Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

đánh giá về tình hình các loại hàng hoá trên thị trường mở việt nam – thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.29 KB, 20 trang )

Tiểu luận Ngân hàng trung ương
Lời nói đầu
Trong điều kiện một nền kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường,
cần thiết phải có sự quản lý của Nhà nước thông qua hệ thống các công cụ
chính sách vĩ mô, trong đó chính sách tiền tệ (CSTT) được xác định là một
bộ phận của chính sách vĩ mô và được coi là công cụ quan trọng để điều
tiết nền kinh tế. Kể từ khi hai Pháp lệnh ngân hàng được ban hành
(5/1990), cùng với sự hình thành và phát triển của hệ thống ngân hàng hai
cấp, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã bắt tay ngay vào việc xây dựng và
sử dụng một hệ thống các công cụ thích hợp để thực thi chính sách tiền tệ
của mình.
Ra đời như một tất yếu, phù hợp với quá trình cải cách hệ thống
Ngân hàng Việt Nam và đáp ứng nhu cầu hoàn thiện công cụ CSTT trong
giai đoạn mới, trên thực tế, sau hơn hai năm hoạt động, thông qua nghiệp
vụ thị trường mở (NVTTM), NHNN Việt Nam đã có một công cụ để hấp
thụ, cung ứng vốn cho nền kinh tế một cách linh hoạt, nhạy bén hơn. Tuy
nhiên, những hạn chế, bất cập cũng lần lượt xuất hiện như hiệu quả thực tế
chưa cao , sè lượng, chủng loại hàng hoá còn nghèo nàn làm hạn chế sức
hấp dẫn của NVTTM ,đòi hỏi cần có sự giải quyết kịp thời của NHNN,
các Bộ ngành có liên quan để hoàn thiện NVTTM sao cho sự phát triển
của nó đi đúng hướng đã đặt ra, đặc biệt là vấn đề hàng hoá.
Để thị trường mở trở nên đa dạng về hàng hóa, hoạt động ngày càng
hiệu quả và thực sự trở thành một công cụ gián tiếp đắc lực, góp phần đổi
mới, hoàn thiện việc điều hành chính sách tiền tệ, em đã chọn đề tài “Đánh
giá về tình hình các loại hàng hoá trên Thị trường mở Việt Nam – Thực
trạng và giải pháp” để nghiên cứu.
- 1 -
Tiểu luận Ngân hàng trung ương
Nội dung nghiên cứu : Ngoài phấn mở đầu, kết luận, danh mục tài
liệu tham khảo, đề tài bao gồm 3 chương :
Chương I :Tổng quan về nghiệp vụ thị trường mở.


Chương II: Thực trạng hoạt động và hàng hóa trên thị trường
mở ở Việt Nam.
Chương III: Một số kiến nghị và giải pháp cho vấn đề hàng hoá
trong thực hiện nghiệp vụ TTM ở Việt nam
- 2 -
Tiểu luận Ngân hàng trung ương
Chương I
Tổng quan về nghiệp vụ thị trường mở
I. Khái niệm nghiệp vụ thị trường mở
TTM hay còn gọi là thị trường tiền tệ mở rộng hàm ý rằng đây mặc
dù là thị trường cung ứng vốn ngắn hạn bù đắp thiếu hụt tạm thời cho nền
kinh tế nhưng không chỉ dừng lại ở việc giao dịch các chứng khoán nợ
ngắn hạn mà thậm chí còn mua bán cả các giấy tờ có giá dài hạn, trong đó
NVTTM chỉ các giao dịch mua bán này. Thông qua hành vi mua bán,
NHTW có thể tác động trực tiếp đến dự trữ của hệ thống ngân hàng và gián
tiếp các mục tiêu trung gian của chính sách tiền tệ: lãi suất thị trường và
lượng tiền cung ứng thông qua tác động cả về mặt lượng và giá. Bởi vì khi
NHTW bán chứng khoán trên thị trường tức là nó đang hút tiền ra khỏi lưu
thông, ngược lại, khi NHTW tiến hành mua thì lại nhằm bơm tiền vào lưu
thông. Đối tượng giao dịch của NHTW là các chứng khoán của Chính phủ,
của doanh nghiệp hoặc do ngân hàng phát hành bao gồm cả loại ngắn hạn
và dài hạn. Đối tác giao dịch nghiệp vụ thị trường mở chủ yếu là các ngân
hàng, doanh nghiệp hoặc các tổ chức phi tài chính khác.
Tuy nhiên, các giới hạn khác nhau về đối tượng và đối tác giao dịch
của NHTW trong nghiệp vụ thị trường mở quyết định khái niệm cụ thể về
thị trường mở ở từng nước. Theo Điều 9- Luật ngân hàng Nhà Nước Việt
Nam 12/ 1997, “Nghiệp vụ thị trường mở là nghiệp vụ mua bán các giấy tờ
có giá ngắn hạn do NHNN thực hiện trên thị trường tiền tệ nhằm thực hiện
chính sách tiền tệ quốc gia”. Như vậy, thị trường mở ở các nước là khác
nhau về phạm vi, về loại hình công cụ và thời hạn của công cụ giao dịch

trên thị trường.
II. Phân loại nghiệp vụ thị trường mở:
- 3 -
Tiểu luận Ngân hàng trung ương
Người ta phân biệt thành hai loại nghiệp vụ thị trường mở:
-Loại thứ nhất là nghiệp vụ thị trường mở chủ động nhằm để thay
đổi mức dự trữ và cơ số tiền tệ.
- Loại thứ hai là nghiệp vụ thị trường mở thụ động nhằm bù lại
những chuyển động của các nhân tố khác đã ảnh hưởng đến dự trữ và cơ số
tiền tệ, chẳng hạn như sự thay đổi tiền gửi của kho bạc tại NHTƯ.
Việc lựa chọn nghiệp vụ thị trường mở chủ động hay thụ động là tuỳ
thuộc vào NHTW sẽ quyết định thay đổi chỉ tiêu chính sách tiền tệ hay chỉ
duy trì nã trong từng thời kì nhất định .
III. Các phương thức giao dịch trong nghiệp vụ thị trường
mở:
Tuỳ thuộc vào tình hình dự trữ của các ngân hàng mà NHTƯ thực
hiện một trong hai cách chư sau:
* Các giao dịch không hoàn lại (mua bán đứt đoạn):
Là các nghiệp vô mua bán chứng khoán của NHTƯ theo phương
thức mua đứt, bán đoạn trên cơ sở giá thị trường. Đối tượng giao dịch là
các chứng khoán được chuyển hẳn quyền sở hữu. Do đó, ảnh hưởng của nó
đối với dự trữ của các ngân hàng là dài hạn.
Ưu thế nổi bật của phương thức giao dịch này là: để thay đổi chỉ tiêu
của chính sách tiền tệ, mua đứt bán đoạn cho tác dụng rõ ràng và mạnh mẽ.
Tuy nhiên, việc mua bán hẳn làm cho tính linh hoạt của NHTƯ trong việc
điều tiết lượng tiền cung ứng có nhieèu khả năng bị suy giảm mà nhất là
giai đoạn đầu khi mà thị trường mới chỉ hoạt động mang tính cầm chừng
thì việc mua bán hẳn quả là rất nguy hiểm (mua mà không bán ra được). Vì
vậy, NHTƯ sẽ thực hiện giao dịch mua bán hẳn khi dự báo về các nhân tố
ảnh hưởng đến dự trữ cho thấy cần điều chỉnh trong mức cung về dự trữ

hoặc các nhân tố ảnh hưởng đến cung dự trữ là tương đối dài hạn.
- 4 -
Tiểu luận Ngân hàng trung ương
* Các giao dịch có hoàn lại (giao dịch có kì hạn):
Phương thức giao dịch này chủ yếu được sử dụng cho mục đích giao
dịch tạm thời các hợp đồng mua lại (Repos). Hợp đồng mua lại là việc
NHTƯ mua chứng khoán trên thị trường từ đối tác- người cam kết sẽ mua
lại chứng khoán đó vào một ngày xác định trong tương lai.
Hợp đồng mua lại đảo ngược được áp dụng khi NHTƯ muốn rút bớt
dự trữ từ hệ thống ngân hàng; khi đó NHTƯ bán chứng khoán cho đối tác
và người này cam kết sẽ bán lại vào một ngày xác định trong tương lai.
Thông thường, giao dịch có hoàn lại được sử dụng trong thời gian rất
ngắn, thường là qua đêm. Thời hạn hợp đồng mua lại cũng có khi dài hơn 1
ngày, được gọi là Repos có thời hạn. Cũng có loại Repos mà thời hạn
không được xác định trước, hai bên sẽ thoả thuận lại vào mỗi ngày, đó là
Repos mở. Thực chất, Repos là giao dịch có kì hạn được đảm bảo bằng
giấy tờ có giá làm vật thế chấp tuỳ thuộc vào mục đÝch điều hành chính
sách tiền tệ của NHTƯ. Hiện nay trên thế giới ,trong nghiệp vụ thị trường
mở, các giao dịch có hoàn lại được sử dụng chủ yếu và phổ biến hơn so với
giao dịch mua bán hẳn.
IV. Đối tác của NHTW trong nghiệp vụ TTM
Trong nghiệp vụ TTM, NHTW là người chủ động lựa chọn người
tham gia trên thị trường. Các đối tác này phải thoả mãn hai điều kiện cơ
bản: Có tình hình tài chính lành mạnh và việc giao dịch với các đối tác đó
mang lại hiệu quả tích cực đối với NHTW trong việc điều hành CSTT. Căn
cứ vào hai điều kiện đó, mức độ quan trọng của các đối tác được xếp theo
trật tự là :
1. Các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác (thường
xuyên nhất)
2. Các tổ chức tài chính phi ngân hàng.

3. Các khách hàng lớn.
V. Hàng hoá sử dụng trong nghiệp vụ TTM
- 5 -
Tiểu luận Ngân hàng trung ương
Hàng hoá trong NVTTM là các giấy tờ có giá thoả mãn những điều
kiện tác động mà các NHTW đưa ra trong từng thời kì. Các giấy tờ có giá
có thể ngắn hạn, trung hoặc dài hạn. Việc lựa chọn thời hạn của giấy tờ có
giá trước hết phụ thuộc vào khả năng kiểm soát của NHTW, tính thanh
khoản và cuối cùng là cơ chế đảm bảo an toàn cho các bên tham gia. Nói
chung, các giấy tờ có giá được sử dụng phổ biến trong NVTTM được phản
ánh ở bảng dưới đây:
Chứng khoán Tên(Mức độ
rủi ro tăng dần)
Mét số đặc điểm cơ bản
Chứng
Khoán
Nợ
ngắn
hạn
1. Tín phiếu
kho bạc

2. Tín phiếu
NHTW

3. Chứng chỉ
tiền gửi

4.Thương
phiếu

Là giấy nhận nợ ngắn hạn của chính phủ
do KBNN phát hành nhằm bù đắp thiếu
hụt tạm thời của ngân sách, tính lỏng rất
cao, hầu như không xảy ra tình trạng vỡ
nợ, có thời hạn từ 15 ngày đến 1năm. Tín
phiếu KB chủ yếu do các NH nám giữ, là
công cụ có tần xuất xuất hiện cao nhất
trên TTM

Chỉ được phát hành ở một số nước đang
phát triển vào từng thời kì nhất định,
thường vào thời kì ngân hàng trung gian
đang dư thừa vốn khả dụng. Khi những
hoạt động này không thúc đẩy các giao
dịch trên thị trường thứ cấp thì NHTW
dừng phát hành loại tín phiếu này.

Là công cụ vay nợ do NHTM bán cho
người gửi tiền với lãi suất được quy định
trước cho từng thời hạnn nhất định ,được
thanh toán lãi hàng năm trên cơ sở 360
ngày /năm.So với các công cụ khác, CD
thường có mệnh giá lớn nhằm tạo nguồn
bổ sung đáp ứng nhu cầu vay của khách
hàng và đối phó với việc rút tiền mặt.Khả
năng chuyển đổi của CD lớn nên nó được
sử dụng rộng rãi ở nhiều nước trên thế
giới.

Do các công ty lớn phát hành, ngoài nghĩa

là một phương tiện thanh toán còn là một
- 6 -
Tiểu luận Ngân hàng trung ương

5. Các chấp
nhận của
Ngân hàng
công cụ tín dụng khi mang đến chiÕt khấu
tại NHTM để thu vốn về cho người sở
hữu trước kì hạn thanh toán.Vì thương
phiếu là tài sản có đối với người sở hữu
nên việc mua bán thương phiếu sẽ thực sự
ảnh hưởng mạnh đến dự trữ của ngân
hảng hay tiền gửi của khách hàng tại
NHTM.

Là hối phiếu do các xí nghiệp kí phát ,ghi
rõ việc thanh toán sẽ được thực hiện vào
một ngày nhất định rong tương lai. Để
đảm bảo cho cam kết này, NH đón dấu đã
chấp nhận lên hối phiếu. Do tính chất đảm
bảo thanh toán cao nên về cơ bản, các hối
phiếu Ýt có rủi ro. Việc mua bán thương
phiếu được thực hiện bằng cách chiết
khấu một tỉ lệ nhất định trên mệnh giá hối
phiếu.
Chứng
khoán
nợ
dài

hạn
6.Trái phiếu
chính phủ

7. Trái phiếu
chính quyÒn
địa phương

Thường có thời hạn từ 1 năm trở lên, lãi
suất cố định và cao hơn lãi suất chiết khấu
của tiền kho bạc.Qua quá trình mua bán
trên thị trường ,nếu có sự chênh lệch giá
thì lợi tức thực sự của trái phiếu có thể
tăng lên.Mục đích của việc phát hành trái
phiếu chính phủ là để bù đắp thiếu hụt
ngân sách, đồng thời phục vụ cho các
chương trình đầu tư dài hạn mang tính
chiến lược.Người nắm giữ chủ yếu của
loại hàng hoá này là NHTW,NHTM,hộ
gia đình, người nước ngoài

Chính quyền địa phương được pháp luật
cho phép phát hành chứng khoán nợ để
huy động tiền cho các mục tiêu kiến thiết
và phát triển địa phương. Đặc điểm nổi
bật của loại trái phiếu này là tiền thanh
toán lãi của chúng không phải đóng thuế
thu nhập.
- 7 -
Tiểu luận Ngân hàng trung ương

Đương nhiên, số lượng, chủng loại hàng hoá được sử dụng trong
nghiệp vụ TTM sẽ khác nhau đối với từng nước. Khi mức độ mở của của
thị trường càng cao, đặc biệt khi áp dụng các kĩ thuật giao dịch hiện đại thì
yêu cầu đối với tính lỏng của hàng hoá được giảm bớt mà vẫn không ảnh
hưởng đến kết quả điều tiết CSTT. Chính vì hàng hoá là điều kiện cần thiết
để bất cứ một thị trường nào đi vào hoạt động, trong đó TTM không phải là
một ngoại lệ, tuy nhiên việc mở rộng và sử dụng chúng hiện còn gặp rất
nhiều bất cập nên kể từ đây, tiểu luận sẽ chủ yếu đi vào giải quyết những
vấn đề còn tồn tại xung quanh hàng hóa của NVTTM. Đương nhiên, hàng
hoá chỉ là một trong số nhiều vướng mắc, cho nên để việc vận dụng
NVTTM có hiệu quả trong điều hành CSTT còn rất cần thiết phải thiết lập
một hệ thống kênh dẫn truyền linh hoạt, tự do hoá tài chính và nâng cao
năng lực điều hành của NHTW.Đảm bảo được những điều kiện đó thì
CSTT càng phát huy hiệu quả,đạt được các mục tiêu đặt ra của CSTT.
- 8 -
Tiểu luận Ngân hàng trung ương
Chương II
thực trạng về hàng hoá
trong nghiệp vụ thị trường mở ở Việt nam
I. Thực trạng hoạt động NVTTM
Ngày 11 tháng 7 năm 2000, NHNNVN chính thức khai trương hoạt
động TTM, đưa công cụ NVTTM trở thành một trong những công cụ điều
hànhCSTT của NHNNVN. Đây là kết quả bước đầu của cả một quá trình
nỗ lực chuẩn bị nhằm góp phần đổi mới nhằm điều hành CSTT, chuyển đổi
cơ chế điều tiết từ các công cụ trực tiếp sang các công cụ gián tiếp.
Tính đến nay ở nước ta đã có 22 tổ chức tín dụng được cấp giấy
chứng nhận là thành viên nghiệp vụ thị trường mở, tăng thêm 4 thành viên
so với khi mới khai trương hoạt động; trong đó có 4 Ngân hàng thương mại
nhà nước, 10 Ngân hàng thương mại cổ phần, 1 ngân hàng liên doanh, 5 chi
nhánh ngân hàng nước ngoài, 1 công ty tài chính và Quỹ tín dụng Trung

ương.
Quy mô và doanh số hoạt động của thị trường mở ngày càng tăng thể
hiện sự phát triển ổn định và bền vững của nghiệp vụ mới này.
Trong năm 2002, bằng các tiếp tục duy trì 2 phương thức giao dịch
là mua có kỳ hạn và bán hẳn, Ngân hàng nhà nước đã tổ chức được 85
phiên thị trường mở, với tổng khối lượng giao dịch 9245,53 tỷ đồng, bằng
23,48 % so với năm 2001. Thông qua đó Ngân hàng nhà nước Việt nam
cung ứng thêm vốn cho nền kinh tế hay rút bớt tiền từ lưu thông về, tạo
điều kiện cho các Ngân hàng thương mại tham gia có hiệu qủa thị trường
đấu thầu tín phiếu kho bạc. Cụ thể: thông qua 57 phiên giao dịch theo
phương thức mua có kỳ hạn, Ngân hàng nhà nước Việt nam đã cung ứng
7245,53 tỷ đồng vốn cho các Ngân hàng thương mại. Thông qua 28 phiên
- 9 -
Tiểu luận Ngân hàng trung ương
giao dịch theo phương thức bán hẳn, Ngân hàng nhà nước đã thu hút về
1900 tỷ đồng vốn. Lãi suất trúng thầu trên thị trường mở bình quân khi
mua vào là 4,9 % /năm và lãi suất trúng thầu bán ra là 4,7 %/năm. Tạo điều
kiện giảm lãi suất cho vay của các Ngân hàng thương mại đối với các
doanh nghiệp và khách hàng.
Đến ngày 16/12/2003, NHNN đã thực hiện được 102 phiên giao dịch
NVTTM, với tổng khối lượng trúng thầu ước tính là 16.740 tỷ đồng, trong
đó khối lương giấy tờ có giá NHNN mua hẳn ước tính là 9.500 tỷ đồng,
bán hẳn là 7.240 tỷ đồng
Chỉ tiêu
6 tháng
cuối năm
2000
Năm 2001 Năm 2002
102 phiên
2003 (đến

16/12/2003)
Tổng
cộng
1. Doanh số
hoạt động
1.903,5 3.933,8 9.145,53 16.740 31.722,83
- NHNN mua
1.353,5 3.313,8 7.245,53 9.500 21.412,83
- NHNN bán
550 620 1.900 7.240 10.310
2. Số phiên
giao dịch
17 48 85 102 252
II. Hàng hoá giao dịch trong NVTTM
Theo luật NHNN Việt Nam, các loại giấy tờ có giá được giao dịch
thông qua TTM là :
1. Tín phiếu kho bạc
2. Tín phiếu NHNN
3. Các loại giấy tờ có giá ngắn hạn khác do Thống đốc NHNN qui
định cụ thể trong từng thời kì.
- 10 -
Tiểu luận Ngân hàng trung ương
Điều 12 trong Qui chế NVTTM ban hành kèm theo quyết định số
85/2000/QĐ-NHNN 14 ngày 9/3/2000 của thống đốc NHNN qui định cụ
thể điều kiện giao dịch thông qua TTM của giấy tờ có giá là :
1. Có thể giao dịch được
2. Được phát hành bằng đồng Việt nam
3. Đăng kí tại NHNN theo qui định về việc đăng kí giấy tờ có giá ngắn
hạn của NHNN Việt nam.
4. Giấy tờ có giá được mua bán hẳn phải có thời hạn còn lại tối đa là 90

ngày
Về nguyên tắc, mọi tài sản có thể mua bán trong nghiệp vụ này vì
chúng đều là những tài sản thế chấp với điều kiện có độ an toàn cao, khả
năng thanh khoản tốt ,đảm bảo quản lí dễ dàng, đáp ứng yêu cầu điều hành
nghiệp vụ nhanh nhạy, chính xác. Hơn nữa, đối với phương thức giao dịch
có kì hạn, độ tin cậy của các đối tác cũng hết sức quan trọng để đảm bảo
thực hiện tốt các cam kết ghi trong HĐ mua bán lại.
Mặc dù theo qui định trong luật và trong qui chế NVTTM trong từng
thời kì cụ thể thì các loại giấy tờ có giá được sử dụng trong nghiệp vụ TTM
ở nước ta có thể tăng thêm ngoài tín phiếu kho bạc và tín phiếu NHNN
nhưng nhìn chung vẫn là các giấy tờ có giá ngắn hạn.
Trên thực tế, thời gian qua, khi mà NVTTM đang ở giai đoạn khởi
đầu và nền kinh tế còn tiềm Èn nhiều rủi ro thì hàng hoá trên TTM chỉ bao
gồm tín phiếu NHNN và tín phiếu kho bạc, trong đó tín phiếu kho bạc luôn
là hàng hoá giao dịch chủ yếu. LÝ do khiến tín phiếu kho bạc chiếm được
ưu thế như vậy là vì nó có tỉ lệ rủi ro thấp nhất, gần như bằng 0. Việc thiếu
vắng các giấy tờ có giá ngắn hạn khác như thương phiếu, chứng chỉ tiền
gửi của các doanh nghiệp và các Ngân hàng cũng là một nhân tố khiến thị
trường kém sôi động.
- 11 -
Tiểu luận Ngân hàng trung ương
Như vậy, thực trạng về hàng hoá trên TTM trong thời gian qua là
vấn đề rất đáng quan tâm. Xung quanh nó có nhiều ý kiến đề nghị sửa đổi
qui định giấy tờ có giá giao dịch trên TTM là giấy tờ có giá nói chung chứ
không bó hẹp là các chứng khoán ngắn hạn đã trình bày ở trên. Việc mở
rộng phạm vi giấy tờ có giá do đó chỉ là vấn đề thời gian cùng với việc tăng
cường chất lượng của các chứng khoán trên thị trường.
Tóm lại, TTM được NHNN chính thức khai trương và đưa vào hoạt
động đã được một năm. Nhìn chung thời gian qua, NVTTM đã đi vào
hoạt động ổn định, đạt được mục tiêu đề ra của việc sử dụng một công cụ

gián tiếp trong điều hành CSTT theo thông lệ quốc tế : Các giao dịch trên
TTM đã có tác động nhất định tới vốn khả dụng của TCTD và đã góp phần
thực hiện mục tiêu của CSTT, thúc đẩy chu chuyển vốn trong nền kinh tế,
có tác động nhất định đến TTCK. Các qui định về hoạt động TTM ban
hành thời gian qua là phù hợp với các TCTD, với điều kiện hiện nay và sát
gần với thông lệ quốc tế. Tuy vậy, hoạt động của NVTTM đã bộc lộ một số
tồn tại, hạn chế xét cả về mặt khách quan và chủ quan. Đó là :
Về mặt khách quan : Hàng hoá trên TTM Ýt về số lượng, chủng loại
và thời hạn, thành viên tham gia Ýt, chưa sôi động, nếu không muốn nói là
buồn tẻ. Bên cạnh đó, các thị trường khác của ngành Ngân hàng như : thị
trường liên ngân hàng, thị trường mua bán lại tÝn phiếu giữa các TCTD
với khách hàng chưa phát triển, thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc hoạt
động chưa ổn định, chưa thu hút đông đảo TCTD nên cũng ảnh hưởng đến
hoạt động của TTM.
Về mặt chủ quan : Có thể nói, do NVTTM là rất mới ở Việt nam
nên có một sè TCTD chưa hiểu biết thực sự về thị trường này. Thành viên
tham gia trong mỗi phiên Ýt khiến cho tác động của NVTTM tới vốn khả
dụng của các TCTD là chưa đáng kể
- 12 -
Tiểu luận Ngân hàng trung ương
Đó là những vấn đề cần được xem xét, phân tích kĩ hơn để tìm ra
nguyên nhân và giải pháp hữu hiệu cho NVTTM ở Việt nam trong thời
gian tới.
III. Những tồn tại của vấn đề hàng hoá - Nguyên nhân xuất phát
Hoạt động nghiệp vụ thị trường mở qua hơn hai năm hoạt động đã
đạt được một số kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên, qua phân tích thực trạng
trên cho thấy việc thực hiện nghiệp vụ thị trường mở vẫn còn có nhiều khó
khăn và hạn chế nhất định. Sở dĩ như vậy là vì tại Việt Nam, những điều
kiện để nghiệp vụ thị trường mở phát huy hiệu quả chưa được thoả mãn.
Mét trong những tồn tại tạo ra sự đơn điệu của nghiệp vụ thị trường

mở vừa qua là sự khan hiếm hàng hoá bởi
-Thứ nhất : Theo quy định hiện nay, chỉ những giấy tờ có giá như
trái phiếu ngân hàng nhà nước, tín phiếu kho bạc, chứng chỉ tiền gửi và các
loại giấy tờ có giá ngắn hạn khác được giao dịch ở thị trường. Quy định
này ngay từ đầu đã làm giảm khả năng và phạm vi mua bán của các loại
giấy tờ có giá khác hiện có ở Việt Nam như trái phiếu trung và dài hạn
trong NVTTM khi mà thời gian dài hạn của chúng còn dưới một năm.
Trong khi đó, về mặt lý thuyết, thời hạn của giấy tờ có giá sẽ không mâu
thuẫn với yêu cầu nhanh nhậy của chính sách tiền tệ vì đã có phương thức
giao dịch HĐML trên nghiệp vụ thị trường mở xử lý một cách thích hợp.
Như vậy, đó là một nguyên nhân kìm hãm sự phát triển về số lượng hàng
hoá trên nghiệp vụ thị trường mở.
- Thứ hai, Loại hàng hoá cần cho Nghiệp vụ thị trường mở là
thương phiếu thì cho tới nay chưa phổ biến do ngân phiếu thanh toán vẫn
được phát hành và lưu thông.
- 13 -
Tiểu luận Ngân hàng trung ương
Mặt khác chúng ta chỉ mới có hàng hoá mua bán ở thị trường sơ
cấp, còn thị trường thứ cấp mới chỉ được hình thành và manh nha hoạt
động. Hàng hoá chủ yếu trên Nghiệp vụ thị trường mở là tín phiếu kho bạc,
nhưng không được phát hành và lại chưa thường xuyên. Việc sử dụng tín
phiếu kho bạc trên thị trường thứ cấp chưa linh hoạt, các tổ chức tín dụng
thường sử dụng các tín phiếu này như một công cụ đầu tư hơn là một công
cụ của thị trường tiền tệ.
Hơn nữa, việc phối hợp giữa Bộ Tài Chính và Ngân hàng Nhà nước
còn một số vấn đề bất cập: Bộ Tài Chính vẫn còn phát hành tín phiếu, trái
phiếu trực tiếp cho công chúng; Ngân hàng Nhà nước chưa có trong tay
một lượng lớn chứng khoán đủ để có thể can thiệp, mua bán tại thị trường
mở. Các loại giấy tờ có giá trị khác như tín phiếu Ngân hàng Nhà nước,
chứng chỉ tiền gửi cũng chưa được phát hành rộng khắp.

-Thứ ba: Các chi nhánh Ngân hàng nước ngoài thường không dồi
dào nguồn tiền đồng Việt Nam để tham gia mua tín phiếu trên thị trường sơ
cấp, từ đó không có hàng hoá để tham gia thị trường mở.
Việc sử dụng tín phiếu kho bạc trên thị trường thứ cấp chưa linh
hoạt, các TCTD thường mua các tín phiếu này như là một công cụ đầu tư
hơn là một công cụ của tiền tệ để điều tiết vốn khả dụng. Thực tế, các
TCTD chúng thầu thường giữ tín phiếu cho đến khi thanh toán, chỉ có một
phần nhỏ được các ngân hàng dùng làm tài sản thế chấp cho vay vốn lẫn
nhau hoặc vay của ngân hàng nhà nước, mua bán trên thị trường thứ cấp từ
tháng 7 năm 2000 một bộ phận nhỏ tín phiếu kho bạc đã được sử dụng trên
thị trường mở.
-Thứ tư: Các loại giấy tờ có giá ngắn hạn khác hiện có trên thị
trường chưa được tiêu chuẩn hoá, chưa đáp ứng được đòi hỏi về chất
lượng. Chính vì thế mà công cụ của Nghiệp vụ thị trường mở hiện nay chỉ
- 14 -
Tiểu luận Ngân hàng trung ương
bao gồm tín phiếu ngân hàng nhà nưóc và tín phiếu kho bạc - rất hạn hẹp
về cả chủng loại, thời hạn và số lượng. Rõ ràng là điều này đã làm cho
Nghiệp vụ thị trường mở không thể hiện đúng bản chất vốn có của nó.
-Thứ năm : Nếu như ở NVTTM tại các nước phát triển (Mĩ, NHTW
Châu Âu ), viẹc xây dựng các biện pháp, chính sách, chế tài chống đỡ rủi
ro cho hàng hóa (tài sản làm đảm bảo ) được coi là vấn đề đáng quan tâm
hàng đầu (quy định tỉ lệ haircut, các biện pháp kí quĩ, các tiêu chuẩn tối
thiểu của tài sản làm đảm bảo ) thì hiện nay ở Việt Nam, các quy định này
hầu như bị bỏ ngỏ và chưa được quan tâm đúng mức. Chính vì vậy, đến
nay chóng ta chưa có biện pháp nào để hạn chế rủi ro cho HĐML và làm
yên lòng các nhà đàu tư .Tất nhiên, trong hiện tại, do mức độ biến động của
giá trên thị trường chưa cao, ta chưa thấy rõ những nguy hiểm xảy ra khi
thiếu các biện pháp bảo vệ cho tài sản. Song, trong thời gian tới, khi có sự
biến đổi bất thường trên thị trường, nếu chúng ta chưa chuẩn bị kĩ càng các

biện pháp này, chắc hẳn sẽ gặp nhiều rủi ro khó tránh .
- 15 -
Tiểu luận Ngân hàng trung ương
Chương III
Một sè kiÕn nghị và giảI pháp
I. Giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả việc sử dụng
hàng hoá trong nghiệp vụ thị trường mở Việt Nam.
Như chóng ta đã biết, Chính phủ Việt Nam đang theo đuổi một chính
sách phát triển kinh tế với tốc độ tăng trưởng ổn định. Do đó, chính sách
tiền tệ nới lỏng đang được áp dụng. Công cụ chính sách tiền tệ được lựa
chọn chủ yếu sẽ là nghiệp vị thị trường mở do tính chất linh hoạt và chủ
động của nó. Do đó để đẩy mạnh và hoàn thiện nghiệp vụ này, tạo điều
kiện cho thị trường hoạt động ổn định, sôi động để từng bước đưa nghiệp
vụ thị trường mở trở thành công cụ chủ yếu linh hoạt và hiệu quả trong
chính sách thị trường và mang lại lợi Ých cho các tổ chức tín dụng, trong
thời gian tới cần phải thực hiện một số giải pháp như tăng nhanh chủng loại
hàng hoá giao dịch, mở rộng phạm vi đối tác, nâng cao chất lượng dự báo
vốn khả dụng, hoàn thiện thị trường tiền tệ LNH ,trong đó để tăng nhanh
chủng loại hàng hoá giao dịch cần :
- Một là: Đưa vào sử dụng những giấy tờ có giá chất lượng tốt đã
được lưu hành như : Thương phiếu, chứng chỉ tiền gửi, kì phiếu Ngân hàng
.Kinh nghiệm cho thấy đây là những hàng hoá được mua bán rất phổ biến
trong NVTTM ở các nước phát triển .
-Hai là : Mở rộng hơn điều kiện để giấy tờ có giá được tham gia
giao dịch NVTTM, chẳng hạn quy định về thời hạn của chứng khoán cần
bao gồm loại trung dài hạn bên cạnh những giấy tờ ngắn hạn như trước
đây.
Điều này thể hiện ở các lÝ do sau :
- 16 -
Tiểu luận Ngân hàng trung ương

Thứ nhất : Hành vi mua vào và bán ra các loại giấy tờ có giá là hoạt
động diễn ra thường xuyên trên TTM. Chính hành vi mua bán thường
xuyên chứng khoán sẽ tạo ra khả năng nối kết nhiều nguồn vốn ngắn hạn
thành nguồn vốn trung dài hạn để thoả mãn nhu cầu của các chủ thể kinh tế
trên Thị trường vốn.
Thứ hai : Trong NVTTM, không chỉ có phương thức mua bán hẳn
mà còn có phương thức giao dịch có kì hạn.Chính phương thức này có thể
giúp NHTW chủ động về thời hạn và không bị lệ thuộc vào thời hạn của
chứng khoán.
-Ba là: Tạo điều kiện cho các loại hàng hoá mới ra đời bằng việc ban
hành khung luật pháp về việc phát hành và lưu thông giấy tờ có giá .
II. Một số kiến nghị
1. Về phía Cơ quan lập pháp (quốc hội)
Nên chăng, trong thời gian tới, Quốc hội thông qua và sửa đổi một số
điều (điều 9, điều 21 ) trong luật NH theo đề nghị của NHNN để nới lỏng
điều kiện cho hàng hoá giao dịch .
2. Về phía NHNN :
- Nghiên cứu để mở rộng thêm nhiều loại hàng hoá có thể giao dịch
cho nghiệp vụ thị trường mở. Ngân hàng Nhà nước nên đề nghị Chính phủ
trình quốc hội sửa luật ngân hàng Nhà nước (Điều 9, Điều 4 và Điều 21) để
ngân hàng Nhà nước có thể thực hiện nghiệp vụ thị trường mở với các giấy
tờ có giá nói chung, chứ không phải chỉ là các giấy tờ có giá ngắn hạn như
đã quy định. Ngoài giấy tờ có giá ngắn hạn được phép lưu hành trên thị
trường mở, ngân hàng Nhà nước nên sử dụng cả các loại chứng khoán dài
hạn có thời hạn còn lại dưới một năm và có tính thanh quản cao như các
loại chứng khoán Chính phủ khác. Như vậy công cụ lưu hành trên thị
trường mở sẽ đa dạng hơn và cũng phù hợp với quy định của các nước
- 17 -
Tiểu luận Ngân hàng trung ương
khác. Trên thực tế, lượng trái phiếu kho bạc có thời hạn một năm hiện nay

khá lớn, nếu được sử dụng làm hàng hoá cho thị trường mở thì sẽ góp phần
giải quyết khó khăn về thiếu hàng hoá hiện nay.
- Để tạo điều kiện cho vấn đề chuyển nhượng mua bán các chứng từ
có giá hình thành các giao dịch hợp pháp trên thị trường mở ngân hàng Nhà
nước cần sớm ban hành khung luật pháp về việc phát hành và lưu thông các
chứng từ có giá. Nghiên cứu khả năng sử dụng các chứng khoán do các tổ
chức tín dụng Nhà nước phát hành (như trái phiếu ngân hàng và phát triển
Việt Nam). Làm công cụ cho nghiệp vụ thị trường mở, đồng thời làm lưu
động hoà được các khoản tiền gửi tiết kiệm.
3. Về phía Bộ tài chính, KBNN:
Bộ tài chính, Kho bạc Nhà nước cần phối hợp ngân hàng Nhà nước
nghiên cứu để củng cố và phát triển thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc
làm cơ sở cung cấp nguồn hàng hoá chủ yếu cho thị trường mở. Trước mắt,
đề nghị Bộ tài chính hạn chế dần việc phát hành trái phiếu bán lẻ ra công
chúng, tập trung vào việc phát hành qua các hình thức đấu thầu trong đó có
đấu thầu qua ngân hàng Nhà nước để tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng
nắm giữ thêm lượng hàng hoá có thể giao dịch nghiệp vụ thị trường mở.
- Đặc biệt, phát hành các loại tín phiếu kho bạc Nhà nước với thời
hạn ngắn hơn 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng để tạo điều kiện cho hoạt động
nghiệp vụ thị trường mở sôi động hơn.
Đồng thời, nghiên cứu để có cơ chế sao cho ngân hàng Nhà nước có
thể nắm giữ trái phiếu Chính phủ, tín phiếu kho bạc Nhà nước (mua sơ cấp
hoặc mua hẳn trên thị trường thứ cấp), từ đó có công cụ chủ động điều
hành thị trường tiền tệ.
- 18 -
Tiểu luận Ngân hàng trung ương
Kết luận
Có thể nói, nghiệp vụ thị trường mở là công cụ chủ yếu trong điều
hành chính sách tiền tệ, tác động điều chỉnh vốn khả dụng của hệ thống
ngân hàng một cách linh hoạt, chủ động và hiệu quả hơn, thông qua đó, tác

động đến lượng tiền cung ứng và lãi suất thị trường.
Ở Việt Nam, qua 1 năm đi vào hoạt động, Nghiệp vụ thị trường mở
đã Ýt nhiều đã phát huy được tác dụng trong việc điều hành chính sách tiền
tệ. Trên cơ sở lý luận về Nghiệp vụ thị trường mở, đặc biệt là vấn đề hàng
hoá, khái quát kinh nghiệm sử dụng hàng hoá của một số nước và phân tích
thực trạng vận dụng ở Việt Nam, tiểu luận của em đã đưa ra một số giải
pháp để hoàn thiện hơn và mở rộng số lượng cũng như chủng loại hàng hoá
sao cho phù hợp với tình hình nền kinh tế Việt Nam trong thời gian tới
nhằm thực thi có hiệu quả nhất chính sách tiền tệ của quốc gia . Mặc dù đây
chỉ là những ý kiến chủ quan của em nhưng em hi vọng rằng những gì mà
mình đã đúc kết, tìm hiểu đóng góp phần nào vào sự phát triển của thị
trường mở tại Việt Nam
Do còn nhiều hạn chế trong nhận thức và tìm hiểu thực tiễn, tiểu luận
sẽ không tránh khỏi những khiếm khuyết và sai sót, em rất mong nhận
được sự chỉ bảo, quan tâm của các thầy cô.
Em xin chân thành cảm ơn !


- 19 -
Tiểu luận Ngân hàng trung ương
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Giáo trình môn Ngân hàng Trung ương (HVNH)
2. Báo cáo sơ kết hoạt động nghiệp vụ thị trường mở - Ban điều hành
nghiệp vụ thị trường mở, năm 2001.
3. Charles Goodhart: The evolution of central banks, MIT press, 1988.
4. David Cox - Nghiệp vụ Ngân hàng hiện đại.
5. David Begg - Kinh tế học, 2 tập, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1992.
6. Đặng Chí Chơn: Ngân hàng Nhà nước và việc thực thi có hiệu quả
chính sách tiền tệ ở Việt Nam.
7. Capital Market - Textbook, 1999.

8. Federal reserve bulletin: 1980 to July 1996.
9. Federal Reserve System: “Purposes and functions - Board of
governors of Federal Reserve System, Washington, D.C, 1994.
10. Frederic S. Minshkin: Tiền tệ Ngân hàng và thị trường tài chính, Forth
Edition, 1997.
11. Glenn G. Mann: Encyclopedia of banking and finance, Bankers
Publishing Company press, USA, 1991.
12. James L. Pierce: The future of banking, Yale University Press, New
Haven & London, 1991.
13. Lê Vinh Danh: Chính sách tiền tệ và sự điều tiết vĩ mô của Ngân hàng
Trung ương ở các nước tư bản phát triển. Nxb Chính trị Quốc gia.
14. Lê Vinh Danh: Tiền và hoạt động Ngân hàng.
15. M. H. Dekock: Central banking, Staples Printers, Lte. Prss, England,
1967.
16. Michael Sherris: Money and Capital Markets - Pricing, yields and
Analysis.
17. Richard H. Timberlake: The origins of the central banking in the
United. States, Harvard University Press, Cambridge, 1978.
18. Tạp chí Ngân hàng các số trong năm 2002 – 2003
19. Tạp chí tiền tệ - thị trường tài chính các số năm 2002 - 2003.
- 20 -

×