Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

thực trạng tổ chức và hoạt động của thanh tra ngân hàng nhà nước việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.94 KB, 22 trang )

Lời mở đầu
1. Sự cần thiết của đề tài
Sau khi chuyển hệ thống Ngân hàng Việt Nam từ Ngân hàng một cấp
sang Ngân hàng hai cấp, tách chức năng quản lý của Ngân hàng Nhà nước
(NHNN) và chức năng kinh doanh của các Ngân hàng Thương mại (NHTM).
Tổ chức tín dụng (TCTD), các TCTD thực hiện chức năng kinh doanh với
nghiệp vụ chủ yếu là huy động tiền gửi và sử dụng nguồn vốn huy động đó
vào các nghiệp vô sinh lời như đầu tư, cho vay. Để quyền lợi của người gửi
tiền luôn được đảm bảo, đòi hỏi NHNN, với chức năng quản lý Nhà nước về
hoạt động tiền tệ, tín dụng, ngân hàng đối với các TCTD phải tổ chức giám
sát, thanh tra hoạt động của các TCTD bằng các định chế do NHNN ban
hành. Trong thời kỳ bao cấp, hoạt động của thanh tra NHNN chủ yếu là việc
kiểm tra của Ngân hàng cấp trên đối với Ngân hàng cấp dưới, kiểm tra việc
thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch được giao, kiểm tra an toàn kho quỹ và giành
một phần không nhỏ về thời gian, nhân lực cho việc kiểm tra, giải quyết đơn
thư khiếu nại, tố cáo có liên quan đến hoạt động Ngân hàng.
Chuyển hoạt động Ngân hàng sang cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa (XHCN), hoạt động của thanh
tra Ngân hàng cũng phải có sự thay đổi để phù hợp với chức năng quản lý và
quan trọng hơn là thông qua hoạt động giám sát, thanh tra để thường xuyên
đánh giá được tình trạng tài chính, mức độ an toàn và hiệu quả hoạt động của
các TCTD, từ đó đảm bảo quyền lợi cho người gửi tiền. Với thực tế hoạt động
trong thời kỳ bao cấp và đòi hỏi bức thiết của chức năng quản lý trong cơ chế
thị trường, hoạt động thanh tra của NHNN phải có phương pháp và bước đi
phù hợp, đòi hỏi phải có sự tổng kết, rút kinh nghiệm. Từ khi hoạt động ngân
hàng chuyển sang cơ chế thị trường, hoạt động quản lý của NHNN với công
cụ thanh tra tại chỗ các TCTD đã góp phần giúp các TCTD hoạt động an toàn
và đúng Pháp luật hơn. Đó là lÝ do của việc thực hiện đề tài Thanh tra tại chỗ
hoạt động của các định chế tài chính tại Việt Nam.
Chương 1
Thanh tra tại chỗ của NHNN đối với


các định chế tài chính là một tất yếu khách quan.
1. Sự cần thiết của hoạt động thanh tra tại chỗ của NHNN đối với
các định chế tài chính trong nền kinh tế thị trường.
1.1 Thanh tra là một công cụ quan trọng trong hoạt động quản lý
của NHNN
1.1.1.Thanh tra trong hoạt động quản lý Nhà nước.
Để làm tốt chức năng quản lý, Nhà nước phải sử dụng các công cụ của
mình trên các lĩnh vực trong đó thanh tra là một công cụ đắc lực.
Thanh tra là một phạm trù lịch sử, nó gắn liền với Nhà nước và là công
cụ phục vụ cho giai cấp thống trị xã hội, lịch sử phát triển của xã hội loài
người đã chứng minh điều đó. Tuy tên gọi và hình thức tổ chức có thể khác
nhau, nhưng thanh tra đều là công cụ để Nhà nước kiểm tra, kiểm soát các
hoạt động của nền kinh tế trong công tác quản lý xã hội .Thanh tra kiểm tra là
một trong ba yếu tố cấu thành sự lãnh đạo của Nhà nước đó là: ban hành quy
chế, tổ chức thực hiện quy chế và thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các quy
chế đó. Như vậy, thanh tra có vai trò đặc biệt quan trọng trong hoạt động của
Nhà nước.
Về nguyên tắc: hoạt động thanh tra chỉ tuân thủ theo Pháp luật, bảo đảm
chính xác, khách quan, công khai, dân chủ, kịp thời.
Mặt khác, hoạt động thanh tra phải gắn bó một cách hữu cơ với các cơ
quan quản lý Nhà nước, bởi vì, nếu trong công tác thanh tra, cơ quan quản lý
đứng ngoài cuộc thì hiệu lực thanh tra không thể có được. Đồng thời, thông
qua hoạt động thanh tra còn có tác dụng giúp cơ quan quản lý kiểm tra tính
đúng đắn của các quyết định quản lý, góp phần hoàn thiện cơ chế chính sách,
khắc phục những sơ hở yếu kém trong quản lý, giữ vững kỷ cương pháp luật,
bảo vệ lợi Ých của Nhà nước và quyền lợi hợp pháp của công dân.
1.1.2. Thanh tra đối với hoạt động Ngân hàng trong cơ chế thị trường.
Như trên đã phân tích, hoạt động Ngân hàng mang tính đặc thù, có ảnh
hưởng rất lớn đối với nền kinh tế quốc dân và đời sống kinh tế, Chính trị xã
hội. Vì vậy, công tác quản lý Nhà nước đối với hoạt động Ngân hàng càng đòi

hỏi phải chặt chẽ hơn, nó không chỉ đơn thuần là việc kiểm tra thực hiện
chính sách, chế độ, mà hoạt động thanh tra của Ngân hàng là kiểm tra các
TCTD hoạt động có đảm bảo an toàn không, có đảm bảo khả năng chi trả cho
khách hàng kịp thời, đầy đủ không. Trong khi đó, hoạt động của các TCTD
luôn luôn bị rủi ro rình rập, đe doạ và rất có thể mất khả năng thanh toán, chi
trả bất kỳ lúc nào. Điều này đòi hỏi NHNN cần phải tăng cường tổ chức giám
sát, thanh tra và kiểm soát đối với các tổ chức tín dụng bằng công cụ quản lý
của mình, trong đó có thanh tra.
Hoạt động Ngân hàng mang tính đặc thù đòi hỏi có sự kiểm soát chặt
chẽ của cơ quan quản lý Nhà nước là NHNN. Trong khi đó, công cụ đắc lực
của NHNN để thực hiện kiểm soát đó là Thanh tra Ngân hàng. Do đó, Thanh
tra Ngân hàng Nhà nước cũng có tính đặc thù, nó được quy định trong quy
chế tổ chức và hoạt động của Thanh tra Ngân hàng Nhà nước: " Thanh tra
Ngân hàng Nhà nước là tổ chức thanh tra chuyên trách của Ngân hàng Nhà
nước trong hệ thống thanh tra nhà nước, thực hiện quyền thanh tra trong
phạm vi quản lý nhà nước của Ngân hàng Nhà nước và sự chỉ đạo của thanh
tra nhà nước về công tác tổ chức và nghiệp vụ thanh tra".
Về mặt tổ chức, Thanh tra Ngân hàng Nhà nước được tổ chức từ Trung
ương đến chi nhánh Ngân hàng Nhà nước Tỉnh, Thành phố. Ở địa phương,
Thanh tra chi nhánh Ngân hàng Nhà nước Tỉnh, thành phố chịu sự quản lý và
chỉ đạo trực tiếp của Giám đốc chi nhánh, đồng thời chịu sự chỉ đạo về nghiệp
vụ và chương trình hoạt động của Thanh tra Ngân hàng Nhà nước Trung
ương.
Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, Đảng và Nhà nước ta chủ
truơng chuyển nền kinh tế nước ta từ bao cấp sang hoạt động theo cơ chế thị
trường đã thúc đẩy hệ thống ngân hàng có những thay đổi toàn diện, đó là sự
ra đời của Ngân hàng hai cấp theo Nghị định 53/HĐBT ngày 26/03/1988 của
HĐBT tách chức năng quản lý của NHNN và chức năng kinh doanh của
TCTD. Với hai pháp lệnh Ngân hàng ngày 23/05/1990, ngành Ngân hàng
nước ta đã có sự đổi mới căn bản- Ngân hàng Nhà nước Việt nam trở thành

Ngân hàng Trung Ương, Ngân hàng của toàn bộ hệ thống nền kinh tế quốc
dân, thực hiện chức năng quản lý Nhà nước đối với các TCTD với quyền
năng: Cấp giấy phép và thu hồi giấy phép, thanh tra và kiểm soát hoạt động
của TCTD trong việc chấp hành pháp luật về hoạt động tiền tệ, tín dụng,
thanh toán, ngoại hối và Ngân hàng; Thi hành các biện pháp nhằm đảm bảo
khả năng chi trả kịp thời đầy đủ của TCTD đối với khách hàng, đảm bảo an
toàn của hoạt động Ngân hàng trong nền kinh tế, phát hành tiền, quản lý tiền
mặt và tổ chức điều hòa lưu thông tiền tệ.
Để thường xuyên đánh giá được thực trạng hoạt động của TCTD, nắm
bắt được tình hình tài chính và đặc biệt là những yếu tố dẫn đến rủi ro, xử lý
kịp thời những vấn đề nghiêm trọng xảy ra tránh lây truyền gây rối loạn hoạt
động của nền kinh tế; Thanh tra Ngân hàng Nhà nước phải có những phương
thức hoạt động phù hợp. Đối với hầu hết các nước, Thanh tra ngân hàng
thường kết hợp hai phương thức thanh tra là; giám sát từ xa và thanh tra tại
chỗ đối với các TCTD. Thanh tra tại chỗ là phương thức thanh tra truyền
thống, được sử dụng từ những năm đầu khi hệ thống thanh tra ngân hàng mới
ra đời, còn phương thức giám sát từ xa mới được áp dụng từ quí III/2003.
1.2. Thanh tra tại chỗ đối với các TCTD.
Thanh tra tại chỗ là phương thức thanh tra truyền thống của hoạt động
quản lý Nhà nước ở nước ta. Đối với Ngân hàng, trong thời lỳ bao cấp và cho
đến năm 1993, Thanh tra Ngân hàng Nhà nước vẫn chỉ sử dụng phương thức
thanh tra tại chỗ đối với các TCTD. Mục tiêu của thanh tra tại chỗ được xác
định là:
+ Đánh giá tình hành chấp hành luật pháp và quy định trong các hoạt
động kinh doanh tài chính của các TCTD trong một thời gian nhất định.
+ Xem xét việc thực hiện các quy định của cấp trên của TCTD được
thanh tra.
+ Giúp các TCTD thấy được những ưu điểm, những thiếu sót và tồn tại
để khắc phục nhằm đưa hoạt động của mình đúng pháp luật, an toàn, có hiệu
quả.

Việc thanh tra tại chỗ được thực hiện thông thường dưới hình thức tổ
chức các đoàn thanh tra, kiểm tra trực tiếp tại các TCTD trong một thời gian
nhất định, thanh tra có thể là định kỳ hoặc đột xuất. Để thanh tra tại chỗ đạt
hiệu quả, cần chú ý một số vấn đề:
+ Đoàn thanh tra phải được tổ chức chặt chẽ, đúng quy định có mục đích
và nội dung thanh tra cụ thể (Xây dựng đề cương thanh tra) tổ chức thu thập
thông tin đầy đủ; Thực hiện các bước kiểm tra, kết luận phải chính xác; Kiến
nghị rõ ràng cụ thể; phải xác định rõ trách nhiệm của tổ chức, cá nhân và kiến
nghị biện pháp xử lý. Điều này chứng tỏ người trưởng đoàn rất quan trọng,
đồng thời đòi hỏi các thanh tra viên cũng phải có kiến thức, trình độ và kĩ
năng thanh tra tốt.
+ Sau khi kết thúc thanh tra, phải tổ chức theo dõi việc thực hiện các
kiến nghị thanh tra của TCTD được thanh tra một cách chặt chẽ, buộc các
TCTD phải thực hiện nghiêm túc các kiến nghị của thanh tra, bởi vì đây chính
là sự thể hiện hiệu lực của công tác thanh tra.
Như vậy, thanh tra tại chỗ của Thanh tra Ngân hàng Nhà nước đối với
các TCTD, trong công tác quản lý Nhà nước của Ngân hàng Nhà nước, đặc
biệt đối với hoạt động Ngân hàng trong nền kinh tế thị trường.
2. Kinh nghiệm Thanh tra tại chỗ của Ngân hàng một số nước trên
Thế giới.
Tổ chức và hoạt động Thanh tra của Thanh tra Ngân hàng một số nước
trên thế giới.
Qua tham khảo tài liệu thanh tra của Thanh tra Ngân hàng các nước cho
thấy: Tổ chức và hoạt động Thanh tra của Thanh tra Ngân hàng các nước
cũng rất được chú trọng, lực lượng thanh tra đông và được đào tạo chuyên
sâu, giỏi các nghiệp vụ. Khi vào thanh tra đã phải có một thời gian công tác ở
các nghiệp vụ khác của Ngân hàng, có kinh nghiệm trong công việc và giao
tiếp. Về phương pháp thì các nước thường áp dụng cả hai phương pháp: Giám
sát từ xa và thanh tra tại chỗ. Hiện nay, chưa thể đánh giá trong hai phương
pháp thì phương pháp nào quan trọng hơn. Tuy nhiên, tuỳ từng nước, tuỳ từng

điều kiện kinh tế mà mỗi phương thức thanh tra có một địa vị quan trọng nhất
định.
Thanh tra tại chỗ của Thanh tra Ngân hàng một số nước trên thế giới.
Ở Mỹ: hoạt động thanh tra được coi là” hòn đá tảng” của việc giám sát
phòng ngừa, các cuộc thanh tra đều đưa đến việc xếp loại Ngân hàng theo lĩnh
vực chủ yếu: an toàn vốn, chất lượng tài sản, quản lý khả năng thanh toán,
khả năng sinh lời.
Ở Thụy Điển: Các cuộc thanh tra tại chỗ là phương tiện chủ yếu của việc
giám sát các Ngân hàng, các cuộc thanh tra như vậy được Vụ tín dụng và Vụ
kế toán của Uỷ ban Thanh tra Nhà nước chỉ đạo và thanh tra định kỳ thường
được tiến hành ba năm một lần.
Ở Canada: Luật pháp đòi hỏi Tổng thanh tra các Ngân hàng Ýt nhất phải
thực hiện việc kiểm tra hàng năm các vấn đề kinh doanh của mỗi Ngân hàng
để đảm bảo các điều khoản của luật Ngân hàng đang được thực hiện đúng và
mỗi Ngân hàng đều đang có tình trạng tài chính lành mạnh.
Đối với thanh tra Ngân hàng ở nước ta, tuy đang áp dụng cả hai phương
thức thanh tra là: giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ, phương thức thanh tra tại
chỗ đã được thực hiện từ lâu, nhưng do mô hình tổ chức và phương pháp điều
hành còn lúng túng, do đó, hiệu lực và hiệu quả thanh tra còn thấp. Vì vậy,
chúng ta phải xây dựng một mô hình thanh tra Ngân hàng Nhà nước phù hợp
với điều kiện nước ta, nhưng phải bảo đảm tính hiệu quả cao trong công tác
quản lý và đảm bảo trình độ hiện tại để hoà nhập với thông lệ Quốc tế.
Chương 2
Thực trạng tổ chức và hoạt động của Thanh tra Ngân hàng Nhà nước
Việt nam
1. Tổ chức và hoạt động của Thanh tra Ngân hàng Nhà nước trước
khi có pháp lệnh thanh tra, pháp lệnh Ngân hàng.
1.1. Trước năm 1990, khi chưa có pháp lệnh thanh tra, pháp lệnh Ngân
hàng, Ngân hàng hoạt động chủ yếu theo cơ chế bao cấp, Ngân hàng Nhà
nước vừa làm chức năng quản lý Nhà nước vừa là đơn vị kinh doanh hạch

toán toàn ngành. Hệ thống Thanh tra Ngân hàng là tổ chức thanh tra chuyên
trách với mô hình tổ chức là các Ban thanh tra mang tính chất tổ chức hành
chính theo yêu cầu của Thủ trưởng ngành Ngân hàng. Ơ Ngân hàng Nhà nước
Trung ương có Ban Thanh tra Ngân hàng Nhà nước, biên chế từ 20 - 25
người, ở các chi nhánh Ngân hàng Nhà nước tỉnh, thnàh phố cũng có Ban
Thanh tra Ngân hàng với biên chế từ 3 - 5 người. Sau khi có Nghị định
53/HĐBT ngày 26/03/1988 của Hội Đồng Bộ Trưởng về việc thành lập các
Ngân hàng chuyên doanh, cùng với việc mở rộng quyền tự chủ của các xí
nghiệp quốc doanh theo tinh thần Quyết định 217/HĐBT ngày 14/11/1987
của Hội Đồng Bộ Trưởng (Sau là Chính phủ) ban hành các chính sách đổi
mới " Kế hoạch hoá và hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa đối với các xí
nghiệp quốc doanh", do nhận thức không đúng chức năng quản lý của Nhà
nước về kinh doanh tiền tệ, tín dụng và chưa tiếp cận với cơ chế thị trường,
nên cho rằng việc tự chủ trong kinh doanh là các tổ chức kinh tế tự do, tự làm
và tự chịu trách nhiệm là chính, vì thế công tác thanh tra, một khâu rất quan
trọng trong công tác quản lý bị buông lỏng, dẫn đến tổ chức thanh tra Ngân
hàng trong thời kỳ này tiếp tục bị thu hẹp bằng việc sát nhập Ban thanh tra
của các chi nhánh Ngân hàng Nhà nước tỉnh với phòng kế hoạch tổng hợp. Vì
vây, trước khi có pháp lệnh thanh tra, pháp lệnh Ngân hàng, tổ chức Thanh tra
Ngân hàng Nhà nước vốn đã yếu lại bị thu hẹp cả ở Trung ương và các chi
nhánh tỉnh, thành phố nên nó rất nhỏ so với các tổ chức khác trong hệ thống
tổ chức bộ máy của Ngân hàng Nhà nước.
Sau khi chuyển sang hoạt động theo cơ chế thị truờng, với mô hình tổ
chức thanh tra như trên, trong khi các Ngân hàng chuyên doanh vừa tách ra từ
Ngân hàng Nhà nước chuyển sang hoạt động kinh doanh lại đòi hỏi có sự
kiểm soát chặt chẽ hơn, nhưng công tác thanh tra bị buông lỏng, tổ chức thanh
tra bị thu hẹp, phương thức thanh tra đơn điệu, do đó chức năng quản lý của
Ngân hàng Nhà nước bằng công cụ thanh tra đối với hoạt động kinh doanh
của các Ngân hàng chuyên doanh thời kỳ này không thực hiện được, hiệu quả
thanh tra rất thấp.

1.2. Thanh tra Ngân hàng từ khi có Pháp lệnh Thanh tra và Pháp
lệnh Ngân hàng.
1.2.1 Thanh tra Ngân hàng là một công cụ quản lý đắc lực của Ngân
hàn Nhà nước
Pháp lệnh Thanh tra và hai Pháp lệnh Ngân hàng ra đời cùng với việc
ban hành một loạt các văn bản pháp lý, pháp quy khác của Nhà nước đã
khẳng định rõ vị trí, tầm quan trọng của công tác thanh tra trong hoạt động
quản lý Nhà nước đối với toàn bộ hoạt động của nền kinh tế nói chung và
hoạt động kinh doanh tiền tệ, tín dụng, Ngân hàng nói riêng. Nhận thức rõ vấn
đề trên Ngân hàng Nhà nước đã tiến hành củng cố và kiện toàn lại toàn bộ hệ
thống Thanh tra từ Trung ương đến địa phương với việc đổi mới tổ chức
thanh tra, tăng cường đào tạo đội ngũ cán bộ thanh tra hiện có, hình thành hệ
thống Thanh tra Ngân hàng trong toàn quốc ở Trung ương và chi nhánh tỉnh,
thành phố.
Chuyển từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường, các TCTD ngày càng
phát triển đa dạng, phong phú và cũng không kém phần phức tạp, đòi hỏi sự
quản lý của Nhà nước đối với lĩnh vực này ngày càng cấp thiết, phải tổ chức
lại hệ thống Thanh tra Ngân hàng để đảm bảo đủ sức thực hiện giám sát,
thanh tra các TCTD trong phạm vi cả nước. Từ khi có Pháp lệnh Thanh tra và
pháp lệnh Ngân hàng, Thanh tra Ngân hàng Nhà nước đã trở thành công cụ
đắc lực thực hiện chức năng quản lý Nhà nước trong lĩnh vực Ngân hàng thì
tổ chức và hoạt động của Thanh tra Ngân hàng Nhà nước đã có sự thay đổi
căn bản. Để thực hiện các mục tiêu đã đề ra, Thanh tra Ngân hàng Nhà nước
đã sử dụng hai phương thức thanh tra: giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ.
Từ quý III/1993, hoạt động giám sát từ xa được Thanh tra Ngân hàng
Nhà nước thực hiện hàng tháng với việc phân tích các số liệu, đánh giá việc
chấp hành định chế tài chính của các TCTD trên cơ sở số liệu báo cáo của các
TCTD gửi đến Thanh tra Ngân hàng Nhà nước.
Hoạt động thanh tra tại chỗ cũng được tiến hành hàng năm với việc
Thanh tra Ngân hàng Nhà nước thành lập các đoàn thanh tra và tổ chức các

cuộc thanh tra trực tiếp chấp hành luật pháp, các quy định, chế độ và sự lành
mạnh của các TCTD trong quá trình kinh doanh. Trong hơn năm năm qua,
Thanh tra Ngân hàng Nhà nước đã tổ chức trên 600 cuộc thanh tra tại chỗ
diện rông, thanh tra chuyên đề và thanh tra vụ việc theo kế hoạch đã được
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước phê duyệt. Ngoài ra, Thanh tra chi nhánh
Ngân hàng Nhà nước Tỉnh, Thành phố cũng thực hiện được hàng trăm cuộc
thanh tra tại chỗ đối với các TCTD dưới sự chỉ đạo của Giám đốc chi nhánh
Ngân hàng Nhà nướcTỉnh, Thành phố. Sau mỗi cuộc thanh tra đã đánh giá
được những mặt tích cực trong quá trình thực hiện cơ chế mới của các TCTD
đồng thời kiến nghị bổ sung những yếu kém.
Tuy nhiên do những quy chế, quy định đối với các TCTD không phù hợp
như : Quy định vốn điều lệ, quy định về các tỷ lệ khi huy động vốn và cho
vay so với vốn điêù Lử, nên hiệu quả thanh tra chưa cao. Mặt khác mục tiêu
và nội dung thanh tra được xây dựng nhưng chưa cụ thể sâu sắc, quy trình
thanh tra còn đơn giản, chất lượng thanh tra chưa cao nên hiệu lực thanh tra
còn hạn chế. Nhiều TCTD còn vi phạm các quy đinh như: Cho vay một khách
hàng vượt 10% VTC, hoặc dư nợ của 10 khách hàng lớn nhất quá 30% tổng
dư nợ.
1.2.2. Hoạt động thanh tra tại chỗ đối với các TCTD.
Sau khi có Pháp lệnh Thanh tra và các Pháp lệnh Ngân hàng, vai trò của
Thanh tra Ngân hàng Nhà nước đối với hoạt động quản lý của Ngân hàng Nhà
nước đã được xác định rõ nét hơn, tổ chức thanh tra được kiện toàn, củng cố
lại cả về tổ chức và phương thức hoạt động, trong đó có hoạt động thanh tra
tại chỗ đối với các TCTD. Do đó hoạt động thanh tra tại chỗ đã đạt được một
số kết quả nhất định.
* Tổ chức và hoạt động thanh tra tại chỗ :
- Về tổ chức, tại Thanh tra Ngân hàng Trung ương, số lượng phòng thanh
tra được phân công theo dõi, quản lý trực tiếp các TCTD theo khối TCTD từ
hai phòng năm 1991 lên 5 phòng năm 1997, lượng Cán bộ thanh tra cũng
được chia thành các nhóm quản lý các chi nhánh TCTD hoặc TCTD trên địa

bàn.
+ Đối với các TCTD quốc doanh, Thanh tra Ngân hàng Trung ương xây
dựng đề cương thanh tra (toàn diện hoặc theo chuyên đề) và tổ chức chỉ đạo
Thanh tra Ngân hàng Nhà nước các chi nhánh Tỉnh, Thành phố thực hiện. Tại
Thanh tra Ngân hàng Trung ương, các đoàn thanh tra được thành lập và tổ
chức thanh tra tại chỗ hoạt động của các TCTD ở hội sở và trung tâm điều
hành, tại Thanh tra Ngân hàng Nhà nước Tỉnh, Thành phố cũng thành lập các
đoàn thanh tra và tổ chức thanh tra tại chỗ chi nhánh của các TCTD trên địa
bàn. Kết quả thanh tra tại các địa phương được Thanh tra Ngân hàng Nhà
nước chi nhánh Tỉnh, Thành phố đánh giá theo từng TCTD trên địa bàn và
gửi báo cáo về Thanh tra Ngân hàng Trung ương. Thanh tra Ngân hàng Trung
ương tổng hợp kết quả thanh tra của các địa phương với kết quả thanh tra tại
các TCTD ở hội sở và trung tâm điều hành để đánh giá hoạt động của TCTD
trong phạm vi quốc tế.
+ Đối với các TCTD cổ phần Thanh tra Ngân hàng Trung ương xây dựng
kế hoạch thanh tra tổng thể các TCTD cổ phần trong phạm vi cả nước và
thành lập các đoàn thanh tra, tổ chức thanh tra tại chỗ hoạt động một số
TCTD có quy mô lớn; số các tổ chức còn lại được giao cho Thanh tra Ngân
hàng Nhà nước chi nhánh Tỉnh , Thành phố thực hiện đối với các TCTD trên
địa bàn. Kết quả thanh tra được tập hợp đánh giá theo từng TCTD.
+ Đối với khối các Ngân hàng liên doanh, chi nhánh Ngân hàng Nước
Ngoài tại Việt Nam, Thanh tra Ngân hàng Trung ương trực tiếp quản lý, chưa
phân cấp cho các chi nhánh Ngân hàng Nhà nước Tỉnh, Thành phố. Hàng
năm, Thanh tra Ngân hàng Trung ương xây dựng kế hoạch, đề cương thanh
tra và thành lập các đoàn thanh tra tổ chức thanh tra tại chỗ hoạt động của các
đơn vị. Kết quả thanh tra tại chỗ đối với từng TCTD được tổng hợp theo năm
thực hiện.
+ Đối với các Tổ chức Tài chính Phi ngân hàng, Thanh tra Ngân hàng
Trung ương xây dựng đề cương, kế hoạch và cùng thanh tra Ngân hàng Nhà
nước chi nhánh Tỉnh, Thành phố có tổ chức này thực hiện việc thanh tra tại

chỗ đối với các đơn vị.
+ Đối với các Quỹ tín dụng nhân dân, từ khi chuyển tổ chức thanh tra
quỹ tín dụng về Thanh tra Ngân hàng Nhà nước, Thanh tra Ngân hàng Trung
ương xây dựng đề cương kế hoạch thanh tra đối với hệ thống Quỹ tín dụng và
thực hiện trực tiếp đối với Quỹ tín dụng Trung ương và các Quỹ tín dụng khu
vực. Quỹ tín dụng cơ sở được giao cho Thanh tra Ngân hàng Nhà nước chi
nhánh Tỉnh, Thành phố thực hiện và báo cáo kết quả thanh tra về Thanh tra
Ngân hàng Trung ương. Kết quả thanh tra được Thanh tra Ngân hàng Trung
ương tổng hợp đối với toàn bộ hệ thống Quỹ tín dụng.
2. Kết quả Thanh tra tại chỗ.
a. Mặt tốt
Với tổ chức và hoạt động của Thanh tra Ngân hàng Nhà nước nêu trên,
trong các năm kể từ khi có Pháp lệnh về thanh tra và Ngân hàng, Thanh tra
Ngân hàng Nhà nước đã tổ chức hàng trăm đoàn thanh tra theo quyết định của
Chánh Thanh tra Ngân hàng Trung ương và của Giám đốc Ngân hàng Nhà
nước chi nhánh Tỉnh, Thành phố thực hiện hơn 600 cuộc thanh tra tại chỗ các
TCTD theo diện rộng, theo chuyên đề. Sau mỗi cuộc thanh tra các đồ án
thanh tra đã đánh giá những mặt được của các TCTD trong quá trình hoạt
động và thực hiện các quy định của Nhà nước, các quy chế của Ngân hàng
Nhà nước đã ban hành. Đồng thời cũng phát hiện nhiều thiếu sót, tồn tại của
các TCTD trong việc thực hiện cơ chế để điều chỉnh bổ xung và hoàn thiện.
Đối với khối các Ngân hàng liên doanh và chi nhánh Ngân hàng Nước
Ngoài tại Việt Nam, từ khi các ngân hàng được cấp giấy phép đến tháng 06
năm 1997, Thanh tra Ngân hàng Nhà nước đã tổ chức thanh tra tại chỗ 30 lượt
các Ngân hàng. Thanh tra đã phát hiện một số vi phạm của các Ngân hàng và
có hàng trăm kiến nghị với các Ngân hàng phải sửa chữa những vi phạm mà
thanh tra đã phát hiện.
b. Tồn tại và nguyên nhân
Với mô hình tổ chức và kết quả hoạt động thanh tra tại chỗ của Thanh tra
Ngân hàng Nhà nước sau khi có pháp lệnh mà thanh tra đạt được như đã nêu,

hoạt động thanh tra tại chỗ của Thanh tra Ngân hàng Nhà nước vẫn còn tồn
tại. Đó là "Kết quả thanh tra - Kiểm tra còn hạn chế, xử lý chưa nghiêm".
Nguyên nhân của tồn tại này, trước hết do trình độ cán bộ thanh tra còn bất
cập và hạn chế; Nhiều quy định của Nhà nước không được các TCTD chấp
hành nghiêm túc, thanh tra đã có kiến nghị, đơn vị được thanh tra không thực
hiện, không được xử lý kịp thời.
Mặt khác, do luật pháp thiếu đồng bộ chưa có chế tài xử lý vi phạm để
thanh tra thực hiện đối với cá nhân, đơn vị vi phạm; Đối với thanh tra thì chưa
có quy định về tổ chức và hoạt động thanh tra tại chỗ, quy định về chế độ sinh
hoạt của đoàn thanh tra.
3. Kiện toàn, đổi mới tổ chức và đào tạo cán bộ trong hệ thống
Thanh tra Ngân hàng Nhà nước.
3.1. Đổi mới tổ chức.
Mục tiêu của việc đổi mới tổ chức là: Khắc phục tồn tại cũ, đưa bộ máy
Thanh tra Ngân hàng hoà nhập vào tổ chức Thanh tra Ngân hàng Nhà nước
theo Pháp lệnh Thanh tra, tạo ra sức mạnh trong chỉ đạo điều hành theo đặc
điểm của hệ thống Ngân hàng Việt Nam trong giai đoạn đầu chuyển sang cơ
chế thị trường.
Mục đích của việc đổi mới thanh tra là nhằm tạo ra một sức mạnh trong
khâu quản lý, tránh chồng chéo để tạo ra hiệu lực thực sự, thực hiện được
mục tiêu là: Duy trì sự ổn định của hệ thống Ngân hàng Việt Nam. Do đó,
việc đổi mới phải có bước đi phù hợp với hoàn cảnh địa lý và các điều kiện cụ
thể ở Việt Nam theo phương hướng tập trung, thống nhất trong chỉ đạo điều
hành, sao cho tổ chức Thanh tra Ngân hàng là một tổ chức độc lập tương đối,
kể cả ở Trung ương và địa phương, tạo cho tổ chức Thanh tra Ngân hàng và
các thanh tra viên của mình có đủ quyền năng pháp lý để đảm bảo hiệu lực
trong giám sát và kiểm tra các Ngân hàng Thương mại.
Đổi mới tổ chức thanh tra, trước hết là việc xây dựng hệ thống Thanh tra
Ngân hàng từ Trung ương đến các chi nhánh Tỉnh, Thành phố hình thành bộ
máy Thanh tra Ngân hàng thành một tổ chức thanh tra nhằm đảm đương tốt

các nghiệp vụ ngày càng phức tạp là: Giám sát thường xuyên hoạt động của
các TCTD trong toàn quốc, Thanh tra tại chỗ hệ thống các Ngân hàng Thương
mại quốc doanh với hơn 1000 chi nhánh và đơn vị phụ thuộc trong toàn
quốc, các Ngân hàng Thương mại cổ phần với 53 ngân hàng và hàng chục chi
nhánh, các Ngân hàng nước ngoài và Ngân hàng liên doanh tại Việt Nam với
27 đơn vị và một số chi nhánh.
3.2. Tăng cường đào tạo và đào tạo lại cán bộ
Tuy đã có nhiều cố gắng, song trình độ cán bộ ngành Ngân hàng nói
chung và thanh tra Ngân hàng nói riêng còn nhiều bất cập và hạn chế. Vừa
qua cùng với việc ưu tiên đào tạo lại cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý, điều
hành các cấp làm cho guồng máy chuyển động theo tiến trình của đất nước.
Vì vậy, sau khi củng cố lại hệ thống Thanh tra Ngân hàng Nhà nước, công tác
đào tạo và đào tạo lại cán bộ thanh tra đã đặc biệt được chú trọng và tiến hành
theo những bước thích hợp như:
+ Hệ thống lại những nội dung cơ bản của các mặt nghiệp vụ có liên
quan trực tiếp đến công tác thanh tra, kiểm tra như: kế toán, tín dụng, thanh
toán, xét và giải quyết khiếu nại, tố cáo.
+ Đào tạo những kiến thức cơ bản về quản lý Nhà nước, Pháp luật và
nâng cao nghiệp vụ thanh tra cho cán bộ lãnh đạo, cán bộ thanh tra lâu năm
thuộc các tổ chức thanh tra từ Trung ương đến các địa phương.
+ Đào tạo mới về nghiệp vụ thanh tra, ngoại ngữ, nghiệp vụ đối ngoại, sử
dụng máy vi tính. Đây là việc mang tính chiến lược, nhưng cấp thiết nhằm
đáp ứng yêu cầu trong thời kỳ mở cửa tăng cường đối ngoại, tiếp thu sự trợ
giúp về nghiệp vụ Ngân hàng nói riêng của các tổ chức Quốc tế và các nước
trong tiến trình Hiện đại hoá Ngân hàng và hoà nhập với Thế giới.
+ Đào tạo từ thực tiễn công việc theo phương pháp vừa học vừa làm kèm
cặp và giúp đỡ nhau trong đoàn thanh tra.
+ Tiếp nhận sự trợ giúp kỹ thuật của các tổ chức Quốc tế, của các Ngân
hàng các nước trên thế giới như: Xác định các quy chế về thanh tra giám sát;
đào tạo về kỹ thuật và phương pháp thanh tra, kiểm tra các tổ chức tín dụng,

bằng việc cử cố vấn trực tiếp bồi dưỡng hoặc tổ chức các đoàn khảo sát ở
nước ngoài. Trong hơn năm năm qua, nhiều cố vấn của các tổ chức Quốc tế
như: Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới (WB) và Ngân hàng
Trung ương các nước Pháp, Malaysia, tổ chức GTZ của chính phủ Đức đã cử
cố vấn trực tiếp bồi dưỡng kiến thức thanh tra cho các cán bộ thanh tra Ngân
hàng trong toàn quốc. Ngoài ra, Thanh tra Ngân hàng còn tổ chức nhiều đoàn
đi khảo sát và hội thảo về chuyên đề về thanh tra, kiểm tra ở các nước như:
Thái Lan, Pháp, Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc. Đã tổ chức và đào tạo tập
trung cho trên 2000 lượt người và hầu hết cán bộ thanh tra đều đước tham dự
các lớp đào tạo lại theo tính chất hệ thống và một số lớp ngoại ngữ, vi tính
hoặc nghiệp vụ đối ngoại.
Việc quan tâm và công tác đào tạo trong hơn năm năm qua đã thực sự
làm đổi mới công tác thanh tra của Ngân hàng Nhà nước, góp phần nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ của ngành vươn lên đảm nhiệm công việc theo yêu
cầu mới. Tuy nhiên chúng ta vẫn phải tiếp tục đổi mới về tổ chức tăng cường
đào tạo cán bộ để có hệ thống thanh tra Ngân hàng lành mạnh.
Chương 3
Hoàn thiện phương thức thanh tra tại chỗ đối với các định chế tài chính của
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Hiện nay, Thanh tra Ngân hàng Nhà nước đã và đang thực hiện thanh tra
tại chỗ đối với các TCTD và đạt được một số kết quả nhất định. Tuy nhiên,
hiệu quả thanh tra tại chỗ hiện nay còn chức cao. Để hoạt động thanh tra tại
chỗ thực sự phát huy hiệu quả, góp phần thực hiện tốt chức năng quản lý của
Ngân hàng Nhà nước và giúp các TCTD hoạt động đúng Pháp luật, an toàn và
có hiệu quả, chúng ta phải thực hiện các giả pháp hoàn thiện các phương thức
giám sát, thanh tra nói chung và thanh tra tại chỗ nói riêng.
1. Thanh tra tại chỗ là phương thức thanh tra chủ yếu đối với các
TCTD hiện nay ở Việt Nam.
Thực hiện chức năng quản lý Nhà nước, Ngân hàng Nhà nước đã sử
dụng hai phương thức: giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ. Như trên đã phân

tích, mặc dù thanh tra Ngân hàng đã được đổi mới, kiện toàn và tổ chức lại,
nhưng hiệu lực và hiệu quả thanh tra còn thấp. Với hai phương thức thanh tra
như hiện nay, phương thức giám sát thì mới được thực hiện, đang trong quá
trình chỉnh sửa, phương thức thanh tra tại chỗ là phương thức thanh tra truyền
thống và là phương thức thanh tra chủ yếu trong hoạt động Ngân hàng đối với
các TCTD. Mục tiêu của thanh tra tại chỗ được đặt ra là:
1.1. Xác định sự chính xác của các tài liệu kế toán đã gửi đến thanh tra
ngân hàng. Đánh giá sự phù hợp của hệ thống thanh toán, đánh giá tình trạng
tài chính - khả năng chi trả, chất lượng hoạt động, nhằm đảm bảo Ngân hàng
được thanh tra không hoạt động gây phương hại đến lợi Ých của người gửi
tiền.
1.2. Xem xét việc tuân thủ các điều khoản về nghĩa vụ với NSNN, bởi vì
sự vi phạm các vấn đề này có thể dẫn đến hậu quả về tài chính, về pháp luật
của các TCTD.
1.3. Đánh giá, thẩm định năng lực, khả năng quản lý của Ban giám đốc
và nhân viên, sự lành mạnh của Ngân hàng; nghĩa là đủ vốn, luôn đảm bảo
khả năng thanh toán và có lãi để đảm bảo sự lành mạnh về tài chính. Đây là
sự đảm bảo cao nhất cho chính Ngân hàng và người gửi tiền và nó là mối
quan tâm nhất của Thanh tra Ngân hàng Nhà nước.
1.4. Yêu cầu nâng cao chất lượng thanh tra tại chỗ, góp phần hạn chế rủi
ro trong hoạt động của các TCTD.
2. Những nội dung chủ yếu về Thanh tra tại chỗ của Thanh tra Ngân
hàng nhà nước Việt Nam.
2.1. Xác định nội dung và phương pháp thanh tra
2.1.1. Kiểm tra về tổ chức : Kiểm tra tình hình hoạt động của TCTD,
danh sách nhân viên, đặc biệt là việc tổ chức bộ phận kiểm soát nội bộ, nếu
TCTD có bộ phận kiểm soát nội bộ vững mạnh và có sự phối hợp rõ ràng
giữa các bộ phận thì đó là dấu hiệu thể hiện rằng công việc của họ được chỉ
đạo nghiêm túc và an toàn.
2.1.2. Kiểm tra kế toán : Các thanh tra viên phải kiểm tra tính kịp thời,

chính xác của các số liệu trên các chứng từ đến các bảng kê, báo cáo kế toán,
việc mở sổ sách hạch toán chính xác, kịp thời phản ánh các nghiệp vụ kinh tế
phát sinh.
2.1.3. Đánh giá chất lượng tài sản Có và tài sản Nợ : Từ các số liệu kế
toán đã được kiểm tra và các hồ sơ tín dụng, các hợp đồng mua sắm, thuê tài
sản cố định, các thanh tra viên tiến hành phân tích tình hình tài sản Có và tài
sản Nợ của TCTD theo 4 nhóm nghiệp vụ là:
a. Kiểm tra ngân quỹ:
- Tại thời điểm kiểm tra: tiến hành kiểm tra tiền mặt và các chứng từ có
giá (séc, hối phiếu) bằng việc kiểm đếm (bản tệ và ngoại tệ) và các tài sản có
giá khác như kim loại quý. Đồng thời thanh tra viên phải kiểm tra kho tiền để
đánh giá chấp hành quy chế an toàn kho quỹ.
- Kiểm tra quan hệ vay mượn lẫn nhau giữa các TCTD, chó ý phát hiện
những vụ vay mượn mang tính chất đầu cơ, hoặc bù đắp rủi ro mất khả năng
thanh toán.
b. Kiểm tra chất lượng tài sản Có: Thanh tra tại chỗ tiến hành đánh giá
chất lượng tài sản Có thông qua kiểm tra các nghiệp vụ cho vay, cam kết
ngọai bảng, nghiệp vụ chứng khoán, các khoản tài sản có khác, việc chấp
hành quy trình xét duyệt cho vay, đồng thời tiến hành kiểm tra các khoản đầu
tư.
c. Kiểm tra tài sản cố định và vốn của ngân hàng.
-Tài sản cố định: kiểm tra thực tế hiện vật, hiệu quả sử dụng tài sản cố
định, tính chính xác giá mua, khấu hao, hợp đồng xây lắp.
-Nguồn vốn huy động: chính là phần vốn TCTD đã huy động để thực
hiện các nghiệp vụ kinh doanh của mình.
-Vốn của TCTD: phải kiÓm tra về phần vốn thực có, thực còn trong tổng
số vốn tự có của Ngân hàng.
2.1.4. Kiểm tra tình hình kinh doanh ngoại tệ.
Kiểm tra ngoại tệ để hạn chế những rủi ro về tỷ giá trong hoạt động kinh
doanh ngoại hối. Ngoài ra, thanh tra còn kiểm tra kết quả tài chính, tuân thủ

pháp luật , quản lý điều hành của Ban lãnh đạo.
2.2. Nâng cao chất lượng thanh tra tại chỗ đối với các TCTD
2.2.1. Thực hiện chặt chẽ quy trình thanh tra tại chỗ đối với các TCTD
* Chuẩn bị
- Xây dựng đề cương thanh tra cụ thể.
- Ra quyÕt định thanh tra.
- Sưu tầm tài liệu.
- Tổ chức tập huấn cho các thanh tra viên.
- Phân công phân nhiệm cho các đoàn thanh tra viên.
- Dự thảo công văn yêu cầu TCTD được thanh tra bố trí thời gian, địa
điểm làm việc, chuẩn bị tài liệu cần thiết cho đoàn thanh tra.
* Thực hiện cuộc thanh tra.
- Công bố quyết định thanh tra, đề cương thanh tra, yêu cầu TCTD được
thanh tra báo cáo và giao tài liệu, cung cấp thông tin chính xác kịp thời, theo
yêu cầu của đoàn thanh tra.
- Cùng với Tổng giám đốc( giám đốc) TCTAD được thanh tra xây dựng
kế hoạch triển khai cuộc thanh tra.
- Thành viên đoàn thanh tra tiến hành thanh tra theo nội dung đã phân
công.
* Kết thúc cuộc thanh tra.
- Đánh giá khái quát những ưu điểm cơ bản, những cố gắng tích cực của
TCTD được thanh tra về kết quả hoạt động và việc chấp hành luật pháp, chủ
trương chính sách của Nhà nước, Ngân hàng Nhà nước.
- Xác định sai phạm chủ yếu, tìm nguyên nhân để có giải pháp.
- Kiến nghị biện pháp sửa chữa, khắc phục và áp dụng các hình thức xử
lý thích hợp.
- Biên bản thanh tra được thông qua các thành viên trong đoàn trước khi
thông qua Ban lãnh đạo của TCTD và có chữ ký xác nhận của Tổng giám đốc
TCTD được thanh tra.Biên bản gửi cho người ra quyết định thanh tra, Chánh
thanh tra NHNN và TCTD được thanh tra, lưu hồ sơ thanh tra.

* Đảm bảo đối với kết quả thanh tra tại chỗ.
Các TCTD được thanh tra, đoàn thanh tra hoặc thanh tra viên và những
người ra quyết định thanh tra phải thực hiện đầy đủ quyền hạn, nhiệm vụ của
mình theo quy định. Trong trường hợp có điều gì chưa nhất trí thì được quyền
khiếu nại bằng văn bản với cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp
luật.
2.2.2. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ thanh tra.
-Yêu cầu của công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ thanh tra:
Thực trạng đội ngũ cán bộ thanh tra hiện nay đang còn rất nhiều vấn đề
chưa đáp ứng được tiêu chuẩn thanh tra viên và yêu cầu của tình hình đổi
mới. Trình độ được đào tạo của cán bộ thanh tra nói chung là thấp, mới chỉ có
khoảng 30% cán bộ tốt nghiệp đại học ( ở các bộ, ngành: 60-70%; cấp tỉnh:
35%; cấp huyện:20%). Về nghiệp vụ thanh tra chưa được đào tạo một các cơ
bản, còn bất cập với nhiệm vụ được giao. Cán bộ được đào tạo trong các
trường cao cấp chính trị rất hạn chế. Một vấn đề cũng cần phải nghiên cứu là
khi hình thành Tòa án hành chính để giải quyết các khiếu nại quyết định hành
chính thì việc chuẩn bị đội ngũ Thẩm phán toá án hành chính và cán bộ làm
công tác này là một yêu cầu cấp thiết.
* Phương hướng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ thanh tra.
+ Bồi dưỡng kiến thức về chuyên môn, nghiệp vụ, quản lý Nhà nước,
quản lý Kinh tế và kiến thức pháp lý. Đối với cán bộ đã có trình độ Đại học,
một trong những chuyên ngành về kinh tế, xã hội, quản lý Nhà nước thì cần
được bồi dưỡng về kiến thức Pháp luật, chủ yếu là Pháp luật về quản lý hành
chính Nhà nước bằng các hình thức chuyên tu, tại chức, mở các lớp bồi dưỡng
ngắn hạn. Đối với cán bộ đã tốt nghiệp pháp lý thì có kế hoạch bồi dưỡng
kiến thức về quản lý Kinh tế, Xã hội, quản lý Nhà nước.
+ Bồi dưỡng về nghiệp vụ thanh tra: đây là vấn đề đang đòi hỏi bức xúc
hiện nay, với số lượng cán bộ thanh tra khoảng 7000 người trong toàn ngành,
vừa qua trong xắp xếp tổ chức cán bộ, lực lượng mới đựoc bổ xung chiếm tỷ
lệ lớn, do vậy nếu chỉ bồi dưỡng tập trung ở Trường cán bộ thanh tra Nhà

nước thì rất khó khăn. Vì vậy, các Tỉnh cần chủ động mở các lớp nghiệp vụ
thanh tra cho cán bộ ngành thanh tra theo chương trình chung của Thanh tra
Nhà nước.
+ Đào tạo cán bộ thanh tra gắn liền với yêu cầu đào tạo thẩm phán toà án
hành chính.
Kết luận
Chuyển hoạt động Ngân hàng từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường
có sự quản lý của Nhà nước và chính sách mở cửa của Đảng và Nhà nước với
sự có mặt của Ngân hàng liên doanh, chi nhánh Ngân hàng nước ngoài cùng
các NHTM quốc doanh, Ngân hàng cổ phần, các công ty tài chính, các quỹ tín
dụng tạo môi trường cạnh tranh sôi động trong lĩnh vực tài chính - tiền tệ ở
nước ta trong những năm qua. Cùng với sự cạnh tranh sôi động đó, những
thói hư, tật xấu của kinh tế thị trường hàng ngày, hàng giờ xâm nhập vào hoạt
động tài chinh - tiền tệ của ngân hàng, TCTD, phá vỡ sự lành mạnh, ổn định
của các Ngân hàng. Trong khi đó hoạt động tài chính - tiền tệ là khâu trọng
yếu và kinh doanh tiền tệ - tín dụng - Ngân hàng là ngành quản lý và kinh
doanh có tính đặc thù trọng cá hoạt động của nền kinh tế.
Để giữ cho hoạt động của các TCTD ổn định, góp phần thúc đẩy nền
kinh tế phát triển, Ngân hàng Nhà nước với các công cụ được giao và chức
năng quản lý Nhà nước về tài chính - tiền tệ - tín dụng phải thường xuyên
giám sát hoạt động của các TCTD. Mét trong những công cụ quan trọng là
các tổ chức quản lý của Ngân hàng Nhà nước như: Thanh tra Ngân hàng Nhà
nước, vụ Các định chế tài chính, Vụ quản lý ngoại hối.Trong đó Thanh tra
Ngân hàng Nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng với hai phương thức hoạt
động là: Giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ đối với các TCTD. Đối với nước
ta hiện nay, trong điều kiện trình độ và công nghệ đang được đổi mới, phương
thức thanh tra tại chỗ đối với các định chế của Ngân hàng Nhà nước càng đặc
biệt được quan tâm, chú trọng hơn. Nội dung nghiên cứu và đề xuất trong đề
tài này đã thể hiện những vấn đề sau :
- Xác địnH rõ sự cần thiết và mục tiêu của hoạt động thanh tra tại chỗ đối

với các định chế tài chính của Thanh tra Ngân hàng Nhà nước trong nền kinh
tế thị trường, trong đó mục tiêu quan trọng nhất là giữ vững sự ổn định của
nền tài chính - Tiền tệ và đảm bảo quyền lợi của người gửi tiền; Sự tuân thủ
Pháp luật của các TCTD.
- Xác định những nội dung cần kiểm tra để đánh giá chất lượng hoạt
động của các TCTD khi Thanh tra Ngân hàng Nhà nước tiến hành thanh tra
tại chỗ các TCTD đó; Các yêu cầu đối với tổ chức thanh tra và thanh tra viên
khi thực hiện thanh tra tại chỗ.
- Những vấn đề đưa ra nhằm đáp ứng đòi hỏi của hoạt động thanh tra tại
chỗ đối với các định chế tài chính của Ngân hàng Nhà nước trong nền kinh tế
thị trường, trước hết là trách nhiệm của Thanh tra Ngân hàng Nhà nước,
nhưng nó cũng là trách nhiệm của cơ quan Nhà nước có liên quan nhằm tạo ra
sự đồng bộ trong việc xây dựng các văn bản Pháp luật, Pháp quy; Việc đề ra
các chủ trương cơ chế và tổ chức thực hiện cơ chế để thanh tra tại chỗ của
thanh tra Ngân hàng thực sự là một bộ phận của công cụ quản lý trong cơ chế
thị trường.
Nghiên cứu đề tài trong thời gian có hạn nên bài viết chắc chắn không
thể tránh khỏi thiếu sót. Rất mong được sự góp ý của các thầy cô giáo và các
bạn quan tâm đến vấn đề này.
Em xin chân thành cảm ơn cô giáo Nguyễn Thái Hưng, cô Nguyễn
Thanh Nhàn đã trang bị kiến thức và tạo điều kiện để em có thể hoàn thành
bài viết này.
Hà Nội, ngày 01 tháng 10 năm 2003
MỤC LỤC

Trang
Lời mở đầu
1
Chương 1 : Thanh tra tại chỗ của NHNN đối với các định chế
tài chính là một tất yếu khách quan.

2
1. Sự cần thiết của hoạt động thanh tra tại chỗ của NHNN đối
với các định chế tài chính trong nền kinh tế thị trường.
2
1.1 Thanh tra là một công cụ quan trọng trong hoạt động quản lý
của NHNN
2
1.1.1.Thanh tra trong hoạt động quản lý Nhà nước.
2
1.1.2. Thanh tra đối với hoạt động Ngân hàng trong cơ chế
thị trường.
2
1.2. Thanh tra tại chỗ đối với các TCTD.
4
2. Kinh nghiệm Thanh tra tại chỗ của Ngân hàng một số nước
trên Thế giới.
5
Chương 2 : Thực trạng tổ chức và hoạt động của Thanh tra
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
6
1. Tổ chức và hoạt động của Thanh tra Ngân hàng Nhà nước
trước khi có pháp lệnh thanh tra, pháp lệnh Ngân hàng.
6
1.1 6
1.2. Thanh tra Ngân hàng từ khi có Pháp lệnh Thanh tra và Pháp
lệnh Ngân hàng.
7
1.2.1 Thanh tra Ngân hàng là một công cụ quản lý đắc lực
của Ngân hàng Nhà nước
7

1.2.2. Hoạt động thanh tra tại chỗ đối với các TCTD.
8
2. Kết quả Thanh tra tại chỗ.
10
3. Kiện toàn, đổi mới tổ chức và đào tạo cán bộ trong hệ thống
Thanh tra Ngân hàng Nhà nước.
11
3.1. Đổi mới tổ chức.
11
3.2. Tăng cường đào tạo và đào tạo lại cán bộ
11
Chương 3 : Hoàn thiện phương thức thanh tra tại chỗ đối với
các định chế tài chính của Ngân hàng Nhà nước
13
Việt Nam.
2. Những nội dung chủ yếu về Thanh tra tại chỗ của Thanh tra
Ngân hàng nhà nước Việt Nam.
14
2.1. Xác định nội dung và phương pháp thanh tra
14
2.1.1. Kiểm tra về tổ chức
14
2.1.2. Kiểm tra kế toán
14
2.1.3. Đánh giá chất lượng tài sản Có và tài sản Nợ
14
2.1.4. Kiểm tra tình hình kinh doanh ngoại tệ.
15
2.2. Nâng cao chất lượng thanh tra tại chỗ đối với các TCTD
15

2.2.1. Thực hiện chặt chẽ quy trình thanh tra tại chỗ đối với
các TCTD
15
2.2.2. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ thanh tra.
16
Kết luận
17
* Tài liệu tham khảo
1. Tiền tệ ngân hàng và thị trường tài chính - Frederics Mishkin.
2. Ngân hàng trung ương - Học viện Ngân hàng.
3. Nghiệp vụ công tác thanh tra - Cán bộ thanh tra nhà nước.
4. Tạp chí Ngân hàng - Số 12 / 2003.

×