Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

thực trạng hoạt động của thanh tra nhnn việt nam trong thời gian qua

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (198.15 KB, 26 trang )

Tiểu luận Ngân hàng Trung ương
Lời nói đầu
Một hệ thống ngân hàng hoạt động tốt phụ thuộc một phần vào sự
điều khiển của Ngân Hàng Trung Ương ( NHTƯ ) hay nói một cách khác
rộng hơn là phụ thuộc vào sự tín nhiệm của khách hàng - đó là số tiền gửi
của anh ta được cất giữ một cách tốt nhÊt và nhanh chóng được rút tiền ra
khi cần thiết. Trách nhiệm chính của các ngân hàng là phải cư xử như
những công dân tốt trong kinh doanh: dù khả năng sinh lời vẫn được coi là
mối quan tâm chính, nhưng đôi khi phải gác điều này lại để ưu tiên cho
những nguyên tắc đạo đức có tính đến lợi Ých của những người khác–
những khách hàng của ngân hàng.
Để hệ thống ngân hàng hoạt động theo đúng định hướng, chính
sách, pháp luật, giữ gìn kỉ cương, trật tự trong quản lý, thanh tra giám sát
của NHTƯ là một công cụ quan trọng để thực hiện sự quản lý Nhà nước
trong lĩnh vực hoạt động ngân hàng.
Thanh tra Ngân hàng Nhà nước là thanh tra nhà nước chuyên ngành
về ngân hàng, được tổ chức thành một hệ thống thuộc bộ máy của Ngân
hàng Nhà nước. Thanh tra ngân hàng có nhiệm vô quan trọng là thanh tra,
giám sát việc tổ chức thực hiện các cơ chế chính sách tiền tệ về hoạt động
ngân hàng của các tổ chức tín dụng và các tổ chức khác có hoạt động ngân
hàng, nhằm duy trì sự ổn định của giá trị đồng tiền, góp phần đảm bảo an
toàn hoạt động ngân hàng và hệ thống các tổ chức tín dụng, đảm bảo an
toàn tài sản của khách hàng, thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội theo
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thanh tra giám sát của Ngân hàng Nhà nước đối với các ngân hàng
thương mại là một vấn đề quan trọng nhằm góp phần đảm bảo an toàn hệ
thống các tổ chức tín dụng, bảo vệ quyền và lợi Ých hợp pháp của người
gửi tiền, phục vụ việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia. Do vậy, với
lượng kiến thức còn hạn hẹp nên trong phạm vi bài tiểu luận này em chỉ
đề cập đến một số vấn đề chung nhất, cơ bản nhất về thanh tra ngân hàng
đối với các ngân hàng thương mại và một số giải pháp nhằm khắc phục


những tồn tại, hạn chế trong công tác thanh tra của Ngân hàng Nhà nước
hiện nay.
Tuy nhiên, mặc dù có nhiều cố gắng trong quá trình viết song không
thể tránh khỏi những sai sót, rất mong được sự đóng góp ý kiến từ các
Thầy Cô.
Lê Mạnh Dũng – Líp 4011
- 1 -
Tiểu luận Ngân hàng Trung ương
Phần I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ THANH TRA, GIÁM SÁT
CỦA NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG ĐỐI VỚI
CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

1. Tầm quan trọng của hoạt động thanh tra đối với các Ngân
hàng thương mại quốc doanh:
Thanh tra là một phạm trù lịch sử, nó gắn liền với Nhà nước và là
công cụ phục vụ cho giai cấp thống trị xã hội, lịch sử phát triển của xã hội
loài người đã chứng minh điều đó. Tuy tên gọi và hình thức tổ chức có thể
khác nhau nhưng thanh tra đều là công cụ của cơ quan quản lý Nhà nước,
là phương thức đảm bảo pháp chế, tăng cường kỉ luật trong quản lý Nhà
nước và thực hiện quyền dân chủ.
Hoạt động thanh tra không phải là hoạt động trực tiếp chỉ huy, quản
lý điều hành, không phải là hoạt động của cơ quan chuyên môn trong bộ
máy quản lý Nhà nước mà là hoạt động đảm bảo thực hiện chính sách,
pháp luật, giữ gìn kỉ cương, trật tự trong quản lý. Do vậy thanh tra có vai
trò đặc biệt quan trọng trong toàn bộ các hoạt động của Nhà nước.
Đối với hoạt động kinh doanh ngân hàng, đó là một ngành kinh
doanh đặc thù trong nền kinh tế thị trường, hoạt động của ngân hàng có
ảnh hưởng rất lớn đến các lĩnh vực khác trong hoạt động của nền kinh tế
quốc dân. Bởi do ngân hàng là chiếc cầu nối giữa người gửi tiền và người

cần vay vốn, quan hệ đó rất quan trọng và gắn bó chặt chẽ với nhau.
Xét về phương diện tài chính quốc gia, ngân hàng chính là một khâu
trọng yếu. Vì vậy, khi một ngân hàng mất ổn định sẽ ảnh hưởng đến các
khâu khác trong toàn bộ hệ thống tài chính.
Xét về phương diện kinh doanh, hoạt động ngân hàng có những đặc
thù riêng biệt, khác hẳn các ngành nghề khác vì đó là hoạt động chứa nhiều
rủi ro nhất. Các ngân hàng muốn kinh doanh phải có vốn, mà vốn chủ yếu
trong các ngân hàng là vốn huy động để cho vay, nếu người đi vay không
hoàn trả được nợ thì ngân hàng sẽ gặp nhiều rủi ro và có thể sẽ bị vỡ nợ;
khi một ngân hàng bị vỡ nợ sẽ có thể dẫn đến sự đổ vỡ của cả hệ thống
ngân hàng.
Chính vì lẽ đó mà hoạt động thanh tra ngân hàng rất quan trọng, góp
phần đảm bảo an toàn cho hệ thống các ngân hàng thương mại, đồng thời
Lê Mạnh Dũng – Líp 4011
- 2 -
Tiểu luận Ngân hàng Trung ương
bảo vệ quyền và lợi Ých hợp pháp của người gửi tiền, phục vụ việc thực
hiện chính sách tiền tệ quốc gia.
2. Nội dung hoạt động thanh tra của NHTƯ đối với NHTM:
Nội dung thanh tra của NHTƯ là thanh tra, kiểm soát tất cả các mặt
hoạt động của NHTM. Đó là:
- Kiểm tra và cấp giấy phép hoạt động cho các NHTM mới thành lập.
-Thanh tra, kiểm soát các NHTM đang hoạt động; tập trung chủ yếu
vào những nội dung sau:
+Vốn của bản thân các ngân hàng.
+Chất lượng tài sản có.
+Năng lực quản lý của cán bộ ngân hàng.
+Khả năng sinh lời.
+Khả năng thanh toán.
3. Phương thức thanh tra của NHTƯ đối với NHTM:

a/. Phương thức giám sát từ xa:
Khái niệm: Giám sát từ xa là phương thức thanh tra sử dụng thông tin
trên các báo cáo, nhằm phân tích đánh giá thực trạng hoạt động của các tổ
chức tín dụng để đề ra các biện pháp xử lý khi cần thiết.
Giám sát từ xa còn được hiểu là phương pháp mà cán bộ thanh tra ngồi
tại trụ sở của cơ quan thanh tra tiếp nhận các thông tin báo cáo để phân
tích đánh giá tình hình đơn vị được thanh tra mét cách thường xuyên và có
hệ thống. Giám sát từ xa là phương thức hoạt động riêng có của thanh tra
ngân hàng.
Phương thức giám sát từ xa được dùng để bổ xung cho thanh tra tại chỗ
nhằm kiểm soát thường xuyên ở tầm vĩ mô hoạt động của NHTM và các
trung gian tài chính khác.
Nội dung của giám sát từ xa đối với NHTM và các tổ chức tín dụng
gồm:
- Phân tích cân đối nguồn vốn và sử dụng vốn.
- Phân tích tình hình nợ quá hạn.
- Phân tích khả năng thanh toán.
- Phân tích tình hình thu chi tài chính.
Lê Mạnh Dũng – Líp 4011
- 3 -
Tiểu luận Ngân hàng Trung ương
- Thông báo những vấn đề cần lưu ý với đối tượng giám sát, kiến nghị
những biện pháp khắc phục.
- Báo cáo kết quả cho ban lãnh đạo, gửi cho bộ phận thanh tra tại chỗ để khai
thác.
b/. Phương thức thanh tra tại chỗ:
Khái niệm: Thanh tra tại chỗ là phương thức thanh tra trực tiếp tại các
tổ chức tín dụng nhằm xác định hiện trạng các hoạt động cụ thể của đối
tượng thanh tra như đánh giá sự tuân thủ các qui chế, đảm bảo chất lượng
tài sản, an toàn vốn, chiều sâu của công tác quản lí, khả năng thanh toán và khả

năng sinh lời.
Phương pháp thanh tra tại chỗ thường được tổ chức thành đoàn thanh tra
cho mỗi cuộc thanh tra tại một đơn vị trong một thời gian nhất định. Đoàn
thanh tra thường được tổ chức từ 3 đến 5 người gồm 1 đoàn trưởng, 1 hoặc 2
phó đoàn, tham gia vào đoàn thanh tra. Đoàn thanh tra được sử dụng cộng
tác viên trong giới hạn qui định.
Thanh tra tại chỗ có thể được tiến hành định kỳ hoặc đột xuất.
Nội dung của thanh tra tại chỗ gồm:
*Thanh tra quản trị điều hành.
*Thanh tra nguồn vốn.
*Thanh tra chất lượng tín dụng.
*Thanh tra nghiệp vụ bảo lãnh.
*Thanh tra hoạt động kinh doanh ngoại tệ.
*Thanh tra góp vốn liên doanh.
*Thanh tra nghiệp vụ tài chính kế toán,
Tuỳ thuộc vào việc tổ chức của mỗi lần thanh tra và yêu cầu quản lý mà
thanh tra Ngân hàng Nhà nước tiến hành thanh tra toàn diện hoặc thanh tra
theo chuyên đề về hoạt động của các ngân hàng thương mại.

Lê Mạnh Dũng – Líp 4011
- 4 -
Tiểu luận Ngân hàng Trung ương
Phần II
Thực trạng hoạt động thanh tra của Ngân hàng Nhà nước
Việt nam trong thời gian qua
1. Thực trạng về tổ chức và hoạt động của thanh tra
NHNN đối với các NHTM quốc doanh:

Hệ thống thanh tra ngân hàng được xây dựng ngay sau khi thành
lập Ngân hàng Nhà nước Việt nam. Mô hình tổ chức bộ máy của NHNN từ

Trung ương đến các chi nhánh tỉnh, thành phố đều có tổ chức thanh tra
trực thuộc, gọi chung là Ban thanh tra ngân hàng. Thời kỳ này Thanh tra
Ngân hàng là thanh tra của thủ trưởng đơn vị, không nằm trong hệ thống
Thanh tra Nhà nước . Hoạt động của Thanh tra Ngân hàng chủ yếu là giải
quyết và xem xét các đơn thư tố cáo, khiếu nại, cán bộ làm công tác thanh
tra không đủ trình độ về chuyên môn ; do vậy công tác tổ chức hoạt động
thanh tra mang nặng tính hành chính, theo mệnh lệnh và yêu cầu của thủ
trưởng, hiệu lực pháp lý không được xác định, hoạt động kém hiệu quả.
Do đặc điểm như vậy, hoạt động thanh tra của NHNN tất yếu sẽ gặp
những hậu quả khó tránh khỏi;hàng loạt quỹ tín dụng, hợp tác xã tín dụng
bị đổ vỡ, nợ quá hạn trong hệ thống ngân hàng thương mại gia tăng với tốc
độ lớn, nhiều cán bộ bị kỷ luật và bị xử lý theo pháp luật.
Nguyên nhân chính dẫn đến kết quả trên là do nước ta đang ở trong thời
kỳ quá độ chuyển sang cơ chế thị trường, chúng ta chưa nhận thức được
đầy đủ về nó, kiến thức quản lý còn nhiều yếu kém, chưa đủ kinh nghiệm
trong quá trình khai thác các công cụ quản lý vĩ mô, chưa biết sử dụng vai
trò của Nhà nước và công cụ thanh tra của NHNN trong công tác quản lý,
kiểm soát hoạt động của các ngân hàng thương mại.
Từ năm 1989-1990 trở lại đây, sau khi Uỷ ban thường vụ Quốc hội
công bố pháp lệnh NHNN, pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng, công
ty tài chính , bắt đầu thời kì đổi mới căn bản hệ thống ngân hàng: từ ngân
hàng một cấp thành ngân hàng hai cấp. NHNN Việt nam gồm cơ quan
NHTƯ và các chi nhánh tại 61 tỉnh thành phố và hệ thống các tổ chức tín
dụng gồm các ngân hàng thương mại quốc doanh, ngân hàng thương mại
cổ phần, hợp tác xã tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, Cũng
trong thời gian này, Hội đồng Nhà nước ban hành pháp lệnh thanh tra,
Lê Mạnh Dũng – Líp 4011
- 5 -
Tiểu luận Ngân hàng Trung ương
pháp lệnh khiếu nại, tố cáo của công dân, mở ra một thời kỳ mới của công

tác thanh tra ở nước ta nói chung và công tác thanh tra ngân hàng nói
riêng. Trên cơ sở các pháp lệnh nói trên, vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm
vụ, tổ chức bộ máy và phương thức hoạt động của Thanh tra ngân hàng đã
có những đổi mới mạnh mẽ.
Tính đến ngày 31/12/2002, số cán bộ thanh tra toàn hệ thống NHNN
là 780 người (riêng NHTƯ có 201 người); trong đó thanh tra viên cao cấp
(cấp III)có một người, chiếm tỉ lệ 0,16%; thanh tra viên cấp II có 120
người, chiếm tỉ lệ 21%; thanh tra viên cấp I có 300 người, chiếm 48%
trong tổng số thanh tra, còn gần 30% chưa được bổ nhiệm vào ngạch thanh
tra viên.
Hiện tại, thanh tra Ngân hàng Trung ương có 9 phòng, gồm:
- Văn phòng thanh tra.
- Phòng thanh tra các ngân hàng quốc doanh.
- Phòng thanh tra các ngân hàng cổ phần.
- Phòng thanh tra các ngân hàng nước ngoài và liên doanh.
- Phòng thanh tra các tổ chức phi ngân hàng.
- Phòng thanh tra quỹ tín dụng nhân dân.
- Phòng giám sát và phân tích.
- Phòng chống tham nhòng.
- Phòng xét các khiếu tố.
Thực tế trong nhiều năm qua cho thấy, thanh tra ngân hàng đã được sự
quan tâm của các cấp lãnh đạo NHNN, sự phối kết hợp giữa vụ, cục trong
ngành cùng với sự nỗ lực phấn đấu, hệ thống thanh tra chuyên trách ngân
hàng đã thực sự đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, góp phần
tích cực vào thành tích chung của ngành trong việc thực hiện các chủ
trương của Đảng và Nhà nước về hoạt động tiền tệ, tín dụng và ngân hàng
qua các thời kì.
2. Kết quả thanh tra giám sát của NHTƯ đối với các
NHTM quốc doanh:


a-Những tồn tại và khuyết điểm trong quản lý và kiểm soát các
NHTM:
Lê Mạnh Dũng – Líp 4011
- 6 -
Tiểu luận Ngân hàng Trung ương
Qua thanh tra công tác tín dụng ở các NHTM quốc doanh cho thấy, các
NHTM chưa chú trọng đến quản lý và phòng ngừa rủi ro trong kinh doanh,
nhất là việc thu thập các thông tin về kinh doanh và tình hình tài chính của
khách hàng, chưa chú ý đào tạo bồi dưỡng cán bộ cả nghiệp vụ chuyên
môn và phẩm chất đạo đức. Do vậy, đã dẫn đến hoạt động của các NHTM
quốc doanh trong những năm qua đã phát sinh nợ quá hạn lớn. Cụ thể, theo
nguồn tài liệu báo cáo của NHNN Việt nam như sau:

Số nợ quá hạn (% so tổng dư nợ)của các NHTM Quốc doanh
qua các năm (1993 - 2002)
Đơn vị: tỷ đồng
1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002
1. NQH ngắn
hạn
% so dư nợ
1.620
11, 2
1.180
12,74
2.100
12, 4
2.350
13, 3
1. 464
6, 6

1.554
4, 76
2.581
6, 1
6. 506
13, 15
2.908
4, 26
3.75
6, 08
2. NQH trung,
dài hạn
%so dư nợ
120
7, 18
97
5, 2
142
4, 98
273
7, 4
248
1, 9
366
2, 28
662
4, 17
1. 352
7, 12
620

2, 9
1. 56
4, 33
3. NQH cho
vay khác
%so dư nợ
60
1, 62
85
2, 06
82
2, 00
87
2, 13
106
7, 5
1. 5
0, 34
2
0, 06
47
0, 57
28
0, 30
0
0
Tổng NQH
% so tổng dư
nợ
1. 782

9. 08
1. 992
9, 87
2. 324
9, 74
2. 743
10, 5
1. 859
5, 17
1. 923
3, 91
3.248
5, 2
7. 576
9, 98
3. 556
3, 60
5. 32
5, 33
Nguyên nhân chủ quan dẫn đến nợ quá hạn chủ yếu là:
+Do cấp quản trị điều hành quyết định sai, hoặc không căn cứ vào hiệu
quả kinh tế(30-40%).
+Do không tổ chức kiểm tra, kiểm soát khách hàng sử dụng vốn vay(25-
35%).
+Do cán bộ ngân hàng thực hiện không đầy đủ các quy chế và quy
trình nghiệp vụ(20-25%);do cán bộ ngân hàng thoái hoá, biến chất(15-
20%).
Nguyên nhân khách quan thường dẫn đến dư nợ quá hạn có vấn đề và
nợ khó đòi chủ yếu là:
Lê Mạnh Dũng – Líp 4011

- 7 -
Tiểu luận Ngân hàng Trung ương
+Do khách hàng vay bị phá sản, do kinh doanh thua lỗ, do cố ý lừa đảo(60-
70%)
+Do thiên tai bão lũ, do Nhà nước thay đổi cơ chế chính sách (30-
40%).

b-Những tồn tại và khuyết điểm trong việc chấp hành các qui chế ngân
hàng:
Công tác thanh tra các NHTM quốc doanh trong những năm qua,
cho thấy:
Thực hiện bảo lãnh L/C nhập hàng trả chậm, các NHTM quốc doanh và
doanh nghiệp đã không chấp hành đúng quy định, với mục đích và động cơ
khác nhau nhằm mục đích kiếm lời; dẫn đến giá trị L/C quá hạn với nước
ngoài không ngừng tăng lên.
Hùn vốn liên doanh góp cổ phần phổ biến là vượt tỷ lệ quy định góp
vốn vào các doanh nghiệp không phải là tổ chức tín dụng lớn, chiếm 35-
45% tổng số hùn vốn , trong đó có nhiều trường hợp góp vốn vượt quá
10% theo quy định tại pháp lệnh ngân hàng. Một số trường hợp hùn vốn
liên doanh, hùn vốn mua cổ phần với các đối tác chưa chấp hành đầy đủ
các thủ tục quy định tại các văn bản hướng dẫn của Bộ Tài chính và một số
sai phạm trong công tác kế toán tài chính, công tác huy động vốn.
Bên cạnh những nguyên nhân chủ quan trên còn có một số nguyên
nhân khách quan: Các văn bản hướng dẫn cụ thể hoạt động hùn vốn liên
doanh, mua cổ phần chưa được ban hành kịp thời hoặc còn nhiều thiếu sót,
các khái niệm về hùn vốn liên doanh, mua cổ phần chưa được hiểu đúng
do vậy việc thực hiện ở nhiều cấp ngân hàng còn sai lệch v. v
3. Những hạn chế trong công tác thanh tra của NHNN
đối với các NHTM quốc doanh:
Bên cạnh nhưng kết quả đã đạt được, hoạt động thanh tra ngân hàng

vẫn còn những hạn chế, đó là :

a)Hạn chế trong công tác giám sát từ xa:
+Chương trình giám sát chưa chuẩn, quá trình thực hiện có bổ sung sửa
đổi nhưng vẫn chưa hoàn thiện.
Lê Mạnh Dũng – Líp 4011
- 8 -
Tiểu luận Ngân hàng Trung ương
+Sự phối kết hợp giữa giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ còn Ýt và yÕu
kém. Mục tiêu của giám sát từ xa là phân tích, tìm ra vấn đề chỉ điểm cho
thanh tra tại chỗ; tuy có nêu được vấn đề nhưng vẫn chưa khai thác được
vấn đề một cách triệt để mà mới chỉ dừng lại ở việc cung cấp số liệu cho
thanh tra tại chỗ.
+Chưa thùc hiện được việc phân loại và công bố các chỉ tiêu tài chính để
khuyến khích các NHTM quốc doanh chấp hành tốt các quy chế và kinh
doanh có hiệu quả.
+Tuy nội dung, thời gian báo cáo đã được thanh tra NHNN quy định và
quản lý chặt chẽ, nhưng do các NHTM quốc doanh thường gửi chậm, số
liệu thiếu hoặc không chính xác; do vậy, kết quả phân tích giám sát gặp
nhiều hạn chế, ảnh hưởng đến công tác quản lý và điều hành hoạt động
ngân hàng.
b)Hạn chế trong công tác thanh tra tại chỗ:
+Tuy đã thực hiện sửa chữa và bổ sung và soạn thảo tài liệu hướng dẫn
các đoàn thanh tra của NHNN tiến hành theo một trật tự song chóng ta vẫn
chưa có một quy trình thanh tra thống nhất, các bộ phận vẫn làm theo cách
riêng rẽ.
+Nội dung đề cương thanh tra rộng, không cụ thể trong khi lực lượng
thanh tra, thời gian thanh tra có hạn. Nhiều nội dung cần phải thanh tra làm
rõ, xử lý dứt điểm nhưng yêu cầu thanh tra lại tập trung vào việc khác.
Đồng thời bên cạnh đó cũng có những đề cương thanh tra với nội dung

thanh tra cục bộ khi các NHTM cấn đánh giá toàn diện, tổng thể để có kết
luận, định hướng kinh doanh đúng, có hiệu quả phù hợp với pháp luật.
+Lực lượng trong các đoàn thanh tra Ýt, trong đoàn có 5 thành viên thì
chỉ 1-2 thành viên là thanh tra viên, còn lại là chuyên viên thanh tra hoặc
chuyên viên các phòng hay ban nghiệp vụ khác được trưng dụng.
+Phương pháp thanh tra, tiếp cận đối tượng thanh tra chưa khoa học,
thiếu tính thực tiễn; cán bộ thanh tra chưa có kinh nghiệm, trình độ nghiệp vụ
chuyên môn thấp.
+Kết luận thanh tra mang tính chung chung, thiếu trách nhiệm; xử lý,
quy trách nhiệm không đúng người, đúng việc, không xác định rõ dược
nguyên nhân; kết quả những kiến nghị sau thanh tra chưa chú trọng đúng
mức,
Lê Mạnh Dũng – Líp 4011
- 9 -
Tiểu luận Ngân hàng Trung ương
Qua những tồn tại và hạn chế nêu trên, công tác thanh tra còn nhiều yếu
kém cả về phương pháp kỹ thuật tiến hành cũng như trong chỉ đạo diều
hành, năng lực và trình độ nghiệp vụ của cán bộ thanh tra.
Lê Mạnh Dũng – Líp 4011
- 10 -
Tiểu luận Ngân hàng Trung ương
4. Nguyên nhân của những hạn chế trong công tác thanh
tra của NHNN đối với các NHTM:
- Đội ngũ cán bộ của hệ thống Thanh tra Ngân hàng rất Ýt lại yếu về
trình độ chuyên môn, kinh nghiệm, đào tạo thiếu chiều sâu nên gặp rất
nhiều khó khăn trong khi thực hiện nhiệm vụ. Một số cán bộ có trình độ,
năng lực được đào tạo cơ bản hoặc đã học các lớp bồi dưỡng nâng cao kiến
thức về nghiệp vụ ngân hàng, thanh tra, quản lý Nhà nước thì bị điều chuyển
vào làm ở các bộ phận khác.
Số cán bộ học Đại học chiếm 90% biên chế của hệ thống ngân hàng

song số được thực sự đào tạo theo chiều sâu của nghiệp vụ thanh tra lại rất
Ýt; toàn hệ thống thanh tra Ngân hàng mới có một cán bộ đạt học vị tiến
sĩ, bốn thạc sĩ kinh tế, hai thạc sĩ luật, chưa có đội ngũ chuyên gia giỏi.
- Cơ chế điều hành thiếu tập trung, chồng chéo, không phân chia rõ
ràng về quyền hạn và trách nhiệm.
-Thanh tra Ngân hàng bị chi phối bởi nhiều nguyên nhân khác không
thuộc chức năng thanh tra; một số công việc thuộc thanh tra, giám sát lại bị
phân tán về quyền hạn và trách nhiệm.
- Các quy chế về thanh tra của NHNN phục vụ cho công tác thanh tra,
giám sát chưa đầy đủ, đồng bộ, thiếu chính xác và chặt chẽ dẫn đến công
tác thanh tra gặp nhiều khó khăn, gây trở ngại cho việc triển khai và thực
hiện công tác của hệ thống thanh tra NHNN.
Đây là một vấn đề cấp bách cần được NHNN và Chính phủ quan tâm
xem xét, tập trung giải quyết để đưa ra biện pháp thích hợp, nhanh chóng
khắc phục những hạn chế, yếu kém bất cập và khuyết điểm để vững bước
đi lên nhằm đạt được mục tiêu của thanh tra Ngân hàng đã được luật pháp
khẳng định là duy trì được sự ổn định, an toàn của hệ thống ngân hàng, bảo
vệ lợi Ých hợp pháp của người gửi tiền, phục vụ chính sách tiền tệ quốc
gia.


Lê Mạnh Dũng – Líp 4011
- 11 -
Tiểu luận Ngân hàng Trung ương
Phần III
Một số giải pháp tăng cường hiệu lực thanh tra CủA NHNN
Việt nam đối với các NHTM
Những năm gần đây, cùng với sự đổi mới của nền kinh tế nói chung và
của ngành ngân hàng nói riêng đã đạt được nhữngthành tựu bước đầu đáng
khích lệ, tình hình kinh tế –xã hội đã dần ổn định, đời sống nhân dân từng

bước được cải thiện, nhưng các tiêu cực xã hội như tệ tham nhũng, buôn
lậu, lãng phí, vi phạm pháp luật trong lĩnh vực tiền tệ ngân hàng vẫn đang
diễn ra phức tạp và chưa bị đẩy lùi.
Trong các năm qua, có nhiều vụ án lớn liên quan đến ngành ngân hàng,
liên quan đến trách nhiệm tập thể và cá nhân của cán bộ ngành ngân hàng
cũng như của thanh tra ngân hàng. Đứng trước tình hình đó, công tác thanh
tra, giám sát của hệ thống thanh tra ngân hàng được khẳng định là một
khâu trọng yếu, hết sức cần thiết của công tác quản lý và lãnh đạo điều
hành, cần được đổi mới mạnh mẽ và tăng cường cả về tổ chứcvà phương
thức hoạt động.
Sau hơn 10 năm thực hiện trọng trách mới, với vị thế pháp lý mới, Thanh
tra Ngân hàng đã có những bước đi ban đầu đáng khích lệ. Song những gì
đạt được trong sự đổi mới của công tác thanh tra Ngân hàng trong 10 năm
qua cũng chỉ là bước khởi đầu, vẫn còn nhiều khó khăn và nhiều mặt hạn
chế. Giờ đây hơn lúc nào hết, hệ thống thanh tra Ngân hàng phải chỉ ra và
nhìn thẳng vào những mặt yếu kém, những hạn chế, bất cập để nhanh
chóng khắc phục và vươn lên.
I. Một số giải pháp chung mang tính xuyên suốt toàn bộ
hoạt động của hệ thống Thanh tra Ngân hàng:
Để tiếp tục thực hiện đổi mới về tổ chức và hoạt động thanh tra,
giám sát của NHNN đối với các NHTM, toàn thể cán bộ, thanh tra viên
trong hệ thống thanh tra Ngân hàng phải tập trung thực hiện những nội
dung chủ yếu sau:
Một là, tiếp tục đổi mới nhận thức, đặc biệt là nhận thức về vai trò,
vị thế pháp lý mới của thanh tra Ngân hàng theo Luật ngân hàng, theo
Nghị định số 91 của Chính phủ quy định về tổ chức và hoạt động của
Lê Mạnh Dũng – Líp 4011
- 12 -
Tiểu luận Ngân hàng Trung ương
thanh tra Ngân hàngtrong điều kiện mới là rất quan trọng, làm cơ sở, nền

móng cho các phương pháp, giải pháp trong chỉ đạo, điều hành và thực thi
nhiệm vụ. Tuy nhiên, phải xác định bước đi thích hợp, tháo gỡ dần từng
vấn đề, việc nào trước, việc nào sau, việc nào cho những năm tiếp theo.
Hai là, đổi mới về phương thức chỉ đạo điều hành hoạt động thanh tra
ngân hàng.
Nội dung này đòi hỏi sự quan tâm đến vấn đề trách nhiệm và quyền
hạn của các cấp Thanh tra Ngân hàng ở NHTƯvà ở địa phương, tránh
chồng chéo đùn đẩy trách nhiệm, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động giám
sát, thanh tra đối với mỗi tổ chức tín dụng cũng như các chi nhánh của tổ
chức tín dụng trong cả nước.
Ba là, đổi mới về phương thức hoạt động của công tác thanh tra tại
NHNN và chi nhánh ngân hàng Nhà nước tỉnh, thành phố theo hướng tăng
cường, đề cao vai trò trách nhiệm thanh tra chi nhánh theo quy định của
Thống đốc ngân hàng. Đổi mới, điều chỉnh phương tiện làm việc, xử lý và
phân tích thông tin nhằm phát hiện ngăn chặn và xử lý nhanh nhạy các vi
phạm pháp luật trong hoạt động ngân hàng.
Bốn là, tiếp tục tuyên truyền sâu rộng trong ngành ngân hàng những
nội dung của Luật khiếu nại, Tố cáo, Nghị định 67/NĐ của Chính phủ
hướng dẫn thực hiện việc khiÕu nại, Tố cáo và những quy định của Thống
đốc, Pháp lệnh chống tham nhũng, tiếp tục triển khai thực hiện chương
trình quốc gia phòng chống tội phạm trong ngành ngân hàng. Tăng cường
kiểm tra đôn đốc các cấp, các đơn vị trong ngành giả quyết kịp thời đúng
pháp luật về khiếu nại, tố cáo, giải quyết dứt điểm các đơn thư khiếu nại
còn tồn đọng, vụ việc nổi cộm lâu ngày tại các chi nhánh và đơn vị trong
ngành.
Năm là, tăng cường đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ, để có
được đội ngũ cán bộ thanh tra ngân hàng có đủ phẩm chất, năng lực, trình
độ để trở thành những cán bộ giỏi, đủ sức tiếp cận với công nghệ mới
trong hoạt động ngân hàng theo cơ chế thị trường, an tâm với nghề thanh
tra, nhằm duy trì được hệ thống thanh tra ngân hàng đủ sức để đảm đương

nhiệm vô. Đối với cán bộ thanh tra viên ngân hàng cần có chế độ đãi ngộ
cụ thể.
Để thực hiện được tốt những nội dung trên, ngành ngân hàng cần
phải hoàn thiện một cách đồng bộ và ổn định hệ thống pháp lý. Trước hết
là hệ thống tổ chức, phân định rõ vai trò, chức năng của các cấp quản lý
trong hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng. Hoàn thiện hệ thống quy
Lê Mạnh Dũng – Líp 4011
- 13 -
Tiểu luận Ngân hàng Trung ương
phạm pháp luật, các văn bản pháp quy phù hợp của Thanh tra Ngân hàng
cũng như của đối tượng thanh tra ngân hàng. Phân định rõ ràng và rành
mạch chức năng quản lý và chức năng kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ và
hoạt động ngân hàng nói chung, hoạt động thanh tra giám sát ngân hàng
nói riêng.
Bên cạnh đó, thực tế hoạt động tiền tệ ngân hàng đang đặt ra cho
thanh tra ngân hàng những thời cơ và thách thức phải vượt qua. Do vậy,
công tác thanh tra ngân hàng cần phải nhanh chóng đổi mới nội dung và
phương pháp thanh tra cho phù hợp với vị thế pháp lý mới của Thống đốc
ngân hàng; nhằm góp phần thực hiện mục tiêu giữ cho hệ thống ngân hàng
hoạt động ổn định, an toàn và hiệu quả, bảo vệ lợi Ých hợp pháp của người
gửi tiền, góp phần thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia; qua đó, góp phần
đảm bảo nền kinh tế quốc dân phát triển ổn định, đưa hệ thống ngân hàng
nước ta phát triển vững mạnh nhanh chóng hội nhập với các nước và cộng
đồng thế giới.
II. Đổi mới nội dung và phương pháp thanh tra của
NHNN đối với các NHTM quốc doanh:
1. Đổi mới và hoàn thiện phương thức giám sát từ xa:
Để đổi mới hoạt động giám sát từ xa của thanh tra ngân hàng hiện nay
thành công nghệ thanh tra phòng ngừa một cách thường xuyên, kịp thời
nhằm đảm bảo an toàn hoạt động của các NHTM quốc doanh và giữ uy tín

với khách hàng, Thanh tra ngân hàng Nhà nước cần thiết lập một hệ thống
chỉ tiêu giám sát chuẩn, qua đó có thể đánh giá ngay tình trạng ổn định hay
bất ổn định, hoạt động kinh doanh có lãi hay không, có nguy cơ mất vốn,
phá sản của một ngân hàng.
a-Thiết lập những chỉ tiêu xác định và đánh giá rủi ro tín dụng:
Trong kinh doanh ngân hàng có rất nhiều rủi ro, nhưng rủi ro tín dụng là
lớn nhất, có ảnh hưởng đến quyết định, đến khả năng thanh toán của ngân
hàng, đến lòng tin đối với người gửi tiền và ảnh hưởng đến hoạt động tài
chính của NHTM. Vì vậy, phòng ngừa rủi ro trong hoạt động ngân hàng
trước hết là phòng ngừa rủi ro về tín dụng với một số biện pháp: thực hiện
phân tán rủi ro và xác định mức độ dẫn đến rủi ro để có biện pháp kịp thời
xử lý.
b-Xác định chỉ tiêu đảm bảo khả năng thanh toán. Phân nhóm tài
sản có trích lập và xử dụng quỹ dự phòng để xử lý rủi ro.
Nhóm 1, tỷ lệ trích lập dự phòng là 0% đối với những khoản:
Lê Mạnh Dũng – Líp 4011
- 14 -
Tiểu luận Ngân hàng Trung ương
+Những khoản cho vay chưa đến hạn trả nợ(kể cả kỳ hạn nợ gia hạn).
+Những khoản tiền chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và giấy tờ
có giá ngắn hạn khác chưa đến hạn thanh toán.
+Những khoản cho thuê tài chính chưa đến hạn trả tiền thuê.
Nhóm 2, tỷ lệ trích lập dự phòng là 20% đối với những khoản:
+Những khoản cho vay có đảm bảo quá hạn trả nợ dưới 180 ngày,
những khoản cho vay không có đảm bảo quá hạn trả nợ dưới 90 ngày.
+Những khoản tiền chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và các
giấy tờ có giá ngắn hạn khác đã quá hạn thanh toán trong thời gian dưới 30
ngày.
+Số tiền trả thay cho người được bảo lãnh nhưng chưa thu hồi được
trong thời gian dưới 30 ngày.

+Những khoản cho thuê tài chính mà bên thuê không trả được tiền
thuê trong thời gian dưới 180 ngày.
Nhóm 3, tỷ lệ trích lập dự phòng là 50% đối với những khoản:
+Những khoản cho vay có đảm bảo đã quả hạn trả nợ từ 180 ngày đến
dưới 360 ngày;những khoản cho vay không có đảm bảo đã quá hạn trả nợ
từ 90 ngày đến dưới 180 ngày.
+Những khoản tiền chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và giấy tờ
có giá khác dẫn quá hạn thanh toán từ 30 ngày đến dưới 90 ngày.
+Số tiền đã trả thay cho người được bảo lãnh nhưng chưa thu hồi
được trong thời gian từ 70 ngày đến dưới 90 ngày.
+Những khoản cho thuê tài chính mà bên thuê không trả được tiền từ
180 ngày đến dưới 360 ngày.
Nhóm 4, tỷ lệ trích lập là 100% đối với những khoản:
+Những khoản cho vay có bảo đảm đã quá hạn trả nợ từ 360 ngày trở
lên; những khoản cho vay không có bảo đảm đảm đã quá hạn trả nợ từ 180 ngày
trở lên.
+Những khoản tiền chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và các
giấy tờ có giá ngắn hạn khác đã quá hạn thanh toán từ 90 ngày trở lên.
+Số tiền được trả thay cho người được bảo lãnh nhưng chưa thu hồi
được từ 90 ngày trở lên.
Lê Mạnh Dũng – Líp 4011
- 15 -
Tiểu luận Ngân hàng Trung ương
+Những khoản cho thuê tài chính mà bên thuê không trả được tiền
thuê từ 360 ngày trở lên.
Nhóm 5, tỷ lệ trích lập là 0, 1% đối với những khoản “Có” các dịch vụ
thanh toán của khách hàng.
( Nội dung này được quy định tại quyết định số 297/1999/QĐ-NHNN 5,
ngày 25/8/1999 của Thống đốc NHNN ban hành quy định về việc phân
loại tài sản “ Có ” trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt

động ngân hàng của các Tổ chức tín dụng).
c-Những chỉ tiêu thực hiện dự trữ bắt buộc:
Dự trữ bắt buộc là một trong những công cụ chủ yếu thực hiện chính sách
tiền tệ của NHNN trong giai đoạn hiện nay. Vì vậy, phải kiểm soát chỉ tiêu
này một cách thường xuyên, chặt chẽ và phải có thái độ kịp thời khi
NHTM quốc doanh không chấp hành đúng quy định đự trữ bắt buộc. Việc
tính toán theo chỉ tiêu này thực hiện theo điều 20 Luật NHNN, cụ thể là:
“NHNN quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với từng loại hình Tổ chức tín
dụng và từng loại tiền gửi với mức quy định từ 0%-20% tổng số dư tiền
gửi tại mỗi tổ chức trong từng thời kỳ”.
2. Đổi mới và hoàn thiện phương thức thanh tra tại chỗ:
a-Đổi mới phương thức thanh tra tại chỗ:
Chất lượng thanh tra tại chỗ có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả của toàn
bộ hoạt động Thanh tra Ngân hàng, qua hoạt động này có thể thấy được
toàn bộ những ưu, nhược điểm và tồn tại trong việc chấp hành những cơ
chế, quy chế, luật pháp, đánh giá tình trạng của một Tổ chức tín dụng trong
một thời gian nhất định.
Do vậy, cần phải đổi mới phương pháp, cải tiến nội dung, tăng cường
và nâng cao chất lượng của hoạt động thanh tra tại chỗ ở những nội dung
sau:
Một là, đổi mới phương thức tiến hành thanh tra tại chỗ:
-Thanh tra định kỳ quy định tiến hành một năm tổ chức một lần, trường
hợp không đủ thời gian và lực lượng có thể hai năm tiến hành một lần,
năm nào không tổ chức thanh tra có đề cương yêu cầu NHTM quốc doanh
đó báo cáo kết quả tự kiểm tra. Nội dung thanh tra không nhất thiết phải
toàn diện, mà căn cứ vào thời gian, lực lượng thanh tra, căn cứ vào yêu cầu
thực tế phải thanh tra làm rõ và xử lý một hoặc một vài lĩnh vực hoạt động
Lê Mạnh Dũng – Líp 4011
- 16 -
Tiểu luận Ngân hàng Trung ương

của NHTM quốc doanh đó đặt ra trong năm sẽ thanh tra để xây dựng đề
cương thanh tra.
-Thanh tra đột xuất, không phải xây dựng đề cương, không phải thông
báo bằng văn bản trước cho đối tượng thanh tra, mà phải căn cứ vào những
chỉ tiêu chủ yếu, qua phân tích hoạt động kinh doanh, hoặc qua những
thông tin khác. Thanh tra đột xuất chỉ có quyết định lồng nội dung thanh,
tiến hành thanh tra trong thời gian ngắn, có thể là một vài ngày.
Hai là, hoàn thiện quy trình thanh tra tại chỗ, nghĩa là xây dựng một
quy trình tuần tự các bước cần phải thực hiện chung cho tất cả đoàn thanh
tra.
b-Hoàn thiện nội dung thanh tra tại chỗ:
Như đã nêu trên, Thanh tra NHNN thực hiện giám sát và thanh tra với
pháp nhân các NHTM quốc doanh. Do vậy, đề cương thanh tra các NHTM
quốc doanh trong thời gian qua vẫn còn một số nội dung chưa được đề cập,
hoặc đã đề cập nhưng chưa sâu, chưa toàn diện và ở một số nghiệp vụ chưa
có nội dung thanh tra thống nhất cho tất cả các đoàn thanh tra, nội dung
thanh tra còn tuỳ tiện theo ý chủ quan của từng đoàn. Những đoàn có đề
cương thanh tra cụ thể, hợp lý sẽ có kết quả thanh tra tốt, kết luận chính
xác. Những đoàn có đề cương chưa sâu, chưa cụ thể sẽ mất nhiều thời
gian, kết quả thanh tra bị hạn chế, có trường hợp không đưa ra được kÕt
luận cuối cùng.
Để khắc phục những nhược điểm này, ngoài việc bổ xung thêm nội
dung thanh tra còn phải xây dựng và thống nhất đề cương thanh tra cho
một số nghiệp vụ như:
*Kiểm tra hoạt động điều hành. Mục đích của việc này là nhằm xem ban
lãnh đạo các NHTM quốc doanh có hoàn thành nhiệm vụ và trách nhiệm
một cách thích ứng với toàn bộ các điều luật và quy chế, với các chương
trình và chỉ tiêu được cấp trên giao phó hay không? Đánh giá các điều kiện
phục vụ quản trị kinh doanh và hiệu lực của công tác quản trị điều hành.
Cụ thể tập trung thanh tra các nội dung cơ bản sau:

+Về quản trị : xem xét, đánh giá tính pháp lý, tính thực tiễn và hiệu
lực thi hành của việc ban hành các chủ trương, nghị quyết và các văn bản
khác về quản trị và kiểm soát, hoạt động của ban kiểm soát trong việc xây
dựng chương trình kiểm tra, kiểm soát, báo cáo hội đồng quản trị theo định
kỳ hàng quý, năm và theo các vụ việc thuộc thẩm quyền,
Lê Mạnh Dũng – Líp 4011
- 17 -
Tiểu luận Ngân hàng Trung ương
+Về điều hành : xem xét, đánh giá việc ban hành các văn bản hướng
dẫn, các quy định nội bộ, quy trình tín dụng bảo lãnh, kinh doanh ngoại tệ,
việc bố trí và tổ chức các mạng lưới, chi nhánh;việc bố trí sử dụng cán bộ
vào các bộ phận nghiệp vụ , qua đó ghi nhận những khó khăn vướng mắc
dể có giải pháp xử lý kịp thời.
Thanh tra để đánh giá công tác quản lý là một việc làm khó, yêu cầu cần
phải kết hợp được nhiều yếu tố của bản thân các nhà quản lý và những
công việc mà họ đang tiến hành. Kết quả được biểu hiện rõ nét nhất là việc
tuân thủ nghiêm túc các quy chế ngân hàng, hoạt động kinh doanh ổn định
có lãi và có xu hướng phát triển.
*Kiểm tra về vốn và các quỹ:
+Vốn điều lệ của NHTM quốc doanh bao gồm vốn được Nhà nước
giao tại thời điểm thành lập; vốn được Nhà nước bổ xung hàng năm, quỹ
dự trữ bổ xung vốn điều lệ và các nguồn vốn khác theo quy định của pháp
luật.
Các NHTM quốc doanh không được sử dụng vốn điều lệ vào mục đích
trái với quy định của pháp luật.
+Kiểm tra việc trích lập và sử dụng các quỹ tập trung.
*Kiểm tra tồn quỹ tiền mặt, vàng và các giấy tờ có giá đang bảo quản.
Việc kiểm tra được tiến hành sau khi kết thúc họp thông báo thanh tra Kết
quả thanh tra có chênh lệch thừa, thiếu, thanh tra lập biên bản chi tiết. Các
NHTM có trách nhiệm tìm rõ nguyên nhân, quy trách nhiệm, báo cáo đoàn

thanh tra.
*Phân loại tín dụng theo đối tượng vay và theo thời hạn vay vốn. Thực
chất của công việc nàylà nhằm mục đích đánh giá chất lượng tài sản có,
xác định những khoản cho vay kém hiệu quả, xem xét và chấp hành quy
chế và mức độ rủi ro ban hành để có biện pháp chấn chỉnh và phòng ngừa
thích hợp.
*Thu thập hồ sơ các vụ việc về hoạt động kinh doanh ngân hàng của
các NHTM như :các đơn khiếu nại của khách hàng hoặc trong nội bộ có
liên quan đến tổ chức và hoạt động của ngân hàng đang được điều tra xử
lý; các vụ việc có liên quan đến những phiên toà sắp xét xử
Hồ sơ chính của các vụ việc trên được sao chụp và nằm trong hồ sơ của
Đoàn thanh tra.
Bên cạnh một số giải pháp về đổi mới nội dung và phương pháp thanh
tra của NHNN đối với các NHTM quốc doanh thì việc tổ chức lại bộ máy
Lê Mạnh Dũng – Líp 4011
- 18 -
Tiểu luận Ngân hàng Trung ương
về công tác đào tạo và cơ chế điều hành của thanh tra NHNN cũng rất cần
thiết. Cụ thể:
- Do thanh tra NHNN là thanh tra chuyên ngành về ngân hàng thuộc bộ
máy của NHNN. Bộ máy của NHNN được tổ chức thành một bộ máy tập
trung, thống nhất từ Trung ương xuống các chi nhánh tỉnh, thành phố. Do
vậy, tổ chức thanh tra của NHNN đối với các NHTM quốc doanh cũng cần
được bố trí thuộc bộ máy NHNN từ Trung ương đến các chi nhánh NHNN
tỉnh, thành phố.
-Về đổi mới công tác đào tạo, phổ cập những kiến thức cơ bản trong
công tác thanh tra những năm gần đây đã có nhiều chuyển biến, góp phần
trang bị cho cán bộ kiến thức pháp luật, quản lý Nhà nước, vi tính, ngoại
ngữ để có điều kiện nắm bắt kịp những khoa học kĩ thuật công nghệ mới.
Tuy nhiên, kết quả sau đào tạo vẫn chưa thực sự khả quan;do vậy vẫn tiếp

tục mở các lớp đào tạo xong cần phải đào tạo chuyên sâu, không nên mở
nhiều lớp dàn trải chạy theo chỉ tiêu kế hoạch gây lãng phí, kết quả thu lại
thấp, học viên chỉ nắm được các vấn đề chung chung, không cụ thể khi đi
vào thực tế sẽ gặp khó khăn. Cụ thể:
+Đào tạo một đội ngũ các trưởng đoàn thanh tra về trình tự các bước
thanh tra, phương pháp thu thập và phân tích thông tin, phương pháp tập
hợp và các trình tự giải quyết vấn đề của cuộc thanh tra.
+Chó ý đào tạo đội ngũ cán bộ kế cận để thay thế lớp cán bộ đã sắp đến
tuổi nghỉ hưu. Đối tượng đào tạo phải là những người có trình độ nghiệp
vụ cơ bản, có ngoại ngữ cơ bản, có điều kiện tiếp thu kiến thức mới và tiếp
nhân chuyển giao công nghệ mới
+Đào tạo mới kết hợp với việc sàng lọc cán bộ để có được một đội ngũ
cán bộ thanh tra thực sự mạnh.
+Đào tạo gắn với việc nghiên cứu khoa học qua việc giao các đề tài
nghiên cứu khoa học cấp ngành.
-Đổi mới hoạt động quản lý và điều hành của thanh tra ngân hàng đáp
ứng yêu cầu công tác thanh tra và giám sát đối với các NHTM quốc doanh.
Yêu cầu của việc đổi mới là phải đảm bảo Chánh thanh tra NHNN
điều hành tổ chức và hoạt động thông suốt trong toàn hệ thống. Hiệu quả
của việc điều hành là thấy được vấn đề một cách nhanh nhạy, từ đó có biện
pháp xử lý để tránh diễn ra tình huống xấu.
+Về điều hành: toàn bộ công tác giám sát, thanh tra đối với các NHTM
quốc doanh đặt dưới sự chỉ đạo của người có trách nhiệm duy nhất là
Lê Mạnh Dũng – Líp 4011
- 19 -
Tiểu luận Ngân hàng Trung ương
Chánh thanh tra NHNN. Chánh thanh tra trực thuộc NHNN và chỉ báo cáo
cho Thống đốc hoặc người được Thống đốc uỷ quyền.
Chánh thanh tra chi nhánh NHNNchịu sự quản lý trực tiếp về nghiệp vụ
của Chánh thanh tra NHNN; độc lập và chịu trách nhiệm cao nhất về

những nhận xét, kết luận, kiến nghị trong các báo cáo thanh tra, kiểm tra
các chi nhánh NHTM quốc doanh.
Chánh thanh tra cần có những trách nhiệm, quyền hạn nhất định phù
hợp với vị trí của tổ chức thanh tra ngân hàng, tránh sự lẫn lộn, chồng chéo
về vị trí và quyền hạn.
+Thực hiện giám sát và thanh tra với pháp nhân các NHTM quốc
doanh.
Thanh tra NHNN chịu trách nhiệm giám sát và thanh tra pháp nhân là
các NHTM quốc doanh Việt nam, trực tiếp thanh tra Hội sở chính, các đơn
vị hạch toán độc lập là thành viên của NHTM quốc doanh Việt nam.
Thanh tra chi nhánh tỉnh, thành phố chịu trách nhiệm giám sát và thanh
tra các chi nhánh NHTM quốc doanh tỉnh, thành phố và các chi nhánh
quận, huyện là đơn vị phụ thuộc của các NHTM quốc doanh Việt nam.
+Tăng cường trách nhiệm trong hoạt động tự kiểm tra, kiểm toán nội bộ
của các NHTM quốc doanh.
Các NHTM quốc doanh có mạng lưới và quy mô hoạt động rất rộng,
nhưng lực lượng kiểm tra-kiểm toán nội bộ còn Ýt và yếu; chưa tuân thủ
quy trình kiểm tra-kiểm toán, việc kiểm soát trước không được coi trọng,
kiểm soát sau còn mang tính chất hợp pháp hoá hồ sơ, chưa chú trọng
hướng hoạt động kiểm tra-kiểm toán vào trọng tâm trọng điểm, nhằm đảm
bảo kiÓm soát chặt chẽ các hoạt động có nhiếu rủi ro, đảm bảo an toàn cho
ngân hàng.
Thực trạng trên đây đặt ra yêu cầu rất cấp thiết phải tiếp tục đổi mới
tổ chức và hoạt động của tổ chức kiểm tra-kiểm toán ở các ngân hàng. Vì
vậy, cần sớm củng cố và hoàn thiện tổ chức bộ máy kiểm tra-kiểm toán nội
bộ của ccá NHTM quốc doanh cả về số lượng và chất lượng cán bộ để đủ
sức kiểm soát toàn bộ hoạt động trong toàn bộ hệ thống NHTM.
Đồng thời đổi mới phương thức kiểm tra, thực hiện việc kiểm tra
thường xuyên các hoạt động trong hệ thống NHTM quốc doanh. Mục đích
để nắm nhanh tình hình và có biện pháp khắc phục những tồn tại, khuyết

điểm trong việc thực hiện các quy chế và sự điều hành của ngân hàng cấp
trên, để tham mưu cho Ban lãnh đạo xử lý các vi phạm.
Lê Mạnh Dũng – Líp 4011
- 20 -
Tiểu luận Ngân hàng Trung ương
Hoàn thiện quy trình và nội dung kiểm tra-kiểm toán nội bổ trong từng
hệ thống NHTM quốc doanh để nâng cao chất lượng hoạt động kiểm tra-
kiểm toán nội bộ, trong đó chú trọng nội dung kiểm tra và đảm bảo mọi
hoạt động của ngân hàng đều được kiểm soát chặt chẽ.
Đổi mới trong chỉ đạo điều hành, chuyển tổ chức quản lý và điều
hành về tổng kiểm tra-kiểm toán nội bộ NHTM Trung ương , thay vì chịu
sự quản lý của giám đốc chi nhánh như hiện nay, để hoạt động chủ động,
độc lập và có hiệu lực thực sù.
Sớm đưa ra hoạt động kiểm toán đối với các NHTM quốc doanh để
đảm bảo sự đúng đắn của số liệu báo cáo, phát hiện và uốn nắn việc chấp
hành quy chế ngân hàng Trước hết là hoạt động kiểm toán nội bộ của các
NHTM quốc doanh phải được tổ chức thường xuyên, nghiêm túc. Mặt
khác, phải đưa các hoạt động kiểm toán bên ngoài vào các NHTM quốc
doanh định kỳ theo quy định của NHNN.
Xác định rõ ràng mối quan hệ trách nhiệm giữa thanh tra NHNN và
kiểm toán nội bộ của các NHTM quốc doanh:
. Trách nhiệm về phía kiểm tra-kiểm toán nội bộ của các NHTM quốc
doanh là thực hiện việc báo cáo định kỳ công tác kiểm tra-kiểm toán nội
bộ về thanh tra NHNN để tổng hợp tình hình hoạt động thanh tra, kiểm
soát trong toàn quốc, báo cáo thường xuyên và kịp thời những vấn đề mới
phát sinh nghiêm trọng như khó khăn trong chi trả, rủi ro phạm vi lớn
Trách nhiệm của thanh tra NHNN phải coi trọng tổ chức kiểm tra-kiểm
toán nội bộ trong hệ thống thanh tra-kiểm soát hoạt động của các NHTM
quốc doanh.
Tổ chức kiểm tra-kiểm toán nội bộ các NHTM quốc doanh hoạt động tốt

góp phần rất lớn trong việc giữ cho ngân hàng ổn định. Vì vậy, thanh tra
ngân hàng phải quan tâm cả về công tác đào tạo và giúp đỡ kỹ năng về
kiểm tra-kiểm toán. Vừa thực hiện việc kiểm tra các hoạt động kiểm tra-
kiểm toán nội bộ, trong đó chú trọng trách nhiệm kiểm soát bảo vệ an toàn
tài sản và những yếu kém trong hoạt động kiểm tra-kiểm toán nội bộ để
kiến nghị Ban lãnh đạo có biện pháp chấn chỉnh kịp thời.



Lê Mạnh Dũng – Líp 4011
- 21 -
Tiểu luận Ngân hàng Trung ương
Lê Mạnh Dũng – Líp 4011
- 22 -
Tiểu luận Ngân hàng Trung ương
kết luận
Hoạt động Thanh tra của hệ thống Ngân hàng Nhà nước là một lĩnh
vực rất quan trọng đối với mọi quốc gia, đó là công cụ sắc bén để thực hiện
sự quản Hoạt động Thanh tra của hệ thống Ngân hàng Nhà nước là một
Lĩnh vực rất lý Nhà nước trong lĩnh vực hoạt động ngân hàng. Do vậy,
Ngân hàng Nhà nước phải thường xuyên tăng cường các biện pháp thanh
tra-giám sát đối với các Ngân hàng thương mại quốc doanh; giúp cho hệ
thống các Ngân hàng thương mại quốc doanh hoạt động ổn định, an toàn,
hiệu quả, bảo vệ quyền và lợi Ých hợp pháp của người gửi tiền, phục vụ
việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia và góp phần ổn định xã hội.
Với vai trò và vị trí quan trọng như vậy, hoạt động thanh tra ngân hàng
cần phải từng bước hoàn thiện tổ chức và hoạt động của mình để đáp ứng
yêu cầu cùng những thời cơ và thách thức mới cần phải vượt qua.
Hoạt động của thanh ta ngân hàng phải luôn gắn với phương châm
“ngăn ngừa là chính”, phát hiện và xử lý kịp thời các sai phạm, phân tích

các thiếu sót, vi phạm xảy ra để các tổ chức tín dụng tiếp thu và sửa
chữa;nhằm đưa hoạt động tiền tệ và ngân hàng dần đi vào kỷ cương, tuân
thủ các nguyên tắc, luật lệ, chế độ. Thông qua hoạt động, thanh tra ngân
hàng góp phần nhất định vào việc xây dựng chính sách, thể lệ, chế độ
trong lĩnh vực ngân hàng. Song song với việc thanh tra nhằm duy trì sự ổn
định của hệ thống các tổ chức tín dụng, thanh tra ngân hàng còn tổ chức tốt
nhiệm vụ giải quyết các vụ khiếu nại, tố cáo liên quan đến cán bộ các ngân
hàng liên quan đến quyền và lợi Ých của các tổ chức kinh tế, của nhân dân
và của các tổ chức tín dụng, giúp cho việc xử lý của các cấp lãnh đạo được
kịp thời, hạn chế các vụ việc phát sinh trong quá trình hoạt động của hệ
thống các ngân hàng thương mại; đưa hệ thống ngân hàng nước ta phát
triển vững mạnh, nhanh chóng hội nhập với các nước và các khu vực trên
thế giới.

Lê Mạnh Dũng – Líp 4011
- 23 -
Tiểu luận Ngân hàng Trung ương
TÀI LIỆU THAM KHẢO
*****

1. Tài liệu giảng dạy môn: Nghiệp vụ NHTƯ của bộ môn Tiền tệ-
HVNH.
2. Thêi báo ngân hàng-năm 2003.
3. Thống kê tạp chí ngân hàng thế giới.
4. Tạp chí ngân hàng số 11 năm 2003.
5. Tạp chí ngân hàng số 10 năm 2002.
6. Giáo trình nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng-HVNH.
7. Quy định về các tỷ lệ đảm bảo an toàn hoạt động của TCTD
(Ban hành kèmtheo quyết định số 297/1999/QĐ-NHNN5 ngày
25/8/1999 của Thống đốc NHNN ).


Lê Mạnh Dũng – Líp 4011
- 24 -
Tiểu luận Ngân hàng Trung ương
Mục lục

Lời nói đầu
Phần I : Lý luận chung về thanh tra, giám sát của NHTƯ đối với
các TCTD .
I Những vấn đề cơ bản của thanh tra tại chỗ của NHNN với các TCTD
1 . Mục đích của hoạt động thanh tra
2 . Đối tượng của thanh tra ngân hàng
3 . Nhiệm vụ, quyền hạn của thanh tra ngân hàng
4 . Nguyên tắc hoạt động thanh tra ngân hàng
II Tầm quan trọng của hoạt động thanh tra đối với các TCTD
III Nội dung hoạt đông thanh tra của NHNN đối với các TCTD
1 . Kiểm tra về tổ chức
2 . Kiểm tra về kế toán
3 . Đánh giá về chất lượng TSC và TSN
4 . Kiểm tra về tình hình kinh doanh ngoại tệ
Phần II: Thực trạng hoạt động của thanh tra NHNN Việt nam
trong thời gian qua
I Thực trạng về tổ chức và hoạt động của thanh tra NHNN
đối với các TCTD
II Kết quả thanh tra, giám sát của NHTƯ đối với các TCTD
III Những hạn chế trong công tác thanh tra của NHNN đối với
các TCTD
IV Nguyên nhân của những hạn chế trong công tác tranh tra của
NHNN đối với các TCTD
Phần III: Một số giải pháp nhằm tăng cường hiệu lực của thanh tra

NHNN Việt Nam đối với các TCTD
I/. Một số giải pháp chung mang tính xuyên suốt toàn bộ hoạt
động của hệ thống thanh tra ngân hàng
Lê Mạnh Dũng – Líp 4011
- 25 -

×