A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Tục ngữ Việt Nam có câu:
“ Lời nói chẳng mất tiền mua
Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau
Giao tiếp có vị trí hết sức quan trọng trong việc hình thành nhân cách con
người. Giao tiếp là một quá trình quan trọng đối với mỗi cá nhân, nhóm, xã hội
bao gồm tạo ra và hồi đáp lại thông điệp thích nghi với con người và môi
trường. Giao tiếp còn là mối quan hệ qua lại giữa con người với con người. Vì
vậy, giao tiếp là hoạt động rất cần thiết đối với mỗi người. Với học sinh hoạt
động giao tiếp cũng vô cùng quan trọng vì nếu giao tiếp tốt sẽ giúp các em học
tập tốt, xây dựng được các mối quan hệ thân thiện, tốt nhất, sẽ thể hiện được khả
năng nhận thức, phép lịch sự của bản thân trong quá trình học tập và trong các
hoạt động của một người học sinh. Ở nước ta, để nâng cao chất lượng giáo dục
toàn diện thế hệ trẻ, đáp ứng nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế và nhu cầu phát
triển của người học. Năm học 2012 - 2013 này, nội dung giáo dục kĩ năng sống
đã được tích hợp trong một số môn học và hoạt động giáo dục có tiềm năng
trong trường phổ thông; Việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh còn được thực
hiện thông qua nhiều chương trình, dự án như: Giáo dục bảo vệ môi trường, giáo
dục phòng chông HIV/ AIDS, giáo dục phòng chống ma tuý. Đặc biệt, rèn luyện
kĩ năng sống mà trong đó có kĩ năng giao tiếp được xác định là một trong những
nội dung cơ bản của phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học
sinh tích cực” trong các trường phổ thông, giai đoạn 2008-2013 do Bộ Giáo dục
và Đào tạo chỉ đạo. Hiện nay, giáo dục phổ thông đã và đang được đổi mới
mạnh mẽ theo bốn trụ cột của giáo dục thế kỉ XXI, mà thực chất là cách tiếp cận
kĩ năng sống, đó là: Học để biết, Học để làm, Học để tự khẳng định mình và
Học để cùng chung sống. Mục tiêu giáo dục phổ thông đã và đang chuyển
hướng từ chủ yếu là trang bị kiến thức sang trang bị những năng lực cần thiết
cho các em học sinh. Phương pháp giáo dục phổ thông cũng đã và đang được
đổi mới theo hướng phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của người
học, phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, tăng cường khả năng làm việc theo
nhóm, rèn luyện khả năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình
cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh. Kĩ năng sống thúc đẩy sự
phát triển cá nhân và xã hội vì nó chính là những nhịp cầu giúp con người biến
kiến thức thành thái độ, hành vi và thói quen tích cực, lành mạnh. Người có kĩ
năng sống phù hợp sẽ luôn vững vàng trước những khó khăn, thử thách; biết ứng
xử, giải quyết vấn đề một cách tích cực và phù hợp. Giáo dục kĩ năng sống là
yêu cầu cấp thiết đối với thế hệ trẻ vì các em chính là những chủ nhân tương lai
của đất nước, là những người sẽ quyết định sự phát triển của đất nước trong
những năm tới, lứa tuổi học sinh là lứa tuổi đang hình thành những giá trị nhân
cách, giàu ước mơ, ham hiểu biết, thích tìm tòi khám phá song còn thiếu hiểu
1
biết sâu sắc về xã hội , còn thiếu kinh nghiệm sống, dễ bị lôi kéo, kích động. Vì
vậy, giáo dục kĩ năng sống cho thế hệ trẻ là rất cần thiết, giúp các em rèn luyện
hành vi có trách nhiệm đối với bản thân, gia đình, cộng đồng và Tổ quốc. Giáo
dục kĩ năng sống nhằm thực hiện yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông và là xu
thế chung của nhiều nước trên thế giới.
Mục tiêu giáo dục kĩ năng sống nhằm mục tiêu: Trang bị cho học sinh
những kiến thức, giá trị, thái độ và kĩ năng phù hợp. Trên cơ sở đó hình thành
cho học sinh những hành vi, thói quen lành mạnh, tích cực; loại bỏ những hành
vi, thói quen tiêu cực trong các mối quan hệ, các tình huống và hoạt động hàng
ngày.
Vậy làm thế nào để học sinh có được kĩ năng sống? Đặc biệt kĩ năng giao
tiếp ngày một tốt hơn thích nghi trong học tập và trong cuộc sống. Chính điều đó
đã giúp tôi lựa chọn đề tài là:“Giáo dục kĩ năng giao tiếp cho học sinh lớp 4”.
Học sinh lớp 4B trường Tiểu học Thị Trấn Cẩm Thủy.
2
B . GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN
Kĩ năng sống được hiểu là khả năng làm chủ bản thân của mỗi người, khả
năng ứng xử phù hợp với những người khác và với xã hội, khả năng ứng phó
tích cực trước các tình huống của cuộc sống. Chúng ta cần giáo dục và rèn luyện
cho học sinh thế kỉ 21 kĩ năng sống bao gồm các kĩ năng: nhận thức, xác định
giá trị, kiểm soát cảm xúc, ứng phó với căng thẳng, tìm kiếm sự hỗ trợ, thể hiện
sự tự tin, giao tiếp, lắng nghe tích cực. Trong đó kĩ năng giao tiếp là khả năng có
thể bày tỏ ý kiến của bản thân theo hình thức nói, viết hoặc sử dụng ngôn ngữ cơ
thể một cách phù hợp với hoàn cảnh và văn hoá, đồng thời biết lắng nghe, tôn
trọng ý kiến người khác ngay cả khi bất đồng quan điểm. Bày tỏ ý kiến bao gồm
cả bày tỏ về suy nghĩ, ý tưởng, nhu cầu, mong muốn và cảm xúc, đồng thời nhờ
sự giúp đỡ và sự tư vấn khi cần thiết. Kĩ năng Giao tiếp giúp con người biết
đánh giá tình huống giao tiếp và điều chỉnh cách giao tiếp một cách phù hợp,
hiệu quả; cởi mở bày tỏ suy nghĩ, cảm xúc nhưng không làm hại hay gây tổn
thương cho người khác. Kĩ năng giao tiếp giúp chúng ta có mối quan hệ tích cực
với người khác, bao gồm biết gìn giữ mối quan hệ tích cực với các thành viên
trong gia đình - nguồn hỗ trợ quan trọng cho mỗi chúng ta; đồng thời biết cách
xây dựng mối quan hệ với bạn bè mới và đây là yếu tố rất quan trọng đối với
niềm vui cuộc sống. Kĩ năng giao tiếp là yếu tố cần thiết cho nhiều kĩ năng khác
như bày tỏ sự cảm thông, thương lượng, hợp tác, tìm kiếm sự giúp đỡ, giải quyết
mâu thuẫn, kiểm soát cảm xúc. Người có kĩ năng giao tiếp tốt sẽ biết dung hoà
đối với mong đợi của những người khác; có cách ứng xử phù hợp khi làm việc
cùng và ở cùng với những người khác trong một môi trường tập thể, quan tâm
đến những điều người khác quan tâm và giúp họ có thể đạt được những điều họ
mong muốn một cách chính đáng. Giáo dục kĩ năng giao tiếp cho học sinh tiểu
học nói chung là một vấn đề hết sức cần thiết mà đòi hỏi các yếu tố Nhà trường,
Gia đình và Xã hội cần chung tay góp sức giáo dục đặc biệt là Nhà trường mà
lực lượng nòng cốt để giáo dục trực tiếp các em ở đây là giáo viên.
II.THỰC TRẠNG VÀ KẾT QUẢ CỦA THỰC TRẠNG
1. Thực trạng :
Trong những năm gần đây, do tác động của mặt trái nền kinh tế thị
trường, một số học sinh đã có biểu hiện giao tiếp không phù hợp với hoàn cảnh,
chưa giữ đúng phép lịch sự, không mang lại hiệu quả trong giao tiếp. Hoặc có
những người mặc dù có hiểu biết, có trình độ chuyên sâu nhưng khi đứng trước
công chúng lại mất bình tĩnh, nói không nên lời, diễn đạt không ai hiểu được.
Hay ngay cả một số cuộc thi lớn, họ đã đánh mất điểm trước giám khảo chỉ vì
khả năng giao tiếp, ứng khẩu chưa tốt.
Trong trường học xuất hiện một bộ phận nhỏ học sinh có những cử chỉ,
lời nói chưa đẹp mà người ta thường gọi đó là vi phạm đạo đức như còn nói tục,
chửi thề, nói chưa hay, làm việc chưa tốt, nhiều học sinh chỉ vì câu nói mà gây
3
gỗ với nhau. Điều này đã làm cho mọi người trong xã hội chì chích về chất
lượng giáo dục hiện nay mới chỉ quan tâm rèn chữ mà chưa quan tâm rèn người
cụ thể là kĩ năng giao tiếp, ứng xử của học sinh.
2 . Kết quả thực trạng: Lớp 4B, khảo sát về kĩ năng giao tiếp của 30 học sinh
Trong lớp, đã thu được kết quả như sau:
Năm học Học sinh có kĩ năng
giao tiếp tốt
Học sinh có kĩ năng
giao tiếp chưa tốt
Năm học 2011-2012 12 em = 40% 18em = 60%
Đầu năm học 2012-2013 15 em= 50% 15 em =50%
Kết quả thực trạng ở lớp 4B trường Tiểu học Thị Trấn cho thấy giáo dục
kĩ năng sống, đặc biệt là kĩ năng giao tiếp cho học sinh là rất cần thiết và cấp
bách, đòi hỏi mỗi giao viên phải suy nghĩ tìm ra phương pháp giáo dục hiệu quả
nhất để giúp học sinh có kĩ năng giao tiếp phù hợp trong mọi tình huống trong
học tập và trong các hoạt động tập thể và một số hoạt động khác. Giáo dục các
em có kĩ năng giao tiếp tốt tạo cho mối quan hệ của các em trở nên thân thiện
gần gũi nhau hơn, giao tiếp thân thiện bằng cách “gọi bạn, xưng tôi”, nói năng
có chủ ngữ, kính trọng lễ phép với thầy cô và người trên, thực hiện tốt phong
trào thi đua “ Nói lời hay, làm việc tốt” , lớp học ngày càng thân thiện hơn.
III. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN :
1. Giáo viên hiểu tầm quan trọng của việc giáo dục kĩ năng sống đặc biệt là
kĩ năng giao tiếp
Kĩ năng sống thúc đẩy sự phát triển cá nhân và xã hội vì kĩ năng sống
chính là những nhịp cầu giúp con người biến kiến thức thành thái độ, hành vi và
thói quen tích cực, lành mạnh. Người có kĩ năng phù hợp sẽ luôn vững vàng
trước những khó khăn, thử thách Ngược lại người thiếu kĩ năng sống thường bị
vấp váp, dễ bị thất bại trong cuộc sống. Người không có kĩ năng ra quyết định sẽ
dễ mắc sai lầm hoặc chậm trễ hơn những người khác và thường có cách ứng phó
tiêu cực khi bị căng thẳng, làm ảnh hưởng không tốt đến sức khoẻ, học tập, công
việc của bản thân. Người không có kĩ năng giao tiếp sẽ khó khăn hơn trong xây
dựng các mối quan hệ tốt đẹp với mọi người xung quanh, sẽ khó khăn hơn trong
hợp tác cùng làm việc, giải quyết những nhiệm vụ chung. Không những thúc
đẩy sự phát triển cá nhân, kĩ năng sống còn góp phần thúc đẩy sự phát triển của
xã hội, giúp ngăn ngừa các vấn đề tiêu cực trong xã hội và bảo vệ quyền con
người. Việc thiếu kĩ năng sống của cá nhân là một nguyên nhân làm nảy sinh
nhiều vấn đề xã hội như: nghiện rượu, nghiện ma tuý, mại dâm, cờ bạc. Việc
giáo dục kĩ năng sống sẽ thúc đẩy những hành vi mang tính xã hội tích cực, giúp
nâng cao chất lượng cuộc sống xã hội và giảm các vấn đề xã hội. Giáo dục kĩ
4
năng sống còn giải quyết một cách tích cực nhu cầu và quyền con người, quyền
công dân được ghi trong luật pháp Việt Nam và quốc tế.
Giáo dục kĩ năng sống là yêu cầu cấp thiết đối với thế hệ trẻ, bởi vì: Các
em chính là những chủ nhân tương lai của đất nước, là những người sẽ quyết
định sự phát triển của đất nước trong những năm tới. Nếu không có kĩ năng
sống, các em sẽ không thể thực hiện tốt trách nhiệm đối với bản thân, gia đình,
cộng đồng và đất nước. Lứa tuổi học sinh là lứa tuổi đang hình thành những giá
trị nhân cách, giàu ước mơ, ham hiểu biết, thích tìm tòi, khám phá song còn
thiếu hiểu biết sâu sắc về xã hội, còn thiếu kinh nghiệm sống, dễ bị lôi kéo kích
động. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, thế hệ trẻ thường xuyên chịu tác động
đan xen của những yếu tố tích cực và tiêu cực, luôn được đặt vào hoàn cảnh phải
lựa chọn những giá trị, phải đương đầu với những khó khăn, thử thách, những áp
lực tiêu cực. Nếu không được giáo dục kĩ năng sống, nếu thiếu kĩ năng sống, các
em dễ bị lôi kéo vào các hành vi tiêu cực, bạo lực, vào lối sống ích kỉ, lai căng,
thực dụng, dễ bị phát triển lệch lạc về nhân cách. Một trong các nguyên nhân
dẫn đến các hiện tượng tiêu cực của một bộ phận học sinh phổ thông trong thời
gian vừa qua chính là do các em thiếu những kĩ năng cần thiết như: kĩ năng xác
định giá trị, kĩ năng từ chối, kĩ năng kiên định, kĩ năng giải quyết mâu thuẫn, kĩ
năng thương lượng, kĩ năng giao tiếp. Vì vậy, việc giáo dục kĩ năng sống cho
các em là rất cần thiết, giúp các em rèn luyện hành vi có trách nhiệm đối với bản
thân, gia đình, cộng đồng và Tổ quốc; giúp các em có khả năng ứng phó tích cực
trước các tình huống của cuộc sống, xây dựng mối quan hệ tốt đẹp với gia đình,
bạn bè và mọi người, sống tích cực, chủ động, an toàn, hài hoà và lành mạnh.
Giáo dục kĩ năng sống nhằm thực hiện yêu cầu đổi mới giáo dục phổ
thông. Vì Đảng ta đã xác định con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự
phát triển xã hội. Để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước, cần phải có những người lao động mới phát triển toàn diện, do vậy
cần phải đổi mới giáo dục nói chung và đổi mới giáo dục phổ thông nói riêng.
Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh là xu thế chung của nhiều nước trên thế
giới.
Hiểu được ý nghĩa và tầm quan trọng của giáo dục kĩ năng sống đặc biệt
là kĩ năng giao tiếp của học sinh hiện nay, người giáo viên mới xây dựng kế
hoạch giáo dục kĩ năng giao tiếp và thực hiện kế hoạch một cách thường xuyên,
liên tục thông qua các môn học, thông qua các hoạt động ngoài giờ, trong các
mối quan hệ giữa cô và trò, giữa trò và trò.
2. Giáo viên gương mẫu về mọi mặt đặc biệt là gương mẫu trong giao tiếp
Trong con mắt của tuổi thơ, thầy cô là người mẹ thứ hai ở trường, tất cả
những gì được nhìn thấy ở thầy cô đều là đúng, là mẫu mực, là nhất. Vì vậy, nếu
thầy cô giao tiếp đúng mực, thân thiện thì học sinh sẽ giao tiếp tốt như thầy cô
bởi giáo viên là tấm gương sáng cho học sinh noi theo. Vì vậy, để giáo dục được
các kĩ năng cho học sinh đặc biệt là kĩ năng giao tiếp đòi hỏi người giáo viên
5
cần gương mẫu về mọi mặt bắt đầu từ lời nói cho đến cử chỉ và việc làm, để
thực sự là tấm gương sáng cho học sinh noi theo. Chính vì vậy, giáo viên cần
gương mẫu trong từng lời giảng, từng lời nhận xét, lời đánh giá (nói đúng tiếng
phổ thông), cách ứng xử trong mỗi tiết dạy, gương mẫu trong hoạt động tập thể,
trong sinh hoạt lớp, trong mọi tình huống sư phạm (kể cả khi ở nhà) để học sinh
học tập và làm theo. Giáo viên giao tiếp chuẩn mực chắc chắn học sinh sẽ giao
tiếp tốt.
3. Tạo môi trường giáo dục lành mạnh
Môi trường giáo dục phải đảm bảo an toàn, lành mạnh, bảo vệ về thể chất
và tinh thần cho học sinh, hỗ trợ và tạo cảm giác thân thiện, an tâm, hứng thú
học tập và thoải mái vui chơi sinh hoạt cho học sinh. Muốn vậy, người giáo viên
phải tạo cơ hội cho học sinh tự tin giao tiếp trước tập thể lớp, nhóm, cá nhân với
mục đích góp phần nâng cao chất lượng giờ dạy và phát huy hết tính chủ động
sáng tạo, tự giác học tâp của học sinh. Cụ thể là:
- Xây dựng môi trường tinh thần: Môi trường tinh thần là thái độ ứng xử
giữa người với người được thể hiện cụ thể trong mối quan hệ giữa học sinh với
những người trong gia đình, giữa học sinh với giáo viên, giữa học sinh với học
sinh. Để xây dựng môi trường tinh thần mang tính thân thiện tôi đã tiến hành
từng bước như sau :
+ Tìm hiểu hoàn cảnh của từng học sinh ngay đầu năm học thông qua giáo
viên chủ nhiệm lớp trước, qua trao đổi với các bậc phụ huynh trong cuộc họp
phụ huynh của học sinh, trao đổi một cách thân mật, nhằm động viên gia đình
cùng tích cực tham gia giáo dục kĩ năng giao tiếp cho học sinh.
+ Nắm chắc tổng thể nội dung chương trình cả năm học, từng học kì, từng
tháng, từng tuần của lớp chủ nhiệm và nghiên cứu phương pháp dạy học tích
cực, Một trong những yếu tố quan trọng tạo nên một môi trường học tập thân
thiện, học sinh tích cực là sử dụng hiệu quả phương pháp và hình thức dạy học
mới, phương pháp dạy học lấy học sinh làm trung tâm, hoạt động theo nhóm,
theo tổ, đóng vai, trò chơi học tập mang lại hiệu quả cao sẽ góp phần giúp học
sinh tham gia tích cực, chủ động, sáng tạo vào quá trình dạy học .
Đây là giải pháp tốt để giáo dục kĩ năng giao tiếp cho học sinh. Lớp học có
thân thiện thì mọi học sinh trong lớp mới thân thiện trong cử chỉ, lời nói, thân
thiện trong học tập, thân thiện trong hoạt động và vui chơi. Lớp học thân thiện
giúp các em gần gũi nhau hơn, quan tâm và giúp đỡ nhau một cách chân tình, có
những hành vi, cử chỉ, lời nói thực sự đẹp đẽ và chuẩn mực.
4. Phối kết hợp với phụ huynh học sinh trong việc giáo dục kĩ năng giao tiếp
cho học sinh
Đây là giải pháp cần thiết để giáo dục kĩ năng giao tiếp cho học sinh. Gia
đình cùng theo dõi, giúp học sinh rèn kĩ năng khi ở nhà, để quá trình giáo dục
được thường xuyên và liên tục. Vì nếu chỉ có giáo viên tham gia việc giáo dục kĩ
6
năng giao tiếo cho học sinh thì khi ở nhà có em thực hiện tốt giao tiếp nhưng
cũng có em không thực hiện được hoặc quên giao tiếp lịch sự, đúng yêu cầu…
Giáo viên cần trao đổi để phụ huynh nắm được tầm quan trọng và yêu cầu cần
thiết của việc giáo dục các kĩ năng trong đó có kĩ năng giao tiếp, phụ huynh ủng
hộ và cùng giúp đỡ giáo viên khi học sinh ở nhà. Muốn như vậy, giáo viên cần
yêu cầu các bậc phụ huynh phải gương mẫu trong từng lời nói, việc làm thì mới
giáo dục được con em mình. Có như vậy giáo viên mới thực hiện thành công
nhiệm vụ mà mình đã đặt ra.
Iv. CÁC BIỆN PHÁP TỔ CHỨC THỰC HIỆN
Để giáo dục kĩ năng giao tiếp cho học sinh lớp 4B do tôi chủ nhiệm và
giảng dạy, tôi đã trăn trở suy nghĩ và lựa chọn cho mình một số biện pháp thực
hiện như sau:
1. Giáo dục kĩ năng giao tiếp qua các tiết học:
Thông qua các tiết học giáo viên giáo dục kĩ năng giao tiếp cho học sinh.
Ví dụ: Tiết Kể chuyện, giáo viên yêu cầu học sinh kể lại câu chuyện cho cả lớp
nghe, giúp học sinh rèn kĩ năng giao tiếp trước đám đông, mạnh dạn và tự tin,
nói năng ngày càng lưu loát hơn. Khi kể xong mời các bạn nhận xét, trao đổi về
nội dung ý nghĩa câu chuyện, nhận xét về tính cách của các nhân vật trong
truyện, giúp các em tạo cảm giác tự tin khi trao đổi một vấn đề, cách giải quyết
một vấn đề có hiệu quả nhất.
- Trong tiết Khoa học qua việc tổ chức học nhóm, đã rèn cho học sinh kĩ
năng giao tiếp trước các bạn, kĩ năng hợp tác cùng chung sức làm việc, giúp đỡ,
hỗ trợ lẫn nhau trong một công việc.
- Trong tiết Toán, khi học sinh đánh giá, nhận xét bài làm của bạn, các em
đã được rèn kĩ năng giao tiếp một cách đúng mực và kĩ năng chia sẻ. Chẳng hạn:
Bạn làm sai, nhận xét là: "Theo tớ, cách giải thế này" chứ không nói là:"Cậu làm
sai rồi" hoặc nhận xét một cách không tế nhị.
- Thông qua tiết “Tập đọc”, giáo dục học sinh cách đọc hay, đọc diễn
cảm, lôi cuốn người nghe qua hoạt động “ Hướng dẫn đọc hay" đã rèn cho học
sinh cách diễn đạt, thuyết trình hấp dẫn lôi cuốn.
- Trong các bài học Đạo đức, qua hoạt động thảo luận nhóm, đóng vai, đã
giáo dục các em biết tham gia ý kiến của mình một cách tự tin thoải mái, giáo
dục các em biết gần gũi, quan tâm chia sẻ và thân thiện với bạn, biết giúp đỡ bạn
khi cần; từ đó lớp tạo ra một lớp học đoàn kết và thân thiện, các em giao tiếp với
nhau thoải mái và vui vẻ với nhau hơn.
2. Giáo dục kĩ năng giao tiếp qua học nhóm:
Bạn và tôi là giao tiếp thân thiện trong nhóm. Tổ chức nhóm là nhằm tạo
cơ hội cho mọi đối tượng được nói, được trình bày miệng trước tổ, được mạnh
dạn trình bày và biết cách trình bày một vấn đề nào đó trước tập thể. Từ đó, giúp
7
các em rèn kỹ năng giao tiếp, biểu hiện thái độ cử chỉ khi trình bày để tăng thêm
sức biểu cảm, tăng sức thuyết phục của vấn đề mà mình trình bày, cũng nhờ đó
các em tự tin hơn trong giao tiếp, mạnh dạn hơn khi nói trước đông người .
Tôi xác định cần tạo ra môi trường học tập thân thiện cho các em, giúp
các em hợp tác tốt hơn trong hoạt động nhóm, phát huy tinh thần “Học thầy
không tầy học bạn” tôn trọng lắng nghe ý kiến của bạn, suy nghĩ và lựa chọn để
đưa ra ý kiến riêng của mình. Tránh làm mất đi tính tự tin dẫn đến tiêu cực.
Chẳng hạn:
Khi dạy Khoa học ở lớp 4:
- Tôi thường tổ chức cho học sinh hoạt động theo nhóm, với nhiệm vụ
mỗi em trong nhóm cùng thảo luận bàn bạc và đi đến thống nhất một nội dung
mà giáo viên yêu cầu thảo luận, cử một bạn ghi vào bảng nhóm kết quả đã thống
nhất. Khi các nhóm đã thực hiện xong nhiệm vụ. Tôi tổ chức cho các nhóm trình
bày trước lớp để cả lớp cùng nhận xét về cách trình bày của nhóm bạn.Tôi thận
trọng quan sát tất cả hoạt động giao tiếp của các em, sau đó nhẹ nhàng nhắc nhở.
Kết quả tham gia các hoạt động nhóm, các em có thể rèn luyện cho mình
cách nói năng rõ ràng, mạch lạc, tự tin.
Khi hoạt động cả lớp thì giáo viên nêu yêu cầu qua cách đặt câu hỏi:
Ví dụ: Em nào có ý kiến?
Em nào trả lời câu hỏi?
Nhóm nào trình bày trước lớp?
Em nào có ý kiến khác?
Với cách giao tiếp như vậy, học sinh cảm thấy tiết học nhẹ nhàng, thân thiện
cởi mở không gò bó, các em có cảm giác thoải mái, tiết học thực sự hứng thú,
tạo nên tiết học sinh động mang lại hiệu quả cao hơn.
Qua việc tổ chức học nhóm trong các môn học như Tiếng Việt, Đạo đức,
Khoa học các em là những người tự giác và chủ động tìm và nói ra kiến thức
đã khám phá; Mỗi khi báo cáo kết quả, giáo viên chú ý rèn học sinh ý thức tôn
trọng và lắng nghe ý kiến của bạn, của nhóm khác, tự tin và tự giác cùng trao
đổi, bàn bạc để hoàn thành nhiệm vụ chung của nhóm, dám nói ra suy nghĩ hoặc
bảo vệ ý kiến của nhóm mình trước tập thể, trước các nhóm khác một cách
đúng đắn, theo hướng tích cực.
Qua học nhóm các em ngày một mạnh dạn hơn, nói năng tự tin hơn.
3. Giáo dục kĩ năng giao tiếp trong sinh hoạt đội
Hoạt động Đội là hoạt động tập thể có ý nghĩa quan trọng đối với học sinh
lớp 4, vì có những em vừa mới được kết nạp vào Đội ở đầu năm lớp 4. Chính
hoạt động Đội đã giúp các em thấy mình dường như lớn lên, trưởng thành hơn,
vào Đội các em được giao lưu, học hỏi với các bạn đội viên khác trong trường,
8
được hoạt động chung, được tham gia các phong trào, các cuộc thi do Đội tổ
chức như: thi văn nghệ, thi phụ trách sao giỏi, thi chúng em là học sinh Tiểu
học. Qua hoạt động Đội rèn cho các em nhiều kĩ năng giao tiếp mới đó là giao
tiếp với các anh chị Phụ trách Chi đội, các Đội viên, các Sao, giao tiếp vơi các
bạn trong Ban chỉ huy Liên đội, tạo cho các em giao tiếp trong các mối quan hệ
đa dạng hơn. Giáo dục các em biết giao tiếp phù hợp trong các tình huống của
môi trường mới mà người đội viên tham gia.
4. Giáo dục kĩ năng giao tiếp thông qua các hoạt động tập thể khác
Đối với học sinh tiểu học khi đến trường các em vừa được học tập và vui
chơi, Hoạt động tập thể là một hoạt động cần thiết. Vì thế giáo viên cần chú ý
rèn kĩ năng giao tiếp cho học sinh không chỉ trong học tập, trong sinh hoạt Đội
mà còn phải chú ý rèn kĩ năng giao tiếp cho học sinh trong cả các hoạt động tập
thể, bao gồm: Hoạt động ngoài giờ lên lớp, sinh hoạt lớp, sinh hoạt đầu giờ.
Trong các hoạt động này học sinh là người thực hiện. Để rèn được kĩ năng giao
tiếp, giáo viên phải cùng sinh hoạt với các em, giáo viên lắng nghe đồng thời
hướng học sinh giao tiếp một cách lịch sự, không chỉ chích nhau trong tiết sinh
hoạt mà chỉ khuyên các bạn cố gắng khắc phục những khuyết điểm, phát huy
những ưu điểm để thực hiện một cách tốt hơn trong tuần tiếp theo. Đồng thời
biết lắng nghe ý kiến của nhau, giao tiếp cởi mở, thân thiện “ Gọi bạn, xưng
tôi”.
- Hoạt động tập thể giúp các em giao tiếp và ứng xử tình huống giao tiếp
một cách linh hoạt.
5. Giao tiếp trong các hoạt động vui chơi:
- Hoạt động vui chơi, đặc biệt là trong giờ ra chơi, học sinh thường có
những biểu hiện không tốt bằng trong giờ học. Phần lớn học sinh mắc lỗi vào
giờ ra chơi. Vì thế trong giờ ra chơi, giáo viên cần theo dõi, quán xuyến đến mọi
học sinh trong trường, trong lớp, chú ý xem các em chơi trò chơi gì, nói năng
với nhau ra sao, nhắc nhở những học sinh còn nói năng chưa phù hợp. Có như
vậy học sinh mới chú ý rèn cách nói của mình cho đúng cho phù hợp. Qua một
vài lần được cô quan tâm các em sẽ có những giờ ra chơi thực sự vui vẻ và bổ
ích, khi vào lớp tiết học càng thêm hứng thú, lôi cuốn.
Vì vậy giáo viên cần hướng học sinh tham gia các trò chơi lành mạnh, có
ý nghĩa, có tinh thần tập thể như: chơi chuyền, chắt, nhảy dây, đá cầu, kéo co.
Có như vậy mới giáo dục được cho học sinh kĩ năng giao tiếp với nhau và tạo ra
tinh thần đồng đội.
6. Giáo dục kĩ năng giao tiêp khi ở nhà:
Thực tế cho thấy nhiều học sinh ở trường rất ngoan nhưng về nhà lại
ngược lại. Lí do là vì ở trường có các thầy cô và các bạn theo dõi và đánh giá
xếp loại hạnh kiểm, còn ở nhà bố mẹ chỉ nhắc nhở chứ không xếp loại. Để các
em vừa giao tiếp tốt ở trường vừa giao tiếp tốt ở nhà và ở mọi nơi, mọi lúc, tôi
9
đã hướng dẫn học sinh cùng học nhóm ở nhà để từ đó các em theo dõi, giúp
nhau trong cả học tập lẫn ứng xử cụ thể là giao tiếp với ông bà, bố mẹ hay anh,
chị em trong gia đình thông qua sự phối kết hợp bằng việc thông tin hai chiều
giữa giáo viên và phụ huynh học sinh, trao đổi một cách thường xuyên về tình
hình của con em mình ở nhà. Nếu em nào mắc lỗi hoặc vi phạm trong cách ăn
nói hay cư xử chưa đúng mực khi ở nhà, tôi nhẹ nhàng gặp riêng để nói chuyện,
nhắc nhở và khuyên bảo. Nhờ đó mà đã rèn cho học sinh trong lớp kĩ năng giao
tiếp đúng mực, phù hợp trong mọi tình huống ở nhà hay ở trường.
7. Giáo dục kĩ năng giao tiếp kết hợp với giáo dục các kĩ năng khác
Kĩ năng giao tiếp là một trong 21 kĩ năng mà học sinh cần có và rèn
luyện. Học sinh có kĩ năng giao tiếp tốt sẽ tạo điều kiện cho 20 kĩ năng khác
cũng tốt hơn. Vì thế, người giáo viên phải coi việc giáo dục kĩ năng khác cũng
có ý nghĩa quan trọng như giáo dục kĩ năng giao tiếp cho học sinh, phối kết hợp
giáo dục kĩ năng giao tiếp cùng với việc giáo dục các kĩ năng khác theo địa chỉ
tích hợp trong các môn học theo qui định và mọi lúc, mọi nơi phù hợp trong
từng hoàn cảnh cụ thể. Có như vậy mới giúp học sinh phát triển một cách toàn
diện và đầy đủ.
V. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC:
Với những biện pháp mà tôi đã đưa ra và quá trình tổ chức thực hiện trong
thời gian gần một năm học, tôi đã nhận thấy rất rõ về khả năng giao tiếp của học
sinh lớp 4B do tôi chủ nhiệm được hoàn thiện ngày càng rõ rệt. Học sinh có kĩ
năng giao tiếp cũng như các kĩ năng khác, các em học sinh sẽ mạnh dạn, tự tin
trong giao tiếp hơn, lớp học ngày càng thân thiện, đoàn kết hơn, mọi hành vi cử
chỉ đẹp được hình thành và nhân rộng, chất lượng học tập cũng dần được nâng
lên một cách rõ rệt. Giáo viên chủ nhiệm dễ dàng hơn trong việc rèn nề nếp lớp
tự quản. Mối quan hệ cô-trò thân thiện, học sinh quý mến thầy cô, tạo hứng thú
học tập cho học sinh. Tuy nhiên kĩ năng giao tiếp cũng như các kĩ năng khác
không thể hình thành trong “ngày một, ngày hai” mà đòi hỏi phải có cả quá
trình: nhận thức - hình thành thái độ - thay đổi hành vi, phải trải qua cả một quá
trình bền bỉ rèn rũa và trải nghiệm thực tế mới tích luỹ được. Vì thế việc giáo
dục kĩ năng sống cho học sinh phải là việc thường xuyên, làm lâu dài và thường
xuyên mới đạt kết quả.
Thực tế chứng minh trong năm học này tôi đã giáo dục cho học sinh giao
tiếp thân thiện, đạt được kết quả như sau:
Năm học
2012-2013
Hoc sinh có kĩ năng
giao tiếp tốt
Hoc sinh có kĩ năng
giao tiếp chưa tốt
Đầu năm học 15 em= 50% 15 em =50%
10
Kết thúc tháng 3/2013 28 em = 93.3% 2 em = 6.7%
C. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
1. Kết luận:
Giáo dục học sinh giao tiếp tốt trong học tập, trong sinh hoạt và vui chơi
là việc làm góp phần thực hiện tốt phong trào thi đua“Xây dựng trường học thân
thiện, học sinh tích cực” là một yêu cầu cần thiết góp phần quan trọng vào mục
tiêu, nội dung và phương pháp dạy học gắn với bốn trụ cột của giáo dục thế kỉ
XXI: Học để biết, học để làm, học để tự khẳng định, học để cùng chung sống.
Rèn kĩ năng giao tiếp là một trong 21 kĩ năng cần rèn luyện cho học sinh trong
nhà trường được xác định là một trong năm nội dung của phong trào thi đua
“Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” trong các trường phổ thông,
giai đoạn 2008 - 2013 do Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ đạo.
Vì vậy giáo viên cần phải xác định rõ trong mỗi tiết dạy là:
- Dạy học theo hướng đổi mới phương pháp luôn xác định học sinh là
trung tâm.
- Phải căn cứ vào đặc điểm của mạch kiến thức mà lựa chọn, thể hiện
phương pháp dạy học phù hợp để giờ dạy có hiệu quả.
- Phải xác định nội dung dạy học của bài là gì? có những cách tổ chức
hoạt động học tập nào ? cách nào phù hợp với nội dung bài và học sinh lớp
mình, câu hỏi nên đặt ra như thế nào vừa mang tính thân thiện vừa thu hút chú ý
của học sinh.
- Giải quyết như thế nào khi học sinh trả lời chưa đúng, nói năng chưa
phù hợp để khỏi mất lòng tin của học sinh.
Có như vậy chúng ta mới phát huy đựơc tính tích cực chủ động của học
sinh trong học tập, vui chơi. Các em sẽ chủ động dựa trên kiến thức đã học để
lĩnh hội liến thức mới. Lớp học sẽ trở nên thân thiện hơn, học sinh thích đến
trường hơn. Vì một nhẽ học sinh quý thầy, mến bạn coi thầy cô như mẹ hiền ở
trường.
Thầy cô phải luôn luôn giữ mối quan hệ gần gũi, thân thiết và tốt đẹp với
học sinh, khuyến khích các em nói ra những gì mình nghĩ để tất cả các giờ dạy
đều thoải mái, vui tươi và sôi nổi hơn. Mỗi ngày đến trường là niềm vui phải
làm sao hiện thực đối với tất cả các em học sinh.
Trên đây là một số giải pháp và biện pháp tôi đã thực hiện để giáo dục kĩ
năng giao tiếp cho học sinh tiểu học nói chung và học sinh lớp 4B do tôi chủ
nhiệm nói riêng. Rất mong được sự đóng góp ý kiến của các đồng chí trong tổ
chuyên môn và Ban giám hiệu nhà trường để tôi rút kinh nghiệm và vận dụng
vào công tác giảng dạy được tốt hơn.
11
2. Đề xuất:
- Liên đội Nhà trường thường xuyên theo dõi một cách tích cực và đánh
giá, xếp loại phong trào thi đua “ Nói lời hay, làm việc tốt” của từng Chi đội,
từng Sao; có thể tổ chức thành hội thi trong trường để nhân rộng gương điển
hình từ đó các em sẽ noi theo và rèn luyện tốt theo phong trào đề ra.
- Ban giám hiệu Nhà trường nên đặt ra tiêu chí đối với giáo viên là phải
rèn nói đúng tiếng phổ thông, xây dựng lớp chủ nhiệm thành lớp có phong trào
tự quản tốt.
- Mỗi giáo viên trong trường phải luôn là tấm gương sáng về mọi mặt cho
học sinh noi theo.
Tôi chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Hiệu trưởng
Trần Thị Hà
Cẩm thủy, ngày 30 tháng 3 năm 2013
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.
NGƯỜI VIẾT
Phạm Thị Hương
12
MỤC LỤC Trang
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
I. Lý do chọn đề tài 1
II. Đối tượng nghiên cứu 2
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Cơ sở lí luận 3
II. Thực trạng và kết quả của thực trạng 3
III. Các giải pháp thực hiện 4
IV. Các biện pháp tổ chức thực hiện 7
V. Kết quả đạt được 10
C. KẾT LUẬN
I. Kết luận 11
II. Đề xuất 12
13