Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

thực trạng nsnn viêt nam hiện nay và tình hình lạm phát và các biện pháp xử lý ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (230.08 KB, 25 trang )

Học viện ngân hàng
Khoa kế toán _ kiểm toán
Líp KTB _ CĐ24
* * *
BÀI THẢO LUẬN
TÀI
CHÍNH
THÀNH VIÊN:
1. Mai Hương Thanh
2. Hoàng Thu Phương
3. Nguyễn Thị Thu Phương
4. Nguyễn Thị Phương Lan
5. Đặng Thị Giang
6. Chu Thị Hương Lan
7. Dương Thị Huyên
8. Nguyễn Thị Loan (HC 2421249)
9. Nguyễn Thị Thanh Loan
10. Bùi Thị Hải Quỳnh
11. Bùi Thị Thu Hương
12. Vũ Thị Thu
ĐỀ TÀI:
•Thực trạng NSNN Việt Nam
hiện nay
•Giải pháp xử lý thâm hụt
NSNN
A. THỰC TRẠNG NSNN VIÊT Nam HIỆN NAY
I. MỘT SỐ KHÁI NIỆM
1. NSNN là tổng các kế hoạch chi tiêu, thu nhập hàng năm của Chính
Phủ bao gồm các khoản thu (chủ yếu là thuế) và chi NSNN. Những
khoản thu thờng bị hụt so với mức chi ra của Chính Phủ, từ đó sinh ra
thâm hụt NSNN.


2.Thâm hụt Ngân Sách:
Gọi B là hiệu số giữa thu và chi Ngân Sách ta có:
B = T - G
B>0 ta có thặng d Ngân Sách
B=0 ta có cân bằng Ngân Sách
B<0 ta có thâm hụt Ngân Sách
• Thâm hụt Ngân Sách thục tế: đó là thâm hụt khi sè chi thực tế lớn
vượt sè thu thực tế trong một thời kì nhất định.
• Thâm hụt Ngân Sách cơ cấu :là thâm hụt tính toán trong trường
hợp nếu nền kinh tế hoạt động ở mức sản lượng tiềm năng.
• Thâm hụt Ngân Sách chu kì:đó là thâm hụt Ngân Sách bị động do
tình trạng của chu kì kinh doanh.
• Thâm hụt NS chu kì bằng hiệu của thâm hụt thực tế và hiệu của
thâm hụt cơ cấu.
Nhà nước ta hiện nay vẫn đang có những biện pháp cụ thể để cân đối
NSNN.Nhưng nó vẫn còn là những vấn đề lan giải.Thực chất nó vẫn mất
cân đối trong NSNN.Nói đến thực trạng cân đối NSNN là nói đến bội
chi của NSNN.
Vậy bội chi NSNN là gì?
Bội chi NSNN trong mét chu kì(1năm ,mét chu kì kinh tế) là sự
chênh lệch giữa chi lớn hơn thu thời kỳ đó.
Trong đó các khoản thu ,chi được thống kê quốc tế báo cáo về NSNN
nh sau:
Bảng: Tóm tắt nội dung cân đối ngân sách nhà nước hằng năm
Thu
Chi
A. Thu thường xuyên (thuế, phí, lệ
phí).
B. Thu về vốn (bán tài sản nhà nước).
C. Bù đắp thâm hụt.

- Viện trợ.
- Lấy từ nguồn dự trữ.
Vay thuần (= vay mới - trả nợ gốc).
D. Chi thường xuyên.
E. Chi đầu tư.
F. Cho vay thuần
(= cho vay mới - thu nợ gốc).
Theo cân đối NSNN hàng năm ta có:A+B+C=D+E+F
Công thức tính bội chi NSNN của một năm sẽ như sau:
Bội chi NSNN = Tổng chi - Tổng thu = (D + E + F) - (A + B) = C.
II. THỰC TRẠNG CÂN ĐỐI NSNN
“Cõn đối ngân sách nhà nước (NSNN) là một trong các nội dung cơ
bản nhất của nền tài chính quốc gia và là điều kiện tiên quyết để đảm
bảo sự ổn định lành mạnh cho nền tài chính quốc gia”.
Vậy nguyên nhân ở đâu lại mất cân đối NSNN hiện nay?
Có hai nhóm nguyên nhân cơ bản sau:
- Thứ nhất là tác động của chu kỳ kinh doanh. Khủng hoảng làm cho
thu nhập của Nhà nước co lại, nhưng nhu cầu chi lại tăng lên, để giải
quyết những khó khăn mới về kinh tế và xã hội. Điều đã làm cho mức
bội chi NSNN tăng lên.
Khi nền kinh tế phồn thịnh, thu của Nhà nước sẽ tăng lên, trong khi
chi không phải tăng tương ứng. Điều đã làm giảm mức bội chi NSNN.
Mức bội chi do tác động của chu kỳ kinh doanh gây ra được gọi là bội
chi chu kỳ.
- Thứ hai là tác động của chÝnh sách cơ cấu thu chi của Nhà nước.
Khi Nhà nước thực hiện chÝnh sách đẩy mạnh đầu tư, kÝch thÝch tiêu
dùng sẽ làm tăng mức bội chi NSNN. Ngược lại, thực hiện chÝnh sách
giảm đầu tư và tiêu dùng của Nhà nước thì mức bội chi NSNN sẽ giảm
bớt. Mức bội chi do tác động của chÝnh sách cơ cấu thu chi gây ra được
gọi là bội chi cơ cấu.Trong điều kiện bình thường (không cã chiến tranh,

không cã thiên tai lớn,…), tổng hợp của bội chi chu kỳ và bội chi cơ cấu
sẽ là bội chi NSNN.
Thực trạng bội chi ngân sách nhà nước những năm gần đây
Những năm gần đây, tình trạng bội chi ngân sách nhà nước ở nước ta
vẫn còn diễn ra, tuy nhiên, mức bội chi so hiện nay so với giai đoạn
những năm 80 của thế kỷ trước đã đạt được nhiều thành tựu.
BẢNG THÂM HỤT NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC TỪ 2001 – 2007
( Đơn vị tính: Tỷ Đồng)
N
ăm
Số Bội chi Bội chi so với GDP
20
01
25.885 4,67%
20
02
25.597 4,96%
20
03
29.936 4,9%
20
04
34.703 4,85%
20
05
40.746 4,86%
20
06
48.500 5%
20

07
56.500 5%
Giảm một cách đáng kế thâm hụt ngân sách Nhà nước được coi là
thành tựu đáng kể của quá trình đổi mới kinh tế ở nước ta. Thành tựu
này đă gãp phần to lớn vào quá trình đẩy lùi lạm phát ở nước ta cuối
những năm 80. Giảm thâm hụt ngân sách đạt được là do kết quả của
những biện pháp cứng rắn như cắt giảm chi tiêu chính phủ, xãa bỏ dần
các loại trợ cấp, lương, trợ cấp cho xí nghiệp quốc doanh… Nhiều năm
thâm hụt giảm xuống dưới 5% so với GDP – một kết quả đáng khích lệ.
Chóng ta đưa ra bảng dưới đây để làm kết quả so sánh:
BẢNG THÂM HỤT NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC NĂM TỪ 1987 _1994
(Đơn vị tính: Tỷ đồng)
1987 1988 1989 1990 1991 1992 1993 1994
Thâm
hụt ngân
sách
130,4 1072 1081 3033 1728 3847 7930 7714
So với
GDP
(%)
4,9 8,1 8,1 7,9 2,5 3,8 6,3 5,9
Để đạt được những thành tựu này, chóng ta đã có nhiều đổi mới như:
Về hệ thống thuế: Thuế đã được xem xét đóng với vai trò cơ bản của nã
trong cơ chế thị trường là tạo nguồn thu cho ngân sách, kích thích tăng
trưởng, điều chỉnh và phân phối lại thu nhập. Hệ thống thuế đã đã và
đang được cải cách theo hướng mở rộng cơ sở thu thuế, nhiều sắc lệnh
thuế mới ban hành phù hợp với điều kiện nước ta và thông lệ quốc tế
(thuế thu nhập, thuế đÊt đai, thuế sử dụng tài nguyên).

CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC.

Tổng chi NSNN chiÕm 20,5% GDP năm 1990 đã giảm xuống còn
15,9% năm 1992. Sau đó tăng đột ngột lên 29,4% năm 1993. Từ năm
1994, tổng chi so với GDP lại giảm liên tục, từ 29,4% (năm 1993) xuống
còn 22.7% GDP (năm 1998), tương ứng với việc cắt giảm 1/5 tổng chi
NSNN. Nhưng xét bình quân giai đoạn 1991-1995 đạt 24,5% GDP và
khoảng 24,1% GDP giai đo ạn 1996-2001 là tăng mạnh so với mức bình
quân 19,7% giai đoạn 1986-1990.
Giai đoạn 1991 – 2001, chi NSNN được kết cấu lại theo hướng chi
trên cả ba lĩnh vực chi đầu tư, chi thường xuyên và chi trả nợ. Trong đó,
chi đầu tư phát triển, nhất là chi đầu tư xây dựng cơ bản được quan tâm.
Mặc dù chi thường xuyên vẫn chiếm tỷ trọng lớn, bình quân khoảng
63,5% tổng chi NSNN, nhưng tỷ trọng chi đầu tư phát triển đã vươn lên
khoảng 25%, chi viện trợ và trả nợ chiếm hơn 11% trong tổng chi
NSNN.
Đầu năm 2003 các khoản chi mới phát sinh như chi phòng chống và
dập dịch SARS, chi công tác chuẩn bị SEA Games 22 và ASEAN
Paragames 2, chi bổ sung khắc phục hậu quả thiên tai đã dẫn đến chi
2003 tăng 6,1% so với dự toán ban đầu và chiếm 27,3% so với GDP,
trong đó chi đầu tư phát triển bằng 7,8% GDP và chi thường xuyên bằng
15,5% GDP.
Cũng trong năm 2003 cải cách tiền lương khiến tổng quỹ lương nhà
nước tăng 13.302 tỷ đồng so với 2002 lấy từ khoản giảm chi thường
xuyên 10%, và một số nguồn khác.
Năm 2005 Quốc hội cũng đã quyết định chi bổ sung cho một số lĩnh
vực sau: chi đầu tư phát triển (tăng thêm 1.495 tỷ đồng, trong đó tăng
chi đầu tư xây dựng cơ bản của ngân sách địa phương tương ứng số tăng
thu về sử dụng đất là 800 tỷ đồng); chi thường xuyên (tăng thêm 190 tỷ
đồng, gồm y tế tăng 50 tỷ đồng, giáo dục - đào tạo - dạy nghề tăng 70 tỷ
đồng, quốc phòng tăng 40 tỷ đồng, an ninh tăng 30 tỷ đồng); chi dự
phòng NSNN (tăng thêm 1.600 tỷ đồng để xử lý những biến động bất

thường của giá dầu, đồng thời bảo đảm chủ động ngân sách thực hiện
trong phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai và thực hiện những
nhiệm vụ quan trọng phát sinh).
Những khoản chi mang tính bao cấp không thuộc chức năng, nhiệm
vụ của NSNN nhìn chung được cắt giảm đáng kể, giảm bớt gánh nặng
chính đáng cho NSNN trong điều kiện mới. Đồng thời các khoản chi bao
cấp cho doanh nghiệp Nhà nước cũng giảm đáng kể nhờ có biện pháp cổ
phần hóa và kiên quyết cắt giảm chi bao cấp từ NSNN. Bên cạnh đó, ta
thấy được một xu hướng mới đang hình thành. Chi đầu tư phát triển từ
nguồn vốn tập trung của Nhà nước đang được dành chủ yếu cho xây
dựng cơ sở hạ tầng và những khu vực khó hoặc không thu hồi được vốn.
Xu hướng này tích cực, phù hợp với thực tế nước ta, cần được củng cố
và tăng cường trong giai đoạn chuẩn bị bước đầu hội nhập.
Thực tế trong 8 năm qua, từ năm 2001 đến nay, tốc độ tăng bội chi
NSNN là khá cao, ở mức 17-18%/ năm. Tốc độ này nếu trừ đi yếu tố
tăng trưởng thỡ cũn cao hơn tỷ lệ lạm phát hằng năm (năm 2001: 0,2%;
năm 2002: 1,6%; năm 2003: 9,7%; năm 2004: 8,1%; năm 2005: 9,0%;
năm 2006: 11,1%; năm 2007: 7,8%).
Thực tế trong những năm gần đây, mặc dù chúng ta đã kiểm soát bội
chi NSNN từ hai nguồn là vay nước ngoài và vay trong nước nên sức ép
tăng tiền cung ứng thêm ra thị trường là không có, nhưng sức ép tăng chi
tiêu của Chính phủ cho tiêu dùng thường xuyên và cho đầu tư là tăng
lên.
Đồ thị : bội chi NSNN từ 1996 -2008
(Nguồn: Bộ Tài chính)

Thu ngân sách nhà nước
Thu ngân sách không những đã bảo đảm đủ nguồn thu cho chi tiêu
thường xuyên của Chính phủ mà còn để dành ra một phần tích luỹ cho
đầu tư phát triển. Số thu ngân sách, theo giá hiện hành, đã tăng 7,7 lần từ

năm 1991 đến năm 2000. Trong đó số thu từ thuế lớn và chiếm tỷ trọng
cao trong tổng thu NSNN. Bình quân thu từ thuế, phí và lệ phí đạt
khoảng 95% trong tổng số thu. Về quy mô, thu NSNN so với tổng GDP
tăng từ 13,8% GDP năm 1991 lên đến đỉnh cao 23,3% năm 1995. Bình
quân thu ngân sách giai đoạn này là 20,5% GDP. Giai đoạn 1996 –
2000, mục tiêu Đại hội Đảng đề ra là huy động 20% – 21% GDP vào
NSNN thông qua thuế và phí. Nhưng thực tế thực hiện năm 1997 đạt
19,4%, năm 1998 đạt 17,7%, năm 1999 đạt 17% và năm 2000 đạt
19,4%. Và như vậy là chưa năm nào đạt mục tiêu đề ra.
Trong năm 2001-2003 cơ cấu thu NSNN đã dịch chuyển theo chiều
hướng tích cực hơn, thu từ nguồn trong nước đã tăng từ 50,7% lên
52,6% so với tổng thu trong năm 2003 nhưng thu từ dầu thô, hoạt động
xuất nhập khẩu đã giảm từ 47,4% xuống còn 45,9% năm 2003.
Ngoài ra do thực hiện pháp lệnh về phí và lệ phí đã bãi bỏ 140 khoản
phí thuộc các bộ ngành TW và 105 khoản phí thuộc các địa phương đã
làm giảm chi phí xã hội khoảng 1.000 tỷ đồng mỗi năm. Thu NSNN
năm 2004 dự kiến đạt 166.900 tỷ đồng, vượt dự toán 11,8%, tăng 17,4%
so với năm 2003 và tương đương 22,7% GDP. Trong số tăng thu, số
tăng từ dầu thô, nhà đất chiếm tỷ trọng lớn.
Tổng dự toán cân đối thu NSNN năm 2005 là 183.000 tỷ đồng, tổng
dự toán chi NSNN là 229.750 tỷ đồng, bội chi NSNN là 40.750 tỷ đồng
(chiếm 5% GDP). Nếu so với thời kỳ trước đây thì thu ngân sỏch đó cú
những tiến bộ lớn. Tuy nhiên, nếu so với tốc độ tăng trưởng thì việc tăng
thu ngân sách còn chậm, đặc biệt là khu vực ngoài quốc doanh, trong khi
giá trị sản xuất công nghiệp tăng 19,2% thì nguồn thu ngân sách chỉ tăng
12%. Dự toán thu nội địa (không kể dầu thô) năm 2005 tăng 13,6%,
trong đó thu từ khu vực DN nhà nước tăng 12,3%, thu từ khu vực DN có
vốn đầu tư nước ngoài tăng 30,1%, từ khu vực kinh tế ngoài quốc doanh
tăng 20,5%, dự toán thu phí, lệ phí tăng 4,1% để hạ chi phí đầu vào của
nền kinh tế, khuyến khích sản xuất, xuất khẩu.

Điều đặc biệt, năm 2005 Quốc hội đã nhất trí tăng dự toán thu nội địa
từ thu tiền sử dụng đất thêm 800 tỷ đồng (để tăng dự toán chi đầu tư xây
dựng cơ bản hạ tầng của địa phương), tăng dự toán thu ngân sách trung
ương từ dầu thô 2.500 tỷ đồng (do giá dầu thô thế giới hiện ở mức cao
và dự báo trong năm 2005 sẽ vẫn ở mức cao). Tổng hợp chung, dự toán
thu NSNN năm 2005 tăng thêm 3.300 tỷ đồng.
Tình trạng thất thu cũn khỏ phổ biến, hiệu quả kiểm soát nguồn thu
ngân sách còn hạn chế. Thu NSNN vẫn còn phụ thuộc nhiều vào các
biến động theo thị trường thế giới như dầu thô và hoạt động xuất nhập
khẩu. Theo những đánh giá của IMF, hoạt động ngân sách trong một số
năm gần đây là tích cực, ngoài ra, do có nguồn thu lớn từ dầu thô cho
nên vị thế về trung hạn của ngân sách là có thể kiểm soát được, miễn là
hoạt động cho vay lại và các khoản nợ nằm ngoài ngân sách được kiểm
soát chặt chẽ.Tuy nhiên trong năm gần đây cũng ghi nhận những chuyển
biến, theo đó cơ chế quản lý tài chính được sửa đổi theo hướng minh
bạch và tăng cường tự chủ tài chính, gắn trách nhiệm của đơn vị sử dụng
ngân sách, tạo cơ sở cho việc đổi mới cơ chế quản lý tài chính công
trong những năm tới.
Luật NSNN sửa đổi từ năm ngân sách 2004 đã được hoàn thiện dần
và đến nay cơ bản đã hoàn tất cùng với việc hoàn tất 3 luật thuế GTGT,
thuế TTĐB, thuế TNDN mới sửa đổi, bổ sung có hiệu lực thi hành từ
ngày 1.1.2004 chắc chắn sẽ có tác động tích cực đến hoạt động sản xuất
kinh doanh và dẫn đến kết quả tích cực hơn cho thu chi NSNN năm
2004 và những năm sau.
Việc hoàn thuế và kiểm tra hoàn thuế còn nhiều bất cập. Vấn đề không
hoàn thành các mục tiêu đề ra là cần phải xem xét. Như vậy, trong bối
cảnh tiến hành hội nhập với những biến động phức tạp của thị trường thế
giới thì đây là dấu hiệu cảnh báo về quản lý NSNN. Nguồn thu ngân
sách qua các năm không ổn định và Thực hiện công khai, minh bạch
toàn bộ hoạt động đầu tư từ nguồn vốn NSNN là một giải pháp cấp bách

trong quá trình hội nhập. Nhất là khi đường lối chủ động hội nhập quốc
tế và lộ trình cắt giảm thuế quan được công khai.
Bên cạnh những nhiệm vụ chi thực hiện sát với dự toán, một số nhiệm
vụ chi tăng so với dự toán là cần thiết như tăng chi sự nghiệp kinh tế để
khắc phục hậu quả thiên tai; hỗ trợ nông dân khắc phục hậu quả của dịch
bệnh cúm gia cầm và khôi phục sản xuất chăn nuụi;…
Tuy nhiên, những tồn tại trong quản lý ngân sách còn lớn như nhiều
địa phương bố trí vốn còn phân tán; sử dụng ngân sách lãng phí; việc sử
dụng vốn trái phiếu chính phủ, công trái xây dựng trường, lớp học chưa
hiệu quả, vốn huy động phi lãi suất chưa được sử dụng kịp thời, thường
xuyên bị tồn đọng ở mức lớn.
Chi đầu tư xây dựng cơ bản còn dàn trải, sử dụng vốn đầu tư kém hiệu
quả, tỷ lệ thất thoát lớn khi mà nợ xây dựng cơ bản từ nguồn vốn NSNN
cao là vấn đề ảnh hưởng nghiêm trọng đến phát triển kinh tế
Trong bức tranh của nền kinh tế Việt Nam năm 2008, dự kiến tỉ lệ bội
chi NSNN sẽ lên đến 4,95% GDP, sắp đến ngỡng cho phép là 5%.Tình
hình bội chi NSNN đã đợc thể hiện khá rõ trong báo cáo của Chính phủ.
Còn lãnh đạo kiểm toán nhà nớc cho biết: mức bội chi năm 2008 là
62.200 tỷ đồng, bằng 4,95% GDP. Một điều đáng lo ngại là trong vài
năm gần đây, mức bội chi liên tục tăng, năm 2007 bội chi 56.500 tỷ
đồng, tăng 16,8% so với năm 2006. Năm 2008 bội chi tăng 17,1% so với
năm 2007 và năm 2009 dự kiến bội chi 87.300 tỷ đồng, tăng 31,8% so
với năm 2008.
Về dự kiến khả năng cân đối NSNN năm 2009, lãnh đạo bộ kế hoạch
và đầu t cho biết rằng: tổng thu cân đối NSNN là 418.000 tỷ đồng, tăng
4,8%; tổng chi khoảng 509.400 tỷ đồng, tăng 18,5%. Bội chi NSNN năm
2009 dự kiến khoảng 87.300 tỷ đồng, bằng 4,8% GDP. Nh vậy về tỷ lệ
bội chi NSNN dự kiến giảm 0,15% so với năm 2008 nhng con số tuyệt
đối lại cao hơn, lên đến hơn 25.000 tỷ đồng.
B .GIẢI PHÁP XỬ LÝ THÂM HỤT NSNN:

I. NHỮNG BIỆN PHÁP XỬ LÝ
1. Biện pháp “tăng thu, giảm chi”
Đây là biện pháp mà Chính phủ bằng những quyền hạn và nhiệm vụ
được giao, tính toán hợp lý để tăng các khoản thu như thu từ Thuế và
cắt giảm chi tiờu.
m=1/(1-MPC) ; mt= -MPC/(1-MPC)
m+mt = 1 (số nhân ngân sách cân bằng )
Ý nghĩa : khi chính phủ tăng chi tiêu (G) và tăng thuế (T) một lượng
như nhau thì ngân sách không đổi và sản lượng cân bằng sẽ tăng một
lượng tương ứng ∆Y = ∆G = ∆T
Khi chính phủ tăng chi tiêu
∆Y = 1/(1-MPC) x ∆G
Khi đồng thời tăng thuế :
∆Y = 1/(1-MPC) x ∆G - MPC/(1-MPC)x∆T
Mà ∆G =∆T nên ta có ∆Y = ∆G= ∆T
2. Vay nợ trong nước (Vay dân) :
Vay nợ trong nước được Chính phủ thực hiện dưới hình thức phát
hành công trái, trái phiếu. Ở Việt Nam, Chính phủ thường uỷ nhiệm cho
Kho bạc nhà nước phát hành trái phiếu dưới các hình thức: tín phiếu kho
bạc; trái phiếu kho bạc; trái phiếu công trình.

m
Số tiền vay trong nước
để bù đắp bội chi ngân
sách nhà nước
(đơn vị tính: Tỷ đồng)
200
7
43.000
200

6
36.000
200
5
32.420
200
4
27.450
200
3
22.895
200
2
18.382
Ưu điểm: Đây là biện pháp cho phép Chính phủ có thể du trì việc
thâm hụt ngân sách mà không cần phải tăng cơ sở tiền tệ hoặc giảm dự
trữ quốc tế. Vì vậy, biện pháp này được coi là một cách hiệu quả để
kiềm chế lạm phát.
Hạn chế : Việc tài trợ thâm hụt ngân sách nhà nước bằng nợ tuy
không gây ra lạm phát trước mắt nhưng nó lại có thể làm tăng áp lực lạm
phát trong tương lai nhếu như tỷ lệ nợ trong GDP liên tục tăng. Thứ nữa,
việc vay từ dân trực tiếp sẽ làm giảm khả năng của khu vực tư nhân
trong vviệc tiếp cận tín dụng và gây sức ép làm tăng lãi suất trong nước.
Đặc biệt, ở những nước trải qua giai đoạn lạm phát cao (như nước ta
hiện nay), giá trị thực của trái phiếu chớnhphủ giảm nhanh chóng, làm
cho chúng trở nên ít hấp dẫn. Chính phủ có thể sử dụng quyền lực của
mình để buộc các chủ thể khác trong nền kinh tế phải giữ trái phiếu, tuy
nhiên, nếu việc này có dài có thể gây ảnh hướng nghiêm trọng đến uy tín
của Chính phủ và khiến cho việc huy động vốn thông qua kênh này sẽ
trở nên khó khăn hơn vào các năm sau.

3. Vay nợ nước ngoài:
Chính phủ có thể tài trợ thâm hụt ngân sách bằng các nguồn vốn nước
ngoài thông qua việc nhận viện trước nước ngoài hoặc vay nợ nước
ngoài từ các chính phủ nước ngoài, các định chế tài chính thế giới như
Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Phát
triển Châu Á (ADB), các tổ chức liên chính phủ, tổ chức quốc tế
Viện trợ nước ngoài là nguồn vốn phát triển của các chính phủ, các tổ
chức liên chính phủ, các tổ chức quốc tế cung cấp cho chính phủ của
một nứoc nhằm thực hiện các chương trình hợp tác phát triển kinh tế xã
hội và hiện nay chủ yếu là nguồn vốn phát triển chính thức ODA.
Vay nợ nước ngoài có thể thực hiện dưới các hình thức: phát hành trái
phiếu bằng ngoaị tệ mạnh ra nước ngoài, vay bằng hình thức tín dụng
N
ăm
Số tiền vay nước ngoài để
bù đắp bội chi ngân sách
nhà nước
(đơn vị tính: Tỷ Đồng)
20
07
13.500
20
06
12.500
20
05
8.326
20
04
7.253

20
03
7.041
20
02
7.125
Ưu điểm: nó là một biện pháp tài trợ ngân sách nhà nước hữu hiệu, có
thể bù đắp được các khoản bội chi mà lại không gây sức ép lạm phát cho
nền kinh tế. Đây cũng là một nguồn vốn quan trọng bổ sung cho nguồn
vốn thiếu hụt trong nước, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Hạn chế: Nó sẽ khiến cho gánh nặng nợ nần, nghĩa vụ trả nợ tăng lên,
giảm khả năng chi tiêu của chính phủ. Đồng thời, nó cũng dễ khiến cho
nền kinh tế trở nên bị phụ thuộc vào nước ngoài. Thậm chí, nhiều khoản
vay, khoản viện trợ còn đòi hỏi kèm theo đó là nhiều các điều khoản về
chính trị, quân sự, kinh tế khiến cho các nước đi vay bị phụ thuộc nhiều.
4. Sử dụng dự trữ ngoại tệ:
Quỹ dự trữ ngọai tệ là lượng ngoại tệ mà ngân hàng trung ương hoặc
cơ quan hữu trách tiền tệ của một quốc gia hoặc một lãnh thổ nắm giữ
dưới dạng ngoại tệ nhằm thanh toán quốc tế hoặc hỗ trợ đồng tiền quốc
gia.
Chính phủ có thể sử dụng việc giảm dự trữ ngoại tệ để tài trợ thâm hụt
ngân sách.
Ưu điểm của việc này là dự trữ hợp lý có thể giúp quốc gia tránh
được khủng hoảng.
Hạn chế: dụng quỹ dự trữ ngoại tệ để tài trợ thâm hụt ngân sách lại
tiềm ẩn nhiều rủi ro và phải hết sức hạn chế sử dụng. Vì nếu khu vực tư
nhân cho rằng nguồn dự trữ ngoại tệ của quốc gia hết sức mỏng mảnh,
thì sự mất niềm tin vào khả năng mà chính phủ có thể can thiệp vào thị
trường ngoại hối có thể dÉn đến một dòng vốn ồ ạt chảy ra thế giới bên
ngoài, gây lạm phát.

Kết hợp với việc vay nợ nước ngoài ở trên, việc giảm quỹ dự trữ ngoại
tệ cũng sẽ khiến cho tỷ giá hối đoái tăng, làm suy yếu sức cạnh tranh
quốc tế của hàng hoá trong nước.
5. Vay ngân hàng (in tiền)
Chính phủ khi bị thâm hụt ngân sách sẽ đi vay Ngân hàng Trung ương
để bù đắp. Để đáp ứng nhu cầu này, tất nhiên, Ngân hàng trung ương sẽ
tăng việc in tiền. Điều này sẽ tạo ra thêm cơ sở tiền tệ. Chính vì vậy, nó
được gọi là tiền tệ hoá thâm hụt.
Ưu điểm của biện pháp này là nhu cầu bù tiền để bù đắp ngân sách
nhà nước được đáp ứng một cách nhanh chóng, không phải trả lãi,
không phải gỏnh thờm cỏc gánh nặng nợ nần.
Hạn chế của biện pháp này lại lớn hơn rất nhiều lần. Việc in thêm và
phát hành thêm tiền sẽ khiến cho cung tiền vượt cầu tiền. Nó đẩy cho
việc lạm phát trở nên không thể kiểm soát nổi. Trong những năm 80 của
thế kỷ 20, nước ta đã bù đắp bội chi ngân sách nhà nước bằng cách in
thêm tiền đưa vào lưu thông. Việc này đã đẩy tỷ lệ lạm phát đỉnh điểm
lên tới hơn 600%, nền kinh tế bị trì trệ
II. TÌNH HÌNH LẠM PHÁT VÀ CÁC BIỆN
PHÁP XỬ LÝ Ở VIỆT Nam :
Kể từ nửa cuối năm 2007 đến nay, lạm phát luôn là vấn đề nóng bỏng
trờn cỏc bàn thảo luận, cũng như trờn cỏc phương tiện thông tin đại
chúng. Theo dự báo, chỉ số giá tiêu dùng cỏc thỏng còn lại của năm
2008 có thể giao động từ 1,1%/ tháng đến 1,5%/ tháng, nếu lấy mức
trung bình là 1,3%/ thỏng, thỡ 5 tháng còn lại sẽ tăng 6,5%, tính cả năm
2008 chỉ số giá tiêu dùng sẽ là 26,28%. Thực tế cho thấy, do lạm phát
nên tình hình kinh tế - xã hội đã phát sinh nhiều biến động lớn gây ra
không ít khó khăn cho sự tăng trưởng kinh tế và đời sống nhân dân
1.TÌNH HÌNH LẠM PHÁT VÀ NHỮNG NGUYÊN NHÂN:
Lạm phát là một quá trình giá tăng liên tục, tức là mức giá chung
tăng lên hoặc là quá trình đồng tiền liên tục giảm giá.

Tác động của lạm phát:
Một là, lạm phát đã làm cho giá cả hàng hóa, dịch vụ tăng, tác động
trực tiếp vào sản xuất kinh doanh như xăng dầu, sắt thép, vật liệu xây
dựng (6 tháng đầu năm 2008 giá xăng dầu nhập khẩu tăng 61,8%, sắt
thép tăng 29,8%…), đời sống người lao động bị tác động trực tiếp bởi sự
tăng giá lương thực, thực phẩm.
Sáu tháng đầu năm 2008 so với tháng 12 năm 2007, giá lương thực
tăng 57%, thực phẩm tăng 22,44%, ăn uống ngoài gia đình tăng 24,6%
… Tính đến hết tháng 7 năm 2008 chỉ số giá tiêu dùng của Việt Nam đã
bằng 121,28% so với cùng kỳ năm 2007 (tăng 21,28%) và bằng
119,78% so với cuối năm 2007 (tăng 19,7%, tính trung bình mỗi tháng
tăng 2,83%).
Hai là, với biện pháp khống chế tăng trưởng tín dụng ở mức 30%,
nâng lãi suất cơ bản lên 14%/năm làm cơ sở cho các ngân hàng thương
mại định lãi suất kinh doanh phù hợp với cung cầu vốn trên thị trường,
tạo mặt bằng lãi suất huy động, cho vay hợp lý khiến cho các doanh
nghiệp, hộ sản xuất kinh doanh gặp rất nhiều khó khăn về vay vốn kinh
doanh và phải chịu lãi suất rất cao. Chính vì vậy, chi phí sản xuất của
các doanh nghiệp và xã hội sẽ tăng cao làm ảnh hưởng không nhỏ đến
hiệu quả kinh tế chung của nền kinh tế, mặt khác làm yếu sức cạnh tranh
của hàng hóa Việt Nam trên trường quốc tế.
Ba là, kinh tế vĩ mô có những dấu hiệu đi xuống do tác động của lạm
phát (Chính phủ đã phải đề nghị Quốc hội phê duyệt chỉ tiêu tăng trưởng
kinh tế năm 2008 chỉ còn khoảng 7%). Nhiều doanh nghiệp phải giảm
quy mô sản xuất, thậm chí có những doanh nghiệp thua lỗ, thậm chí có
thể phá sản.
Nguyên nhân của tình trạng lạm phát ở Việt Nam trong thời gian qua
là do những nguyên nhân chủ yếu sau:
Do chi phí đẩy (giá dầu tăng cao, nhập siêu lớn trong điều kiện tỷ giá
biến động, chi phí sử dụng vốn tăng, tác động của các chính sách vĩ

mụ…);
Do cầu kéo (khủng hoảng lương thực thế giới, dịch bệnh triền miờn…
làm lượng nhiều loại hàng hóa bị suy giảm, tuy nhiên tổng lượng cầu
hàng hóa vẫn có xu hướng gia tăng);
Do tác động của chính sách tiền tệ (riêng năm 2007, cung tiền M2
tăng trưởng với tốc độ kỷ lục trong vòng 5 năm trở lại đây, với con số
35%, vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tương đối lớn…).
Do yếu tố tâm lý (người tiêu dùng chạy theo các tin đồn từ đó làm
tăng lượng cầu đột biến, không chuyển tiền của mình sang đầu tư sản
xuất - kinh doanh mà mua vàng, kim loại quý…)
Như vậy, trong 5 nguyên nhân chủ yếu gây ra tình hình lạm phát trong
thời gian vừa qua ở Việt Nam, nguyên nhân xử lý bội chi NSNN vẫn còn
thiếu quyết liệt. Do vậy, để kiềm chế lạm phát, ngoài các biện pháp kiềm
chế lạm phát mà Chính phủ, cũng như các bộ, ngành đang thực thi, vấn
đề quản lý chặt tình hình chi NSNN như: chi thường xuyên của các cơ
quan nhà nước, đầu tư cụng… thông qua việc xử lý bội chi NSNN là vô
cùng cấp thiết và có ý nghĩa rất quan trọng.
Trong thời gian 5 năm 1986 - 1990, 59,7% mức thâm hụt này được hệ
thống Ngân hàng thanh toán bằng cách phát hành tiền. Năm 1984, phát
hành tiền để bù đắp thâm hụt ngân sách là 0,4 tỷ đồng, năm 1985: 9,3 tỷ
đồng, năm 1986: 22,9 tỷ đồng, năm 1987: 89,1 tỷ đồng, năm 1988: 450
tỷ đồng, năm 1989: 1655 tỷ đồng và năm 1990 là 1200 tỷ đồng. Số còn
lại được bù đắp bằng các khoản vay nợ và viện trợ của nước ngoài (so
với bội chi, khoản vay và viện trợ năm 1984 là 71,3%, năm 1985 là
40,8%, năm 1986: 38,4%, năm 1987: 32,1%, năm 1988: 32,6%, năm
1989: 24,9%, năm 1990 là 46,7%) và một số nhỏ do các khoản thu từ
bán công trái trong nước.
Đồ thị : Tổng bội chi NSNN và tiền phát hành để bù đắp bội chi
NSNN (1985 - 1990)
(Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư)

Bước vào giai đoạn từ năm 1991-1995, tình hình đất nước đã có nhiều
chuyển biến tích cực, sản xuất và lưu thông hàng hoỏ đó cú động lực
mới, tình trạng thiếu lương thực đã được giải quyết căn bản, lạm phát
siờu mó đó được đẩy lùi, nhưng lạm phát cao vẫn còn. Cơ cấu chi
NSNN đã dần dần thay đổi theo hướng tích cực. Nguồn thu trong nước
đã đủ cho chi thường xuyên, tình trạng đi vay hoặc dựa vào phát hành
cho chi thường xuyên đã chấm dứt. Trong giai đoạn này, chi đúng đối
tượng, có hiệu quả, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội được đặt ra. Nhờ
những giải pháp trên, số thâm hụt NSNN đã giảm dần qua từng năm và
được bù đắp bằng vay của dân và vay nước ngoài.
Trong giai đoạn từ năm 1991-1995, tỷ lệ bội chi NSNN so với GDP
chỉ ở mức 1,4% đến 4,17% (1991: 1,4%, 1992:1,5%, 1993: 3,9%, 1994:
2,2% và năm 1995 là 4,17%). Như vậy, có thể thấy bội chi NSNN trong
những năm 1991-1995 là rất thấp, thể hiện chính sách thắt chặt chi tiêu
của Chính phủ trong thời kỳ này và đây cũng là yếu tố rất quan trọng
góp phần kiềm chế lạm phát.
Giai đoạn từ năm 1996-2000, tình hình thu chi NSNN đã có nhiều
chuyển biến tích cực, thu không những đủ chi thường xuyên mà còn cho
đầu tư phát triển, thâm hụt NSNN được khống chế ở mức thấp. Tuy
nhiên, giai đoạn từ năm 1996-2000, do tác động của khủng hoảng tài
chính ở các nước Đông Nam Á nên nền kinh tế có gặp không ít khó
khăn. Tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm dần từ năm 1996 đến năm 1999
và đến năm 2000, tốc độ này mới tăng lên chút ít, chặn đứng đà giảm
sút. Trong những năm này, tỷ lệ bội chi NSNN ở mức từ 3,0% GDP năm
1996 lên 4,95% GDP năm 2000 (năm 1996: 3%, năm 1997: 4,05%, năm
1998: 2,49%, năm 1999: 4,37%, năm 2000: 4,95%). Tỷ lệ bội chi bình
quân 5 năm là 3,87% GDP, cao hơn mức bình quân năm 1991-1995
(2,63%). Năm 2000 có mức bội chi cao nhất là 4,95% GDP và năm 1998
có mức bội chi thấp nhất là 2,49%. Đây là thời kỳ suy thoái và thiểu
phỏt, nờn mức bội chi NSNN như trên không tác động gây ra lạm phát

mà có tác động làm cho nền kinh tế chuyển sang giai đoạn đi lên.
Giai đoạn từ năm 2001-2007, NSNN cũng đó cú chuyển biến đáng kể.
Tốc độ tăng thu hằng năm bình quân là 18,8%. Tốc độ tăng chi bình
quân hằng năm đạt 18,5%. Bội chi NSNN trong giai đoạn này về cơ bản
đuợc cân đối ở mức 5% GDP và thực hiện ở mức 4,9%-5% GDP. Nếu
chỉ xét ở tỷ lệ so với GDP, cũng thấy bội chi NSNN trong 7 năm trở lại
đây tăng cao hơn các năm trước đó khá nhiều (bình quân khoảng 4,95%
GDP) vì giai đoạn năm 1991-1995, mức bội chi NSNN so với GDP chỉ
ở mức 2,63% và giai đoạn từ năm 1996-2000 ở mức 3,87% so với GDP
Để giải quyết tổng thể vấn đề bội chi NSNN ở Việt Nam, cần thiết
phải có những quy định chặt chẽ hơn, theo đó có thể áp dụng các giải
pháp sau:
Tập trung các khoản vay do Trung ương đảm nhận. Các nhu cầu đầu
tư của địa phương cần được xem xét và thực hiện bổ sung từ ngân sách
cấp trên. Thực hiện như vậy tránh được đầu tư tràn lan, kém hiệu quả và
để tồn ngân sách quá lớn và quản lý chặt chẽ số bội chi NSNN. Hiện tại,
chúng ta đang đứng trước mâu thuẫn giữa nhu cầu vốn cho đầu tư phát
triển với nguồn lực hạn hẹp. Nếu thực hiện thắt chặt, hạn chế vay để đầu
tư sẽ kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế đang có nhu cầu vốn rất cao.
Nhưng nếu chúng ta không kiểm soát chặt chẽ các khoản vay nợ của
NSNN, nhất là vay của ngân sách địa phương, thì nguy cơ ảnh hưởng
đến an ninh tài chính quốc gia, sự bền vững của NSNN. Thực hiện đầu
tư tập trung cũng có lợi là bảo đảm phát triển hài hoà, cân đối giữa cỏc
vựng, miền trong toàn quốc. Kinh nghiệm của Trung Quốc: nghiêm cấm
ngân sách các địa phương vay vốn dưới bất kỳ hình thức nào, các khoản
chi đầu tư của địa phương được xem xét tính toán và bổ sung từ ngân
sách trung ương.
Giải quyết tốt mối quan hệ giữa chi đầu tư phát triển và chi thường
xuyên, nhất là ngân sách các địa phương. Do vậy, khi các địa phương
vay vốn để đầu tư, sẽ kiên quyết không bố trí nguồn chi thường xuyên

cho việc vận hành các công trình khi hoàn thành và đi vào hoạt động
cũng như chi phí duy tu, bảo dưỡng các công trình, làm giảm hiệu quả
đầu tư. Có như vậy, các địa phương phải tự cân đối nguồn kinh phí này
chứ không thể yêu cầu cấp trên bổ sung ngân sách.
Nếu chấp nhận bội chi ngân sách địa phương thì cần quản lý và giám
sát chặt chẽ việc vay vốn. Các khoản vốn vay chỉ đầu tư phát triển kết
cấu hạ tầng và phát triển các cơ sở kinh tế. Các khoản vay của ngân sách
địa phương cần được tổng hợp và báo cáo Quốc hội để tổng hợp số bội
chi NSNN hằng năm. Vấn đề vay vốn của các địa phương không được
kiểm soát chặt chẽ chẳng những tạo ra nguy cơ vay vốn tràn lan, đầu tư
kém hiệu quả mà còn ảnh hưởng đến tính bền vững của NSNN trong
tương lai. Bội chi NSNN hằng năm không được kiểm soát chặt chẽ trước
khi trình Quốc hội, mức bội chi thực tế khác với mức bội chi báo cáo
cáo Quốc hội. Điều đó tạo nên gánh nặng nợ cho NSNN, bởi NSNN là
một thể thống nhất và đa số các địa phương trông chờ chủ yếu vào ngân
sách trung ương, do vậy suy cho cùng, các khoản nợ của ngân sách địa
phương sẽ là gánh nợ của NSNN trong khi việc đầu tư lại dàn trải, kém
hiệu quả.
Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Ðầu tư, trước tình hình lạm phát
tăng cao trong quý IV năm 2007 và những tháng đầu năm 2008, Chính
phủ nghiêm túc đánh giá tình hình, phân tích làm rừ cỏc nguyên nhân
chủ quan và khách quan, trong nước và ngoài nước. Trên cơ sở đú đó
điều chỉnh và chỉ đạo thực hiện nhiều giải pháp, chính sách đồng bộ:
Thắt chặt tiền tệ, tín dụng và điều chỉnh cơ chế lãi suất, tỷ giá; tiết kiệm
chi tiêu ngân sách, sắp xếp lại kế hoạch đầu tư và cắt giảm các dự án đầu
tư kém hiệu quả; điều chỉnh thuế quan, khuyến khích xuất khẩu và tăng
cường quản lý nhập khẩu, giảm nhập siêu; chỉ đạo thực hiện nhiều biện
pháp giảm chi phí sản xuất, chống đầu cơ, tăng cường quản lý thị trường
giá cả, đồng thời thực hiện các biện pháp tiếp tục hỗ trợ để đẩy mạnh
sản xuất, kinh doanh, cân đối cung cầu. Tốc độ tăng giá tiêu dùng từ

tháng 6 đã giảm dần. Chỉ số giá tiêu dùng tháng 7 tăng 1,13%, tháng 8 là
1,56%, chủ yếu do điều chỉnh tăng giá xăng, dầu; chỉ số giỏ thỏng 9 tăng
0,18% là mức tăng thấp nhất kể từ đầu năm đến nay; dự báo chỉ số giá
tiêu dùng cả năm tăng khoảng 24%. Tỷ giá ngoại tệ cũng đã ổn định trở
lại và giảm nhiều so với đỉnh điểm trong tháng 6-2008. Các cân đối vĩ
mô như: Ngân sách Nhà nước, tiền tệ tín dụng, cán cân thanh toán quốc
tế tương đối ổn định. Dự trữ ngoại tệ tăng lên, nhập siêu giảm dần; các
chỉ số về nợ nước ngoài đều trong giới hạn an toàn cho phép.
Ðầu tư trực tiếp nước ngoài tiếp tục tăng cao; các nhà đầu tư tin tưởng
vào sự phát triển trung và dài hạn của Việt Nam. Ước thực hiện cả năm
2008, tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện đạt khoảng 10-11
tỷ USD, trong đó vốn nước ngoài khoảng 8,5 tỷ USD; vốn đăng ký tăng
gần gấp ba lần so với năm 2007. An sinh xã hội được bảo đảm. Các hoạt
động khoa học, công nghệ, giáo dục - đào tạo và các lĩnh vực xã hội
khác tiếp tục phát triển. Công tác đối ngoại và hợp tác quốc tế đạt được
nhiều kết quả tích cực. Công tác cải cách hành chính và phòng, chống
tham nhũng có chuyển biến. Chính trị ổn định, quốc phòng, an ninh và
trật tự xã hội được bảo đảm.
Ðạt được những kết quả bước đầu nói trên, nhất là kết quả kiềm chế
lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, trước hết là nhờ sự thống nhất cao trong
lãnh đạo của Ðảng, sự nỗ lực của toàn dân và cộng đồng doanh nghiệp,
sự chỉ đạo tập trung quyết liệt của Chính phủ.
Bên cạnh những kết quả đạt được nền kinh tế nước ta trong năm qua
cũn cú những hạn chế, yếu kém như tăng trưởng kinh tế trong quý III có
được cải thiện so với quý II, nhưng chớn thỏng đầu năm mới đạt 6,2%,
thấp hơn so với chỉ tiêu điều chỉnh được Quốc hội thông qua là 7%. Tốc
độ tăng giá và lạm phát cao hơn nhiều so với các năm trước. Nhập khẩu
và tỷ lệ nhập siêu đã được kiềm chế và giảm dần từ giữa năm nhưng vẫn
ở mức cao. Ðời sống nhân dân, nhất là người nghèo, người có thu nhập
thấp, vựng sõu, vựng xa, đồng bào dân tộc thiểu số và vùng bị thiên tai

gặp nhiều khó khăn. Tình trạng tỏi nghốo gia tăng. Tỷ lệ hộ nghèo của
cả nước giảm từ 14,8% năm 2007 xuống 13,1% năm 2008.
Căn cứ kết quả thực hiện hai năm 2006-2007 và ước thực hiện năm
2008, đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch trong ba năm qua, và khả
năng thực hiện hoàn thành kế hoạch năm năm 2006-2010 như sau:
Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) bình quân ba năm đạt 7,8%/năm,
đạt mục tiêu kế hoạch đề ra là 7,5-8,0%; trong đó, hai năm đầu của kế
hoạch năm năm tăng khá cao, lần lượt là 8,23% và 8,48%; năm 2008 đã
giảm, còn 6,5-7,0%. GDP theo giá so sánh đến năm 2008 tăng gấp 1,8
lần năm 2000 so với kế hoạch đề ra là tăng gấp 2,1 lần. Riêng GDP tính
theo đầu người quy ra USD năm 2008 theo giá hiện hành đã đạt hơn
1.000 USD, xấp xỉ mục tiêu đề ra cho năm 2010 (1.050 - 1.100 USD).
Theo dự kiến của Chính phủ, năm 2009, tổng sản phẩm trong nước
(GDP) tăng khoảng 7% so với năm 2008; GDP theo giá thực tế khoảng
1.820 nghìn tỷ đồng tương đương gần 106 tỷ USD, bình quân đầu người
khoảng 1.200 USD. Ðể đạt được các chỉ tiêu này, năm 2009, Chính phủ
tập trung chỉ đạo thực hiện tốt chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa
để kiềm chế lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô; tháo gỡ khó khăn vướng
mắc, thúc đẩy đầu tư, phát triển sản xuất, kinh doanh, tăng năng suất lao
động, giảm chi phí, nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế; tạo mọi
điều kiện để thúc đẩy xuất khẩu phát triển, bảo đảm cân đối cung cầu
hàng hóa thiết yếu phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân
Báo cáo về tình hình kinh tế - xã hội năm 2008 và nhiệm vụ năm 2009
trước Quốc hội trong ngày khai mạc (16/10) kỳ họp thứ tư, Quốc hội
khóa XII, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng nhấn mạnh: “Kiềm
chế lạm phát thực sự là công việc hệ trọng của đất nước”. Các chỉ tiêu
kinh tế - xã hội chủ yếu năm 2009 được Chính phủ trình Quốc hội:
- Tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng khoảng 7% so với năm 2008;
- Tổng kim ngạch xuất khẩu đạt khoảng 76,7 tỷ USD, tăng 18% so với
năm 2008.

- Tổng nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội khoảng 725 nghìn tỷ
đồng, bằng 40% GDP.
- Tổng thu ngân sách nhà nước khoảng 418 nghìn tỷ đồng, tăng 4,76%
so với ước thực hiện năm 2008; tổng chi ngân sách nhà nước 509,4
nghìn tỷ đồng, tăng 7,4% so với ước thực hiện năm 2008.
- Bội chi ngân sách nhà nước khoảng 87,3 nghìn tỷ đồng, bằng 4,8%
GDP.
- Chỉ số giá tiêu dùng tăng dưới 15%.
- Giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống còn 12%.
- Tạo việc làm cho khoảng 1,7 triệu lao động, trong đó đưa lao động đi
làm việc ở nước ngoài khoảng 9 vạn người.

×