Tải bản đầy đủ (.pdf) (75 trang)

Nghiên cứu thực trạng phát triển một số loài lâm sản ngoài gỗ có giá trị sử dụng làm thực phẩm tại khu vực vùng đệm vườn quốc gia Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.69 MB, 75 trang )


ĐẠI HỌC THÁI NGYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM



TRẦN THỊ LINH


NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN MỘT SỐ LOÀI
LÂM SẢN NGOÀI GỖ CÓ GIÁ TRỊ SỬ DỤNG LÀM THỰC PHẨM
TẠI KHU VỰC VÙNG ĐỆM VƢỜN QUỐC GIA BA BỂ -
TỈNH BẮC KẠN



Chuyên ngành: Lâm học
Mã số: 60.62. 02 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP


Người hướng dẫn khoa học: TS. Lý Văn Trọng



THÁI NGUYÊN - 2012
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

i
LỜI CẢM ƠN


Luận văn này được hoàn thành tại Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên theo
chương trình đào tạo cao học ngành Lâm học, khóa học 2010 - 2012.
Trong quá trình học tập và hoàn thành luận văn, tác giả đã nhận được sự quan
tâm, giúp đỡ của Ban giám hiệu, Khoa đào tạo sau đại học cũng như của các thầy giá o ,
cô giáo Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên. Nhân dịp này tác giả xin chân thành
cảm ơn về sự giúp đỡ đó.
Trướ c hế t, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Lý Văn Trọng và Th.S
La Quang Độ - người hướng dẫn khoa học - đã trực tiếp hướng dẫn, tận tình giúp đỡ,
truyền đạt những kiến thức quý báu và dành những tình cảm tốt đẹp cho tác giả trong
thời gian thực hiện luận văn.
Xin được gửi lời cảm ơn chân thành tới Vườn quốc gia Ba Bể, UBND huyện Ba
Bể, UBND các xã Khang Ninh, Cao Thượng, Quảng Khê, những người đã tạo mọi điều
kiện thuận lợi cho tác giả trong quá trình làm việc, học tập và hoàn thành luận văn.
Cảm ơn bạn bè và người thân trong gia đình đã luôn ở bên cạ nh độ ng viên và
giúp đỡ tác giả trong suốt quá trình hoàn thành luận văn.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng để hoàn thiện nhưng luận văn vẫn không thể tránh
khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của các thầy cô và
các bạn.
Thái Nguyên, tháng 9 năm 2012
Tác giả


Trần Thị Linh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

ii
DANH MỤC CÁC BẢNG
TT
Tên các bảng
Trang

Bảng 3.1.
Dân số và lao động khu vực nghiên cứu
29
Bảng 3.2.
Thống kê tỷ lệ hộ nghèo khu vực nghiên cứu
30
Bảng 3.3.
Thống kê các loại gia súc gia cầm ở 3 xã
32
Bảng 3.4.
Mạng lưới nhân viên y tế
33
Bảng 3.5.
Hiện trạng giáo dục
34
Bảng 4.1
Hiện trạng sử dụng đất nông nghiệp tại khu vực nghiên cứu
37
Bảng 4.2.
Các loài cây LSNG giá trị kinh tế được thường sử dụng làm
thực phẩm có phân bố tự nhiên tại khu vực nghiên cứu
39
Bảng 4.3.
Các loài cây LSNG giá trị kinh tế thường sử dụng làm thực
phẩm đang được gây trồng tại khu vực nghiên cứu
40
Bảng 4.4.
Xếp hạng ưu tiên cơ cấu cây trồng LSNG dùng làm thực
phẩm ở xã Khang Ninh
42

Bảng 4.5.
Xếp hạng ưu tiên cơ cấu cây trồng LSNG dùng làm thực
phẩm ở xã Quảng Khê
43
Bảng: 4.6
Xếp hạng ưu tiên cơ cấu cây trồng LSNG ở xã Cao Thượng
45

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

iii
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦ U i
Chƣơng 1. 3
TỔNG QUAN TÀ I LIỆ U 3
1.1. Định nghĩa về Lâm sản ngoài gỗ 3
1.2. Nghiên cứu trên thế giớ i 3
Chƣơng 2. 18
NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 18
2.1. Mục tiêu nghiên cứu 18
2.1.1. Mục tiêu chung 18
Chƣơng 3: 24
ĐIỀ U KIỆ N TƢ̣ NHIÊN, KINH TẾ - X HỘI KHU VỰC NGHIÊN CỨU 24
3.1. Điề u kiệ n Kinh tế - Xã hội khu vực nghiên cứu 24
3.1.1. Điều kiện tự nhiên 24
3.1.1.1. Vị trí địa lý 24
3.1.2. Điều kiện kinh tế- xã hội 28
3.1.2.1. Dân số, lao động và việc làm 28
3.1.2.2. Đặc điểm kinh tế 29

3.2. Tình hình sản xuất kinh doanh 29
3.2.1. Sản xuất nông nghiệp 29
3.2.2. Sản xuất lâm nghiệp 30
3.2.3. Chăn nuôi 30
3.2.4. Cơ sở hạ tầng 31
3.3. Đánh giá chung về điều kiện cơ bản 33
3.3.1. Những thuận lợi 33
3.3.2. Khó khăn 34
Chƣơng 4: 35
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 35
4.1. Điều tra, đánh giá thực trạng gây trồng và phát triển các loài cây LSNG ở
khu vực nghiên cứu 35
4.1.1. Thực trạng gây trồng các loài cây LSNG tại khu vực nghiên cứu 35
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

iv
4.1.2. Xác định cơ cấu cây trồng LSNG có giá trị và tiềm năng phát triển của các
xã nghiên cứu 40
4.1.3. Tình hình khai thác, sử dụng và thị trường tiêu thụ lâm sản ngoài gỗ ở một
số thôn trên địa bàn nghiên cứu 44
4.2. Kết quả điều tra kiến thức bản địa về khai thác, sử dụng và gây trồng các loài
LSNG có giá trị tại khu vực nghiên cứu 49
4.2.1. Kinh nghiệm khai thác và sử dụng các loài LSNG có giá trị 49
4.2.2. Tình hình về gây trồng các loài cây LSNG có giá trị 53
4.2.3. Kiến thức về phân bố sinh thái 56
4.2.4. Đánh giá chung về kiến thức bản địa 57
4.3. Đề xuất những giải pháp để phát triển loài cây LSNG có giá trị kinh tế cao có
tiềm năng 58
4.3.1.Giải pháp về chính sách 58
4.3.2. Giải pháp về kỹ thuật 60

4.3.3. Giải pháp thực hiện và quản lý 64
Chƣơng 5: 65
KẾT LUẬN, TỒN TẠI, KHUYẾN NGHỊ 65
5.1. Kết luận: 65
5.2. Tồn tại: 67
5.3. Khuyến nghị: 67
TÀI LIỆU THAM KHẢO 68
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

1
MỞ ĐẦ U
Lâm sản ngoài gỗ (LSNG) có giá trị đặc biệt quan trọng trong hệ sinh thái rừng.
Hệ sinh thái rừng (Forest ecosystem) là một hệ sinh thái mà thành phần chủ yếu là sinh
vật rừng (các loài cây gỗ, cây bụi, thảm tươi, dây leo, hệ động vật và vi sinh vật rừng)
và môi trường vật lý của chúng (đất đai, nguồn nước, khí hậu,…). Hệ sinh thái rừng
như vậy có tính đa dạng sinh học rất cao. Từ hệ sinh thái này, nếu giữ nguyên các loại
cây gỗ đứng, người ta vẫn có thể thu hoạch các loại lâm sản khác có thể khái quát vào
các nhóm sản phẩm như: Nấm ăn, dược liệu, cây cho hạt, cây có dầu, cây cho sợi, phấn
và mật hoa, cây có thể làm thức ăn gia súc, rau rừng, trái cây rừng ăn được, song, mây,
tre, cây cho nhựa, hoá chất, động vật rừng (côn trùng và động vật khác), nguồn gen cho
các sản phẩm trên, sinh thái rừng và môi trường du lịch, thủy điện, ….
Ở Việt Nam, LSNG đã được khai thác, sử dụng nhiều từ thời cổ đại và nhiều loại
LSNG được coi là những sản vật qu‎ý của đất nước như Linh chi, Tiền thảo; Ngũ gia bì;
Thiên niên kiện, LNSG có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với rất nhiều cộng đồng, đặc
biệt là đồng bào miền núi. Giá trị LSNG của rừng được thể hiện như rừng cung cấp
lương thực (củ Mài, củ Gạo,…), thực phẩm (Nấm, măng, rau rừng,…), Các loại cây
cho hạt (Đào lộn hột; Các loại dẻ ), cung cấp dược thảo chữa bệnh (Nhân sâm, Hà thủ
ô, Linh chi,…), cung cấp nguyên vật liệu xây dựng, làm đồ gia dụng, đan lát (các loại
tre nứa, song mây),
VQG Ba Bể là một di sản thiên nhiên quý giá và có cảnh đẹp lôi cuốn khách du

lịch trong và ngoài nước đến thăm ngày càng tăng. Đó là một phức hệ gồm hồ, sông,
núi đá vôi từ dốc vừa đến dốc đứng, xen giữa có nhiều núi đất tạo nên cảnh quan đa
dạng và phong phú. Nằm ở độ cao 150m so với mực nước biển nhưng Ba Bể bốn mùa
đầy nước. Hồ có cấu tạo khá đặc biệt, thắt ở giữa và phình ra ở hai đầu, gồm 3 hồ lớn
thông nhau là: Pé Lèng, Pé Lù, Pé Lầm và từ đó mà thành tên Ba Bể. Hồ nhận nước từ
hai nguồn chính là sông Tà Han và sông Chợ Lèng. Hồ còn có chức năng điều tiết, phân
nước cho sông Năng vào mùa cạn và như một bế chứa cho sông vào mùa mưa lũ. Chính
vì có sự lưu thông với các dòng sông mà nước hồ Ba Bể luôn vận động khiến cho nước
hồ sạch và trong xanh.
Cộng đồng dân cư tại những khu phục hồi sinh thái, khu vực vùng đệm của
Vườn quốc gia, các khu bảo đã sống ở đây từ rất lâu đời và cuộc sống của họ chủ yếu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

2
dựa vào rừng và các nguồn tài nguyên thiên nhiên quanh hồ. Phần lớn các hộ gia đình
đều thuộc diện đói nghèo (xã Nam Mẫu thuộc diện xã đặc biệt khó khăn nằm trong
Chương trình 135 giai đoạn II). Trong những năm qua, những hành vi xâm phạm của
cộng đồng vào tài nguyên rừng như đốt nương làm rẫy, săn bắn động vật hoang dã, khai
thác gỗ trái phép thường xuyên xảy ra đe dọa tới công tác bảo tồn của VQG. Với nhiều
chương trình tuyên truyền, vận động, hỗ trợ phát triển sản xuất từ chính quyền cũng
như các tổ chức địa phương các cộng đồng đã ý thức được việc làm của mình là vi
phạm pháp luật và làm tổn hại tới tài nguyên rừng, nhưng vì cuộc sống khó khăn và
những đòi hỏi thực tế vẫn còn là những bất cập khiến họ không có nhiều lựa chọn.
Đặc biệt trong thời gian hiện nay khi cơ cở hạ tầng đã được cải thiện đáng kể và
các dự án có quan tâm hỗ trợ cho phát triển du lịch Bắc Kạn nói chung và du lịch sinh
thái khu vực hồ Ba Bể nói riêng như dự án 3PAD, dự án có nguồn vốn GIZ, dự án có
nguồn vốn từ ADB… khách du lịch tăng rõ rệt, nhu cầu về thực phẩm sạch, tại chỗ,
nhất là đặc sản địa phương ngày càng tăng, đòi hỏi có những thay đổi về khả năng cung
cấp gắn với cải thiện đời sống cho các cộng đồng địa phương.
Xuất phát từ thực tế đó, một yêu cầu cấp bách cần đặt ra đối với VQG Ba Bể là

cần phải tìm ra một nguồn sinh kế mới cho người dân, từ đó giảm áp lực của người dân
vào tài nguyên rừng và đảm bảo quản lý rừng bền vững, trong đó nghiên cứu và phát
triển gây trồng cây LSNG có giá trị kinh tế cao đang là một hướng đi đúng đắn và rất có
triển vọng. Tuy nhiên, cho tới nay, vấn đề phát triển trồng cây LSNG ở VQG Ba Bể
vẫn chưa thực sự được chú trọng, phần lớn người dân vẫn vào rừng thu hái các loài
LSNG tuy nhiên cũng có một số hộ đã gây trồng với quy mô rất nhỏ lẻ, tự phát và
nguồn giống, kỹ thuật không phù hợp dẫn tới năng suất thấp, hiệu quả đầu tư chưa cao.
Xuất phát từ những lý do đó, đề tài “Nghiên cứu thực trạng phát triển mộ t số
loài LSNG có giá trị sử dụ ng là m thự c phẩ m tại khu vực vùng đệm VQG Ba Bể - tỉnh
Bắc Kạn” được thực hiện là thực sự cần thiết, nhằm lựa chọn được loài cây, kỹ thuật
trồng cây LSNG có triển vọng nhất đối với khu vực.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

3
Chƣơng 1.
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Định nghĩa về Lâm sản ngoài gỗ
Đã có nhiều tên gọi khác nhau về lâm sản ngoài gỗ đang được sử dụng rộng rãi
hiện nay như: lâm sản phụ, lâm sản phi gỗ, sản phẩm rừng không phải là gỗ, Hầu hết
mọi người đều có cùng quan điểm coi các khái niệm trên là đồng nhất, để chỉ các sản
phẩm của rừng không phải là gỗ như: động vật rừng, các cây dược liệu, các sản phẩm từ
cây rừng không phải là gỗ, các sản phẩm phụ từ khai thác gỗ (cành, lá, gốc, rễ, ).
Có nhiều tài liệu viết về lâm sản ngoài gỗ, nhưng chỉ ở những phạm vi hẹp của
một loài hoặc một nhóm loài nhất định. Nhưng chưa có một công trình nào đưa ra được
một khái niệm chính xác về lâm sản ngoài gỗ này.
+ Khái niệm về Lâm sản ngoài gỗ được đề cập chính thức vào năm 1989 do
W.W.F. Theo khái niệm này: “Lâm sản ngoài gỗ bao hàm tất cả các vật liệu sinh học
khác gỗ, được khai thác từ rừng tự nhiên phục vụ mục đích của con người. Bao gồm
các sản phẩm là động vật sống, nguyên liệu thô và củi, song mây, tre nứa, gỗ nhỏ và
sợi”. (The Economic value of Non - timber Forest products in Southeast asia - W.W.F -

1989).
Hiện nay trên thế giới có nhiều định nghĩa khác nhau về LSNG nhưng thông
dụng hơn cả là định nghĩa do Hội đồng Lâm nghiệp Tổ chức Nông Lương Liên Hiệp
quốc (FAO) thông qua năm 1999: “Lâm sản ngoài gỗ (Non - timber forest products -
NTFP, hoặc Non wood forest products - NWFP) bao gồm những sản phẩm có nguồn
gốc sinh vật, khác gỗ, được khai thác từ rừng, đất có rừng và từ cây gỗ ở ngoài rừng”.
Như vậy, lâm sản ngoài gỗ bao gồm tất cả các vật liệu sinh học khác gỗ được
khai thác từ rừng (cả rừng tự nhiên và rừng trồng) phục vụ mục đích của con người, bao
gồm các loài thực vật, động vật dùng làm thực phẩm, làm dược liệu, tinh dầu, nhựa sáp,
nhựa dính, nhựa dầu, cao su, tanin, màu nhuộm, chất béo, song mây, tre nứa, cây cảnh,
nguyên liệu giấy, sợi,
1.2. Nghiên cứu trên thế giớ i
LSNG đã được người dân gây trồng, khai thác sử dụng cách đây hàng nghìn
năm, đặc biệt ở một số nước có nhiều rừng nhiệt đới như: Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

4
Độ, Indonesia,… Theo Mendelsohn (1989) cho rằng hiện nay các nhà khoa học, các
nhà kinh doanh trên thế giới bắt đầu quan tâm nhiều hơn đến nghiên cứu, gây trồng và
phát triển LSNG gắn với bảo tồn và phát triển rừng. Đây cũng là mốc đánh dấu sự
chuyển biến nhận thức về tầm quan trọng, vai trò của LSNG trong xã hội, nó được coi
là nguồn tạo thu nhập quan trọng, vai trò của LSNG trong xã hội, nó được coi là
nguồn tạo thu nhập quan trọng, nâng cao đời sống kinh tế, đảm bảo an ninh lương
thực, ổn định xã hội cho người dân miền núi, vừa góp phần vào quá trình bảo tồn và
phát triển tài nguyên rừng. Dưới đây là một số nghiên cứu điển hình theo các vấn đề
khác nhau.
1.2.1. Nghiên cứu về phân loại và bảo tồn LSNG
Công trình “Nghiên cứu về tre trúc” của Munro (1868) được coi là một trong
những nghiên cứu về tre trúc đầu tiên (dẫn theo Đỗ Văn Bản, 2005) [3]. Trong công tác
này tác giả đã khái quát được một cách tổng quan về họ phụ tre trúc trên thế giới.

Khi nghiên cứu về “Các loại tre trúc” Gamble (1896) đã đề cập tương đối chi tiết
về phân bố, hình thái và một số đặc điểm sinh thái của 151 loài tre trúc (dẫn theo Đỗ
Văn Bản, 2005) có ở các nước Ấn Độ, Pakistan, Miến Điện, Malaysia và Indonesia.
I. T. Haig, M.A Hubermen và U Aung Din de F.A.D (1963) với công trình
“Rừng tre nứa” đã nghiên cứu một số đặc điểm sinh thái của tre trúc nứa Ấn Độ,
Pakistan liên quan đến thổ nhưỡng, khí hậu và một số biện pháp xử lý lâm học, tái sinh,
khai thác.
S. Dransfield and E.A. Widjaja (1995) [27] đã tiến hành mô tả đặc điểm hình
thái, sinh thái, phân bố, gây trồng, sử dụng cho 75 loài tre trúc thông dụng, có giá trị ở
vùng Đông Nam Á.
Nhìn chung, các nghiên cứu phân loại hiện nay mới chỉ tập trung chủ yếu vào
các loài LSNG có diện tích phân bố với số lượng lớn là Tre trúc, các nghiên cứu về
song, mây và một số cây thuốc, cay lấy dầu nhựa,… hầu như chưa được đề cập đến.
1.2.2. Nghiên cứu về chọn giống, nhân giống và kỹ thuật gây trồng
Zhou Fangchun (2000) [28] có đề cập đến nhân giống của một số loài tre trúc
khác nhau ở Trung Quốc làm cơ sở cho việc gây trồng phát triển tre trúc.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

5
Ở Malaysia bước đầu đã nghiên cứu tạo giống mây bằng phương pháp nuôi cây
mô, đã tiến hành thí nghiệm trồng song, mây dưới tán các loại rừng với các mật độ khác
nhau. Malaysia và Indonesia đã xây dựng rừng Mây giống phục vụ cho gieo trồng trên
quy mô lớn (dẫn theo Vũ Văn Dũng và cộng sự, 2002) [7].
Xiao Jianghua (1996) đã xác định những nhân tố ảnh hưởng đến quá trình sinh
măng, sinh trường và phát triển của thân khí sinh là độ ẩm, nhiệt độ, dinh dưỡng, cấu
trúc rừng, biện pháp lâm sinh, sâu bệnh. Đây là những nhân tố cần phải được quan tâm
khi áp dụng các biện pháp thâm canh tăng năng suất măng và thân khí sinh (dẫn theo
Nguyễn Quang Hưng, 2008) [14].
Zhou Fangchun (2000) [28] đã cho thấy nhiệt độ, lượng mưa và độ ẩm có ảnh
hưởng khá rõ đến quá trình phát sinh, phát triển măng,… của nhiều loài tre trúc khác

nhau, đó là những cơ sở để áp dụng các biện pháp thâm canh nhằm thúc đẩy sinh măng
trái vụ ở Trung Quốc.
Theo J. Dransfield và N.Manokaran, 1998 việc trồng Mây nếp đã phát triển trên
quy mô lớn ở Trung Quốc, phổ biến là trồng theo phương thức nông lâm kết hợp, trồng
xen trong các khu rừng phục hồi và rừng trồng, cây non được trồng 1 hoặc 2 cây/cụm.
Tại Quảng Đông, mây nếp được trồng thử nghiệm ở sườn đồi, thu hoạch vào năm thứ 7
cho năng suất khoảng 1,2 tấn/ha (dẫn theo Vũ Văn Dũng và cộng sự, 2002) [7].
Những năm gần đây, một số nhà khoa học đã nghiên cứu về đặc điểm sinh thái học,
kỹ thuật gây trồng, chế biến và tổng kết đánh giá kết quả trồng một số loài LSNG có giá trị
ở các nước nhiệt đới như Việt Nam, Trung Quốc, Brazils,…. (Peter Zuidema, 2001;…
Marinus J.A. Werger, 2000; FAO, 2000;…)
Nhìn chung, việc nghiên cứu về phân loại, mô tả hình thái, sinh thái, công dụng,
tầm quan trọng cũng như đánh giá các mô hình gây trồng và phát triển LSNG trên thế
giới đã có nhiều kết quả. Các kết quả đều khẳng định việc gây trồng, phát triển, sử dụng
hợp lý và bền vững thì LSNG sẽ có vai trò to lớn trong việc tạo thu nhập cho người dân
miền núi, nhiều nơi còn làm nguồn thu nhập chính, góp phần xoá đói giảm nghèo, nâng
cao đời sống, đảm bảo an ninh lương thực, ổn định xã hội đồng thời đóng góp rất lớn
trong quá trình bảo vệ và phát triển rừng.
2.1.3. Nghiên cứu về vai trò của kiến thức bản địa trong việc phát triển LSNG
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

6
Các chuyên gia như Facolner nghiên cứu kiến thức bản địa ở Ghana.1997; Roost
nghiên cứu kiến thức bản địa ở Lào, 1997, các tác giả đã khẳng định: Kiến thức bản địa
là những kiến thức quý báu có giá trị trong quá trình sử dụng LSNG đòi hỏi cần có sự
kết hợp giữa kết quả nghiên cứu khoa học thực sự với kiến thức bản địa.
Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về kiến thức bản địa ở hầu khắp thế giới
và kiến thức bản địa ngày càng có vai trò quan trọng trong các dự án phát triển nông
thôn.
Một mạng lưới quốc tế nghiên cứu và sử dụng kiến thức bản địa đã được thành

lập năm 1987 thông qua trung tâm nghiên cứu kiến thức bản địa phục vụ phát triển
nông nghiệp (CI KARD) ở đại học Iowastate, Hoa Kỳ. Rõ ràng kiến thức bản địa đang
được sự chú ý của nhiều nhà khoa học cũng như các dự án, và tổ chức quốc tế (Nguồn
PGS.TS Đặng Kim Vui và cs) [22]
Yganda, Nam Phi, Philipin cũng thể hiện sự quan tâm ngày càng lớn đến kiến
thức bản địa trong các chính sách của mình như khuyến khích các tổ chức, dự án, nhân
dân sử dụng kiến thức bản địa trong trồng trọt, canh tác nông lâm nghiệp (Nguồn: Phan
Văn Thắng, 2002)[21]
1.2.4. Nghiên cứ u về thị trườ ng LSNG
Các nghiên cứu chỉ ra rằng , mặ c dù LSNG có giá trị to lớ n , nhưng nhiề u ngườ i
sản xuất LSNG lại thu được hiệu quả rất thấp là do sự hạn chế trong việc tiếp cận thông
tin thị trườ ng mộ t cá ch có tổ chứ c hoặ c thiế u nhữ ng giả i phá p kỹ thuậ t phù hợ p để nâng
cao chấ t lượ ng sả n phẩ m theo nhu cầu của thị trường. Để gó p phầ n giả i quyế t nhữ ng
vấ n đề trên , vào năm 1992, chương trì nh rừ ng , cây và con ngườ i (FTPP) đã phá t triể n
các bản hưỡng dẫn cho việc tạo ra các hệ thống thông tin thị trường LSNG ở mức địa
phương và giớ i thiệ u mộ t số kinh nghiệ m về kỹ thuậ t nuôi trồ ng , canh tá c và phá t triể n
thự c vậ t ngoà i gỗ , như phá t triể n rừ ng cung cấ p dượ c thả o ở Nepan , rừ ng cung cấ p cây
họ dầu, Tanin, cau rừ a ở vù ng Amazon - Brazil, rừ ng cung cấ p Song Mây ở Malaixia
(dẫn theo Vũ Văn Dũng và cộng sự, 2002) [7].
1.2.5. Các nghiên cứu về vai trò của LSNG
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

7
Phần lớn LSNG đã trở thành sản phẩm hàng hóa nên đã mở ra triển vọng cho
việc quản lý sử dụng bền vững nguồn tài nguyên rừng. Cùng với việc kinh doanh gỗ, nó
đem lại nhiều lợi ích cho việc bảo vệ rừng (Wim Bergmans, 1989). Thấy rõ được vai
trò của LSNG trong kinh tế và bảo vệ rừng, trên thế giới đã có nhiều công trình nghiên
cứu khoa học nhằm phát hiện các sản phẩm ngoài gỗ. Phần lớn các công trình nghiên
cứu được thực hiện ở các nước đang phát triển trong khu vực nhiệt đới, là những nơi có
tiềm năng LSNG nhất trên thế giới, nhưng lại có áp lực phá rừng mạnh mẽ nhất.

Giá trị kinh tế - xã hội của LSNG thể hiện ở nhiều khía cạnh khác nhau, từ cung
cấp lương thực, thực phẩm, vật liệu xây dựng, nguyên liệu thủ công mỹ nghệ, đến tạo
việc làm, phát triển ngành nghề thủ công nghiệp,… Tầm quan trọng của LSNG đối với
các nước nhiệt đới đã được thừa nhận, như ở Thái Lan, trong năm 1987 đã xuất khẩu
LSNG đạt giá trị 23 triệu USD và ở Indonesia cũng trong năm đó đạt tổng giá trị xuất
khẩu LSNG lên tới 238 triệu USD (Tenne, 1987).
Các tổ chức quốc tế như FAO (1997) [26], IUCN (1999) [15] đã đưa ra bảng giá
trị của LSNG so với các giá trị khác của rừng được thể hiện ở bảng 01.
Bảng 1.1. Giá trị của rừng và LSNG ở một số quốc gia trên thế giới
Quốc gia
Giá trị sinh
thái (%)
Giá trị lâm sản (%)
Toàn bộ
Lâm sản gỗ
LSNG
Nhật bản
96,0
4,0
2,0
2,0
CHLB Đức
93,0
7,0
4,1
2,9
LB Nga
70,0
30,0
20,1

9,9
Phần Lan
76,0
24,0
13,4
10,6
Việt Nam
75,0
25,0
12,5
12,5
Ấn Độ
80,0
20,0
10,0
10,0
Lào
80,0
20,0
10,0
10,0
Trung Quốc
93,0
7,0
4,0
3,0
Nguồn: FAO (1997), IUCN (1999)
Như vậy, giá trị LSNG ở nhiều quốc gia được ước tính xấp xỉ bằng so với giá trị
của gỗ. Do đó, nếu chỉ coi gỗ là nguồn thu nhập duy nhất từ rừng thì chúng ta đã bỏ lỡ
một nguồn lợi khác tương đương với nó. Dưới đây là một số nghiên cứu chứng minh

điều này:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

8
- Nghiên cứu của Mayer (1980) cho thấy, 60% tổng sản phẩm phi gỗ được tiêu
thụ bởi người dân địa phương và không bao giờ được tính ra tiền mặt.
- Ở Ấn Độ (1982) LSNG chiếm gần 40% giá trị lâm sản và 60% giá trị lâm sản
xuất khẩu. Ở Indonesia (1989) thu được 436 triệu USD từ LSNG.
- Padoch (1988), Bele (1989) qua nghiên cứu đã chỉ ra rằng: Rừng nhiệt đới có
vai trò quan trọng trong cuộc sống của người dân địa phương một phần là ở khả năng
cung cấp LSNG. Mayer (1988) đã tính toán rằng, một khu rừng nhiệt đới có diện tích
50.000 ha nếu được quản lý tốt sẽ cung cấp đều đặn 200 USD/ha/năm. Peter và cộng sự
(1989) đã tính toán thu nhập từ gỗ và LSNG trên một ha rừng nhiệt đới vùng Amazon
đạt 6.820 USD/ha/năm [25].
1.2.6. Các nghiên cứu về tiềm năng và giải pháp nâng cao vai trò của LSNG
Hệ sinh thái rừng nhiệt đới là một hệ sinh thái hoàn hảo và đầy đủ với khu hệ
động vật và thực vật phong phú và đa dạng nhất hành tinh (Van Steenis, 1956). Vì vậy,
việc tận dụng triệt để mọi tiềm năng của rừng nhiệt đới ẩm để kinh doanh toàn diện, lợi
dụng tổng hợp, trong đó có kinh doanh và lợi dụng LSNG là hết sức cần thiết.
Rừng nhiệt đới tuy chỉ chiếm 7% bề mặt trái đất nhưng trong đó chứa đựng gần
90% tổng số loài thực vật của trái đất (Mc Nell et al, 1990).
Năm 1987, Wilson đã tìm thấy quanh một gốc cây họ đậu ở Peru có tới 43 loài
kiến, thuộc 26 giống, bằng toàn bộ khu hệ kiến có mặt ở nước Anh.
Tại Đông Nam Á, rừng nhiệt đới và đặc biệt là rừng mưa có mức độ đa dạng
sinh học rất cao. Tại Malaysia có ít nhất 40.000 loài thực vật, Indonesia có khoảng
20.000 loài, Thái Lan có 12.000 loài, số loài thực vật ở Đông Dương (Việt Nam, Lào,
Campuchia) là 15.000 loài.
Nhằm nâng cao vai trò của LSNG một số tổ chức quốc tế tiêu biểu trong hoạt
động nghiên cứu LSNG như: Tổ chức nông lương thế giới (FAO), Trung tâm nghiên
cứu Lâm nghiệp quốc tế (CIFOR), Trung tâm Nông lâm kết hợp quốc tế (ICRAF),… đã

tập trung nghiên cứu vào nhóm các nghiên cứu sau:
- Khảo sát tình hình nhằm nắm được những hiểu biết chung về việc sử dụng
LSNG và tầm quan trọng của LSNG ở các mức độ khác nhau (hộ gia đình, địa phương,
quốc gia và quốc tế);
- Phát triển công nghệ để cải thiện quá trình chế biến và sử dụng LSNG;
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

9
- Nghiên cứu về canh tác LSNG;
- Nghiên cứu về kinh tế, xã hội bao gồm cả nghiên cứu về thị trường LSNG.
Việc quan tâm tới công nghệ sau thu hoạch thường ít ỏi, vì vậy gây lãng phí cả
về số lượng và chất lượng trong quá trình thu hái, vận chuyển và cất trữ sản phẩm
LSNG (FAO, 1995) [25]. Một số vấn đề nổi cộm trong sản xuất, chế biến LSNG ở các
nước đang phát triển là hạn chế kỹ thuật khai thác và xử lý sau thu hoạch; thiếu các
nghiên cứu về phát triển giống các loài cây cao sản; kỹ thuật chế biến kém hiệu quả;
thiếu các giải pháp điều chỉnh chất lượng; khó khăn về thị trường và thiếu cán bộ được
đào tạo,…
Năm 1992 Chương trình Rừng, cây và con người (FTPP) đã phát triển các bản
hướng dẫn cho việc tạo ra các hệ thống thôn tin thị trường LSNG ở mức địa phương.
Phương pháp này đã được kiểm nghiệm ở Bangladesh và Uganda năm 1993 và cho
thấy tính hiệu quả thiết thực của nó trong việc nắm bắt thông tin về thị trường cây
LSNG ở mức địa phương từ đó có kế hoạch lựa chọn, điều chỉnh loài cây LSNG gây
trồng, khai thác và sử dụng cho phù hợp [23].
1.3. Nghiên cứu ở Việt Nam
Các tư liệu, tài liệu và các công trình nghiên cứu liên quan đến LSNG hiện nay
phần lớn giới thiệu về sự đa dạng, khái niệm, phân loại, vai trò, giá trị sử dụng và kỹ
thuật gây trồng cho một số loài cây LSNG chủ yếu, điển hình là một số công trình
nghiên cứu phân theo các vấn đề sau đây:
1.3.1. Nghiên cứu về phân loại, bảo tồn LSNG
Nhận thức được tầm quan trọng của LSNG, ngay từ những năm đầu thế kỷ XX,

Lecomte - một nhà nghiên cứu của Pháp đã đề cập, xác định được nhiều loài LSNG có
giá trị trong cuốn “Thực vật chí đại cương Đông Dương” trong đó có ở Việt Nam.
Đỗ Tất Lợi (1991) [17] trong “Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam” - tái bản
lần 3 có sửa đổi bổ sung đã mô tả nhiều loài cây LSNG làm thuốc, trong đó có nhiều
bài thuốc hay từ những loài LSNG này.
Vũ Văn Dũng và cộng sự (2002) [7], các tác giả đã đưa ra định nghĩa, phân loại
LSNG, giới thiệu về một số nhóm LSNG có giá trị ở Việt Nam, tổ chức và quản lý LSNG,
những thuận lợi, khó khăn trong quá trình phát triển LSNG,….
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

10
Nguyễn Hoàng Nghĩa (2006) [18] cũng đã mô tả đặc điểm hình thái, sinh thái
phân bổ và công dụng của 194 loài tre ở Việt Nam và 3 giống: Bát độ, Điềm trúc và
Tạp giao có xuất xứ từ Trung Quốc.
Năm 2006, Bộ NN&PTNT đã phê duyệt đề án “Bảo tồn và phát triển LSNG
trong giai đoạn 2006 – 2020” [1]. Năm 2007, Bộ NN&PTNT tiếp tục phê duyệt Kế
hoạch hành động bảo tồn và phát triển LSNG ở Việt Nam [2].
Triệu Văn Hùng cùng các tác giả khác (2007) [11], đã mô tả hình thái, phân bố,
công dụng, kỹ thuật gây trồng, thu hoạch, chế biến và bảo quản của 299 loài LSNG.
Trong đó phân ra thành 6 nhóm: Nhóm cây có sợi (35 loài tre nứa, 2 loài mây và 8 loài
khác); Nhóm cây làm thực phẩm (40 loài cây ăn được, 12 loài nấm); Nhóm cây thuốc
(76 loài); Nhóm cây cho dầu nhựa (60 loài); Nhóm Tanin, thuốc nhuộm (19 loài);
Nhóm cây bóng mát (23 loài cây hoa, 13 loài cây cảnh, 11 loài cây cảnh và cây bóng
mát thân gỗ).
1.3.2. Nghiên cứu về vai trò của kiến thức bản địa trong việc khai thác, sử
dụng và phát triển LSNG
Một số rau dại ăn được ở Việt Nam, Phạm Thanh Huyền, Nguyễn Thị Minh
Nguyệt, Nguyễn Thúy Bình (2000) [13]. Các nhà nghiên cứu đã thống kê được 113 loài
thực vật rừng làm thực phẩm, gia vị có ở Việt Nam và xác định rõ đặc điểm nơi sống,
cách thu hái, chế biến, thành phần dinh dưỡng

Sở nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Lào Cai đã phối hợp với các nhà
khoa học tại trung tâm nghiên cứu đặc sản tiến hành tổng hợp thu nhập các kinh nghiệm
gây trồng, thu hái chế biến thảo quả trong nhân dân, 1994 (Nguồn: Phan Văn Thắng,
2002) [21]
Từ năm 1996 - 2000, khi nghiên cứu về lâm sản ngoài gỗ, một số nhà khoa học
tại Trung tâm nghiên cứu lâm đặc sản đã xác định được danh lục các loài lâm sản ngoài
gỗ. Trong đó có 40 loài tre, nứa, 160 loài cho tinh dầu, 70 loài chứa chất thâm (Nguồn:
Phan Văn Thắng, 2002) [21]
Năm 1999, khi nghiên cứu ở Vườn quốc gia Ba Vì, DA. Glimour và Nguyễn
Văn Sản, 1999, kết luận: lâm sản ngoài gỗ là nguồn thu nhập quan trọng đối với cuộc
sống của người dân nông thôn. Tác giả cho rằng một trong những nguyên nhân mất
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

11
rừng, làm suy thoái đa dạng sinh học có nguồn gốc từ đời sống khó khăn của người
dân, lâm sản ngoài gỗ bị sử dụng không hợp lý, cạn kiệt. Một trong những giải pháp có
hiệu quả để giải quyết vấn đề đời sống khó khăn của người dân mà vẫn bảo tồn và phát
triển rừng bền vững ở nước ta phát triển tài nguyên lâm sản ngoài gỗ (Nguồn: Phan
Văn Thắng, 2002) [21]
Năm 2000, Hà Chư Chử, Trần Quốc Túy và Jenne H. De Beer đã đánh giá về
lâm sản ngoài gỗ trong cuốn: “Phân tích phân ngành lâm sản ngoài fôc ở Việt Nam”.
Nội dung công trình đã đưa ra 76 loài cho nhựa thơm, 93 loài cho chất mầu, 160 loài
chỉ cho dầu, 260 loài cho tinh dầu (Nguồn: Phan Văn Thắng, 2002) [21]
Năm 2001, Vũ Văn Dũng, Hoàng Hữu Nguyên, Trịnh Vĩ đã đề xuất cách phân
loại mới. Theo các tác giả, lâm sản ngoài gôc được chia làm 6 nhóm: Sản phẩm để làm
thực phẩm, làm lá gói bánh (Nguồn: Phan Văn Thắng, 2002) [21]
Lã Đình Mỡi, Nguyễn Thị Thủy, Phạm Văn Thính đã có những nghiên cứu và
thống kê được tập đoàn đông đảo thực vật có giá trị làm thuốc, gia vị ở địa phương,
1995 (Nguồn: Phan Văn Thắng, 2002) [21]
Tìm hiểu việc sử dụng thực vật rừng làm thuốc, rau của nhân dân các xóm Bản

Cám, Nặm Cắm thuộc VQG Ba Bể - Tỉnh Bắc Kạn, Th.s La Quang Độ, 2001 [9]. Tác
giả đã xác định được số loài thực vật rừng làm rau ăn và kinh nghiệm của người dân tộc
trong khai thác, sử dụng, chế biến các loài này.
Tìm hiểu một số kiến thức bản địa và sử dụng bền vững tài nguyên rừng tại
VQG Ba Bể - Tỉnh Bắc Kạn. Th.s La Quang Độ, Th.s Nguyễn Thị Minh Châu, 2003
[10]. Hai tác giả đã xác định được các loài thực vật rừng làm rau ăn và kinh nghiệm
khai thác, sử dụng chúng của dân tộc Dao, H’Mông.
Kiến thức bản địa của người dân trong việc khai thác sử dụng các lâm sản ngoài
gốc làm thực phẩm, gia vị tại xã Thần Sa - Võ Nhai, Ths Nguyễn Thị Thoa, Ths.
Nguyễn Văn Mạn (Nguồn PGS.TS Đặng Kim Vui và Cs)[22]. Tác giả đã xác định được
kinh nghiệm của người dân trong việc sử dụng các loài làm thực phẩm, gia vị.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

12
Dự án hỗ trợ chuyên ngành lâm sản ngoài gỗ do viện khoa học Lâm Nghiệp (Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) phối hợp với tổ chức bảo tồn thiên nhiên quốc tế
IUCN thực hiện đã được triển khai nhằm tìm lại giá trị của lâm sản ngoài gỗ, giúp
người dân có cách khai thác và phát triển hợp lý (Nguồn: Phan Văn Thắng, 2002) [21]
Điều tra nghiên cứu kiến thức bản địa về quản lý, phát triển tài nguyên rừng ở
một số cộng đồng thôn bản thuộc miền núi phía bắc Việt Nam, Đỗ ĐÌnh Sâm, Đặng
Kim Khánh, An Văn Bảy. Các tác giả đã nghiên cứu về kinh nghiệm trồng tre lấy măng
của đồng bào Thái Sơn La, phát triển rừng quế của đồng bào người Dao ở Quảng Ninh
[20]
1.3.3. Nghiên cứu về chọn giống, nhân giống và kỹ thuật gây trồng
Nhân giống Hồi bằng phương pháp giâm hom với thuốc kích thích ra rễ là IBA
(1%), hom lấy từ cây 2 tuổi có tỷ lệ ra rễ khá cao đạt từ 66 – 69%; Phương pháp ghép
nêm và ghép áp cho hồi cũng có tỷ lệ sống khá cao, sau 3 tháng đạt hơn 79%, sau 5
tháng còn gần 74% và sau 14 tháng có thể xuất vườn còn gần 46%. Tỷ lệ sống của cây
ghép hầu như không phụ thuộc vào tuổi cây mẹ cho cành ghép mà phục thuộc rất rõ rệt
vào từng dòng cây mẹ cho cành ghép. (Nguyễn Huy Sơn, Nguyễn Tuấn Hưng – 2003).

Xử lý bằng IBA (1%) trong thời kỳ đầu hè để giâm hom Quế đạt tỷ lệ ra rễ cao
và sử dụng phương pháp ghép nêm ngọn Quế cho tỷ lệ sống cao nhất so với ghép mắt
và ghép cành (70 – 77%) (Phạm Văn Tuấn, 2005).
Khi nghiên cứu chọn tạo giống Quế có năng suất tinh dầu cao Nguyễn Huy Sơn,
Phạm Văn Tuấn (2006) đã chọn được 122 cây trội theo các chỉ tiêu sinh trưởng, 79 cây
theo sinh trưởng và hàm lượng tinh dầu, 45 cây theo cả sinh trưởng, hàm lượng và chất
lượng tinh dầu ở Yên Bái, Quảng Nam và Quảng Ngãi. Về nhân giống, đề tài cũng đã
chỉ ra được tuổi cây lấy hom, giá thể và loại hom có ảnh hưởng đến tỷ lệ ra rễ của hom,
tốt nhất là lấy hom cành hay hom chồi vượt ở cây dưới 7 năm tuổi, giâm hom trong giá
thể cát vào đầu vụ hè là tốt nhất. Đối với ghép, đề tài cũng đưa ra 3 phương pháp nhưng
đạt hiệu quả cao nhất vẫn là ghép nêm ngọn, cành ghép tốt nhất là lấy ở cây dưới 7 năm
tuổi và nên ghép vào vụ thu. Các tác giả đã dùng cây ghép để xây dựng vườn giống kết
hợp khảo nghiệm hậu thế đối với loài cây này.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

13
Nguyễn Ngọc Bình (1964) đã chỉ ra rằng Luồng sinh trưởng tốt nơi đất chua
pH(KC1): 4,2 – 5,0. Cũng theo Nguyễn Ngọc Bình (2001) khi nghiên cứu đặc biệt đất
trồng rừng Tre Luồng và ảnh hưởng của các phương thức trồng rừng tre Luồng đến đất
cho rằng trồng Luồng theo phương thức hỗn giao, thích hợp nhất là hỗn giao với cây họ
đậu như Keo để tránh cho đất bị suy thoái [5]
Ngô Quang Đê (1994) cũng đã giới thiệu kỹ thuật gây trồng tre trúc cho 3 loài:
Luồng, Mạy sang và Vầu đắng gồm các khâu ươm giống, kỹ thuật gây trồng, chăm sóc,
khai thác và sử dụng.
Triệu Văn Hùng, Nguyễn Xuân Quát, Hoàng Chương (2002) [12] đã giới thiệu
điều kiện gây trồng, nguồn giống, kỹ thuật trồng, chăm sóc, khai thác và chế biến cho
một số loài cây lâm sản ngoài gỗ có giá trị.
Nguyễn Tử Kim, Lê Thu Hiền, Lưu Quốc Thành (2004) đã trồng Song mật và
Mây nếp dưới tán một số trạng thái rừng phục hồi ở Phú Thọ và Hoà Bình kết quả cho
thấy: Mây nếp sau 42 tháng tuổi ở Cầu Hai (Phú Thọ), với phương pháp xử lý thực bì

theo lỗ trống, trồng theo cụm (250 cụm/ha), mỗi cụm 3 hố, 1 cây/hố đã cho sinh trưởng
về chiều cao và tỷ lệ đẻ nhánh cao nhất (h = 136cm, 65,3% số cây đẻ từ 1 – 3 nhánh).
Cũng với phương pháp xử lý như ở Cầu Hai (Phú Thọ), Mây nếp sau 30 tháng tuổi tại
Hoà Bình đã cho sinh trường về chiều cao và tỷ lệ đẻ nhánh cao nhất (h = 201cm,
68,1% số cây đẻ từ 1 – 3 nhánh).
Đỗ Văn Bản và các cộng sự (2005) [4] đã tuyển chọn 3 loài tre nhập nội trồng để
lấy măng: Điềm trúc (Dendrocalamus latiflorus), Lục trúc (Bambusa oldhamii) và Tạp
giao với 13,5 ha mô hình thực nghiệm tại Phú Thọ và Thanh Hoá. Đề tài đã đưa ra được
một số biện pháp thâm canh cho mô hình trồng thuần loài: Mật độ trồng, phân bón, điều
chỉnh cây mẹ, đồng thời đã xây dựng hướng dẫn kỹ thuật trồng thâm canh, kỹ thuật
khai thác măng và một số biện pháp sơ chế bảo quản măng.
Trong một công trình nghiên cứu khác Đỗ Văn Bản (2005) [4] cũng đã thống kê
được hiện nay nước ta có 4 loài tre nhập nội lấy măng đang được gây trồng gồm Điềm
trúc, Lục trúc, Tạp giao và Mạnh tông. Đề tài đã thống kê được diện tích trồng Điềm
trúc tính đến năm 2003 là 2.700 ha. Ngoài ra, đề tài còn cung cấp những thông tin về
đặc tính sinh thái, hình thái, kỹ thuật gây trồng, chăm sóc và kinh nghiệm gây trồng của
nhân dân.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

14
Nguyễn Huy Sơn, Phạm Văn Tuấn (2006) đã chỉ ra mật độ trồng rừng ảnh
hưởng rất rõ đến sinh trưởng của Quế, các tác giả cũng đưa ra mật độ từ 300 cây/ha đến
5000 cây/ha là mật độ thích hợp cho Quế 18 tháng tuổi.
Ngoài một số công trình điển hình ở trên, còn rất nhiều công trình của các nhà
khoa học khác thuộc các ngành Y tế, môi trường,… đã tham gia nghiên cứu và có kết
quả đáng chú ý như công trình của Viện Dược liệu (2005), Viện sinh thái và tài nguyên
sinh vật (2001); Trần Công Khánh (2000); Nguyễn Ngọc Lân (1999); Nguyễn Văn Tập
(2001), Trần Văn Ơn (2002), các công trình của các địa phương;… Đặc biệt là các công
trình nghiên cứu về kỹ thuật trồng Giổi xanh của Nguyễn Bá Chất (1984), kỹ thuật
trồng Hồi của Nguyễn Thị Bích (1998), Kỹ thuật trồng Trám trắng của Phạm Đình Tam

(1998),…
1.3.4. Nghiên cứ u về thị trườ ng LSNG
Dương Tín Đức (2009) trong công trình nghiên cứu “Nghiên cứu các giải pháp
phát triển trồng rừng sản xuất tại Công ty Lâm nghiệp Nam Nung, tỉnh Đăk Nông” đã
chỉ ra rằng thị trường nhựa mủ cao su của Công ty hiện nay là khá đơn giản, chưa mang
lại hiệu quả kinh tế cao, Công ty mới chỉ dừng lại ở việc bán nhựa mủ thô cho các nhà
máy chế biến ở trong tỉnh và khu vực Tp. Hồ Chí Minh. Qua đó, tác giả đề xuất Công
ty cần đẩy mạnh việc xây dựng nhà máy chế biến nhựa mủ Cao su để từ đó nâng cao
hiệu quả sản xuất kinh doanh [8].
Phạm Văn Phong trong đề tài nghiên cứu “Đánh giá thực trạng gây trồng và
phát triển lâm sản ngoài gỗ tại vườn Quốc gia Xuân Sơn, tỉnh Phú Thọ” kết quả nghiên
cứu cho thấy, tại vườn Quốc gia Xuân Sơn các loài LSNG như Măng bát độ, Vầu đắng
do người dân gây trồng mới chỉ được bán tại địa phương với lượng tiêu thụ không lớn,
một số ít được bán cho khách du lịch, riêng đối với thị trường nhựa mủ Sơn ta thì tư
thương tới tận nhà để thu mua và sau đó bán cho thị trường tiêu thụ trong nước và bán
sang Trung Quốc. Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, để đẩy mạnh việc gây trồng và
phát triển cây LSNG tại khu vực thì công tác đẩy mạnh phát triển thị trường ra các tỉnh
khác là hết sức cần thiết [19].
Nguyễn Thị Loan khi nghiên cứu về kiến thức bản địa trong gây trồng và phát
triển cây LSNG tại VQG Tam Đảo đã cho thấy, tại vùng đệm VQG Tam Đảo, có 3
kênh thị trường tiêu thụ LSNG phổ biến là:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

15
+ Người dân vùng đệm khai thác bán trực tiếp cho người sản xuất và chế biến.
+ Người dân vùng đệm khai thác bán cho người thu mua trung gian sau đó mới
tới tay người sản xuất và chế biến.
+ Người dân vùng đệm khai thác bán cho người trung gian, đại lý thu mua và
cuối cùng là người sản xuất và chế biến.
Qua kết quả nghiên cứu tác giả cho rằng, việc không thông qua sơ chế, chế biến

mà bán trực tiếp cây LSNG thô làm giảm nhiều giá trị thu được của người dân. Sự trải
qua quá nhiều khâu trung gian dẫn tới giá cả LSNG người dân bán thường bị ép giá với
giá bán ngoài thị trường. Do vậy, cần đẩy mạnh các khâu chế biến và đưa trực tiếp sản
phẩm tới tay nhà sản xuất và người tiêu dùng sẽ mang lại hiệu quả cao [16].
1.3.5. Các nghiên cứu về vai trò của LSNG
Phan Văn Thắng và cộng sự (2000) khi nghiên cứu đánh giá vai trò của LSNG ở
tỉnh Cao Bằng và Bắc Kạn cho rằng LSNG ở đây có vai trò rất quan trọng, chúng là
nguồn thu nhập quan trọng của nhiều hộ gia đình, chiếm trung bình 20 – 30% tổng thu
nhập kinh tế của hộ/năm. Đặc biệt một số nơi, người dân sống chủ yếu dựa vào LSNG
như ở Nguyên Bình – Cao Bằng thu nhập chủ yếu từ cây trúc sào.
Christian Rake và cộng sự (1993) khi nghiên cứu về LSNG tại ba tỉnh Hoà Bình,
Sơn La và Lai Châu đã cho rằng LSNG có vai trò rất quan trọng trong đời sống người
dân ở 3 tỉnh này. Trong đó, tre nứa, sa nhân, trẩu và song mây là những loài có tiềm
năng phát triển. Tuy nhiên, hiện nay người dân chủ yếu là khai thác tự nhiên nên nguồn
tài nguyên này ngày càng cạn kiệt.
Gilman, Nguyễn Văn Sản (1999) trong công trình nghiên cứu của mình cho thấy,
gần 200 tấn dược liệu được khai thác ở VQG Ba Vì vào năm 1997 - 1998, ước tính gần
60% người dân tộc Dao ở Ba Vì khai thác nguồn tài nguyên này và nguồn thu nhập đứng
thứ 3 sau lúa và sắn.
Nghiên cứu của Nguyễn Ngọc Lân (1999) cho thấy, 100% số hộ ở khu bảo tồn Pù
Mát sống dựa vào việc khai thác gỗ và LSNG, 22% số hộ thường xuyên khai thác cây
Met, Nứa, Song, Mây,…; 11,75% số hộ thường xuyên khai thác mọc nhĩ. Thu nhập bình
quân khoảng 20.000 đồng/ngày và 8,3% số hộ thường xuyên khai thác củi bán lấy tiền
mua lương thực và trong những ngày giáp hạt trên 90% số hộ ở bản Châu Sơn vào rừng
đào củ Mài, củ Chuối, củ Nâu và hái rau rừng để ăn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

16
1.3.6. Các nghiên cứu về tiềm năng và giải pháp nâng cao vai trò của LSNG
Theo kết quả nghiên cứu của Viện dược liệu thì đã phát hiện được 1863 loài cây

dùng để làm thuốc ở Việt Nam thuộc 1033 chi, 236 họ và 101 Bộ, 17 lớp, 11 ngành
thực vật. Theo Võ Văn Chi, con số này lên tới 3000 loài. Chúng đóng vai trò vô cùng
quan trọng trong công việc chăm sóc sức khỏe nhân dân.
Nghiên cứu của Christian Rate và cộng sự năm 1993 đã đề cập tới tiềm năng của
LSNG tại Hòa Bình, Sơn La, Lai Châu. Các tác giả đã thống kê diện tích rừng Tre nứa
ở 3 tỉnh là 26.000 ha. Bình quân một năm khai thác khoảng 13 tỷ cây, trong đó 90%
được bán cho nhà máy giấy Bãi Bằng, đồng bằng sông Hồng và xuất khẩu [24].
Năm 1978 Trung tâm nghiên cứu đặc sản rừng được thành lập (thực chất là
nghiên cứu về LSNG) với nhiệm vụ nghiên cứu phát triển LSNG, phương pháp chế
biến, gây trồng lâm sản có giá trị.
Phạm Văn Điển trong công trình nghiên cứu “Một số giải pháp kinh tế xã hội
phát triển thực vật cho LSNG tại vùng hồ thủy điện Hòa Bình” đã đưa ra một số giải
pháp chính bao gồm: Quy hoạch sử dụng đất, phát triển rừng và LSNG; hoàn thiện
chính sách giao đất lâm nghiệp; hỗ trợ gạo cho người dân vùng hồ; thu hút và xác định
trách nhiệm của nhà máy thủy điện Hòa Bình trong việc xây dựng và tái tạo vốn rừng;
thay đổi phương pháp khuyến lâm,….
1.4. Nhận xét và đánh giá chung
Điểm qua các công trình nghiên cứu ở cả trên thế giới và ở Việt Nam đều có thể
nhận thấy, giá trị LSNG từ rừng rất được quan tâm nghiên cứu. Các công trình nghiên
cứu đi sâu vào nhiều lĩnh vực, từ việc phân loại LSNG, chọn giống, nhân giống và kỹ
thuật gây trồng nhiều loài LSNG, thị trường tiêu thụ, xác định tiềm năng, vai trò của
LSNG đối với cộng đồng đặc biệt là cộng đồng dân cư sống gần rừng. Các kết quả
nghiên cứu là cơ sở quan trọng để xác định được giá trị và là căn cứ để phát triển các
loài cây LSNG. Mặc dù ở Việt Nam, các nghiên cứu được thực hiện khá muộn so với
thế giới, tuy nhiên các nghiên cứu cũng đã đạt được những thành tựu đáng kể.
Ở Việt Nam, tiềm năng cây LSNG là rất lớn, đa dạng cả về chủng loại, số lượng
lẫn phân bố. Tuy nhiên, do chỉ chú ý tới khâu khai thác tự nhiên nên tới nay hầu hết
rừng tự nhiên của nước ta chỉ còn rất ít cây LSNG có giá trị, người dân sinh sống gần
rừng bắt đầu khai thác và xâm lấn trái phép tài nguyên LSNG ở các khu rừng quốc gia,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


17
khu bảo tồn thiên nhiên để phục vụ cho sử dụng tại chỗ và sử dụng làm hàng hóa buôn
bán gây tác động nghiêm trọng tới công tác bảo tồn và phát triển rừng đặc biệt là hiện
nay, nhu cầu của thị trường trong và ngoài nước đối với nhiều loại LSNG quý, hiếm
như Linh chi, Hà thủ ô, là rất lớn. Như vậy, để có thể giảm áp lực vào tài nguyên rừng
tự nhiên của nước ta, đồng thời tạo sinh kế, phát triển kinh tế địa phương thì việc tìm
kiếm loài cây, biện pháp kỹ thuật để xây dựng các mô hình LSNG có giá trị là hết sức
cần thiết đặc biệt đối với cộng đồng dân cư sống quanh vùng đệm của các vườn quốc
gia, khu bảo tồn thiên nhiên.
Nhằm giải quyết sinh kế cho cộng đồng 3 xã vùng đệm là Khang Ninh, Cao
Thượ ng và Quả ng Khê thuộc vùng lõi Vườn quốc gia Ba Bể - huyện Ba Bể - tỉnh Bắ c
Kạn từ đó giảm áp lực cuả người dân vào tài nguyên rừng và đảm bảo quản lý rừng bền
vữ ng, trong đó nghiên cứ u phá t triể n cá c loà i LSNG có giá trị kinh tế cao sử dụ ng là m
thự c phẩ m đang là hướ ng đi đú ng đắ n và rấ t có triể n vọ ng.












Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

18






Chƣơng 2.
NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
2.1.1. Mục tiêu chung
Nhằm xác định được những loài cây LSNG sử dụng làm thực phẩm có giá trị
kinh tế, có thể gây trồng ở các xã vùng đệm Vườn Quốc gia Ba Bể làm cơ sở đề xuất
các giải pháp phát triển bền vững, góp phần nâng cao thu nhập người dân vùng đệm,
vùng lõi Vườn Quốc gia Ba Bể.
2.1.2. Mục tiêu cụ thể
- Xác định được thực trạng phát triển một số loài cây LSNG sử dụng làm thực
phẩm có giá trị ở khu vực VQG Ba Bể tỉnh Bắc Kạn.
- Tìm hiểu một số kinh nghiệm truyền thống của người dân địa phương trong
việc khai thác, sử dụng và kinh nghiệm gây trồng, bảo vệ loài cây LSNG dù ng là m thự c
phẩ m tại Vườn Quốc Gia Ba Bể tỉnh Bắc Kạn.
- Bước đầu đề xuất được các giải pháp để phát triển, nhân rộng một số loài
LSNG có triển vọng tại VQG Ba Bể.
2.2. Đối tƣợng nghiên cứu
Các loài cây Lâm sản ngoài gỗ được dùng làm thức ăn: Rau sắng, Bò khai (Dạ
hiến), Giảo cổ lam, Trám ghép; Rau gai
2.3. Phạm vi nghiên cứu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

19
Đề tài tập trung nghiên cứu tình hình phát triển cây LSNG sử dụng làm thực
phẩm trên địa bàn thuộc 3 xã: Khang Ninh, Quảng Khê, Cao Thượng thuộc Vườn

Quốc gia Ba Bể, Tỉnh Bắc Kạn.
2.4. Nộ i dung nghiên cƣ́ u
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, đề tài đặt ra những nội dung nghiên cứu những nội
dung sau:
- Điều tra thực trạng phát triển các loài cây LSNG sử dụng làm thực phẩm ở
vùng đệm VQG Ba Bể.
- Tìm hiểu kiến thức bản địa về kỹ thuật gây trồng một số loài cây LSNG sử
dụng làm thực phẩm có giá trị kinh tế cao.
- Đề xuất những giải pháp để phát triển loài cây LSNG sử dụng làm thực phẩm
có giá trị kinh tế cao có tiềm năng.
2.5. Phƣơng phá p nghiên cƣ́ u
2.5.1. Quan điểm và cách tiếp cận vấn đề nghiên cứu
2.5.1.1. Quan điểm nghiên cứu
- Nghiên cứu phát triển LSNG trong vùng Vườn quốc gia Ba Bể cần được đặt
trong mối quan hệ chặt chẽ với đời sống thường ngày của người dân địa phương như
các hoạt động khai thác, sử dụng, gây trồng và phát triển,
- Chú trọng nghiên cứu, tổng kết các biện pháp kỹ thuật đã có, các giống mới,
chuyển giao công nghệ, kết hợp với nghiên cứu nhu cầu thị trường, khả năng tiếp nhận
của người dân (chú trọng cả yếu tố kinh tế và kỹ thuật).
- LSNG cần được coi là một giải pháp quan trọng và có hiệu quả cao trong việc
cải thiện sinh kế người dân địa phương, hướng tới công tác quản l‎ý rừng bền vững của
VQG Ba Bể.
- Phát triển kỹ thuật có sự tham gia (PTD): Lấy người dân làm trung tâm.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

20
2.5.1.2. Cách tiếp cận của đề tài
- Nghiên cứu phát triển LSNG sử dụng làm thực phẩm nhằm góp phần cải thiện
đời sống của người dân sống trong và ngoài VQG Ba Bể cần có cách tiếp cận tổng hợp.
- Cách tiếp cận có sự tham gia của các đối tượng khác nhau: người dân, cán bộ

thôn, xã, huyện, thị trường, vườn quốc gia, Các chương trình Dự án
- Do thời gian nghiên cứu ngắn nên cách tiếp cận có sự kế thừa các số liệu và
thông tin đã có.
2.5.2. Phương pháp nghiên cứu
2.5.2.1. Phương pháp kế thừa số liệu, tài liệu
Từ các tài liệu đã có của VQG Ba Bể, UBND các xã, các loài cây đã triển khai
để thu thập các thông tin, số liệu có liên quan.
Các tài liệu thu thập gồm:
- Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội khu vực nghiên cứu, trong đó chú trọng đến
các số liệu về kinh tế - xã hội như dân số, lao động, thu nhập, tình hình sản xuất nông
lâm nghiệp, cơ sở hạ tầng,
- Đặc điểm tài nguyên rừng VQG Ba Bể, đặc biệt là các tài liệu điều tra về tài
nguyên rừng, tài liệu về các loài LSNG trên địa bàn; phân bố, diện tích các loại rừng,
công tác tổ chức quản lý bảo vệ rừng, tình hình giao khoán bảo vệ rừng,
- Định hướng quản lý rừng của VQG Ba Bể ở khu vực các xã vùng dự án gồm:
Khang Ninh, Quảng Khê, Cao Thượng.
- Các chương trình, dự án có liên quan đến LSNG và cải thiện sinh kế người dân
đã thực hiện tại 3 xã: Khang Ninh, Quảng Khê và Cao Thượng.
Ngoài ra, còn thu thập các tài liệu nghiên cứu đã có về lâm sản ngoài gỗ: loài
cây, phân bố, biện pháp kỹ thuật gây trồng, giá trị sử dụng, thị trường, tiềm năng phát
triển, thu thập các thông tin, kết quả nghiên cứu khác về thị trường LSNG, kỹ thuật và
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

×