nhận biết, tìm tòi và phát hiện vấn đề
Năng lực này đòi hỏi người học phải nhận biết, hiểu, phân tích, tổng hợp, so
sánh sự vật hiện tượng được tiếp xúc; suy xét từ nhiều góc độ, có hệ thống trên cơ
sở những lí luận và hiểu biết đã có của mình; phát hiện ra các khó khăn, mâu thuẫn
xung đột, các điểm chưa hoàn chỉnh cần giải quyết, bổ sung, các bế tắc, nghịch lí
cần phải khơi thông, khám phá, làm sáng rõ
- Nhóm năng lực giải quyết vấn đề
Bao gồm khả năng trình bày giả thuyết; xác định cách thức giải quyết và lập
kế hoạch giải quyết vấn đề; khảo sát các khía cạnh, tiếp nhận và xử lí thông tin; đề
xuất các giải pháp, kiến nghị các kết luận. Kĩ thuật giải quyết vấn đề vừa là công cụ
nhận thức đồng thời là mục tiêu của việc dạy cho người học phương pháp tự học.
- Nhóm năng lực xác định những kết luận đúng (kiến thức, cách thức, con
đường, giải pháp, biện pháp ) từ quá trình giải quyết vấn đề
Đây là một năng lực quan trọng cần cho người học đạt đến những kết luận
đúng của quá trình giải quyết vấn đề, hay nói cách khác, các tri thức cần lĩnh hội

sau khi giải quyết vấn đề sẽ có được một khi chính bản thân người học có năng lực
này. Năng lực này bao gồm các khả năng khẳng định hay bác bỏ giả thuyết, hình
thành kết quả và đề xuất vấn đề mới, hoặc áp dụng (nếu cần thiết).
- Nhóm năng lực vận dụng kiến thức vào thực tiễn (hoặc vào nhận thức kiến
thức mới)
Kết quả cuối cùng của việc học tập phải được thể hiện ở chính ngay trong
thực tiễn cuộc sống, hoặc là người học vận dụng kiến thức đã học để nhận thức, cải
tạo thực tiễn, hoặc trên cơ sở kiến thức và phương pháp đã có, nghiên cứu, khám
phá, thu nhận thêm kiến thức mới. Điều đó đòi hỏi người học phải có năng lực vận
dụng kiến thức.
14
- Nhóm năng lực đánh giá và tự đánh giá
Trong dạy học tập trung vào người học đòi hỏi phải tạo điều kiện, cơ hội và
khuyến khích người học đánh giá và tự đánh giá. Có như vậy thì người học mới
dám suy nghĩ, dám chịu trách nhiệm và luôn luôn tìm tòi sáng tạo, tìm ra cái mới,
cái hợp lí, cái hiệu quả hơn. Năng lực đánh giá và tự đánh giá giúp người học xác
định chính xác điểm mạnh, yếu, cái đúng, sai của mình từ đó có thể chủ động phát
huy những mặt mạnh, điều chỉnh những điểm yếu, vững bước trên con đường học
tập của mình.
Các nhóm năng lực trên vừa đan xen, vừa tiếp nối nhau, tạo nên năng lực tự
học ở người học. Việc hình thành, bồi dưỡng các năng lực tự học cho người học là
một quá trình lâu dài và được thực hiện từng bước theo mức độ từ thấp lên cao, từ
đơn giản đến phức tạp.
1.4. Kĩ năng tự học
Kĩ năng là dạng năng lực làm, là khả năng ứng dụng tri thức khoa học vào
thực tiễn. Kĩ năng chính là biểu hiện của năng lực vì thế dựa vào kĩ năng có thể biết
được năng lực một cách cụ thể [9].
Kĩ năng tự học là các khả năng nhận thức, vận dụng kiến thức vào việc giải
quyết các vấn đề đặt ra trong học tập cũng như trong cuộc sống. Hệ thống các kĩ
năng tự học bao gồm [9]:

- Kĩ năng xây dựng kế hoạch tự học
Việc xây dựng kế hoạch tự học bao gồm việc lên danh mục các nội dung cần
tự học, khối lượng và yêu cầu cần đạt, các hoạt động cần phải tiến hành, sản phẩm
cụ thể cần phải được tạo ra, thời gian dành cho mỗi nội dung và hoạt động. Kế
hoạch tự học phải đảm bảo tính khoa học, tính vừa sức và tính khả thi. Xây dựng
được bản kế hoạch tự học hợp lí là kĩ năng quan trọng đầu tiên đối với mỗi người
học. Trong bản kế hoạch cũng cần phải dự kiến các phương án phụ, hướng khắc
phục các trở ngại đột xuất
- Kĩ năng lựa chọn tài liệu
Hiện nay lượng thông tin rất đa dạng và phong phú cả về thể loại và chủng
loại và được thể hiện dưới nhiều dạng như viết, nghe – nhìn, internet , tài liệu
15
trong nước, tài liệu nước ngoài. Để tự học có hiệu quả, người học cần phải rèn
luyện cho mình kĩ năng lựa chọn các tài liệu thích hợp sao cho đúng, đủ, hợp lí để
nâng cao chất lượng tự học, tự nghiên cứu của bản thân mình.
Kĩ năng lựa chọn tài liệu còn được thể hiện trong việc trực tiếp dự giờ, hội
thảo khoa học, xê-mi-na, đi thực tế, lấy ý kiến chuyên gia, tiến hành thí nghiệm
Để lựa chọn các loại tài liệu dạng này thì người học phải có kĩ năng phân tích,
tổng hợp, khái quát hóa để rút ra các thông tin cần thiết cho bản thân. Đồng thời
những suy nghĩ của bản thân người học lại chịu tác động trực tiếp của các ý kiến
khách quan, đòi hỏi người học không những có kĩ năng chọn lọc, nắm bắt nhanh
nhạy thông tin mà còn phải biết so sánh, đối chiếu, tự đánh giá thông tin mình lựa
chọn được.
- Kĩ năng lựa chọn hình thức tự học
Không phải lúc nào việc tự học cũng được thực hiện một cách dễ dàng, thuận
lợi. Những khó khăn, vấp phải trong tự học đòi hỏi người học cần phải có sự hỗ trợ
của bạn bè, thầy cô hoặc các chương trình trên ti-vi, máy tính Vì thế kĩ năng lựa
chọn hình thức tự học cũng rất cần thiết, nó giúp người học “gỡ rối” những vấn đề mà
tự mình có thể không vượt qua được. Do đó cần phải đề cao và sử dụng linh hoạt kĩ
năng này một cách có hiệu quả trong quá trình tự học của bản thân người học.

- Kĩ năng xử lí thông tin
Kĩ năng xử lí thông tin bao gồm hai kĩ năng kế tiếp nhau là kĩ năng hệ thống
hóa và kĩ năng phân tích, tổng hợp, khái quát hóa.
Để kiến thức tự học có được một cách bền vững và có thể vận dụng được vào
trong thực tiễn, người học cần phải sắp xếp chúng một cách có hệ thống. Muốn vậy,
người học phải thực hiện một loạt các thao tác khác nhau như tóm tắt, phân loại, xác
lập các mối liên hệ, biểu diễn bằng sơ đồ lôgic Kiến thức được sắp xếp trong vỏ
não một cách có hệ thống, có cấu trúc sẽ giúp người học dễ nhớ, dễ sử dụng khi cần
thiết. Do vậy, kĩ năng hệ thống hóa tri thức có vị trí quan trọng trong việc lưu giữ
thông tin.
Điều quan trọng trong quá trình tự học là cần biến tri thức chung của nhân
loại thành tri thức riêng của bản thân người học. Quá trình này đòi hỏi bản thân
16
người học phải biết phân tích, tổng hợp, so sánh, trừu tượng hóa, khái quát hóa
Như vậy, kĩ năng xử lí thông tin trong tự học liên quan mật thiết với các kĩ năng tư
duy. Vì thế việc rèn luyện các kĩ năng xử lí thông tin không thể tách rời với việc rèn
luyện các kĩ năng sử dụng các thao tác tư duy. Điều này càng đòi hỏi phải đề cao
vai trò chủ động, tích cực của người học trong quá trình dạy học nói chung.
- Kĩ năng vận dụng tri thức vào thực tiễn
Rèn luyện kĩ năng vận dụng tri thức vào thực tiễn là một yêu cầu quan trọng
của phương pháp giáo dục phổ thông như quy định ở điều 28 của Luật Giáo dục sửa
đổi (2005) [18], bởi tri thức có được nếu không sử dụng thì cũng vô nghĩa. Do đó
việc vận dụng tri thức vào thực tiễn vừa là mục đích tự thân của việc học, vừa là quá
trình bổ sung, mở rộng, đào sâu, làm giàu tri thức cá nhân. Vận dụng tri thức vào thực
tiễn bao gồm cả việc vận dụng kiến thức đã có để giải quyết các vấn đề thuộc về nhận
thức và việc vận dụng kiến thức vào thực tiễn sản xuất đời sống, sinh hoạt hàng ngày
như làm bài tập, bài thực hành, làm thí nghiệm, viết báo cáo, xử lí tình huống, lắp đặt,
sửa chữa, giải quyết các vấn đề đơn giản, gần gũi trong cuộc sống.
- Kĩ năng trao đổi và phổ biến thông tin
Các kiến thức mà người học có được nếu được trao đổi với bạn học hoặc các

đối tượng có nhu cầu sẽ có tác dụng tích cực đối với việc nắm tri thức của bản thân.
Có thể nói mỗi lần trao đổi, phổ biến những kiến thức mà mình có được là mỗi lần
người học rèn luyện thêm kĩ năng truyền đạt (nói) và kĩ năng viết văn bản khoa học,
bởi vì việc trao đổi, phổ biến thông tin có thể được thực hiện bằng nhiều hình thức
khác nhau như trò chuyện, tuyên truyền, báo cáo, truyền hình, phát thanh, mạng
internet Do vậy, việc rèn luyện kĩ năng trao đổi và phổ biến thông tin liên quan
đến việc rèn luyện các kĩ năng trình bày thông tin khoa học.
- Kĩ năng tự kiểm tra, đánh giá
Tự kiểm tra, đánh giá là một kĩ năng quan trọng trong tự học bởi vì chỉ khi
qua tự kiểm tra, đánh giá thì người học mới biết được trình độ tự học của mình đạt
đến mức độ nào và có biện pháp điều chỉnh phương pháp tự học thích hợp để đạt
hiệu quả cao hơn. Việc kiểm tra phải được tiến hành thường xuyên trong quá trình
tự học bằng nhiều hình thức khác nhau qua hệ thống các câu hỏi và bài tập nhận
17
thức cụ thể. Kĩ năng này đòi hỏi người học phải tự giác cao độ và phải biết xây
dựng các tiêu chí và chọn công cụ kiểm tra, đánh giá phù hợp. Đối với HS thì trong
quá trình dạy học, GV cần lưu ý tổ chức cho HS các việc làm cụ thể này theo những
kế hoạch thích hợp nhằm rèn luyện cho các em cách xây dựng tiêu chí, lựa chọn
phương pháp, công cụ và hình thức kiểm tra để tự mình đánh giá được mình một
cách khách quan, khoa học từ đó kịp thời điểu chỉnh, uốn nắn để việc tự học của
bản thân ngày càng hiệu quả.
1.5. Các biện pháp hình thành phương pháp tự học cho học sinh
Để đạt kết quả cao trong học tập, người học cần phải có phương pháp học,
phương pháp học chính là phương pháp tự học. Trong quá trình dạy học, GV cần
lưu ý đến việc hình thành phương pháp tự học, rèn luyện các kĩ năng tự học cho HS.
Để hình thành phương pháp tự học cho HS, nâng cao chất lượng của hoạt động tự
học, GV cần sử dụng các biện pháp sau [19], [30]:
1.5.1. Xây dựng động cơ hứng thú học tập cho người học
Xây dựng động cơ học tập cho HS là một trong những vấn đề quan trọng
nhất của việc bồi dưỡng tinh thần tự học, vì sự tự giác học tập phải bắt nguồn từ bên

trong, từ năng lực nội sinh.
Có thể chia các động cơ học tập thành hai nhóm lớn:
- Các động cơ hứng thú nhận thức thường đến với HS khi bài học có nội
dung mới, đột ngột, bất ngờ và chứa những yếu tố nghịch lý, thoả mãn nhu cầu đa
dạng của các em. Nó cũng thường xuất hiện khi tăng cường các trò chơi nhận thức,
các cuộc thảo luận và các phương pháp kích thích học tập khác.
- Các động cơ nghĩa vụ và trách nhiệm liên hệ với ý thức về ý nghĩa xã hội
của sự học tập, như nghĩa vụ đối với Tổ quốc, trách nhiệm đối với gia đình, thầy
giáo, từ đấy có kỷ luật học tập tốt, thực hiện một cách tự giác yêu cầu của GV, phụ
huynh HS và tôn trọng dư luận của lớp học.
Điều cần chú ý là động cơ học tập không chỉ là một quá trình tự phát, không
chỉ là một quá trình tự nhiên và phát sinh thầm lặng. Cần hình thành, phát triển,
kích thích động cơ học tập của HS phù hợp với đặc điểm của từng em và điều quan
trọng là dạy các em tự kích thích động cơ học tập của mình.
Ngoài ra, cần đặc biệt quan tâm tới hứng thú nhận thức, vì nó ảnh hưởng rất
sớm tới người học, nó rất biện chứng, sinh động nghĩa là có thể thay đổi ở mỗi bước
18
của quá trình dạy học, có ảnh hưởng tới toàn bộ quá trình và điều quan trọng là nó
nằm trong tầm điều khiển của người thầy. Để hình thành hứng thú có khi phải đi
theo một con đường vòng vèo và thường bắt đầu từ sự thoả mãn nhu cầu rồi dần dần
mới phát triển đến mục đích cần đạt tới.
1.5.2. Xây dựng kế hoạch tự học
Để việc học tập có hiệu quả, điều quan trọng nhất là phải chọn đúng trọng tâm
công việc, phải xác định học cái gì là chính, là quan trọng nhất, có tác động trực tiếp
đến mục đích. Bởi vì nội dung cần phải học thì nhiều, mà sức lực và thời gian thì có
hạn, nếu việc học tập dàn trải, phân tán thì việc học sẽ không có hiệu quả. Do đó cần
phải lập một kế hoạch học tập phù hợp, rõ ràng. Việc lập kế hoạch sẽ giúp HS liệt kê
được những việc phải làm trong ngày, phân biệt được việc chính việc phụ, việc làm
ngay với việc sẽ phải làm và đánh giá kết quả thực hiện mục tiêu phấn đấu để từng
bước cải thiện kết quả học tập. Điều này rất quan trọng nhưng trong thực tế người ta lại

thường ít chú ý nên có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả tự học.
Sau khi đã xác định được trọng tâm, phải sắp xếp công việc cho hợp lý về
lôgic nội dung cũng như về thời gian. Thông qua việc lập kế hoạch sẽ phân chia sử
dụng thời gian cho từng công việc sao cho khoa học hợp lý, giúp HS làm chủ được
quỹ thời gian và không quên các việc sẽ phải làm, không bị động trước rất nhiều các
tư liệu cần phải đọc và các công việc phải hoàn thành đúng hạn. Điều đó sẽ giúp
cho công việc được trôi chảy và tiết kiệm thời gian. Do đó, ngay từ hôm nay, GV
cần hướng dẫn HS hình thành và phát triển một kĩ năng học tập có hiệu quả.
1.5.3. Tăng cường làm việc với sách giáo khoa và tài liệu hướng dẫn tự học
Đọc sách có vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả của hoạt động tự
học. Đọc sách được coi như là một bộ phận của quá trình học tập, nó luôn gắn liền
với hoạt động dạy của GV. Kĩ năng đọc sách giúp cho HS nắm vững, hệ thống tri
thức, mở rộng, đào sâu kiến thức, làm tăng thêm sự hiểu biết của bản thân. Đọc sách
còn giúp cho HS có thể phát triển nhận thức, phát triển trí tuệ, phát triển và trau dồi
vốn ngôn ngữ…
Khi đọc sách cần chú ý rút ra những tư tưởng chính trong mỗi đoạn, so sánh,
phân loại, hệ thống hoá, khái quát hoá chung đề xuất cái mới và nêu câu hỏi. Điều này
rất quan trọng vì sự sáng tạo thường nảy sinh ra ngay lúc đọc sách. Cần giáo dục các em
tinh thần đọc sách sáng tạo mà không chỉ dừng lại ở đọc sách tái hiện và cảm thụ.
19
Tóm tắt khi đọc sách là hết sức cần thiết, có thể tóm tắt dưới nhiều dạng: làm
dàn bài, làm sơ đồ, bảng tổng kết, viết tóm tắt… tóm tắt ngắn gọn một công trình
lớn là một công việc khó khăn. Nó khác dàn bài ở chỗ, đó là một bài văn tuy ngắn
gọn nhưng bao gồm những tư tưởng chính gắn kết với nhau một cách mạch lạc,
chính xác, rõ ràng, liên tục và có hệ thống.
Để đọc sách đạt hiệu quả, GV cần hình thành cho HS một số kĩ năng đọc sau:
- Sử dụng một cây bút chì để dẫn đường khi đọc
- Tìm hiểu những ý chính và đánh dấu các từ khoá
- Mở rộng tầm mắt để đọc được khoảng 5 - 6 từ một lúc
- Đọc phần tóm tắt chương ở cuối mỗi chương trong sách giáo khoa trước để

xác định được kiến thức trọng tâm của chương mà người đọc cần chú ý
- Liên tục thúc đẩy và thử thách khả năng của HS.
1.5.4. Phối hợp các hình thức tổ chức dạy học một cách linh hoạt
Có nhiều hình thức tổ chức dạy học khác nhau: cá nhân, nhóm, toàn lớp.
Hình thức học tập cá nhân là hình thức học tập cơ bản nhất vì nó tạo điều kiện cho
mỗi HS trong lớp bộc lộ khả năng tự học, tự nghiên cứu của mình nhằm đạt tới mục
tiêu học tập như làm việc với sách giáo khoa, phát biểu ý kiến trước lớp, làm bài tập
vận dụng nhanh, tự kiểm tra đánh giá Bên cạnh đó, GV tổ chức cho HS làm việc
theo nhóm kết hợp với thảo luận toàn lớp thông qua những hình thức khác nhau như
thảo luận, xe-mi-na, củng cố ôn tập, xây dựng kiến thức, kiểm tra đánh giá. Với
hình thức học này tạo ra môi trường học tập đa dạng, góp phần nâng cao khả năng
tương tác giữa HS với HS, giữa HS với GV. Đồng thời việc học tập theo nhóm kết
hợp thảo luận toàn lớp sẽ giúp cho HS phát triển ý thức làm việc tập thể, phát huy
trí tuệ tập thể, phát huy tính tích cực học tập, năng lực tự học của mình tạo điều kiện
cho HS có cơ hội để trải nghiệm sự thành công hay thất bại của mình.
Như vậy, mỗi hình thức dạy học đều có những ưu điểm không thể thay thế.
Việc sử dụng phối hợp tất cả các hình thức dạy học sẽ đảm bảo cho quá trình học
tập diễn ra tích cực và hiệu quả.
1.5.5. Nghe giảng và ghi chép theo tinh thần tự học
Nghe và ghi là những kĩ năng cơ bản mà ai cũng cần sử dụng trong quá trình
học tập. Để ghi tốt, khi nghe giảng cần chú ý đến những điểm sau đây:
- Tập trung theo dõi bài giảng, nói chung chưa nên nghĩ đến việc sẽ làm gì vì
điều đó sẽ phá hoại lôgic của quá trình nghe giảng.
20
- Chú ý ghi dàn bài để nhìn được khái quát cấu trúc chung của bài giảng.
- Tập trung vào những cái chính, những điểm quan trọng nhất mà thầy giáo
thường nhấn mạnh qua ngữ điệu, qua việc lặp đi lặp lại nhiều lần.
- Chú ý đến các bảng tóm tắt, các sơ đồ, các hình vẽ, tranh và các tài liệu trực
quan khác mà thầy giáo giới thiệu, vì đây là lúc thầy giáo hệ thống hoá, so sánh,
phân tích để đi đến kết luận và rút ra cái mới.

- Khi gặp chỗ khó, không hiểu hãy tạm thời gác lại và sẽ cố gắng tìm hiểu
những điều đó trong các phần sau, để quá trình nghe giảng không bị gián đoạn.
- Khi bài giảng dừng lại, có thể nêu câu hỏi để đào sâu kiến thức và làm rõ
những chỗ chưa hiểu.
1.5.6. Sử dụng các phương pháp dạy học tích cực
Phương pháp tích cực để chỉ những PPDH phát huy tính tích cực, chủ động,
sáng tạo của người học. Phương pháp tích cực hướng tới việc hoạt động hoá, tích cực
hoá hoạt động nhận thức của người học nghĩa là tập trung vào phát huy tính tích cực
của người học chứ không tập trung vào người dạy. PPDH tích cực có những đặc
trưng sau:
- Dạy học tăng cường phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo thông qua tổ
chức thực hiện các hoạt động học tập của HS. Dạy học lấy HS làm trung tâm, trong
phương pháp tổ chức, người học được cuốn hút vào các hoạt động học tập do GV tổ
chức và chỉ đạo, qua đó HS tự khám phá những điều mình chưa rõ.
- Dạy học phát huy năng lực tự học của HS. Nếu rèn luyện cho HS có được
phương pháp kĩ năng, thói quen, ý chí tự học thì sẽ tạo cho HS lòng ham học, khơi dậy
tiềm năng vốn có trong mỗi con người làm kết quả học tập được nhân lên gấp bội.
Để có thể phát huy tính tích cực của HS, khi lên lớp GV cần hạn chế sử dụng
một phương pháp mà cần phải tăng cường sử dụng phối hợp nhiều nhóm phương
pháp như phương pháp thuyết trình, phương pháp trực quan, phương pháp thực tiễn.
1.5.7. Sử dụng các phương tiện dạy học hiện đại
GV cần tăng cường sử dụng các PTDH hiện đại nhằm hỗ trợ cho việc nâng
cao chất lượng học tập của HS. Mặt khác việc sử dụng MVT, các phần mềm dạy
học, phương tiện trình chiếu sẽ tăng kênh hình và kênh tiếng trong các hoạt động học
tập của HS. Nhờ có các phương tiện hỗ trợ này, GV có thể trực quan hoá các hiện
tượng, quá trình giúp HS dễ dàng nhận ra bản chất của vấn đề. Đặc biệt, những vấn
21
đề trừu tượng như chuyển động tên lửa, hiện tượng va chạm, súng giật lùi, sự lan
truyền của sóng cơ học, sự truyền nhiệt… nếu có sự hỗ trợ của các PTDH hiện đại
(MVT, phần mềm mô phỏng…) để cho HS quan sát thì hiệu quả của giờ học rất cao.

1.5.8. Kết hợp nhiều loại hình kiểm tra, đánh giá trong dạy học
Một bài kiểm tra cần đạt các yêu cầu sau:
- Nội dung kiểm tra là những kiến thức và kĩ năng cơ bản, trọng tâm của bài,
chương, có ý nghĩa thiết thực đối với HS.
- Chú trọng cả kiến thức, kĩ năng, thái độ. Trong kiến thức, có cả câu hỏi sự
kiện, kiểm tra trí nhớ và câu hỏi suy luận.
- Độ khó của bài phù hợp với chuẩn đánh giá của môn học, nội dung bài làm
phù hợp với thời lượng qui định.
- Có sự phân hoá HS, tạo cơ hội bộc lộ sự sáng tạo của các em.
Tuỳ mục đích, đối tượng và điều kiện, có các hình thức kiểm tra, đánh giá
khác nhau: quan sát, câu hỏi kiểm tra (kiểm tra nói, kiểm tra viết), bài tập, HS tự
đánh giá, thực hành, trắc nghiệm khách quan.
1.6. Sự hỗ trợ của máy vi tính trong việc hình thành phương pháp tự học cho
học sinh
1.6.1. Máy vi tính hỗ trợ việc tổ chức các hoạt động dạy học, hỗ trợ quá trình
tự học giáp mặt
Với cách dạy truyền thống, GV chỉ sử dụng phấn, bảng cùng với các hình
ảnh in sẵn hoặc các TN. Như thế các hình ảnh được sử dụng chỉ là các hình ảnh tĩnh
được kết hợp với mô tả của GV, một số TN có kích thước nhỏ thì chỉ có một số HS
quan sát được, những HS ngồi ở xa thì không quan sát rõ hiện tượng xảy ra, làm
cho HS thiếu hứng thú học tập. Nếu GV kết hợp việc sử dụng MVT để trình chiếu
các hình ảnh động, các TN ảo hay video TN thì sẽ giúp các hiện tượng trực quan
hơn, tất cả HS đều quan sát được, từ đó tạo được hứng thú học tập cho HS. Tạo
được hứng thú cho HS thì GV mới có thể tổ chức hoạt động dạy học cho HS theo
hướng tự học, HS sẽ chủ động để tìm hiểu, chiếm lĩnh tri thức dưới sự hướng dẫn
của GV. Ví dụ khi dạy bài Quá trình đẳng tích. Định luật Sác-lơ GV tiến hành TN
cho HS quan sát, sau đó sẽ chiếu video TN để cả lớp quan sát rõ hơn.
22

×