Tải bản đầy đủ (.pdf) (116 trang)

Tổ chức thực hiện bảo hiểm xã hội trên địa bàn thành phố Thái Nguyên, thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (828.68 KB, 116 trang )


i


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ & QUẢN TRỊ KINH DOANH




§inh V¨n S¬n




TỔ CHỨC THỰC HIỆN BẢO HIỂM XÃ HỘI
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN,
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP






LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ
(Chuyên ngành: Quản lý kinh tế)










Th¸i Nguyªn, n¨m 2012
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

i


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ & QUẢN TRỊ KINH DOANH




§inh V¨n S¬n




TỔ CHỨC THỰC HIỆN BẢO HIỂM XÃ HỘI
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN,
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP


Chuyên ngành: Quản lý kinh tế
M· sè: 60-34-01





LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ

Người hướng dẫn khoa học: TS. Bùi Trường Giang






Th¸i Nguyªn, n¨m 2012
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

i

LỜI CAM ĐOAN

Luận văn thạc sỹ với đề tài: “Tổ chức thực hiện Bảo hiểm xã hội trên
địa bàn thành phố Thái Nguyên, thực trạng và giải pháp” do tôi thực hiện
dưới sự hướng dẫn của Tiến sỹ Bùi Trường Giang- Vụ Trưởng Vụ Tổng hợp,
Văn phòng Chủ tịch nước và sự giúp đỡ của Lãnh đạo Bảo hiểm xã hội tỉnh
Thái Nguyên, đồng nghiệp cơ quan Bảo hiểm xã hội thành phố Thái Nguyên.
Tôi xin cam đoan Luận văn này hoàn toàn do kết quả nghiên cứu của
tôi. Các tài liệu, số liệu có trong Luận văn là do tự tôi thu thập, tổng hợp từ cơ
quan Bảo hiểm xã hội thành phố Thái Nguyên, sách, tạp chí khoa học,
website của Ngành, của tỉnh Thái Nguyên; các kết quả nghiên cứu, chỉ tiêu
thống kê đã được công bố. Các trích dẫn trong Luận văn đều đã được chỉ rõ
nguồn gốc.
Tôi xin hoàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan trên./.

Thái Nguyên, tháng 10 năm 2012




Học viên



Đinh Văn Sơn







Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

ii

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu, Phòng Quản lý Đào tạo Sau
đại học Trường Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh - Đại học Thái
Nguyên đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn các Phó Giáo sư, Tiến sỹ, Giảng viên đã
tham gia giảng dạy, trang bị cho tôi những kiến thức cơ bản, khoa học để tôi
hoàn thành nhiệm vụ học tập của mình theo chương trình đề ra.
Để hoàn thành Luận văn thạc sỹ này, tôi đã được sự chỉ dẫn tận tình

của Tiến sỹ Bùi Trường Giang- Vụ Trưởng Vụ Tổng hợp, Văn phòng Chủ
tịch nước. Tôi xin gửi tới Nhà khoa học, Nhà lãnh đạo quản lý - Tiến sỹ Bùi
Trường Giang lời cảm ơn trân trọng nhất.
Tôi xin trân trọng cảm ơn các đồng chí lãnh đạo Bảo hiểm xã hội tỉnh
Thái Nguyên, các đồng chí cán bộ nghiệp vụ Bảo hiểm xã hội thành phố Thái
Nguyên đã giúp đỡ và tạo điều kiện cho tôi thu thập số liệu để hoàn thành Luận
văn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!
Thái Nguyên, tháng 10 năm 2012




Học viên



Đinh Văn Sơn



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

iii

MỤC LỤC

STT
Nội dung Trang
Lời cam đoan i

Lời cảm ơn ii
Mục lục iii
Danh mục chữ viết tắt vi
Danh mục bảng biểu, sơ đồ vii
Mở đầu 1
1 Sự cần thiết phải nghiên cứu 1
2 Mục tiêu nghiên cứu 3
3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3
4 Những đóng góp mới của luận văn 4
5 Kết cấu luận văn 4
Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn về công tác BHXH 5
1.1. Cơ sở lý luận 5
1.1.1 Khái niệm về BHXH 5
1.1.2 Các dạng BHXH 7
1.1.3 Đặc điểm của BHXH 8
1.1.4 Khung khổ pháp luật và cơ chế chính sách BHXH 9
1.1.5 Tài chính BHXH 10
1.1.6 Điều kiện thực hiện các chế độ BHXH 11
1.1.7 Chức năng của BHXH 13
1.1.8 Vai trò ý nghĩa của BHXH 14
1.2. Cơ sở thực tiễn 16
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

iv

1.2.1 BHXH trên Thế giới 16
1.2.2 BHXH ở Việt Nam 18
1.3. Quan điểm về BHXH của Đảng và Nhà nước ta 21
1.3.1. Quan điểm về BHXH của Đảng 21
1.3.2. Quan điểm của Nhà nước Việt Nam với BHXH 24

Chương 2. Phương pháp nghiên cứu 31
2.1 Câu hỏi nghiên cứu 31
2.2. Phương pháp nghiên cứu 31
2.1.1. Phương pháp chọn điểm nghiên cứu 31
2.1.2 Phương pháp thu thập thông tin 31
2.1.3 Phương pháp tổng hợp thông tin 32
2.1.4 Phương pháp phân tích thông tin 33
2.3. Hệ thống chỉ tiêu nghiên cứu 33
2.3.1 Mục tiêu, yêu cầu của hệ thống chỉ tiêu nghiên cứu 33
2.3.2 Tổng hợp lao động và số thu BHXH các năm 33
2.3.3 Tổng hợp cơ cấu tham gia BHXH của các loại hình lao động 34
2.3.4 Tổng hợp chi BHXH các năm 34
2.3.5 Tổng hợp cơ cấu tổ chức và quy trình thực hiện BHXH 34

Chương 3. Thực trạng công tác tổ chức thực hiện BHXH
trên địa bàn thành phố Thái Nguyên
36
3.1 Đặc điểm địa bàn nghiên cứu 36
3.2 Phân tích tình hình thực tế về vấn đề nghiên cứu 46
3.2.1 Cơ quan tổ chức thực hiện BHXH ở thành phố Thái Nguyên 46
3.2.1.1

Chức năng nhiệm vụ của BHXH thành phố Thái Nguyên 47
3.2.1.2

Cơ cấu tổ chức của BHXH thành phố Thái Nguyên 48
3.2.2 Thực trạng công tác BHXH ở thành phố Thái Nguyên 49
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

v


3.2.2.1

Công tác thu và cấp sổ BHXH 49
3.2.2.2

Công tác kế toán và chi trả các chế độ BHXH 55
3.2.2.3

Công tác tiếp nhận và giải quyết các chế độ BHXH 57
3.2.3
Một số nhận xét về công tác BHXH ở thành phố Thái Nguyên
60
3.2.3.1

Ưu điểm
60
3.2.3.2

Những thiếu sót
62
3.2.4 Nguyên nhân và một số kinh nghiệm 63
3.2.4.1

Nguyên nhân thành công 63
3.2.4.2

Nguyên nhân của thiết sót 64
3.2.4.3


Một số kinh nghiệm 65

Chương 4. Giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện công tác tổ
chức thực hiện Luật BHXH trên địa bàn thành phố Thái
Nguyên
67
4.1 Quan điểm định hướng của toàn ngành 67
4.2 Những giải pháp nhằm phát triển BHXH ở thành phố Thái Nguyên

71
4.2.1 Hoàn thiện và đảm bảo về mặt pháp lý 71
4.2.2 Tăng cường lãnh đạo của cấp uỷ Đảng, Chính quyền 72
4.2.3 Mở rộng đối tượng tham gia BHXH 73
4.2.4 Đổi mới cơ chế quản lý tài chính 73
4.2.5 Đổi mới công tác tổ chức cán bộ 74
4.2.6 Tăng cường kiểm tra giám sát các hoạt động BHXH 76
4.2.7 Đẩy mạnh công tác tuyên truyền 77
4.3 Một số kiến nghị, đề xuất 79
Kết luận 84
Tài liệu tham khảo 86

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

vi

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

BHXH: Bảo hiểm xã hội
SL : Sắc lệnh
CP : Chính phủ

QH : Quốc hội
BHYT: Bảo hiểm y tế
KCB : Khám chữa bệnh























Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

vii


DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ

Bảng 3.1
: Kết quả công tác thu BHXH
52
Bảng 3.2 : Cơ cấu tham gia BHXH của các loại hình lao động 53
Bảng 3.3 : Tổng hợp chi trả các chế độ BHXH 56
Bảng 3.4 : Tổng hợp chi chế độ BHXH ngắn hạn 56
Bảng 3.5: : Tổng hợp chi lương hưu và trợ cấp BHXH 57
Biểu 3.1
: Diễn biến kết quả công tác thu BHXH
52
Biểu 3.2 : Cơ cấu tham gia BHXH của các loại hình lao động 54
Sơ đồ 3.1
: Cơ cấu tổ chức bộ máy cơ quan BHXH
47
Sơ đồ 3.2
:Cơ cấu tổ chức của BHXH thành phố Thái Nguyên

48
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

1

MỞ ĐẦU

1. Sự cần thiết phải nghiên cứu
Bảo hiểm xã hội (BHXH) là một chính sách xã hội lớn của Đảng và
Nhà nước ta. Nó mang trong mình bản chất nhân văn sâu sắc vì cuộc sống an
bình, hạnh phúc của con người. Trong suốt cuộc đời, mỗi con người sinh ra,

lớn lên, trưởng thành bình thường đều trải qua một quá trình lao động để nuôi
sống gia đình mình và đóng góp một phần vào sự phát triển chung của xã hội.
Tham gia BHXH là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của
người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn
lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết.
Ngay từ khi mới thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Đảng và
Bác Hồ đã đặc biệt quan tâm đến công tác BHXH. Chính phủ đã ban hành các
sắc lệnh về chính sách BHXH, và sau đó là Điều lệ tạm thời quy định các chế
độ BHXH đối với công nhân, viên chức nhà nước, lực lượng vũ trang. Chính
sách BHXH ban hành đã kịp thời và phù hợp với từng giai đoạn cách mạng,
đáp ứng nhiệm vụ cách mạng cho từng thời kỳ, đồng thời đảm bảo nguyên tắc
hưởng thụ theo cống hiến có tính đến sự ưu đãi cho người lao động cùng đông
đảo các tầng lớp nhân dân. Qua nhiều lần ban hành, sửa đổi, bổ sung cho phù
hợp với điều kiện kinh tế, chính trị xã hội của từng thời kỳ, chính sách BHXH
ở nước ta đã đạt được những kết quả to lớn trong việc ổn định đời sống cho
hàng triệu người lao động.
Trong quá trình vận động và phát triển của nền kinh tế, trước sự biến
đổi lớn lao và không ngừng của xã hội Việt Nam, kể từ sau khi đất nước
thống nhất và nhất là từ khi nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường có sự
điều tiết của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chính sách BHXH
đã bộc lộ một số nhược điểm và nhiều lúc chưa theo kịp với đà phát triển của
nền kinh tế xã hội. Việc xây dựng, hoạch định, ban hành và tổ chức triển khai
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

2

thực hiện, kiểm tra giám sát quá trình quản lý sự nghiệp BHXH ở nước ta đã
trở thành một đòi hỏi mang tính tất yếu và cấp bách trong quá trình chuyển
sang kinh tế thị trường. Sự thay đổi mang tính bước ngoặt đó được đánh dấu
bằng việc thực hiện Điều lệ BHXH ban hành kèm theo Nghị định số 12/CP

ngày 26/5/1995 của Chính phủ.
Điều lệ BHXH đã được thực thi cho thấy tính đúng đắn cần thiết của nó
đối với đời sống xã hội và cũng cho thấy chính sách và chế độ BHXH ở nước
ta thực sự đã trở thành chỗ dựa vững chắc của người lao động và góp phần
tích cực trong sự phát triển nền kinh tế - xã hội đất nước.
Có thể nói BHXH là mảng an sinh xã hội trọng tâm trụ cột của đất
nước, với tầm quan trọng và ý nghĩa to lớn đó, Quốc hội nước Cộng hoà Xã
hội Chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 9, ngày 29/6/2006 đã xây dựng
thành Luật BHXH.
Cùng với sự hoàn thiện tính pháp lý của hệ thống văn bản pháp quy về
BHXH, Ngành BHXH thành lập và được giao thực hiện nhiệm vụ BHXH từ
năm 1995:
Thực hiện Quyết định số 20/QĐ-CP ngày 22/1/1995 của Chính phủ về
việc thành lập hệ thống BHXH Việt Nam từ Trung ương tới cấp huyện, đã tạo
lập quỹ BHXH tập trung độc lập với ngân sách Nhà nước dưới sự điều hành
trực tiếp của Chính phủ. Sau đó ngày 06/12/2002 Chính phủ ban hành Nghị
định số 10/2002/NĐ-CP quy định chức năng, nhiện vụ, quyền hạn và cơ cấu
tổ chức của BHXH Việt Nam. Tiếp sau là Quyết định số 20/2002/QĐ-CP về
chuyển giao ngành Bảo hiểm y tế (BHYT) sang ngành BHXH. Đây là một sự
thay đổi lớn về chức năng và nhiệm vụ của ngành BHXH - kể từ năm 2003,
ngành BHXH thực hiện cả nhiệm vụ BHYT. Và khi Luật BHXH, Luật BHYT
- số 25/2008/QH12 ngày 14/11/2008 - được triển khai, Chính phủ đã có Nghị
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

3

định số 94/2008/NĐ-CP ngày 22/8/2008 quy định về chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và cơ cấu tổ chức của BHXH Việt Nam.
Qua 4 năm tổ chức thực hiện Luật BHXH cho thấy, chủ trương
chính sách BHXH của Nhà nước đã được mở rộng tới mọi thành phần

kinh tế - xã hội; giải quyết kịp thời cho hàng triệu người lao động khi
phát sinh các chế độ chính sách BHXH như: ốm đau, thai sản, tai nạn lao
động bệnh nghề nghiệp, hưu trí, tử tuất Tuy nhiên, trong quá trình
thực hiện còn nhiều vấn đề cần được bổ sung hoàn thiện, nhất là vấn đề
thúc đẩy nhận thức của mọi người lao động cũng như ý thức của chủ sử
dụng lao động về BHXH cần phải được nâng cao; các quy trình, thủ tục
tham gia và thụ hưởng chế độ BHXH cần sửa đổi hợp lý; công tác phối
hợp lãnh đạo, thực hiện Luật BHXH giữa các cơ quan, ban, ngành cần
phải được quan tâm; công tác đào tạo, bồi dưỡng, tổ chức cán bộ của
Ngành đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ Là người cán bộ trực tiếp thực hiện
công tác BHXH, với mong muốn nghiên cứu thực trạng triển khai Luật
BHXH trên địa bàn thành phố Thái Nguyên đồng thời đề xuất, đóng góp
một số kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện trong thời
gian tới, tôi lựa chọn đề tài: "Tổ chức thực hiện BHXH trên địa bàn
thành phố Thái Nguyên, thực trạng và giải pháp" làm luận văn tốt
nghiệp của mình.
Thời gian nghiên cứu và trình độ tác giả có hạn nên khó tránh
khỏi những thiếu sót. Rất mong sự đóng góp ý kiến của quý Thầy, Cô để
em hoàn thành luận văn tốt nghiệp.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Thông qua việc nghiên cứu lý luận về BHXH, thực trạng công tác triển
khai Luật BHXH trên địa bàn để phân tích, đánh giá những kết quả, các hạn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

4

chế tồn tại và tìm ra các nguyên nhân của hạn chế tồn tại; trên cơ sở đó, đưa
ra các kiến nghị và giải pháp nhằm tổ chức, quản lý BHXH tốt hơn trong thời
gian tới, với mục đích cao nhất BHXH tới mọi người lao động; giải quyết kịp
thời cho người tham gia và thụ hưởng các chế độ BHXH.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
BHXH hình thành và phát triển; triển khai công tác BHXH ở thành phố
Thái Nguyên: công tác tổ chức bộ máy, cán bộ, công tác thu BHXH, quy trình
thủ tục giải quyết các chế độ, công tác chi trả các chế độ
3.2. Phạm vị nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu không gian hoạt động BHXH bao gồm các mảng
nghiệp vụ trọng tâm là thu, giải quyết chế độ, chi trả và công tác tổ chức bộ
máy thực hiện trong khoảng thời gian trước khi có Luật BHXH (trước ngày
01/01/2007) và thực trạng công tác BHXH tại BHXH thành phố Thái Nguyên
từ khi có Luật đến nay (2007-2010).
4. Những đóng góp mới của luận văn
Qua nghiên cứu, đề tài chỉ ra được các mặt, điểm yếu kém (từ thể chế,
công tác quản lý điều hành đến năng lực cán bộ và các vấn đề khác) cần khắc
phục, đồng thời gợi mở những nhân tố mới, các tác động tích cực đến mục
đích, kỳ vọng của các nhà quản lý, thúc đẩy nhanh, thuận lợi việc thực hiện
chính sách chế độ BHXH của Đảng và Nhà nước đã ban hành.
5. Kết cấu luận văn
Để phục vụ cho quá trình nghiên cứu ngoài phần mở đầu, kết luận,
danh mục tài liệu tham khảo và các phụ lục, luận văn được cấu trúc bao
gồm 4 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn về công tác BHXH
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

5

Chương 2. Phương pháp nghiên cứu thực hiện BHXH trên địa bàn
thành phố Thái Nguyên.
Chương 3. Thực trạng công tác tổ chức thực hiện BHXH trên địa
bàn thành phố Thái Nguyên.

Chương 4: Giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện công tác tổ chức
thực hiện luật BHXH trên địa bàn thành phố Thái Nguyên











Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

6

Chương 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CÔNG TÁC BHXH

1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Khái niệm về BHXH
Từ khi loài người sinh sống thành cộng đồng thì các quan hệ giữa con
người với con người, giữa con người với cộng đồng được hình thành và cũng
từ đó nảy sinh những vấn đề xã hội. Xã hội loài người càng phát triển thì
những vấn đề xã hội cũng càng ngày phức tạp hơn. Mỗi chế độ chính trị - xã
hội khác nhau có những vấn đề xã hội mang tính chất riêng nhưng cũng có
những vấn đề xã hội mang tính chất chung, đều phải giải quyết không chỉ vấn
đề xã hội hiện tại mà còn phải giải quyết hàng loạt vấn đề mà xã hội cũ để lại
cũng như giải quyết những vấn đề của tương lai. Công cụ điều chỉnh các vấn

đề xã hội có ý nghĩa hết sức quan trọng, đó chính là những chính sách xã hội.
Chính sách xã hội được biểu hiện là công cụ của Nhà nước được
thể chế hoá nhằm tác động vào mối quan hệ xã hội, thực hiện công bằng
xã hội, bình đẳng xã hội, tiến bộ xã hội và phát triển toàn diện con
người. Để giải quyết các vấn đề xã hội cần phải đề ra các chính sách xã
hội phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội. Nghị quyết Đại hội Đảng lần
thứ VI (năm 1986) đã đặt đúng vị trí và tầm quan trọng của vấn đề chính
sách xã hội trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Nghị quyết nêu rõ: “Chính sách xã hội bao trùm mọi mặt của cuộc sống
con người: điều kiện lao động và sinh hoạt, giáo dục văn hoá, quan hệ
gia đình, quan hệ giai cấp, quan hệ dân tộc Coi nhẹ chính sách xã hội
tức là coi nhẹ yếu tố con người trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội” (Mục 5, Báo cáo chính trị Đại hội Đảng Toàn quốc lần thứ VI).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

7

Chính sách xã hội luôn gắn với hệ thống chính trị - xã hội. Mỗi
chế độ chính trị đều phát triển những chính sách xã hội phù hợp với điều
kiện lịch sử của mình. Ở nước ta hiện nay, chủ thể đặt ra các chính sách
xã hội là Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hoà Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam với sự tham gia tư vấn của các tổ chức chính trị - xã hội,
như: Mặt trận Tổ quốc, Tổng Liên đoàn Lao động, Hội Nông dân, Liên
hiệp các hội Khoa học - kỹ thuật, đại biểu cho giới trí thức, Hội Liên
hiệp Phụ nữ, Hội Liên hiệp Thanh niên. Chính sách xã hội bao quát
nhiều lĩnh vực hoạt động rộng lớn của xã hội, những lĩnh vực hoạt động
đó lại liên quan đến nhiều đối tượng khác nhau trong xã hội.
Thời kỳ đổi mới với những kết quả quan trọng trên mặt trận kinh
tế đã tạo tiền đề vững chắc cho những đổi mới tương ứng về chính sách
xã hội nói chung và chính sách BHXH nói riêng nhằm đảm bảo chỗ dựa

tinh thần và vật chất cho người lao động trước những rủi ro ốm đau, tai
nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, nghỉ hưu BHXH đã nhanh chóng trở
thành lĩnh vực quan trọng hàng đầu của hệ thống an sinh xã hội ở nước
ta. Hiến pháp năm 1992 đã xác định: “Nhà nước thực hiện chế độ đối
với Nhà nước và người làm công ăn lương, khuyến khích phát triển các
hình thức BHXH khác đối với người lao động” (Điều 56, Hiến pháp
năm 1992). Đại hội VIII của Đảng cũng đã chỉ định rõ: “Mở rộng chế độ
BHXH đối với người lao động thuộc các thành phần kinh tế”.
Trong cuộc sống, con người luôn có những nhu cầu cơ bản nhất
như: ăn, mặc, ở, đi lại, nghỉ ngơi, vui chơi, giải trí Để thoả mãn những
nhu cầu này, con người phải lao động sản xuất để tạo ra của cải vật chất.
Trong quá trình đó con người không tránh khỏi quy luật “Sinh, lão,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

8

bệnh, tử”. Trong đời sống thực tế, xảy ra nhiều trường hợp như: ốm đau,
tai nạn, tuổi già Điều này làm suy giảm khả năng lao động, dẫn đến
tình trạng thu nhập thấp. Do vậy cần có chính sách thích hợp, làm sao
vẫn đảm bảo được thu nhập để thoả mãn được nhu cầu cần thiết của
cuộc sống khi có rủi ro xảy ra. Các nhà nghiên cứu chính sách xã hội gọi
đó là nhu cầu BHXH. Vậy, BHXH là gì:
Theo từ điển bách khoa Việt Nam, BHXH là “Sự đảm bảo thay thế
hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động khi họ bị mất hoặc
giảm khả năng lao động hoặc bị mất việc làm, thông qua việc hình thành
và sử dụng một quỹ tài chính do sự đóng góp của các bên tham gia
BHXH nhằm góp phần đảm bảo an toàn đời sống của gia đình họ, đồng
thời đảm bảo an toàn xã hội”.
BHXH được hiểu theo các góc độ khác nhau:
+ Dưới góc độ Pháp luật

BHXH là chế độ pháp lý bảo vệ quyền lợi người lao động thông qua
việc giải quyết mọi chính sách do pháp luật quy định đối với người tham
gia BHXH.
+ Dưới góc độ chính trị
BHXH được hiểu là sự liên kết giữa Đảng, Nhà nước, chủ sử dụng
lao động với quần chúng nhân dân lao động để thực hiện mục tiêu “Dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”
+ Dưới góc độ kinh tế
BHXH được hiểu đó là sự phân phối quỹ BHXH tập trung được
đóng góp của các bên tham gia BHXH nhằm đảm bảo thu nhập, ổn định
đời sống cho người lao động và gia đình họ khi mất hoặc giảm sút sức
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

9

lao động do tuổi già, ốm đau, thai sản, tai nạn lao động - bệnh nghề
nghiệp hoặc chết.
Từ khái niệm trên ta thấy BHXH là nhu cầu cần thiết khách quan
của con người và vì thế BHXH là một bộ phận rất quan trọng trong
chính sách xã hội của mỗi quốc gia.
1.1.2. Các dạng BHXH
Ở nước ta đang hình thành hai loại hình BHXH và bảo hiểm
thương mại, cần phân biệt sự giống và khác nhau giữa hai loại hình này.
Như đã nêu ở trên: BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một
phần thu nhập cho người lao động khi họ bị mất hoặc giảm khoản thu nhập từ
nghề nghiệp do bị mất hoặc giảm khả năng lao động hoặc mất việc làm, vì ốm
đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thai sản, thất nghiệp, hưu trí hoặc
chết, thông qua việc sử dụng một quỹ tài chính do sự đóng góp của các bên
tham gia BHXH nhằm góp phần bảo đảm an toàn đời sống của người lao động
và gia đình họ, đồng thời góp phần bảo đảm an toàn xã hội.

Bảo hiểm thương mại là sự bảo đảm bù đắp những tổn thất hoặc
thiệt hại do thiên tai, tai nạn bất ngờ gây ra về tài sản (nhà xưởng, hàng
hóa, công trình xây dựng, phương tiện vận tải ) về sức khỏe và tính
mạng con người, về trách nhiệm dân sự và trách nhiệm quản lý trên cơ
sở đóng góp phần bảo đảm cho quá trình tái sản xuất diễn ra bình thường
và đời sống của mọi thành viên trong xã hội ổn định.
BHXH giống bảo hiểm thương mại ở mục đích cuối cùng là góp
phần đảm bảo cho tái sản xuất xã hội diễn ra bình thường, đời sống các
thành viên trong xã hội an toàn và ổn định nhưng khác nhau ở đối tượng
tác động, tính chất và phương thức hoạt động. Tính chất kinh doanh
trong phương thức hoạt động của bảo hiểm thương mại thể hiện rất rõ,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

10

lãi suất được tính vào cơ cấu chi phí toàn phần của mỗi nghiệp vụ bảo
hiểm cụ thể. Ngoài ra, bảo hiểm thương mại còn có thể tham gia tái bảo
hiểm với các công ty bảo hiểm của các nước trên thế giới để nâng cao
hiệu quả hoạt động. Về quan hệ bảo hiểm, chỉ phát sinh và tồn tại trong
một khoảng thời gian xác định kể từ khi người tham gia mua phí hoặc
hợp đồng bảo hiểm. Thời hạn này thường là một năm hay một chu kỳ
hoạt động. Trong khi đó, BHXH không được tính lãi trong cơ cấu chi
phí toàn phần đối với những người tham gia và chỉ sử dụng phần nhàn
rỗi tương đối của quỹ bổ sung nhằm tăng thêm cho phần chi trả trợ cấp
của chế độ BHXH. Quan hệ BHXH là quan hệ lâu dài, tương đối ổn định
và chủ yếu là bắt buộc dựa trên quan hệ lao động và quan hệ phân phối.
Quỹ tài chính của loại hình BHXH được tồn tích và sử dụng liên tục qua
các thế hệ dưới sự bảo trợ chặt chẽ của Nhà nước.
1.1.3. Đặc điểm BHXH
Như đã nêu, BHXH ra đời và phát triển trong nền kinh tế hàng

hoá, đầu tiên là hình thức tự bảo hiểm của những người lao động, sau đó
có sự tham gia của giới chủ và Nhà nước. BHXH thường do một cơ quan
trung gian đảm nhận có nhiệm vụ quản lý quỹ do các bên tham gia đóng
góp và chi trả các trợ cấp cho đối tượng khi có nhu cầu phát sinh. Vì
vậy, có thể tóm tắt những đặc trưng cơ bản của BHXH là:
- Là loại bảo hiểm cho người lao động trong và sau quá trình lao
động;
- Các rủi ro của người lao động như ốm đau, thai sản, tai nạn lao
động, bệnh nghề nghiệp, mất việc làm, già yếu (mất sức lao động),
chết làm người lao động bị giảm hoặc mất nguồn thu nhập. Họ không
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

11

có nguồn thu nhập khác bù vào để ổn định cuộc sống. Đây là một đặc
trưng cơ bản của BHXH.
Quỹ BHXH được hình thành do sự đóng góp của người sử dụng
lao động, người lao động, Nhà nước hỗ trợ và nguồn khác. Số tiền mà
các bên đóng góp được tập trung vào một quỹ riêng không nằm trong
Ngân sách Nhà nước do tổ chức BHXH Việt Nam thống nhất quản lý để
chi trả các chế độ trợ cấp và hoạt động quản lý BHXH.
BHXH đảm bảo cho người lao động khi gặp rủi ro liên quan đến
các vấn đề như ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, già
yếu. Người tham gia BHXH được trợ cấp một khoản tiền nhằm bù đắp
nguồn thu nhập bị giảm hoặc mất để ổn định cuộc sống của bản thân và
gia đình. Quyền được hưởng trợ cấp phụ thuộc vào nghĩa vụ đóng góp,
mức đóng góp và mức hưởng BHXH đều có liên quan đến thu nhập của
người được BHXH.
Các hoạt động của BHXH được thực hiện trong khuôn khổ pháp
luật. Nhà nước bảo hộ cho các hoạt động BHXH bằng cách định ra chính

sách quốc gia về BHXH; quy định quyền hạn trách nhiệm các bên tham
gia BHXH cho phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước.
BHXH được áp dụng rộng rãi và thống nhất trong cả nước đối với
các đối tượng là cán bộ công nhân viên chức, người lao động trong các
doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế có sử dụng lao động hợp
đồng 03 tháng trở lên.
1.1.4. Khung khổ pháp luật và cơ chế chính sách BHXH
Các chế độ BHXH từ xưa đến nay, ở tất cả các nước trên thế giới, đều
có mục đích chung là giúp đỡ những người tham gia BHXH giải quyết những
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

12

khó khăn về vật chất tạm thời, và ổn định cuộc sống lâu dài khi đã hết tuổi lao
động. Mong muốn thực hiện điều đó, Nnhà nước, tùy theo điều kiện kinh tế -
xã hội phải ban hành các quy định để có căn cứ pháp lý thực hiện. Trải qua
các thời kỳ, chính sách BHXH đã được Nhà nước ta ban hành và triển khai
thực hiện theo các văn bản sau:
- Sắc lệnh 54/SL ngày 04/11/1945 ấn định những điều kiện cho công
chức về hưu; Sắc lệnh 105/SL ngày 14/6/1946 ấn định việc cấp hưu bổng của
công chức.
- Sắc lệnh 76/SL ngày 20/5/1950 ấn định cụ thể hơn các chế độ trợ cấp
hưu trí, thai sản, tai nạn lao động, tử tuất đối với công nhân.
- Nghị định 218/CP ngày 21/11/1961 của Hội đồng Chính phủ ban hành
kèm theo Điều lệ tạm thời về các chế độ BHXH đối với công nhân viên chức
Nhà nước.
- Nghị định 43/CP ngày 22/6/1993 của Chính phủ ban hành quy định
tạm thời chế độ BHXH.
- Nghị định 12/CP, ngày 26/1/1995 và Nghị định số 45/CP, ngày
15/7/1995 của Chính phủ ban hành Điều lệ BHXH áp dụng đối với cán bộ,

công chức viên chức Nhà nước, người lao động ở các thành phần kinh tế và
lực lượng vũ trang.
- Luật BHXH số 71/2006/QH11 đã được Quốc hội nước Cộng hoà Xã
hội Chủ nghĩa Việt Nam ban hành ngày 29/6/2006.
1.1.5. Tài chính của BHXH
Lợi ích thiết thực của người tham gia bảo hiểm (dù theo loại hình
bảo hiểm bắt buộc hay tự nguyện) là được cơ quan BHXH trợ cấp kịp
thời, nhằm bù đắp một phần thu nhập bị giảm sút hoặc mất đi do gặp rủi
ro. Do vậy, nhiệm vụ của cơ quan BHXH là phải có nguồn tài chính để
sẵn sàng đáp ứng kịp thời nhu cầu của mọi người được bảo hiểm.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

13

Nguồn tài chính của BHXH còn phải để trang trải các chi phí quản
lý bộ máy từ trung ương đến địa phương. Nguồn tài chính đó cần phải
vững chắc và đều đặn. Các ngành kinh tế xã hội phải phát triển, tạo điều
kiện thuận lợi cho hoạt động của cơ quan BHXH, phải luôn đảm bảo có
một lượng dự trữ có thể ứng phó những tình huống đột xuất, như dịch
bệnh lan tràn, số người thôi việc có nhu cầu lĩnh trợ cấp một lần, hoặc có
số người về hưu sớm Nguồn tài chính của BHXH được hình thành từ
ba nguồn chính, đó là mức đóng góp của người sử dụng lao động, người
lao động và sự hỗ trợ của Nhà nước. Ở Việt Nam trước khi có Nghị định
số 19/CP thì phần thu của BHXH chủ yếu là do Ngân sách Nhà nước
cấp, sau khi có Nghị định số 19/CP của Chính phủ và Nghị định số
100/2002/NĐ-CP thì nguồn tài chính của BHXH tách dần khỏi ngân
sách Nhà nước thu từ người sử dụng lao động, người lao động được hỗ
trợ của Chính phủ.
Quỹ BHXH được quản lý thống nhất theo chế độ tài chính của nhà
nước, hạch toán độc lập và được Nhà nước bảo hộ. Quỹ BHXH được thực

hiện các biện pháp để bảo tồn giá trị và tăng trưởng theo quy định của
Chính phủ.
1.1.6. Điều kiện thực hiện chế độ BHXH
Các điều kiện cơ bản để thực hiện và mở rộng chính sách BHXH
cho người lao động trong các thành phần kinh tế là:
- Điều kiện kinh tế
Kinh tế phát triển là điều kiện tiên quyết và trực tiếp để mọi người lao
động có thể tham gia BHXH. Bởi vì, muốn tham gia BHXH thì phải có khả
năng đóng góp vào quỹ BHXH. Đây là yếu tố đòi hỏi người lao động trực tiếp
hoặc gián tiếp sản xuất phải có thu nhập không chỉ đủ bù đắp chi phí sản xuất,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

14

trang trải chi tiêu cho cuộc sống mà còn phải có tích luỹ một phần để tham gia
đóng góp vào quỹ BHXH, nhằm đảm bảo cho cuộc sống của họ trong tương
lai khi hết tuổi lao động hoặc lúc ốm đau. Nguyện vọng và nhu cầu này của
người lao động chỉ có thể đạt được khi làm ăn có hiệu quả, có tích luỹ. Như
vậy, để mở rộng được BHXH trong tương lai phải chú ý những yếu tố sau:
Một là: Việc hoạch định chính sánh BHXH cho các thành phần
kinh tế phải dựa trên cơ sở thu nhập thực tế đảm bảo mức sống chung
của người lao động theo hướng được nâng cao. Theo kinh nghiệm của
các nước, BHXH của một quốc gia muốn phát triển được thì GDP bình
quân đầu người phải đạt khoảng 1.000 USD/năm trở lên. Trong điều
kiện này khả năng mở rộng BHXH cho người lao động sẽ tỷ lệ thuận với
mức tăng trưởng của GDP bình quân đầu người. Ở Việt Nam qua nghiên
cứu cho thấy: Để người lao động có thể tham gia BHXH, người lao động
phải có thu nhập ổn định bình quân ở mức 1.500.000 đồng/tháng trở lên.
Hai là: Mọi hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ phải có lãi
sau khi đã trừ chi phí để tái sản xuất và tham gia các khoản đóng góp với

Nhà nước trong đó có BHXH.
Ở Việt Nam, trong những năm qua mức thu nhập và chi tiêu của
các hộ dân cư ở các vùng miền từ thành thị đến nông thôn đều tăng so với
thời kỳ đầu những năm 90 của Thế kỷ XX. Thu nhập bình quân đầu
người tăng khoảng 3,1 lần, khu vực thành thị tăng 5 lần và khu vực nông
thôn tăng 2,7 lần so với năm 1993. Đây là yếu tố quan trọng để có thể vận
động người dân tham gia.
- Điều kiện pháp lý:
Đây là điều kiện liên quan đến việc ban hành và quản lý Nhà nước
đối với BHXH là tạo ra hành lang pháp lý, chính sách cho BHXH. Đây
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

15

cũng là yếu tố quan trọng then chốt, giúp cho hệ thống BHXH có được
cơ sở vững chắc để tổ chức thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình và
phục vụ tốt hơn cho người lao động. Ở đây, các nội dung BHXH cần
được thể chế hoá trong pháp luật BHXH và trong các ngành luật có liên
quan.
Ngoài ra, phải tiếp tục thể chế hoá chính sách và pháp luật về
BHXH cho phù hợp với từng loại đối tượng tham gia BHXH, đảm bảo
cơ chế quản lý BHXH phải rõ ràng, thông thoáng, đúng luật và tạo điều
kiện thuận lợi cho người tham gia bảo hiểm, có như vậy, mới thu hút
được đông đảo đối tượng tham gia và thực hiện BHXH.
Đồng thời, Nhà nước phải có cơ chế định hướng đầu tư đảm bảo
an toàn và tăng trưởng quỹ, bảo tồn được vốn có lãi. Vấn đề bảo tồn và
tăng trưởng quỹ BHXH là nhiệm vụ quan trọng của ngành BHXH. Do
vậy, Nhà nước phải có chính sách ưu tiên cho việc đầu tư của quỹ
BHXH.
- Điều kiện về tổ chức thực hiện

Một trong những điều kiện quan trọng quyết định, đến việc mở
rộng chính sách BHXH là khả năng tổ chức thực hiện chính sách BHXH
của cơ quan BHXH và Nhà nước. Điều kiện này thể hiện ở các nội dung
sau:
Một là, việc tổ chức thực hiện chính sách BHXH cho người lao
động trong mọi thành phần kinh tế phải có bước đi thích hợp; trước tiên
phải tổ chức thực hiện thật tốt loại hình BHXH bắt buộc và thực hiện thử
nghiệm sẽ rút kinh nghiệm để loại hình BHXH tự nguyện, đặc biệt là
BHXH đối với nông dân. Sau đó tiến hành trên diện rộng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

16

Hai là, việc tổ chức bộ máy thực hiện sự nghiệp BHXH cho các
thành phần kinh tế phải đảm bảo tính hệ thống, tập trung; trình độ cán bộ
phải được nâng cao ngang tầm với yêu cầu của xã hội và phải được Nhà
nước, Chính phủ kiểm tra, giám sát quỹ BHXH.
1.1.7. Chức năng của BHXH
BHXH không những có tính kinh tế mà còn có tính xã hội rất cao.
Vì vậy, về tổng quát BHXH có những chức năng sau:
Chức năng đảm bảo thay thế hoặc bù đắp thiếu hụt thu nhập của
người lao động và gia đình họ. Đây là chức năng cơ bản thực hiện rõ bản
chất kinh tế và bản chất xã hội của BHXH.
Chức năng phân phối lại thu nhập: Chức năng này thực hiện khi
người lao động tham gia BHXH thực hiện việc san sẻ rủi ro với cộng
đồng theo thời gian BHXH; thực hiện phân phối lại theo chiều ngang
giữa các nhóm người, giữa các thế hệ tham gia BHXH và thực hiện
nguyên tắc: "Lấy của số đông bù cho số ít” góp phần tạo ra tinh thần
tương trợ giúp đỡ giữa các nhóm người lao động.
Người lao động hàng tháng chỉ phải trích một tỷ lệ nhỏ từ thu nhập

của mình đóng góp cho quỹ BHXH, nhưng với số đông người tham gia sẽ
có một số tiền đủ lớn, đủ trang trải cho những người không may mắn rủi
ro. Nhờ đó mà BHXH đã tạo ra sự đoàn kết tương trợ và gắn kết lợi ích của
các bên tham gia.
BHXH là một chính sách xã hội quan trọng của mỗi quốc gia, vì
nó liên quan đến đời sống của đông đảo người lao động. Vì vậy, quản lý
BHXH là nhiệm vụ quan trọng trong hoạt động của hệ thống BHXH.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

×