Tải bản đầy đủ (.pdf) (131 trang)

Tác động của phương tiện truyền thông đối với việc lựa chọn nghề của học sinh trung học phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 131 trang )


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

1




































ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM






VŨ THỊ THANH THỦY






TÁC ĐỘNG CỦA PHƢƠNG TIỆN TRUYỀN THÔNG
ĐỐI VỚI VIỆC CHỌN NGHỀ CỦA HỌC SINH
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG










LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC












THÁI NGUYÊN - 2012

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

2




































ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM






VŨ THỊ THANH THỦY





TÁC ĐỘNG CỦA PHƢƠNG TIỆN TRUYỀN THÔNG
ĐỐI VỚI VIỆC CHỌN NGHỀ CỦA HỌC SINH
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG





CHUYÊN NGÀNH: GIÁO DỤC HỌC
MÃ SỐ: 60.14.01




LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC





NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TSKH NGUYỄN VĂN HỘ







THÁI NGUYÊN - 2012


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

3
LỜI CẢM ƠN!

Tác giả xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo trong khoa Sau Đại
học, khoa Tâm lý - Giáo dục trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên
đã tạo điều kiện, giúp đỡ tác giả hoàn thành cuốn luận văn này.
Đặc biệt, tác giả xin chân thành cảm ơn GS. TSKH Nguyễn Văn Hộ,
thầy giáo đã giảng dạy và trực tiếp hướng dẫn tác giả trong suốt quá trình
nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Tác giả cũng xin gửi lời cảm ơn tới Ban giám hiệu, các thầy, cô giáo và
các em HS lớp 12 (khoá 2009 - 2012) các trường THPT Gang Thép, THPT
Trại Cau, THPT Lê Hồng Phong tỉnh Thái Nguyên, đã tạo mọi điều kiện thuận
lợi cho tác giả điều tra, khảo sát, nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Dù đã có nhiều cố gắng, nhưng chắc chắn luận văn sẽ không tránh khỏi
những thiếu sót và hạn chế, kính mong quý thầy (cô), các nhà khoa học, các
bạn học viên và những người quan tâm đóng góp ý kiến để tác giả có thể làm
tốt hơn trong những nghiên cứu về lĩnh vực này trong thời gian tới./.


Thái Nguyên, tháng 9 năm 2012
Vũ Thị Thanh Thuỷ










Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

4
MỤC LỤC
Trang
Mở đầu
1
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu
1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Sơ lược về lịch sử nghiên cứu vấn đề trên thế giới…………


5
1.1.2. Các nghiên cứu ở Việt Nam…………………………………
7
1.2. Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu
1.2.1. Một số khái niệm cơ bản

1.2.1.1. Nghề nghiệp và định hướng nghề nghiệp…………………


10
1.2.1.2. Sự phù hợp nghề……………………………………………
14
1.2.1.3. Lựa chọn nghề và những tính chất của nó…………………
16
1.2.1.4. Thông tin, truyền thông và truyền thông đại chúng………….
18
1.2.1.5. Phương tiện truyền thông…………………………………….
21
1.2.1.6. Thông tin nghề………………………………………………
21
1.2.1.7. Đặc điểm của truyền thông………………………………
24
1.2.2. Mối quan hệ giữa thông tin và truyền thông…………………
24
1.3 Những yếu tố ảnh hưởng đến sự chọn nghề của HS THPT.
1.3.1. Những đặc điểm cơ bản về tâm lý và nhân cách của HS THPT

25
1.3.2. Tác động của PTTT và xu hướng chọn nghề của HS THPT…
32
1.4. Những ưu, nhược điểm của PTTT đối với việc chọn nghề
nghiệp của HS THPT……………………………………………

33
Chƣơng 2: Thực trạng những tác động của PTTT đối với HS
THPT trong việc lựa chọn nghề nghiệp

2.1. Vài nét về khách thể điều tra………………………………


35
2.2. Thực trạng chọn nghề của HS lớp 12 dưới tác động của PTTT
(khảo sát tại tỉnh Thái Nguyên)
2.2.1. Thực trạng nhận thức và sự tác động của các PTTT đến việc
chọn nghề của HS lớp 12 ở tỉnh Thái Nguyên……………………



36
2.2.2. Ý kiến của GV làm công tác hướng nghiệp về tác động của các
PTTT đối với sự chọn nghề của HS lớp 12 ………………………

69
2.2.3. Ý kiến của cha, mẹ đối với việc lựa chọn nghề nghiệp của HS
lớp 12 hiện nay………………………………………………………
76
2.3. Kết luận chương 2
80
Chƣơng 3: Các biện pháp tổ chức hoạt động GDHN cho học sinh
lớp 12 dƣới sự tác động của PTTT
3.1. Những cơ sở có tính nguyên tắc để xây dựng biện pháp…….


82

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


5
3.1.1. Nghiên cứu, xây dựng các biện pháp phải đảm bảo tính mục
đích của GDHN……………………………………………………….

82
3.1.2. Nghiên cứu, xây dựng các biện pháp phải đảm bảo sự phù hợp
với những đặc điểm tâm lý và nhân cách của HS THPT…………

82
3.1.3. Nghiên cứu, xây dựng các biện pháp phải đảm bảo tính phân
hóa, cá biệt hóa HS trong hoạt động hướng nghiệp………………….

83
3.1.4. Nghiên cứu, xây dựng các biện pháp phải đảm bảo tính hệ
thống trong hoạt động GDHN………………………………………

83
3.1.5. Nghiên cứu, xây dựng các biện pháp theo quan điểm tiếp cận
hoạt động và nhân cách…………………………………………….

84
3.1.6. Nghiên cứu, xây dựng các biện pháp phải đảm bảo tính khả
thi

84
3.2 Các biện pháp tổ chức hoạt động GDHN cho HS lớp 12 dưới
tác động của các PTTT
3.2.1. Xây dựng bài học có nội dung giới thiệu về những lĩnh vực
nghề nghiệp có sử dụng các PTTT……………………………………




85
3.2.2. Tổ chức tọa đàm trên lớp với chủ đề “Internet với nghề nghiệp
và lựa chọn nghề nghiệp”…………………………………………….

87
3.2.3. Tổ chức cho HS tìm hiểu thông tin nghề nghiệp qua bản tin,
phóng sự truyền hình hay một đoạn video…………………………….

88
3.2.4. Tổ chức hội nghị để trao đổi với cha mẹ HS về nghề nghiệp
tương lai của con em họ………………………………………………

89
3.2.5. Lập hồ sơ hướng nghiệp chi tiết cho mỗi HS…………………
91
3.3. Mối quan hệ giữa các biện pháp………………………………
93
3.4. Khảo nghiệm các biện pháp
3.4.1. Mục đích khảo nghiệm………………………………………….

95
3.4.2. Đối tượng khảo nghiệm……………………………………
95
3.4.3. Quá trình tiến hành khảo nghiệm……………………………
95
3.4.4. Kết quả khảo nghiệm…………………………………………
95
3.5. Kết luận chương 3

100
Kết luận và khuyến nghị
1. Kết
luận

101
2. Khuyến nghị
Tài liệu tham khảo
Phụ lục

103

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

6

DANH MỤC CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT

Trung học phổ thông
THPT
Trung học cơ sở
THCS
Giáo viên
GV
Học sinh
HS
Phương tiện truyền thông
PTTT
Giáo dục hướng nghiệp
GDHN

Nhà xuất bản
NXB
Giáo sư - Tiến sĩ khoa học
GS-TSKH
Đại học
ĐH
Cao đẳng

Trung học chuyên nghiệp
THCN
Số lượng
SL
Trung bình
TB
Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá
CNH - HĐH









Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

7

DANH MỤC CÁC BẢNG SỐ LIỆU


Trang

Bảng 2.1
Nhận thức của HS lớp 12 về mục đích của hoạt động hướng
nghiệp trong trường phổ thông
38
Bảng 2.2
Dự định lựa chọn nghề nghiệp của HS lớp 12 sau khi tốt nghiệp
THPT
39
Bảng 2.3
Mức độ tổ chức các hoạt động hướng nghiệp cho HS lớp 12 ở
các trường THPT
42
Bảng 2.4
Hiểu biết của HS lớp 12 về các PTTT
44
Bảng 2.5
Mức độ cung cấp thông tin nghề cho HS lớp 12 thông qua các
PTTT tại địa phương
45
Bảng 2.6
Lĩnh vực HS lớp 12 quan tâm trên các PTTT
48
Bảng 2.7
Lý do lựa chọn nghề nghiệp của HS lớp 12
51
Bảng 2.8
Mức độ ảnh hưởng của từng PTTT đến việc chọn nghề

54
Bảng 2.9
Mức độ quan tâm của HS lớp 12 đối với những lĩnh vực trên các
PTTT
56
Bảng 2.10
Vai trò của gia đình trong việc lựa chọn nghề nghiệp của HS lớp 12
58
Bảng 2.11
Những vấn đề HS lớp 12 có nhu cầu hoặc hứng thú
60
Bảng 2.12
Những khó khăn HS lớp 12 gặp phải khi lựa chọn nghề nghiệp
63
Bảng 2.13
Yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến việc lựa chọn nghề của HS lớp 12
64
Bảng 2.14
Quyết định lựa chọn nghề của HS lớp 12
67
Bảng 2.15
Thực tế và hiệu qủa của việc tổ chức GDHN trong trường THPT
theo sự đánh giá của GV
70
Bảng 2.16
Những yếu tố tác động đến việc chọn nghề của HS lớp 12 theo ý
kiến của GV
71

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


8
Bảng 2.17
Những vấn đề HS lớp 12 quan tâm khi lựa chọn nghề nghiệp
theo ý kiến của GV
73
Bảng 2.18
Ý kiến đánh giá của GV về những thông tin nghề nghiệp trên các
PTTT
74
Bảng 2.19
Mức độ cung cấp thông tin hướng nghiệp của nhà trường trên
các PTTT
75
Bảng 3.1
Đánh giá của chuyên gia về sự phù hợp của những cơ sở có tính
nguyên tắc trong việc nghiên cứu xây dựng các biện pháp
96
Bảng 3.2
Đánh giá của chuyên gia về sự phù hợp của các biện pháp
97
Bảng 3.3
Đánh giá của chuyên gia về mức độ hợp lý của các bước tiến hành
biện pháp
98
Bảng 3.4
Đánh giá của chuyên gia về mức độ khả thi của các biện pháp
99




















Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

9

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

GDHN và tư vấn học đường là một nhu cầu không thể thiếu của HS, đặc
biệt là đối với HS lớp 12 bậc THPT. HS THPT cần được hướng nghiệp để có
nền tảng vững chắc bước vào tương lai với nghề nghiệp ổn định. Chương trình
GDHN đã được đưa vào học đường cung cấp cho HS các kiến thức cơ bản của
việc lựa chọn ngành nghề, mục đích của GDHN là giúp cho HS với vai trò là

chủ thể trong sự lựa chọn nghề, có ý thức trong việc định hướng đúng khi lựa
chọn nghề dựa trên cơ sở hiểu biết khoa học về nghề nghiệp, về nhu cầu thị
trường lao động xã hội và năng lực, sở trường của bản thân. Hoạt động hướng
nghiệp cho HS THPT không chỉ dừng lại ở mức độ nâng cao nhận thức và sự
hiểu biết kỹ càng hơn về nghề mà còn là quá trình xác lập những điều kiện hiện
thực để đưa các em vào hoạt động trong thế giới nghề nghiệp, tạo ra sự thích
ứng ở mức độ nhất định. Theo điều tra của Viện Khoa học giáo dục, hàng năm
ở nước ta tuyển vào bậc THPT trên 400 nghìn HS, sau khi tốt nghiệp có khoảng
19,7% HS vào học tại các trường Đại học, Cao đẳng, 7,4% vào các trường
trung học chuyên nghiệp và chỉ có 4,9% đi học nghề. Như vậy, mỗi năm nước
ta có 200 - 300 nghìn HS tốt nghiệp PTTH và 50 nghìn HS tốt nghiệp THCS bổ
sung vào lực lượng lao động xã hội mà chưa được hướng nghiệp một cách kỹ
càng. Với số lượng HS bước vào nghề không được hướng nghiệp đúng đắn sẽ
gây lãng phí cho quá trình đào tạo, gây sức ép rất lớn lên các kỳ thi tuyển sinh
đại học hàng năm và gây nên tình trạng mất cân đối nghiêm trọng trong giáo

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

10
dục đào tạo cũng như cơ cấu lao động, làm ảnh hưởng đến nền kinh tế quốc gia
và sức mạnh dân tộc.
Trước thực tế đó, HS phải tự chủ động tìm hiểu nguồn thông tin, tự
đánh giá trên những quy trình đã được học trong các tiết học hướng nghiệp.
Mặc dù sự phát triển như vũ bão về các PTTT hiện nay như: báo chí, phát
thanh truyền hình, truyền hình số, mạng Internet thì việc cung cấp thông tin
nghề cho các em không bị bó hẹp trong một không gian nhất định, không chỉ
phụ thuộc vào các nhà trường mà được mở rộng để các em có thể dễ dàng tìm
hiểu về bất cứ lĩnh vực nào mà mình muốn. Tuy nhiên nguồn thông tin chi tiết
hiện tại chưa được cung cấp đầy đủ trên các sách giáo khoa hướng nghiệp, khả
năng tìm kiếm thông tin của HS còn nhiều hạn chế, trong khi các thông tin

hướng nghiệp trên các PTTT chưa tập trung, chưa đầy đủ gây khó khăn cho
GV, HS và phụ huynh HS trong việc tìm hiểu và tư vấn hướng nghiệp cho HS
lớp 12. Do vậy, để tránh những luồng thông tin không chính thống mang lại
những thông tin sai lệch làm ảnh hưởng tới quá trình lựa chọn nghề nghiệp
của các em thì việc tìm ra các biện pháp tổ chức hoạt động GDHN cho HS lớp
12 dưới sự tác động của PTTT là nhiệm vụ hết sức cấp thiết trong giai đoạn
hiện nay. Từ những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài "Tác động của PTTT đối
với việc chọn nghề của HS THPT" (Khảo sát tại tỉnh Thái Nguyên).
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận và thực tiễn, nghiên cứu các tác động của PTTT đối
với việc cung cấp thông tin nghề cho HS, từ đó đề xuất một số biện pháp tổ
chức hoạt động hướng nghiệp cho HS lớp 12 dưới sự tác động của PTTT, giúp

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

11
cho HS có cách tiếp nhận và xử lý tối ưu trước những thông tin do PTTT
mang lại để có những định hướng nghề một cách đúng đắn.

3. Khách thể - Đối tƣợng nghiên cứu
* Khách thể nghiên cứu: Tác động của PTTT đối với sự chọn nghề của
HS THPT.
* Đối tượng nghiên cứu: Các biện pháp tổ chức hoạt động hướng
nghiệp cho HS lớp 12 dưới sự tác động của PTTT, nhằm giúp HS THPT có
cách tiếp nhận và xử lý tối ưu trước những tác động của PTTT mang lại trong
việc chọn nghề.
4. Giả thuyết khoa học
Chất lượng và hiệu quả của công tác GDHN cho HS phụ thuộc vào rất
nhiều yếu tố như: GV, phụ huynh HS, công tác quản lý, lãnh đạo của nhà
trường, sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương…, trong đó phải kể đến đó

là sự phát triển của các PTTT. Vì vậy việc đề xuất được các biện pháp tổ chức
hoạt động hướng nghiệp cho HS lớp 12 dưới sự tác động của PTTT nhằm giúp
các em có thể tiếp nhận và xử lý thông tin do PTTT mang lại một cách phù hợp
sẽ giúp các em có được sự lựa chọn đúng đắn về nghề nghiệp trong tương lai,
góp phần nâng cao chất lượng GDHN trong nhà trường THPT.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận về những tác động của PTTT đối với việc
chọn nghề của HS THPT.
5.2. Điều tra, khảo sát thực trạng về những tác động của PTTT bằng
hình ảnh đối với việc chọn nghề của HS lớp 12 (tại tỉnh Thái Nguyên).

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

12
5.3. Đề xuất các biện pháp tổ chức hoạt động hướng nghiệp cho HS
dưới sự tác động của PTTT, giúp HS trong việc tiếp nhận và xử lý thông tin
do các PTTT bằng hình ảnh mang lại trong việc lựa chọn nghề nghiệp.
6. Phạm vi nghiên cứu
Sự phát triển của các PTTT có tác động mạnh mẽ đến việc chọn nghề
của HS THPT hiện nay. Căn cứ vào điều kiện và khả năng thực hiện đề tài,
chúng tôi đi sâu nghiên cứu những tác động của các PTTT đối với việc lựa
chọn nghề của HS tại các trường tiêu biểu cho 3 vùng địa lý (thành phố, vùng
sâu, vùng nông thôn), đó là trường: THPT Gang Thép (thành phố), THPT Trại
Cau (huyện Đồng Hỷ) và THPT Lê Hồng Phong (huyện Phổ Yên) của tỉnh
Thái Nguyên.
7. Phƣơng pháp nghiên cứu
* Nhóm phương pháp lý luận: phân tích, tổng hợp, khái quát hoá, hệ
thống hoá, nghiên cứu lịch sử vấn đề.
* Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: quan sát, điều tra, khảo
nghiệm xin ý kiến chuyên gia, tổng kết kinh nghiệm.

* Nhóm phương pháp xử lý số liệu: thống kê toán học.
8. Cấu trúc luận văn
Luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về vấn đề chọn nghề của HS THPT dưới sự tác động
của phương tiện truyền thông.
Chương 2: Thực trạng những tác động của PTTT đối với HS THPT trong việc
lựa chọn nghề nghiệp.
Chương 3: Các biện pháp tổ chức hoạt động GDHN cho HS lớp 12 dưới sự tác
động của PTTT

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

13
Ngoài ra, luận văn còn có phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục các tài liệu
tham khảo và Phụ lục

CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VẤN ĐỀ CHỌN NGHỀ CỦA HỌC SINH
THPT DƢỚI SỰ TÁC ĐỘNG CỦA PHƢƠNG TIỆN TRUYỀN THÔNG

1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề
Nghề nghiệp là một thành phần quan trọng trong sự phát triển xã hội
cũng như đời sống cá nhân. Sự phong phú, đa dạng, phức tạp của nghề nghiệp
phản ánh trình độ văn minh, đời sống vật chất của con người cũng như xã hội
đó. Vì vậy, xung quanh vấn đề này đã có nhiều tác giả trong và ngoài nước
quan tâm nghiên cứu.
1.1.1. Sơ lƣợc về lịch sử nghiên cứu vấn đề trên thế giới
Những tư tưởng về định hướng nghề nghiệp cho thế hệ trẻ đã có từ thời
cổ đại, tuy nhiên ở dưới dạng rất sơ khai và biểu hiện thông qua việc phân
chia, phân cấp lao động tuỳ thuộc vào địa vị, nguồn gốc xuất thân của mỗi
người trong xã hội. Điều này thể hiện rõ tính áp đặt của giai cấp thống trị và

sự bất bình đẳng trong việc phân công lao động trong xã hội.
Vào thế kỷ thứ XIX trong các tài liệu văn học đã đề cập đến vấn đề
hướng nghiệp cho thanh niên. Ở Pháp, năm 1848 đã xuất bản cuốn "Hướng
dẫn chọn nghề" được xem như là cuốn sách đầu tiên về vấn đề hướng nghiệp.
Nội dung cuốn sách đã đề cập đến sự phát triển đa dạng của các ngành nghề
trong xã hội do sự phát triển của công nghiệp, từ đó đã rút ra kết luận rằng coi
GDHN là một vấn đề quan trọng không thể thiếu khi xã hội ngày càng phát
triển và cũng là nhân tố thúc đẩy xã hội phát triển.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

14
Đến đầu thế kỷ XX ở các nước Mỹ, Anh, Đức đã có những tổ chức đầu
tiên là các phòng tư vấn nghề nghiệp cho HS giúp họ tìm việc làm. Họ đến đây
sẽ được các nhà tư vấn giúp họ hiểu được chính họ, hiểu được những nghề mà
họ có thể phát huy được khả năng của mình, đáp ứng được yêu cầu lao động xã
hội. Lĩnh vực nghề nghiệp được các tác giả nước ngoài nghiên cứu rất đa dạng,
phong phú như: hứng thú nghề nghiệp, động cơ chọn nghề, những biện pháp
công tác hoàn thiện dạy nghề, dự định và lựa chọn nghề nghiệp. Trong lĩnh vực
này có thể kể đến các tác giả như: V.N.Supkin, V.P.Gribanốp, X.N.Tritaiakôva,
N.N.Đakharôp, A.A.BaixBung, A.A.Barbinôva, A.A.Bungacốp, G.A.Ivanốp
Theo các tác giả này, HS THPT thường có mong muốn được tiếp thu nên học
vấn cao hơn, không muốn đi làm ngay, những nghề HS chọn cũng mang đậm
giới tính và lứa tuổi, tuỳ theo thời điểm khác nhau của sự phát triển xã hội.
Ví dụ: HS nam thích các nghề kỹ thuật, HS nữ thích các nghề thuộc lĩnh vực y
tế, giáo dục, nghệ thuật, HS thành phố thích các nghề thuộc lĩnh vực xã hội,
HS nông thôn thích các nghề thuộc lĩnh vực sản xuất vật chất
Ở Liên Xô (cũ) vào những năm 29, 30 của thế kỷ XX, vấn đề hướng
nghiệp cho HS cũng được các nhà khoa học và lãnh đạo chính quyền Xô Viết
đặc biệt quan tâm. V.I.Lênin đã có chỉ thị yêu cầu phải cho HS làm quen với

khoa học kỹ thuật, làm quen với cơ sở của nền sản xuất hiện đại.
N.K.Crupxkaia - nhà giáo dục lỗi lạc đã từng nêu lên luận điểm "Tự do chọn
nghề" cho mỗi thanh, thiếu niên. Theo bà, thông qua hướng nghiệp, mỗi trẻ
em phải nhận thức sâu sắc hướng phát triển kinh tế của đất nước, những nhu
cầu của nền sản xuất cần được yêu cầu mà xã hội đề ra đối với các em trong
lĩnh vực lao động sản xuất. Mặt khác, công tác hướng nghiệp lại phải giúp cho
trẻ em phát triển được hứng thú và năng lực nghề nghiệp, giáo dục cho các em

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

15
thái độ lao động đúng đắn, động cơ chọn nghề trong sáng. Từ đó các em có
thái độ tự giác trong việc chọn nghề.
Trên cơ sở các luận điểm về hướng nghiệp của C.Mác và V.I.Lênin, các
nhà giáo dục Liên Xô như: B.F.Kapêep, X.A.Sapôrinxki, V.A.Pôliacốp trong
các tác phẩm và công trình nghiên cứu của mình đã chỉ ra mối quan hệ giữa
hướng nghiệp và các hoạt động sản xuất xã hội, và nếu sớm thực hiện GDHN
cho thế hệ trẻ thì đó sẽ là cơ sở để họ chọn nghề đúng đắn, có sự phù hợp giữa
năng lực, sở thích cá nhân với nhu cầu xã hội. Đồng thời các tác giả này cũng
đã trình bày những nguyên tắc, phương pháp thực hành lao động nghề nghiệp
cho HS phổ thông tại các cơ sở học tập - lao động liên trường.
Trong xu thế phát triển hiện nay, nền sản xuất công nghiệp và hậu công
nghiệp đã có những bước phát triển vượt bậc, trong xã hội xuất hiện nhiều
ngành nghề mới, sự phân hoá lao động đã khiến nhiều quốc gia trên thế giới
đều phải quan tâm đến công tác hướng nghiệp. Đẩy mạnh nghiên cứu khoa
học hướng nghiệp, mở các trung tâm tư vấn hướng nghiệp và đào tạo GV,
chuyên gia tư vấn hướng nghiệp trong và ngoài trường đại học.
1.1.2. Các nghiên cứu ở Việt Nam
Vấn đề hướng dẫn HS chọn nghề ở Việt Nam được rất nhiều tác giả
quan tâm nghiên cứu. Thực tiễn đã có những công trình nghiên cứu được đưa

vào chương trình đào tạo GV để họ có thể làm tốt công tác hướng ngiệp cho
HS phổ thông. Có thể kể đến như:
- Công trình nghiên cứu của tập thể tác giả Viện khoa học giáo dục [4]
nghiên cứu về xu hướng chọn nghề, dự định chọn nghề của HS THPT. Kết
quả cho thấy; đa số HS có xu hướng đạt trình độ cao (Đại học) trước khi đi
vào lao động phục vụ (nam: 63,38%, nữ: 78,64%). Xu hướng chọn nghề của

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

16
các em nam, nữ khác nhau do đặc điểm tâm lý lứa tuổi và giới tính. Xu thế của
các em nam hướng vào các ngành công nghiệp, cơ khí, nữ hướng vào ngành y
tế, giáo dục. Từ đó, các tác giả đi tìm nguyên nhân ảnh hưởng đến sự hình
thành xu hướng nghề nghiệp của HS THPT và tìm ra yếu tố tác động mạnh
nhất tới việc chọn nghề của HS. Song ở đây các tác giả cũng chưa đề cập tới
việc tác động của PTTT đối với việc chọn nghề của HS THPT.
Về mặt nghiên cứu khoa học hướng nghiệp ở Việt Nam, theo các
chuyên gia thì lý luận hướng nghiệp Việt Nam đã có những bước phát triển
mạnh mẽ vào những năm 1970, 1980. Những nhà khoa học tiên phong phải kể
đến GS. Phạm Tất Dong, PGS. Đặng Danh Ánh, GS.Phạm Huy Thụ, GS.
Nguyễn Văn Hộ.
GS. Phạm Tất Dong là người đã có những đóng góp rất lớn cho GDHN
Việt Nam, ông đã dày công nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn cho
GDHN như: xác định mục đích, ý nghĩa, vai trò của hướng nghiệp; hứng thú,
nhu cầu và động cơ nghề nghiệp; hệ thống các quan điểm, nguyên tắc hướng
nghiệp, các nội dung, phương pháp, biện pháp GDHN Điều này được thể
hiện rất nhiều ở các báo cáo, bài báo, sách, giáo trình của ông như bài:
"Hướng nghiệp cho thanh niên" đăng trên Tạp chí Thanh Niên số 8 năm 1982,
báo cáo "Một con đường hình thành lý tưởng nghề nghiệp cho HS lớn", các tác
phẩm như "Nghề nghiệp tương lai - giúp bạn chọn nghề" hay cuốn "Tư vấn

hướng nghiệp - sự lựa chọn cho tương lai".
GS. Nguyễn Văn Hộ cũng là một trong những người rất tâm đắc và
nghiên cứu chuyên sâu về GDHN. Trong cuốn sách "Hoạt động GDHN và
giảng dạy kỹ thuật trong trường THPT" tác giả đã trình bày một cách hệ thống
về cơ sở lý luận của GDHN, về cấu trúc của hệ thống hướng nghiệp bao gồm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

17
các bộ phận hợp thành của hệ thống hướng nghiệp như: khai sáng nghề, giáo
dục nghề, thông tin nghề, chuẩn đoán nghề, tư vấn nghề, lựa chọn nghề, tuyển
chọn nghề và thích ứng nghề.
Đặc điểm, xu hướng nghề nghiệp của HS thành phố đã được nghiên cứu
trong các công trình của tác giả Nguyễn Quang Uẩn và những người khác [5].
Bằng cách tiếp cận xu hướng nghề theo các chỉ số như: Mức độ nhận thức
nghề nghiệp, thái độ đối với nghề, tính ổn định của thái độ, tác giả đã chỉ ra
đặc điểm chung, xu hướng nghề nghiệp của HS trung học. Qua nghiên cứu tác
giả đã có kết luận sau: Nhận thức về nghề của HS còn yếu, số nghề và các
trường chuyên nghiệp được HS biết chưa nhiều, hứng thú nghề nghiệp hình
thành muộn, chưa tập trung, chưa rõ nét.
Tuy nhiên, công tác hướng nghiệp mới chỉ dừng lại ở khâu định hướng
nghề, còn khâu tư vấn và tuyển chọn nghề chưa được chú trọng thích đáng.
Ngoài ra còn nhiều tác giả khác quan tâm, nghiên cứu về lĩnh vực này có thể
kể đến:
- Lê Khắc Thìn (luận văn thạc sĩ) năm 1996 đã nghiên cứu: "Tìm hiểu
thực trạng lựa chọn nghề nghiệp của HS lớp 12 và công tác hướng nghiệp ở
trường PTTH". Tác giả nhận xét: Nhận thức về nghề nghiệp của HS mới chỉ
dừng lại ở những biểu hiện bề ngoài của nghề mà chưa đi sâu tìm hiểu những
yêu cầu đặc trưng riêng của từng nghề, sự hiểu biết của các em đều mang tính
chất cảm tính vì các em chưa có thông tin chính xác, đầy đủ về thế giới nghề

nghiệp nói chung và nghề nghiệp các em định chọn nói riêng.
- Nguyễn Thị Minh (luận văn thạc sĩ) năm 2000 đã nghiên cứu: "Nhận
thức nghề và sự lựa chọn nghề của HS lớp 12 trung học phổ thông thành phố
Hải Phòng". Tác giả đã kết luận: Nhận thức về nghề của HS sẽ được đầy đủ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

18
hơn khi HS được cung cấp đầy đủ những thông tin cần thiết về nghề qua các
phương tiện thông tin, tài liệu, trao đổi, giải đáp những băn khoăn thắc mắc từ
các chuyên gia của trung tâm hướng nghiệp. Hoạt động của trung tâm hướng
nghiệp với mục đích cung cấp tri thức, kỹ năng nghề chứ không chỉ dừng lại ở
chỗ lấy chứng chỉ để cộng điểm khi điểm thi tốt nghiệp kém.
- Trần Đình Chiến (luận văn thạc sĩ) năm 2008 đã nghiên cứu: "Xu
hướng lựa chọn nghề nghiệp của HS lớp 12 trường THPT dưới ảnh hưởng của
nền kinh tế thị trường". Tác giả đã nhận thấy: Đa số HS chịu ảnh hưởng một
cách thụ động, không nhận thức được sự phù hợp của bản thân với nghề.
Dưới góc độ xem xét GDHN là 1 hệ thống trong đó thông tin nghề là
một trong những thành tố quan trọng, nó có mối quan hệ tác động với nhiều
thành tố khác mà đặc biệt là với sự phát triển như vũ bão về công nghệ thông
tin mà chủ yếu là PTTT như hiện nay. Trên cơ sở đó chúng tôi tiến hành
nghiên cứu đề tài nhằm góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác
GDHN cho HS THPT dưới tác động của các PTTT, nhất là các phương tiện
thông tin bằng, hình ảnh như: mạng Internet, truyền hình, quảng cáo
1.2. Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu
1.2.1. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1.1. Nghề nghiệp và định hướng nghề nghiệp
* Khái niệm chung về nghề, nghề nghiệp
Theo đại từ điển Tiếng Việt (Nguyễn Như Ý chủ biên, NXB Văn hoá
thông tin - 1998) định nghĩa: "Nghề: công việc chuyên làm theo sự phân công

của xã hội "; còn "nghề nghiệp là nghề nói chung" [8]. Từ điển Tiếng Việt
(Văn Tân chủ biên, NXB khoa học xã hội - 1991) thì định nghĩa: "Nghề là
công việc hàng ngày làm để sinh nhai", còn "Nghề nghiệp: là nghề làm để

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

19
mưu sống". Theo từ điển Larousse của Pháp định nghĩa: "Nghề nghiệp
(Professtion) là hoạt động thường ngày được thực hiện bởi con người nhằm tự
tạo nguồn thu nhập cần thiết để tồn tại" [10].
Theo E.A.Klimôp: "Nghề nghiệp là một lĩnh vực sử dụng sức mạnh vật
chất và tinh thần của con người một cách có giới hạn, cần thiết cho xã hội (do
sự phân công lao động xã hội mà có). Nó tạo ra cho mỗi con người khả năng
sử dụng phương tiện cần thiết cho việc tồn tại và phát triển" [12].
Theo GS. TSKH Nguyễn Văn Hộ: "Nghề nghiệp như là một dạng lao
động xã hội vừa mang tính xã hội (sự phân công xã hội), vừa mang tính cá
nhân (nhu cầu bản thân) trong đó con người với tư cách là chủ thể hoạt động
đòi hỏi để thoả mãn những nhu cầu nhất định của xã hội và cá nhân" [10].
Từ một số quan niệm về nghề nghiệp nêu trên, có thể hiểu một cách
ngắn gọn, nghề nghiệp là một dạng lao động đòi hỏi con người phải trải qua
quá trình đào tạo chuyên biệt, có kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo chuyên môn nhất
định, có phẩm chất, đạo đức phù hợp với yêu cầu của dạng lao động tương
ứng. Nhờ quá trình hoạt động nghề nghiệp, con người có thể tạo ra sản phẩm
thoả mãn những nhu cầu vật chất, tinh thần của cá nhân và xã hội.
Nghề nghiệp của một người có thể do được đào tạo chính thức về nghề
đó vì nghề đỏi hỏi một trình độ tri thức, kỹ năng, kỹ xảo nhất định. Cũng có
thể nghề được hình thành tự phát do tích luỹ kinh nghiệm xã hội hoặc do
truyền và học nghề theo cách kèm cặp giữa người biết nghề và người chưa
biết nghề. Các nghề này chưa có quy trình đào tạo rõ rệt.
Nghề được đào tạo có đặc trưng là người làm nghề phải được cung cấp

trình độ tri thức, kỹ năng, kỹ xảo hành nghề, làm ra sản phẩm để trao đổi trên
thị trường, thu nhập của người lao động chính là nguồn sống của họ. Chính vì

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

20
vậy mà họ trở thành đối tượng hoạt động cơ bản, lâu dài của lý tưởng nghề
nghiệp, từ đó hình thành nhân cách nghề nghiệp. Nghề được đào tạo đòi hỏi
người vào học nghề đó phải có trình độ học vấn, sức khoẻ và yêu cầu tâm lý
phù hợp với nghề. Sau quá trình đào tạo, người đó phải đạt được tiêu chuẩn
quốc gia về kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo tay nghề theo mục tiêu xã hội đòi hỏi,
được cấp bằng hay chứng chỉ về nghề.
Hoạt động trong bất kỳ nghề nghiệp nào, mỗi cá nhân đều phải tiêu tốn
một số lượng vật chất (sức lực) và tinh thần (trí tuệ) nhất định. Cá nhân sống
bằng nghề nào thì lượng tiêu hao về sức lực và trí tuệ cho dạng lao động đó là
lớn nhất. Chính vì thế, nghề được coi như là đối tượng hoạt động cơ bản trong
một giai đoạn nào đó của đời sống cá nhân và trong đa số các trường hợp, nó
gắn bó với cả cuộc đời con người, nhiều khi còn truyền từ đời này sang đời
khác.
Nghề luôn luôn là cơ sở giúp cho con người có "nghiệp" (việc làm) và
từ đó tạo ra sản phẩm thoả mãn nhu cầu cá nhân cũng như nhu cầu xã hội.
Khái niệm việc làm luôn đi đôi với khái niệm nghề nghiệp. Theo đại từ điển
Tiếng Việt (đã dẫn): "Việc làm là công việc, nghề nghiệp thường ngày để sinh
sống". Còn từ điển Tiếng Việt (do Hoàng Phê chủ biên - NXB khoa học xã hội
- 1994) lại định nghĩa "Việc làm: công việc được giao cho làm và trả công"
[14]. Tại điều 13 Luật lao động lại quy định: "Mọi hoạt động lao động tạo ra
nguồn thu nhập, không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm".
Như vậy, hai khái niệm nghề nghiệp và việc làm rất gần gũi, có mối quan hệ
chặt chẽ với nhau nhưng không đồng nhất. Nghề nghiệp được coi là việc làm
nhưng không phải việc làm nào cũng là nghề nghiệp. Những việc làm nhất


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

21
thời, không ổn định do con người bỏ sức lao động giản đơn và được trả công
để sinh sống thì không phải là nghề nghiệp [20] [10].
* Định hướng nghề nghiệp
Tuỳ thuộc vào đặc trưng cho mỗi lĩnh vực hoạt động khoa học mà khi xem
xét hoạt động hướng nghiệp có thể có những quan điểm khác nhau về vấn đề này.
Các nhà tâm lý học cho rằng đó là hệ thống các biện pháp sư phạm, y
học giúp cho thế hệ trẻ chọn nghề có tính đến nhu cầu của xã hội và năng lực
của bản thân; các nhà kinh tế học thì cho rằng đó là những mối quan hệ kinh tế
giúp cho mỗi thành viên trong xã hội phát triển năng lực đối với lao động và
đưa họ vào một lĩnh vực hoạt động cụ thể, phù hợp với việc phân bố lực lượng
lao động xã hội.
Nhà Tâm lý học K.K.Platônôp cho rằng: "Hướng nghiệp, đó là một hệ
thống các biện pháp tâm lý - giáo dục, y học, Nhà nước nhằm giúp cho con
người đi vào cuộc sống thông qua việc lựa chọn cho mình một nghề nghiệp
vừa đáp ứng nhu cầu xuất hiện, vừa phù hợp với hứng thú, năng lực của bản
thân. Những biện pháp này sẽ tạo nên sự thống nhất giữa quyền lợi của xã hội
với quyền lợi của cá nhân". Còn viện sĩ X.Ia.Batưsep xác định: Hướng nghiệp
là một hoạt động hợp lý gắn với sự hình thành ở thế hệ trẻ hứng thú và sở
thích nghề nghiệp vừa phù hợp với những năng lực cá nhân, vừa đáp ứng đòi
hỏi của xã hội đối với nghề này hay nghề khác [6] [10].
Theo GS.TS Phạm Tất Dong: "Hướng nghiệp như là một hệ thống tác
động của xã hội về giáo dục, về y học, xã hội học, kinh tế học nhằm giúp
cho thế hệ trẻ chọn được nghề vừa phù hợp với hứng thú, năng lực, nguyện
vọng, sở trường của cá nhân vừa đáp ứng nhu cầu nhân lực của các lĩnh vực
sản xuất trong nền kinh tế quốc dân" [7].


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

22
Tháng 10/1980, tại hội nghị lần thứ 9 những người đứng đầu cơ quan
giáo dục nghề nghiệp các nước xã hội chủ nghĩa họp tại Lahabana (thủ đô
Cuba) đã thống nhất về khái niệm hướng nghiệp như sau: "Hướng nghiệp là
hệ thống những biện pháp dựa trên cơ sở tâm lý học, sinh lý học, y học và
nhiều khoa học khác để giúp đỡ HS chọn nghề phù hợp với nhu cầu xã hội,
đồng thời thoả mãn tối đa nguyện vọng, thích hợp với năng lực, sở trường và
tâm sinh lý cá nhân, nhằm mục đích phân bố hợp lý và sử dụng có hiệu quả
lực lượng lao động dự trữ có sẵn của đất nước" [10].
Vậy chúng ta có thể hiểu một cách ngắn gọn, dưới góc độ giáo dục phổ
thông, hướng nghiệp là sự tác động của một tổ hợp các lực lượng xã hội nhằm
giúp HS quen biết với một số ngành nghề phổ biến để khi tốt nghiệp ra trường
các em có thể lựa chọn cho mình một cách có ý thức về nghề nghiệp tương lai.
Có thể nói rằng, hướng nghiệp là công việc mà toàn xã hội có trách
nhiệm tham gia. Trẻ em cần được hướng nghiệp liên tục, thường xuyên và
bằng nhiều hình thức, bằng nhiều con đường, cần tận dụng tất cả các phương
tiện để hướng dẫn nghề nghiệp cho các em. Phải coi trọng công tác hướng
nghiệp là việc làm đảm bảo quyền của trẻ em. Chúng ta phấn đấu để cho trẻ
em được chọn nghề theo hứng thú, sở thích và cũng mong muốn chúng ngày
càng nhận thức sâu sắc nghĩa vụ lao động, nhu cầu nhân lực mà xã hội đặt ra.
1.2.1.2. Sự phù hợp nghề
Để có sự thành đạt trong nghề, con người phải chọn cho mình một nghề
phù hợp. Trong xã hội ngày nay, số lượng nghề ngày càng tăng, con người
không dễ dàng gì lựa chọn cho mình một nghề giữa hàng trăm nghề khác
nhau.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


23
Đề cập tới việc chọn được nghề phù hợp, trước hết ta phải làm rõ khái
niệm phù hợp nghề. Sự phù hợp nghề được xem là sự hoà hợp, sự ăn khớp, sự
tương xứng trong cặp "Con người - Nghề nghiệp" mà cụ thể hơn, là sự tương
ứng giữa những phẩm chất, đặc điểm tâm - sinh lý của con người với những
yêu cầu của công việc trong nghề đối với người lao động. Nói như vậy ta có
thể thấy rằng, sự phù hợp nghề thường thể hiện ở 3 dấu hiệu sau:
- Bảo đảm tốc độ làm việc, tức là bảo đảm được yêu cầu về số lượng
công việc theo định mức lao động. Người ta có thể đo đếm được các động tác
lao động để kết luận về sự phù hợp nghề.
- Bảo đảm độ chính xác của công việc. Đây là yêu cầu về chất lượng
sản phẩm. Người lao động phải làm ra mặt hàng đúng quy cách, không có số
lượng phế phẩm quá con số cho phép, không để công cụ lao động bị hư hỏng
- Không bị công việc của nghề nghiệp gây nên những độc hại cho cơ thể
của bản thân.
Mức độ hiệu quả hoạt động nghề nghiệp chịu sự chi phối của mức độ sự
phù hợp nghề. Thông thường, người ta chia làm 3 phần mức độ phù hợp đối
với một nghề đó là: phù hợp hoàn toàn, phù hợp từng phần và không phù hợp.
Trên thực tế, ít có ai sinh ra mà phù hợp với nghề này hay nghề khác. Bởi vậy
khó có sự phù hợp tuyệt đối với nghề (phù hợp hoàn toàn), để đạt tới mức độ
này, bản thân mỗi người phải có sự rèn luyện để hình thành cho mình những
gì mà nghề nghiệp đòi hỏi [20].
Có thể nói, mỗi cá nhân đều tiềm ẩn những năng lực, những sở trường
đặc biệt để tạo nên sự phù hợp nghề. Nếu biết lợi dụng đầy đủ những cơ sở ấy,
đặc biệt là những sở trường sẵn có, kiên trì luyện tập, kết hợp với sự học hỏi ở
những người có kinh nghiệm thì sự phù hợp nghề sẽ nhanh đến với bản thân.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

24

Tuy nhiên hoạt động nghề có những đặc điểm riêng của nó, thậm chí có những
yêu cầu do nó đặt ra ở một số người này thì rèn luyện có thể tạo ra sự phù hợp,
nhưng ở một số người khác thì dù chăm chỉ mấy cũng không thể đáp ứng.
Chính đặc điểm này đã ảnh hưởng tới chất lượng lựa chọn nghề của HS.
Một khi họ chưa biết mình, chưa hiểu nghề thì đối với họ nghề nào họ
cũng có thể làm được nhưng không phải nghề nào cũng phù hợp. Các nhà tâm
lý đã chứng minh mỗi nghề đòi hỏi một trình độ phát triển năng lực chung và
những năng lực chuyên biệt cần thiết để thực hiện thành công cho riêng nghề
nghiệp đó. Đồng thời mỗi nghề có những yêu cầu riêng về trạng thái sức khoẻ,
tâm lý của con người.
Như vậy, sự phù hợp nghề trước hết phụ thuộc vào quá trình nhận thức
sâu sắc đối với nghề mình chọn để biết mình, biết nghề và sau đó là quá trình
tự rèn luyện để tạo sự phù hợp trong khuôn khổ mà nghề nghiệp đã đặt ra.
Có được sự phù hợp nghề là cơ sở để đảm bảo cho hoạt động nghề đạt tới
hiệu quả. Song để làm cho sự phù hợp nghề có sự bền vững về chất lượng là cả
quá trình khổ công học hỏi, hoàn thiện những gì đã có để làm cho những yêu
cầu do nghề nghiệp đặt ra trở thành những đòi hỏi của chính bản thân mình.
1.2.1.3. Lựa chọn nghề và những tính chất của nó
Việc lựa chọn nghề nghiệp của HS là một quá trình lâu dài và phức tạp,
nó được biểu hiện ở các mức độ khác nhau ngay trong những năm đầu của
trường THCS, được tiếp tục phát triển và hoàn thiện dần ở những lớp sau nhất
là ở cuối cấp THPT, trong các trường, lớp dạy nghề và được tạm coi là kết
thúc khi họ đã có những khả năng lao động nghề nghiệp độc lập.
Với tư cách là một quá trình hoạt động, lựa chọn nghề nghiệp bao gồm
những tính chất cơ bản sau:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

25
* Tính chủ thể của quá trình lựa chọn:

Quá trình lựa chọn nghề nghiệp của HS diễn ra với sự chi phối của
những mối quan hệ xã hội phức tạp (giữa HS với gia đình; HS với tập thể lớp,
trường, đoàn đội, HS với cộng đồng ). Những mối quan hệ này tác động tới
nhận thức, nhu cầu, động cơ, hứng thú, sở thích nghề nghiệp của HS. Tuy
nhiên để đi tới một quyết định lựa chọn nghề thì hầu hết đó là quyết định do
chính chủ thể đưa ra và khẳng định. Tỷ lệ ảnh hưởng của những tác động
khách quan tới sự lựa chọn trên mỗi cá nhân là ít nhiều khác nhau, song quyết
định cuối cùng của quá trình lựa chọn nghề bao giờ cũng thuộc về một con
người cụ thể.
* Tính khách thể của quá trình lựa chọn nghề
Khi nói đến quá trình lựa chọn nghề là nói tới sự kết hợp giữa nhu cầu,
nguyện vọng cá nhân với yêu cầu do nghề nghiệp và xã hội đòi hỏi. Không
phải bất cứ nguyện vọng nghề nghiệp nào của chủ thể lựa chọn cũng được xã
hội chấp nhận. Trong xã hội, mỗi cá nhân có một vị trí xác định, với vị trí đó,
cá nhân vừa được hưởng quyền lợi đồng thời cũng cần có trách nhiệm đối với
cộng đồng và xã hội.
Mối quan hệ giữa quyền lợi và trách nhiệm trong lựa chọn nghề được
biểu hiện thông qua mối quan hệ giữa nguyện vọng cá nhân (tôi muốn) với đòi
hỏi về số lượng và chất lượng mà nhu cầu nguồn lực hoạt động trong các lĩnh
vực nghề nghiệp đòi hỏi (tôi cần phải). Khi đó chủ thể của sự lựa chọn trở
thành đối tượng của sự lựa chọn. Phần chính yếu thuộc vào những gì có được
nhờ vào hoạt động của chủ thể lựa chọn (tôi có thể).
* Tính mục đích của quá trình lựa chọn nghề

×