Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

nghiên cứu tính đa dạng và thực trạng phát triển một số loài lâm sản ngoài gỗ tại khu bảo tồn thiên nhiên tây yên tử - sơn động bắc giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.63 MB, 107 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM



NGUYỄN BÁ GIANG

“NGHIÊN CỨU TÍNH ĐA DẠNG VÀ THỰC TRẠNG
PHÁT TRIỂN MỘT SỐ LOÀI LÂM SẢN NGOÀI GỖ
TẠI KHU BẢO TỒN THIÊN NHIÊN TÂY YÊN TỬ -
SƠN ĐỘNG BẮC GIANG”



LUẬN VĂN THẠC SĨ LÂM HỌC










Thái Nguyên, 2014
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM




NGUYỄN BÁ GIANG

“NGHIÊN CỨU TÍNH ĐA DẠNG VÀ THỰC TRẠNG
PHÁT TRIỂN MỘT SỐ LOÀI LÂM SẢN NGOÀI GỖ
TẠI KHU BẢO TỒN THIÊN NHIÊN TÂY YÊN TỬ -
SƠN ĐỘNG BẮC GIANG”

Chuyên ngành : Lâm Học
Mã số : 60 62 02 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LÂM HỌC


Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: 1. TS. Đàm Văn Vinh
2. ThS. Lê Văn Phúc





Thái Nguyên, 2014

i
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
-
khóa luận là quá trình điều tra trên thực địa hoàn toàn trung thực, nếu có gì sai
tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm.


Thái Nguyên, tháng 09 năm 2014

Người viết cam đoan



Nguyễn Bá Giang




ii
LỜI CẢM ƠN

Luận văn này được hoàn thành tại Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên
theo chương trình đào tạo Cao học Lâm nghiệp khoá 20, giai đoạn 2013 - 2015.
Trong quá trình học tập và hoàn thành luận văn, tác giả đã nhận được sự
quan tâm, giúp đỡ của Ban giám hiệu, Phòng quản lý đào tạo Sau Đại Học
trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên cũng như các đồng chí cán bộ đang làm
việc, người dân sống tại khu bảo tồn thiên nhiên Tây Yên Tử Bắc Giang. Nhân
dịp này tác giả xin chân thành cảm ơn về sự giúp đỡ đó.
Trước hết, tác giả xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành tới TS. Đàm Văn
Vinh và Th.s Lê Văn Phúc - người hướng dẫn khoa học, đã trực tiếp hướng dẫn
tận tình giúp đỡ, truyền đạt những kiến thức qúy báu và dành những tình cảm tốt
đẹp cho tác giả trong suốt thời gian công tác, học tập cũng như trong thời gian
thực hiện luận văn.
Cuối cùng tác giả xin chân thành cảm ơn các đồng nghiệp, bạn bè và
người thân trong gia đình đã giúp đỡ, động viên tác giả trong suốt thời gian học
tập và hoàn thành luận văn.
Thái Nguyên, tháng 09 năm 2014

Tác giả


Nguyễn Bá Giang


iii
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết 1
2. Mục tiêu nghiên cứu 2
2.1.Mục tiêu tổng quát 2
2.2. Mục tiêu cụ thể 3
3. Ý nghĩa của đề tài 3
Chƣơng 1: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 4
1.1. Khái niệm về Lâm sản ngoài gỗ 4
1.2. Thực trạng và vai trò LSNG Việt Nam 5
1.2.1. Thực trạng nguồn lâm sản ngoài gỗ ở Việt Nam 5
1.2.2. Vai trò của lâm sản ngoài gỗ 8
1.3. Các nghiên cứu trong nước và thế giới về LSNG 10
1.3.1. Nghiên cứu nước ngoài 10
1.3.2. Các nghiên cứu trong nước 14
1.4. Tổng quan khu vực nghiên cứu 21
1.4.1. Giới thiệu về địa điểm khu vực nghiên cứu 21
1.4.2. Đ - i khu v c nghiên c u 23
1.4.3. Tình hình sản xuất kinh doanh 27
Chƣơng 2: NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 31
2.1. Đối tượng nghiên cứu 31
2.2. Phạm vi nghiên cứu 31

i dung nghiên c u 31
2.4. Phương pháp nghiên cứu 32
2.4.1. Quan điểm và cách tiếp cận vấn đề nghiên cứu 32
2.4.2. Phương pháp thu thập số liệu 32
2.4.3. Phương pháp phân tích và xử lý thông tin 34

iv
Chƣơng 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 36
3.1. Tính đa dạng và hiện trạng phân bố nguồn LSNG trong khu vực nghiên
cứu 36
3.1.1. Xác định tính đa dạng nguồn LSNG tại khu vực nghiên cứu 36
3.1.1.1. Đa dạng về loài/ dưới loài 36
3.1.2. Hiện trạng phân bố một số loài LSNG trong tự nhiên 46
3.2. Tình hình khai thác và sử dụng nguồn LSNG 47
3.3. Thực trạng gây trồng và kiến thức bản địa của người dân trong gây trồng
một số loại LSNG 52
3.3.1 Thực trạng gây trồng một số loại LSNG trong khu vực nghiên cứu . 52
3.3.2. Nh ng kiến thức, kinh nghiệm gây trồng một số loại LSNG 56
3.4. Các nhân tố ảnh hưởng của người dân đến nguồn LSNG tại khu vực
nghiên cứu 58
3.4.1. Độ tuổi lao động có tác động đến tài nguyên LSNG của Khu bảo tồn
58
3.4.2. Hoạt động khai thác củi đun 59
3.4.3. Tình hình khai thác và sử dụng rau ăn 60
3.4.4. Thu hái cây làm thuốc 61
3.5. Các giải pháp bảo tồn và sử dụng bền vững nguồn Lâm sản ngoài gỗ 62
3.5.1. Giải pháp về tuyên truyền, giáo dục 63
3.5.2. Giải pháp về kỹ thuật khai thác và sử dụng LSNG 63
3.5.3. Giải pháp về kỹ thuật gây trồng 64
KẾT LUẬN VÀ TỒN TẠI 65

1. KẾT LUẬN 65
2. TỒN TẠI 68
TÀI LIỆU THAM KHẢO 70

v
DANH MỤC CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT


Từ viết tắt
Diễn giải từ viết tắt
LSNG
: Lâm sản ngoài gỗ
BTTN
: Bảo tồn thiên nhiên
IUCN
: International Union for Conservation of Nature: and
Natural Resources (Liên minh Quốc tế Bảo tồn Thiên
nhiên và Tài nguyên Thiên nhiên)
FAO
: Food and Agriculture Organization (tổ chức lương thực
và nông nghiệp)
Bộ NN và PTNT
: Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn
UBND
: Ủy ban nhân dân
BT
: Bình thường

vi
DANH MỤC CÁC BẢNG




Bảng 1.1. Thống kê dân số và thành phần dân tộc các xã có Khu bảo tồn 26
Bảng 1.2. Thống kê lao động theo khối trong 5 xã có KBTTN 27
Bảng 3.1: Số lượng loài, chi, họ thực vật LSNG tại khu vực điều tra 36
Bảng 3.2. Những họ thực vật có số loài LSNG nhiều nhất trong khu vực 37
Bảng 3.3: Bảng phân nhóm thực vật LSNG trong khu vực theo dạng sống 38
Bảng 3.4: Bảng phân nhóm thực vật LSNG theo mục đích sử dụng 41
Bảng 3.5: Những thực vật LSNG có giá trị kinh tế trong khu vực 49
Bảng 3.6. Các loài cây LSNG chủ yếu được gây trồng trong khu vực 53
Bảng 3.7. Một số LSNG đại diện được gây trồng, chăm sóc,bảo quản 54


vii
DANH MỤC CÁC HÌNH

Biểu đồ 3.1. Nhóm thực vật LSNG theo dạng sống 39
Biểu đồ 3.2. Công dụng được gây trồng tại vùng đệm BTTN Tây Yên Tử 55
Biểu đồ 3.3. Hoạt động khai thác sử dụng LSNG theo nhóm tuổi 59

1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết
Khu bảo tồn thiên nhiên Tây Yên Tử được thành lập theo Quyết định số
82/2002/QĐ-UBND, ngày 24/5/2002 của UBND tỉnh Bắc Giang; nằm trên địa
bàn 04 xã, 01 thị trấn: Thị trấn Thanh Sơn, Thanh Luận, Tuấn Mậu, An Lạc
thuộc huyện Sơn Động, xã Lục Sơn thuộc huyện Lục Nam; giáp gianh với 02
tỉnh Lạng Sơn và Quảng Ninh. Hiện Khu bảo tồn thiên nhiên Tây Yên Tử quản

lý 13.020,4 ha là rừng đặc dụng, (gồm khu bảo vệ nghiêm ngặt hơn 6.020,2 ha,
khu phục hồi sinh thái 7.000,2 ha; Phân Khu Khe Rỗ thuộc xã An Lạc huyện
Sơn Động, diện tích 5.454,6 ha và Phân Khu Thanh - Lục Sơn thuộc 3 xã và 1
thị trấn: Thị trấn Thanh Sơn, xã Thanh Luận, xã Tuấn Mậu thuộc huyện Sơn
Động và xã Lục Sơn thuộc huyện Lục Nam, diện tích 7.565,8 ha). Dân số sống
trong và gần khu bảo tồn có 21.310 người, gồm các dân tộc: Kinh, Tày, Dao,
Cao Lan, Sán chí. Trong đó dân tộc Kinh 12.509 người (chiếm 58,7%), dân tộc
Tày 4.752 người (chiếm 22,3%), còn lại là các dân tộc thiểu số khác (chiếm
19,0 %) [17].
Trong rừng đặc dụng Tây Yên Tử có tới 728 loài thực vật thuộc 189 chi
của 86 họ và 285 loài động vật rừng, thuộc 91 họ của 27 bộ. Nguồn tài nguyên
rừng đa dạng và phong phú. Do vậy, tiềm năng phát triển lâm nghiệp nói chung
và phát triển các loài cây LSNG nói riêng của khu vực này là rất to lớn [17].
LSNG là một bộ phận quan trọng, quan hệ tới sự duy trì và phát triển hệ
sinh thái rừng. Phần lớn cây LSNG nằm dưới tán rừng, có tác dụng giảm tác
động của nước mưa xuống mặt đất, ngăn chặn dòng chảy mặt, chống xói mòn
cho đất rừng. Gây trồng LSNG trong rừng là tăng độ che phủ và nâng cao giá trị
phòng hộ của các khu rừng.
LSNG cũng đóng vai trò rất quan trọng đối với các cộng đồng dân cư miền
núi (đặc biệt là người dân tộc thiểu số) trong việc đảm bảo an toàn lương thực,
chăm sóc sức khỏe, nguyên liệu, nhiên liệu phục vụ đời sống.

2
Cộng đồng dân cư tại những khu phục hồi sinh thái, khu vực vùng đệm của
khu bảo tồn đã sống ở đây từ rất lâu đời và cuộc sống của họ chủ yếu dựa vào
rừng và các nguồn tài nguyên thiên nhiên, phần lớn các hộ gia đình đều thuộc
diện đói nghèo. Trong những năm qua, những hành vi xâm phạm của cộng đồng
vào tài nguyên rừng như đốt nương làm rẫy, săn bắn động vật hoang dã, khai
thác gỗ trái phép thường xuyên xảy ra đe dọa tới công tác bảo tồn. Với nhiều
chương trình tuyên truyền, vận động, hỗ trợ phát triển sản xuất từ chính quyền

cũng như các tổ chức địa phương các cộng đồng đã ý thức được việc làm của
mình là vi phạm pháp luật và làm tổn hại tới tài nguyên rừng, nhưng vì cuộc
sống khó khăn và những đòi hỏi thực tế vẫn còn là những bất cập khiến họ
không có nhiều lựa chọn.
Trong thực tế, rất nhiều nguồn tài nguyên LSNG đã cạn kiệt, không có giá
trị khai thác nữa mặc dù trước đây có rất nhiều. Nguyên nhân dẫn đến thực trạng
này là do người dân chỉ biết khai thác kiệt sản phẩm của các loài cây cho LSNG
mà chưa chú ý tới việc gây trồng, chăm sóc, quản lý và khai thác một cách hợp
lý. Hậu quả là nguồn tài nguyên dần bị suy thoái, ảnh hưởng xấu đến cân bằng
sinh thái và đa dạng sinh học của rừng. Vì thế, việc trang bị kiến thức về bảo tồn
và phát triển nguồn tài nguyên LSNG là một việc làm cấp thiết.
Để có cơ sở đầy đủ cho việc đề xuất giải pháp bảo vệ và phát triển bền
vững LSNG cho sinh kế của cộng đồng địa phương. Vì vậy tôi thực hiện đề tài:
“Nghiên cứu tính đa dạng và thực trạng phát triển một số loài lâm sản ngoài
gỗ tại khu bảo tồn thiên nhiên Tây Yên Tử - Sơn Động - Bắc Giang”
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1.Mục tiêu tổng quát
Đánh giá tính đa dạng và thực trạng khai thác – sử dụng – gây trồng một
số loài LSNG tại khu bảo tồn thiên nhiên Tây Yên Tử từ đó đề xuất các giải
pháp quản lý sử dụng hợp lý nguồn LSNG, góp phần vào việc bảo tồn đa dạng sinh
học đồng thời ổn định nâng cao đời sống người dân thông qua việc quản lý sử dụng
bền vững LSNG

3
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Đánh giá tính đa dạng và thực trạng khai thác và sử dụng, gây trồng
nguồn lâm sản ngoài gỗ tại khu bảo tồn thiên nhiên Tây Yên Tử,
- Xác định được thực trạng phát triển một số loài cây LSNG có giá trị
tại khu vực nghiên cứu
- Tìm hiểu một số kinh nghiệm truyền thống của người dân địa phương

trong việc khai thác, sử dụng và kinh nghiệm gây trồng, bảo vệ loài cây
LSNG tại Khu BTTN Tây Yên Tử
- Bước đầu đề xuất được các giải pháp để phát triển, nhân rộng một số
loài LSNG có triển vọng tại Khu BTTN Tây Yên Tử.
3. Ý nghĩa của đề tài
Người dân sống trong và ngoài khu bảo tồn thiên nhiên Tây Yên Tử đang
gặp phải những khó khăn về đời sống, nhiều người dân vùng đệm phải sống dựa
vào việc khai thác gỗ trái phép, củi, măng, dược liệu, săn bắt động vật hoang dã,
lấn chiếm đất rừng, Thực trạng đó đặt ra vấn đề là phải tạo ra nguồn thu nhập
dựa vào tiềm năng sẵn có của khu vực và phù hợp với phong tục tập quán của
người dân địa phương như phát triển nguồn LSNG.
Thực tế đã cho thấy rằng, tại các cộng đồng dân tộc sống trong và gần rừng
nếu có những giải pháp phát triển có hiệu quả và bền vững nguồn LSNG dựa
trên hiện trạng và những loài có tiềm năng ở địa phương. Vì vậy, xác định hiện
trạng, đánh giá được những loài tiềm năng cho gây trồng và phát triển bền vững
đang được cộng đồng người dân quan tâm. Đảm bảo phát triển bền vững, tạo thu
nhập cho người dân địa phương và góp phần bảo tồn tài nguyên thiên nhiên của
Khu bảo tồn Tây Yên Tử
Nhằm nâng cao tính đa dạng các loài LSNG tại địa phương thông qua các
chương trình hỗ trợ của khu BTTN Tây Yên Tử triển khai các dự án như: “Vườn
cây thuốc nam, chăn nuôi động vật….”. Thông qua đó cũng phần nào nâng cao
được kỹ thuật và kinh nghiệm về trồng cây thuốc của người dân, góp phần nào
hạn chế tác động vào rừng tự nhiên

4
Chƣơng 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1. Khái niệm về Lâm sản ngoài gỗ
Khái niệm về Lâm sản ngoài gỗ được đề cập chính thức vào năm 1989 do

W.W.F. Theo khái niệm này: “Lâm sản ngoài gỗ bao hàm tất cả các vật liệu
sinh học khác gỗ, được khai thác từ rừng tự nhiên phục vụ mục đích của con
người. Bao gồm các sản phẩm là động vật sống, nguyên liệu thô và củi, song
mây, tre nứa, gỗ nhỏ và sợi” (The Economic value of Non - timber Forest
products in Southeast asia - W.W.F - 1989).
Theo Hội đồng Lâm nghiệp (FAO) thông qua năm 1999: “Lâm sản ngoài
gỗ (Non - timber forest products - NTFP, hoặc Non wood forest products -
NWFP) bao gồm những sản phẩm có nguồn gốc sinh vật, khác gỗ, được khai
thác từ rừng, đất có rừng và từ cây gỗ ở ngoài rừng” [33].
Theo Trần Ngọc Hải (2000): “Lâm sản ngoài gỗ bao gồm tất cả các vật
liệu sinh học khác gỗ được khai thác từ rừng (hiểu theo nghĩa rộng gồm rừng tự
nhiên và rừng trồng) phục vụ mục đích của con người. Bao gồm các loại thực
vật, động vật dùng làm thực phẩm, làm dược liệu, tinh dầu, nhựa sáp, nhựa
dính, nhựa mủ, cao su, tanin, mầu nhuộm, chất béo, cây cảnh, nguyên liệu giấy,
sợi …” [12].
Như vậy, lâm sản ngoài gỗ bao gồm tất cả lâm sản khác gỗ được khai thác
từ rừng (rừng tự nhiên và rừng trồng) phục vụ mục đích của con người, bao gồm
các loài thực vật, động vật dùng làm thực phẩm, làm dược liệu, tinh dầu, nhựa
sáp, nhựa dính, nhựa dầu, cao su, tanin, màu nhuộm, chất béo, song mây, tre
nứa, cây cảnh, nguyên liệu giấy, sợi,
Hiện nay, người dân sống gần rừng vẫn chủ yếu sống dựa vào những loài
cung cấp thực phẩm, cây thuốc quý được lưu truyền qua các thế hệ. Những sản
phẩm giá trị đó được lấy từ rừng đó chính là nguồn Lâm sản ngoài gỗ (LSNG).

5
LSNG được chia theo 6 nhóm giá trị sử dụng như sau [12].
+ Nhóm 1: Tre, nứa, song, mây các loại thân lá có sợi được dùng trong
việc tạo ra sản phẩm thủ công, mỹ nghệ, làm giấy… và củ (măng) được
dùng làm thực phẩm.
+ Nhóm 2:

- Những sản phẩm có nguồn gốc từ thực vật như: Thân, chồi non, rễ, lá,
hoa, quả, hạt, các loại gia vị, hạt có dầu, nấm… có thể dùng làm thực phẩm.
- Những sản phẩm có nguồn gốc từ động vật như: Mật ong, thịt thú rừng,
cá, tổ yến, trứng chim, các loại côn trùng ăn được.
+ Nhóm 3: Dược liệu, chất thơm và cây có chất độc.
+ Nhóm 4: Các loại nhựa, tanin, chất màu, dầu béo và tinh dầu…
+ Nhóm 5: Động vật và những sản phẩm từ động vật không dùng làm thực
phẩm như các loại thú rừng, chim, côn trùng sống, da, sừng, ngà voi, xương,
cánh kiến đỏ
+ Nhóm 6: cây cảnh, lá để gói thức ăn, hàng hóa, phong lan…
LSNG đa dạng về giá trị sử dụng do đó nó có vai trò quan trọng đối với
đời sống xã hội:
+ LSNG có tầm quan trọng về kinh tế và xã hội. Chúng có giá trị lớn và có
thể tạo ra nhiều công ăn việc làm.
+ LSNG có giá trị đối với sự giàu có của hệ sinh thái rừng. Chúng đóng
góp vào sự đa dạng sinh học của rừng. Chúng là nguồn gen hoang dã quý, có thể
bảo tồn phục vụ gây trồng công nghiệp.
+ LSNG hiện bị cạn kiệt cùng với sự suy thoái của rừng bởi ảnh hưởng của
sự tăng dân số, mở rộng canh tác nông nghiệp, chăn thả gia súc không kiểm
soát, khai thác gỗ, thu hái chất đốt.
1.2. Thực trạng và vai trò LSNG Việt Nam
1.2.1. Thực trạng nguồn lâm sản ngoài gỗ ở Việt Nam
Việt Nam là một nước nhiệt đới có rất nhiều loài LSNG có giá trị, có sản
lượng lớn và có thể khai thác. Theo kết quả nghiên cứu của Dự án Lâm sản

6
ngoài gỗ Việt Nam trong số 12000 loài cây được thống kê có: 76 loài cho nhựa
thơm, 160 loài cho dầu, 600 loài cho tanin, 260 loài cho tinh dầu, 93 loài cho
chất mầu, 1498 loài cho các dược phẩm. Theo dự đoán của nhiều nhà thực vật số
loài thực vật bậc cao có thể lên tới 20.000 loài, hệ động vật cũng đã thống kê

được 225 loài thú, 828 loài chim, 259 loài bò sát, 84 loài ếch nhái [2].
Việt Nam hiện có khoảng 30/64 tỉnh có hoạt động gây trồng và thu hái
LSNG từ rừng, trong đó diện tích thu hái LSNG từ rừng tự nhiên là gần 1,2 triệu
ha và diện tích LSNG được gây trồng là gần 500.000 ha. Các loài cây chủ yếu
được gây trồng hoặc thu hái là Tre trúc, song mây, Thông lấy nhựa, Quế, Hồi,
Thảo quả, Bời lời đỏ… Thực trạng khai thác còn mang tính tự phát, phân tán,
chưa có quy hoạch, kỹ thuật giống và lâm sinh còn lạc hậu.
Các loài cây lâm sản ngoài gỗ chủ yếu là tre, nứa, trúc 769.411 ha (chiếm
47%); song, mây 381.936 ha (22,4%), thông nhựa 255.718 ha (15,6%), quế 80.991
ha (4,9%); các cây lâm sản nggoài gỗ khác chiếm tỉ lệ không đáng kể [11].
Cũng như nhiều nước trên thế giới, ở Việt Nam rừng nhiệt đới ở địa hình
thấp không còn nguyên vẹn nữa vì phần lớn các khu rừng thấp này đã bị biến
đổi do các hoạt động nông nghiệp, công nghiệp và định cư, làm cho sự giàu có
vốn có về tài nguyên sinh học ở đây đã bị suy thoái nghiêm trọng. Cũng vì thế
mà các khu rừng nguyên vẹn phần lớn chỉ còn sót lại ở các vùng núi cao, những
nơi hiểm trở. Đó là những nơi cư trú cuối cùng của các loài đặc hữu và các loài
có nguy cơ bị tiêu diệt.
Nguyên nhân gây nên sự suy giảm tài nguyên rừng, nhất là lâm sản ngoài
gỗ ở Việt Nam cũng như hầu hết các nước khác trên thế giới: đó là sự mâu thuẫn
giữa cung và cầu. Tài nguyên thiên nhiên thì có hạn mà nhu cầu của nhân dân
thì ngày càng tăng, một mặt là để đáp ứng cuộc sống cho số dân tăng thêm một
cách nhanh chóng, mặt khác là mức độ tiêu dùng của người dân cũng tăng thêm
không ngừng.
Nhiều loại LSNG được sử dụng cho sản xuất và đời sống của người dân, có
vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội nước ta. Nó đặc biệt quan trọng

7
đối với cộng đồng địa phương miền núi và người dân tộc thiểu số có đời sống
phụ thuộc chặt chẽ vào tài nguyên rừng. LSNG còn là mặt hàng xuất khẩu có giá
trị, Bộ NN và PTNT ước tính giá trị xuất khẩu LSNG năm 2008 là khoảng 300-

400 triệu USD, bằng gần 20% tổng giá trị xuất khẩu đồ gỗ. Khai thác, chế biến,
kinh doanh LSNG đã thu hút hàng trăm nghìn lao động, chủ yếu là ở nông thôn,
miền núi góp phần đáng kể vào xóa đói giảm nghèo ở các địa phương có rừng và
đất rừng. Tuy nhiên, đến nay chúng ta vẫn chưa quy hoạch tổng thể được việc
bảo tồn, phát triển, khai thác và kinh doanh các loại LSNG ở nước ta. Để có thể
nâng cao hiệu quả kinh tế của người dân từ LSNG, nhà nước và nhân dân cần
phải có chiến lược phát triển về gây trồng, chế biến và tiêu thụ góp phần nâng
cao đời sống của người dân miền núi [14].
Trong thời gian gần đây, cùng với việc mở rộng quy mô hội nhập kinh tế
quốc tế đã mở rộng trao đổi buôn bán hàng hoá trên thị trường ngoài nước, làm
phong phú chủng loại và tăng nhanh nhu cầu hàng hoá lâm sản ngoài gỗ, tạo nên
những cơ hội cho các doanh nghiệp, hộ gia đình, làng nghề truyền thống chế
biến và kinh doanh lâm sản ngoài gỗ.
Vào cuối những năm 80, xuất khẩu lâm sản ngoài gỗ của nước ta chỉ đạt
giá trị khoảng 10 triệu USD. Nhưng tổng kim ngạch xuất khẩu lâm sản ngoài gỗ
năm 2004 đã đạt gần 200 triệu USD, riêng hàng mây tre đan là 138 triệu USD.
Nhóm mặt hàng mây tre đan chiếm tỉ lệ lớn nhất trong cơ cấu mặt hàng xuất
khẩu (72,34%), từ năm 2003 giá trị xuất khẩu từ 100-130 triệu USD; sau đó là
mật ong: 8,40%, quế hồi: 7,87%. Nhìn chung tốc độ tăng trưởng xuất khẩu khá
cao, bình quân khoảng 15-25%/năm (xấp xỉ tăng trưởng xuất khẩu cả nước).
Một số mặt hàng lâm sản ngoài gỗ xuất khẩu tăng mạnh như: sản phẩm mây tre
đan có tốc độ tăng trưởng bình quân 31,25%/năm; mật ong tốc độ tăng trưởng
cao [14] [11].
Hiện nay, Lâm sản ngoài gỗ của Việt Nam xuất khẩu sang gần 90 nước và
vùng lãnh thổ; song do phần lớn các cơ sở chế biến LSNG đều có quy mô nhỏ,
không gắn với vùng nguyên liệu ổn định, công nghệ và thiết bị lạc hậu, chất
lượng sản phẩm thấp, mẫu mã bao bì còn hạn chế nên tính cạnh tranh trên thị

8
trường quốc tế chưa cao. Thị trường Nhật Bản và Đài Loan chiếm thị phần cao

và ổn định, thị trường Mỹ mới có từ năm 2001 nhưng có mức tăng trưởng
nhanh, có triển vọng là thị trường tiềm năng.
1.2.2. Vai trò của lâm sản ngoài gỗ
- LSNG là một bộ phận quan trọng của rừng nhiệt đới, quan hệ tới sự duy
trì và phát triển hệ sinh thái rừng. Phần lớn cây LSNG nằm dưới tán rừng, có tác
dụng giảm tác động của nước mưa xuống mặt đất, ngăn chặn dòng chảy mặt,
chống xói mòn cho đất rừng. Gây trồng LSNG trong rừng là tăng độ che phủ và
nâng cao giá trị phòng hộ của các khu rừng.
- Phát triển Lâm sản ngoài gỗ là một phương thức làm tăng giá trị kinh tế
của rừng góp phần khôi phục, nâng cao giá trị của các khu rừng nghèo, động
viên người dân địa phương tham gia tích cực hơn vào công cuộc bảo vệ rừng và
đa dạng sinh học, chống lại việc chuyển đổi đất lâm nghiệp sang mục đích sử
dụng khác. Lâm sản ngoài gỗ có vai trò quan trọng đối với các cộng đồng dân cư
và các hộ dân (nhất là dân tộc thiểu số) miền núi trong việc đảm bảo an toàn
lương thực, chăm sóc sức khoẻ, nguyên liệu, nhiên liệu phục vụ đời sống.
- Việc khai thác LSNG thường ít ảnh hưởng đến cấu trúc tầng cây gỗ và vai
trò bảo vệ môi trường và đa dạng sinh học của rừng. Tuy nhiên, muốn có LSNG
để khai thác phải bảo vệ hệ sinh thái rừng. Vì vậy, khai thác LSNG đúng kỹ
thuật cũng là một biện pháp tích cực bảo vệ rừng.
- Trong những năm gần đây, LSNG đã thu hút được sự quan tâm của nhiều
người, do nhận thức rõ hơn về LSNG trong sự đóng góp vào kinh tế hộ và an toàn
lương thực vào nền kinh tế quốc dân, bảo vệ môi trường và bảo tồn đa dạng sinh học.
- Các loài lâm sản ngoài gỗ còn có ý nghĩa trong các lĩnh vực đa dạng sinh
học, duy trì tính phong phú của hệ sinh thái rừng.
Lâm sản ngoài gỗ có nhiều giá trị đối với kinh tế, xã hội và môi trường của
đất nước ta:

9
- Giá trị về mặt kinh tế: Giá trị kinh tế của lâm sản ngoài gỗ được thể hiện
thông qua giá trị sử dụng của chúng. Lâm sản ngoài gỗ được khai thác sử dụng,

chế biến hoặc bán để phục vụ sản xuất hàng hoá, tăng thu nhập cho người dân.
Bao gồm các lĩnh vực:
+ Cung cấp nguyên liệu sản xuất hàng thủ công, mỹ nghệ
+ Cung cấp nguyên liệu cho các ngành công nghiệp chế biến
+ Cung cấp dược liệu
+ Cung cấp thực phẩm, thức ăn chăn nuôi
+ Cung cấp cây hoa, cây cảnh
- Giá trị về mặt xã hội: Từ lâu đời việc gây trồng, khai thác, thu hái, chế
biến và tiêu thụ LSNG đã mang lại công ăn việc làm cho hàng chục triệu người
dân ở các cộng đồng dân cư sống trong và ngoài khu vực có rừng. Điều đó đã
góp phần giúp cho họ ổn định cuộc sống, xoá đói giảm nghèo, định canh, định
cư, tạo nên các kênh giao lưu, tiêu thụ lành mạnh thúc đẩy sản xuất, một số
LSNG được sử dụng trong các lễ hội truyền thống tạo ra các sản phẩm có ý
nghĩa bảo tồn góp phần phát triển đời sống văn hoá, tinh thần, vật chất cho từng
cộng đồng. Ngoài ra còn có những người nhờ vào các sản phẩm này để đáp ứng
nhu cầu tiêu dùng hàng ngày hoặc tạo ra thu nhập như những người thợ thủ
công và nghệ nhân.
- Giá trị về mặt môi trường, sinh thái: Các loài LSNG tham gia tạo nên cấu
trúc rừng cùng với các loài cây gỗ và thực vật, động vật. Hệ sinh thái ở đây đa
dạng, khép kín và bền vững. Duy trì, bảo vệ và khai thác hợp lý (bền vững) tài
nguyên LSNG hoặc tổ chức gây trồng LSNG dưới tán rừng góp phần bảo vệ tính
đa dạng sinh học, bảo tồn nguồn gen các loài động thực vật, tăng khả năng giữ
nước phòng hộ của rừng, bảo vệ được hệ sinh thái rừng nói chung. Tuy nhiên,
lâm sản ngoài gỗ cũng như lâm sản nói chung là đối tượng của sản xuất, cần
khai thác sử dụng, nên việc bảo tồn lâm sản ngoài gỗ không thể giống như bảo
vệ da dạng sinh học.

10
1.3. Các nghiên cứu trong nƣớc và thế giới về LSNG
1.3.1. Nghiên cứu nước ngoài

Trải qua nhiều thế kỷ, sản phẩm rừng đã và đang cung cấp cho các nước
một nguồn thu nhập lớn lao. Sản phẩm rừng có thể được chia thành 2 nhóm: Gỗ
và ngoài gỗ. Giá trị sử dụng rộng lớn của gỗ trong các ngành công nghiệp xây
dựng và nội thất dường như đã làm cho con người nhiều khi quên mất giá trị của
những lâm sản ngoài gỗ. Thực tế về buôn bán, trao đổi lâm sản ngoài gỗ trên thị
trường đã cung cấp cho người dân sống ở vùng rừng và các doanh nghiệp địa
phương một nguồn thu nhập đáng kể
1.3.1.1. Các nghiên cứu về đánh giá thực trạng nguồn LSNG
Khi nghiên cứu về “Các loại tre trúc” Gamble (1896) đã đề cập tương đối
chi tiết về phân bố, hình thái và một số đặc điểm sinh thái của 151 loài tre trúc
có ở các nước Ấn Độ, Pakistan, Miến Điện, Malaysia và Indonesia [3].
S. Dransfield and E.A. Widjaja (1995) đã tiến hành mô tả đặc điểm hình
thái, sinh thái, phân bố, gây trồng, sử dụng cho 75 loài tre trúc thông dụng, có
giá trị ở vùng Đông Nam Á [35].
Năm 1992, J.H. de Beer – một chuyên gia lâm sản ngoài gỗ của tổ chức
Nông lương thế giới – khi nghiên cứu về vai trò và thị trường của lâm sản ngoài
gỗ đã nhận thấy giá trị to lớn của thảo quả đối với việc tăng thu nhập cho người
dân sống trong khu vực vùng núi nơi có phân bố thảo quả nhằm xóa đói giảm
nghèo, đồng thời là yếu tố thúc đẩy sự phát triển của kinh tế xã hội vùng núi và
bảo tồn phát triển tài nguyên rừng. Về nhu cầu thị trường của thảo quả là rất lớn,
chỉ tính riêng ở Lào, hàng năm xuất khẩu khoảng 400 tấn sang Trung Quốc và
Thái Lan. Đây là công trình nghiên cứu tổng kết về vai trò thảo quả đối với con
người, xã hội cũng như tình hình sản xuất buôn bán và dự báo thị trường, tiềm
năng phát triển của thảo quả [31].
Theo FAO (1999): “LSNG là các lâm sản có nguồn gốc sinh vật,loại trừ gỗ
lớn có ở rừng, ở đất rừng và ở các cây bên ngoài rừng.” [33]. Các nhà khoa học

11
Mỹ, D. A. Scott, J. A. Burger và Barbara Crane (2006) đã thực hiện nghiên cứu
nâng cao hiệu quả sử dụng nhằm đảm bảo chức năng của các khu rừng lâm sản

ngoài gỗ. Những nghiên cứu trước đây chủ yếu tập trung nâng cao sinh khối và
không đề cập đến khả năng cung cấp các sản phẩm và dịch vụ khác của rừng.
Hướng quan tâm tới lợi ích của cả lâm sản gỗ và lâm sản ngoài gỗ sẽ giúp chúng
ta đưa ra chiến lược hợp lý để đa dạng hoá sản phẩm và dịch vụ từ rừng [25].
Theo ước tính của quỹ thiên nhiên thế giới (WWF) có khoảng 35.000 –
70.000 loài trong số 250.000 loài cây sử dụng vào mục đích chữa bệnh trên toàn
thế giới. Nguồn tài nguyên cây thuốc này là kho tàng vô cùng quý giá của các
dân tộc hiện đang khai thác và sử dụng để chăm sóc sức khỏe, phát triển kinh tế,
giữ gìn bản sắc của nền văn hóa. Theo báo cáo của tổ chức y tế thế giới (WHO)
ngày nay có khoảng 80% dân số các nước đang phát triển có nhu cầu chăm sóc
sức khỏe ban đầu phụ thuộc vào nguồn dược liệu hoặc qua các chiết suất từ
dược liệu (Nguyễn Văn Tập, 2006) [19].
1.3.1.2. Các nghiên cứu về đánh giá khả năng gây trồng
Zhou Fangchun (2000) [36], có đề cập đến nhân giống của một số loài tre
trúc khác nhau ở Trung Quốc làm cơ sở cho việc gây trồng phát triển tre trúc.Theo J.
Dransfield và N.Manokaran, 1998 việc trồng Mây nếp đã phát triển trên quy mô
lớn ở Trung Quốc, phổ biến là trồng theo phương thức nông lâm kết hợp, trồng
xen trong các khu rừng phục hồi và rừng trồng, cây non được trồng 1 hoặc 2
cây/cụm. Tại Quảng Đông, mây nếp được trồng thử nghiệm ở sườn đồi, thu
hoạch vào năm thứ 7 cho năng suất khoảng 1,2 tấn/ha (dẫn theo Vũ Văn Dũng
và cộng sự, 2002) [11].
Một mạng lưới quốc tế nghiên cứu và sử dụng kiến thức bản địa đã được
thành lập năm 1987 thông qua trung tâm nghiên cứu kiến thức bản địa phục vụ
phát triển nông nghiệp (CI KARD) ở đại học Iowastate, Hoa Kỳ. Rõ ràng kiến
thức bản địa đang được sự chú ý của nhiều nhà khoa học cũng như các dự án, và
tổ chức quốc tế (Đặng Kim Vui và cs, 2002) [24].

12
Như vậy, các nghiên cứu đã phát hiện tiềm năng của lâm sản ngoài gỗ như
khả năng phục hồi nhanh, cho thu hoạch sớm với năng suất kinh tế cao và ổn

định, có khả năng kinh doanh liên tục, phù hợp với quy mô hộ gia đình và đặc
biệt là việc khai thác chúng gần nhue không tổn hại đến rừng đã thúc đẩy nhiều
nhà khoa học tham gia vào nghiên cứu phát triển lâm sản ngoài gỗ. Phần lớn các
nghiên cứu đều tập trung ở các nước nhiệt đới, nơi mà tiềm năng về lâm sản
ngoài gỗ phong phú nhất, còn việc khai thác gỗ lại thường gây tổn hại nhiều
nhất đối với hệ sinh thái rừng.
1.3.1.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới bảo tồn và phát triển một số loài LSNG
Trung tâm nghiên cứu lâm nghiệp quốc tế đặt tại Indonesia (CIFOR) đã
chú trọng nghiên cứu LSNG. Trung tâm đã đề ra phương pháp phân tích với các
lâm sản thương mại trên thế giới. Trung tâm quốc tế về nông lâm kết hợp
(ICRAF) đã và đang thục hiện các nghiên cứu làm thế nào sản xuất, nâng cao
sản lượng của các cây rừng có nhiều tiềm năng. Tổ chức nông lương thế giới
(FAO) và Trung tâm đào tạo vùng về lâm nghiệp cộng đồng (RECOFTC) cũng
có nhiều nghiên cứu về LSNG, trong đó có cách tiếp cận phương pháp luận về
“Từ sản xuất đến hệ thống tiêu thụ” coi nhiệm vụ sản xuất của rừng là cần thiết
cho cung cấp bền vững phân phối thu thập, đảm bảo thị trường và các vấn đề
chính sách định chế. FAO đã thành lập ra mạng lưới nghiên cứu LSNG trên thế
giới liên kết giữa 1.600 cá nhân và cơ quan đã xuất bản tạp chí “Tin tức lâm sản
ngoài gỗ”, tổ chức một số hộ thảo quốc tế về LSNG (thí dụ ở Thái Lan năm
1994, Indonesia năm 1995…). Các tổ chức phi chính phủ ở Đức hỗ trợ cho
nhiều nghiên cứu LSNG tại Châu Phi. Nhiều trường đại học ở Pháp, Anh, Mỹ ,
Đức, Hà Lan nghiên cứu ảnh hưởng của LSNG đến ảnh hưởng của cộng đồng
dân cư gần rừng. Chính phủ Hà Lan cũng đã hỗ trợ cho nhiều dự án về LSNG
khắp trên thế giới hướng tới sử dụng bền vững nguồn tài nguyên này (dẫn theo
Phan Văn Thắng, 2002)[20].
Lâm sản ngoài gỗ có phù hợp với mục tiêu phát triển và bảo tồn rừng nhiệt
đới hay không? Đó là nội dung nghiên cứu của J. E. Michael Arnold và M. Ruiz

13
Pérez (2001). Những giá trị mà lâm sản ngoài gỗ mang lại cho người dân địa

phương cùng với việc khai thác chúng ít gây mất cân bằng sinh thái so với khai
thác gỗ đã tạo niềm tin rằng việc tăng cường quản lý các loài lâm sản ngoài gỗ
này có thể đảm bảo cả hai mục tiêu là bảo tồn và phát triển, và dẫn tới việc mở
rộng khai thác lâm sản ngoài gỗ. Tuy nhiên kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng việc
“bảo tồn thông qua thương mại hoá” này cần được xem lại. Thực tế, nhu cầu của
thị trường và thậm chí sự phân phối không công bằng giá trị sử dụng của tài
nguyên có thể làm nguồn tài nguyên bị biến đổi và suy thoái. Vì vậy, cần phải
nỗ lực đạt tới một sự cân bằng thực sự giữa bảo tồn và phát triển [34].
1.3.1.4. Các nghiên cứu khác về LSNG
Hệ sinh thái rừng nhiệt đới là một hệ sinh thái hoàn hảo và đầy đủ với khu
hệ động vật và thực vật phong phú và đa dạng nhất hành tinh (Van Steenis,
1956). Vì vậy, việc tận dụng triệt để mọi tiềm năng của rừng nhiệt đới ẩm để
kinh doanh toàn diện, lợi dụng tổng hợp, trong đó có kinh doanh và lợi dụng
LSNG là hết sức cần thiết.
Năm 1987, Wilson đã tìm thấy quanh một gốc cây họ đậu ở Peru có tới 43
loài kiến, thuộc 26 giống, bằng toàn bộ khu hệ kiến có mặt ở nước Anh. Tại
Đông Nam Á, rừng nhiệt đới và đặc biệt là rừng mưa có mức độ đa dạng sinh
học rất cao. Tại Malaysia có ít nhất 40.000 loài thực vật, Indonesia có khoảng
20.000 loài, Thái Lan có 12.000 loài, số loài thực vật ở Đông Dương (Việt Nam,
Lào, Campuchia) là 15.000 loài.
Nhằm nâng cao vai trò của LSNG một số tổ chức quốc tế tiêu biểu trong
hoạt động nghiên cứu LSNG như: Tổ chức nông lương thế giới (FAO), Trung
tâm nghiên cứu Lâm nghiệp quốc tế (CIFOR), Trung tâm Nông lâm kết hợp
quốc tế (ICRAF),… đã tập trung nghiên cứu vào nhóm các nghiên cứu sau:
- Khảo sát tình hình nhằm nắm được những hiểu biết chung về việc sử
dụng LSNG và tầm quan trọng của LSNG ở các mức độ khác nhau (hộ gia đình,
địa phương, quốc gia và quốc tế);
- Phát triển công nghệ để cải thiện quá trình chế biến và sử dụng LSNG;

14

- Nghiên cứu về canh tác LSNG;
- Nghiên cứu về kinh tế, xã hội bao gồm cả nghiên cứu về thị trường LSNG.
Việc quan tâm tới công nghệ sau thu hoạch thường ít ỏi, vì vậy gây lãng
phí cả về số lượng và chất lượng trong quá trình thu hái, vận chuyển và cất trữ
sản phẩm LSNG (FAO, 1995) [32]. Một số vấn đề nổi cộm trong sản xuất, chế
biến LSNG ở các nước đang phát triển là hạn chế kỹ thuật khai thác và xử lý sau
thu hoạch; thiếu các nghiên cứu về phát triển giống các loài cây cao sản; kỹ
thuật chế biến kém hiệu quả; thiếu các giải pháp điều chỉnh chất lượng; khó
khăn về thị trường và thiếu cán bộ được đào tạo,…
Năm 1992 Chương trình Rừng, cây và con người (FTPP) đã phát triển các
bản hướng dẫn cho việc tạo ra các hệ thống thôn tin thị trường LSNG ở mức địa
phương. Phương pháp này đã được kiểm nghiệm ở Bangladesh và Uganda năm
1993 và cho thấy tính hiệu quả thiết thực của nó trong việc nắm bắt thông tin về
thị trường cây LSNG ở mức địa phương từ đó có kế hoạch lựa chọn, điều chỉnh
loài cây LSNG gây trồng, khai thác và sử dụng cho phù hợp [26].
Thị trường tiêu thụ lâm sản ngoài gỗ có vai trò rất quan trọng, vì vậy D. W.
Velde và cộng sự (2006) đã tìm hiểu vai trò của các thương gia trong mắt xích
thị trường. Tác giả cho biết việc đánh giá đúng vai trò của các thương gia là rất
quan trọng. Việc đề ra chính sách để thương mại hoá các sản phẩm ngoài gỗ cần
phải tính đến mỗi mắt xích trong mạng lưới thị trường [31].
1.3.2. Các nghiên cứu trong nước
Các tư liệu, tài liệu và các công trình nghiên cứu liên quan đến LSNG hiện
nay phần lớn giới thiệu về sự đa dạng, khái niệm, phân loại, vai trò, giá trị sử
dụng và kỹ thuật gây trồng cho một số loài cây LSNG chủ yếu, điển hình là một
số công trình nghiên cứu phân theo các vấn đề sau đây:
1.3.2.1. Các nghiên cứu về đánh giá hiện trạng LSNG
Triệu Văn Hùng cùng các tác giả khác (2007) [14], đã mô tả hình thái, phân
bố, công dụng, kỹ thuật gây trồng, thu hoạch, chế biến và bảo quản của 299 loài
LSNG. Trong đó phân ra thành 6 nhóm: Nhóm cây có sợi (35 loài tre nứa, 2 loài


15
mây và 8 loài khác); Nhóm cây làm thực phẩm (40 loài cây ăn được, 12 loài
nấm); Nhóm cây thuốc (76 loài); Nhóm cây cho dầu nhựa (60 loài); Nhóm
Tanin, thuốc nhuộm (19 loài); Nhóm cây bóng mát (23 loài cây hoa, 13 loài cây
cảnh, 11 loài cây cảnh và cây bóng mát thân gỗ).
Sở nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Lào Cai đã phối hợp với các
nhà khoa học tại trung tâm nghiên cứu đặc sản tiến hành tổng hợp thu nhập các
kinh nghiệm gây trồng, thu hái chế biến thảo quả trong nhân dân, 1994 (Nguồn:
Phan Văn Thắng, 2002) [20].
Điều tra nghiên cứu kiến thức bản địa về quản lý, phát triển tài nguyên
rừng ở một số cộng đồng thôn bản thuộc miền núi phía bắc Việt Nam, Đỗ Đình
Sâm, Đặng Kim Khánh, An Văn Bảy. Các tác giả đã nghiên cứu về kinh nghiệm
trồng tre lấy măng của đồng bào Thái Sơn La, phát triển rừng quế của đồng bào
người Dao ở Quảng Ninh [23].
Nguyễn Ngọc Bình (1964) đã chỉ ra rằng Luồng sinh trưởng tốt nơi đất
chua pH (KC1): 4,2 – 5,0. Cũng theo Nguyễn Ngọc Bình (2001) [5], khi nghiên
cứu đặc biệt đất trồng rừng Tre Luồng và ảnh hưởng của các phương thức trồng
rừng tre Luồng đến đất cho rằng trồng Luồng theo phương thức hỗn giao, thích
hợp nhất là hỗn giao với cây họ đậu như Keo để tránh cho đất bị suy thoái
Đỗ Tất Lợi (1991) [18], trong “Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam” -
tái bản lần 3 có sửa đổi bổ sung đã mô tả nhiều loài cây LSNG làm thuốc, trong
đó có nhiều bài thuốc hay từ những loài LSNG này.
Vũ Văn Dũng và cộng sự (2002) [11], các tác giả đã đưa ra định nghĩa, phân
loại LSNG, giới thiệu về một số nhóm LSNG có giá trị ở Việt Nam, tổ chức và quản
lý LSNG, những thuận lợi, khó khăn trong quá trình phát triển LSNG,….
Năm 2000, Hà Chư Chử, Trần Quốc Túy và Jenne H. De Beer đã đánh giá
về lâm sản ngoài gỗ trong cuốn: “Phân tích phân ngành lâm sản ngoài gốc ở
Việt Nam”. Nội dung công trình đã đưa ra 76 loài cho nhựa thơm, 93 loài cho
chất mầu, 160 loài chỉ cho dầu, 260 loài cho tinh dầu [16].


16
Vũ Văn Dũng, Hoàng Hữu Nguyên, Trịnh Vĩ (2001) đã đề xuất cách phân
loại mới. Theo các tác giả, lâm sản ngoài gôc được chia làm 6 nhóm: Sản phẩm
để làm thực phẩm, làm lá gói bánh [11].
Nghiên cứu của Nguyễn Ngọc Lân (1999) cho thấy, 100% số hộ ở khu bảo
tồn Pù Mát sống dựa vào việc khai thác gỗ và LSNG, 22% số hộ thường xuyên
khai thác cây Met, Nứa, Song, Mây,…; 11,75% số hộ thường xuyên khai thác
mọc nhĩ. Thu nhập bình quân khoảng 20.000 đồng/ngày và 8,3% số hộ thường
xuyên khai thác củi bán lấy tiền mua lương thực và trong những ngày giáp hạt
trên 90% số hộ ở bản Châu Sơn vào rừng đào củ Mài, củ Chuối, củ Nâu và hái rau
rừng để ăn.
Nghiên cứu của Christian Rate và cộng sự năm 1993 đã đề cập tới tiềm
năng của LSNG tại Hòa Bình, Sơn La, Lai Châu. Các tác giả đã thống kê diện
tích rừng Tre nứa ở 3 tỉnh là 26.000 ha. Bình quân một năm khai thác khoảng 13
tỷ cây, trong đó 90% được bán cho nhà máy giấy Bãi Bằng, đồng bằng sông
Hồng và xuất khẩu [28].
Một số rau dại ăn được ở Việt Nam, Phạm Thanh Huyền, Nguyễn Thị
Minh Nguyệt, Nguyễn Thúy Bình (2000) [15]. Các nhà nghiên cứu đã thống kê
được 113 loài thực vật rừng làm thực phẩm, gia vị có ở Việt Nam và xác định rõ
đặc điểm nơi sống, cách thu hái, chế biến, thành phần dinh dưỡng.
1.3.2.2. Các nghiên cứu về đánh giá khả năng gây trồng về LSNG
Khi nghiên cứu về trồng cây nông nghiệp, dược liệu và đặc sản dưới tán
rừng, Nguyễn Ngọc Bình và cộng sự đã tìm được kỹ thuật gây trồng các loại cây
dưới tán rừng để tạo ra sản phẩm, tăng thu nhập cho các hộ gia đình nhận khoán,
bảo vệ, khoanh nuôi rừng. Tác giả chỉ ra giá trị kinh tế, đặc điểm hình thái, sinh
thái, phân bố, kỹ thuật gây trồng 28 loài lâm sản ngoài gỗ như: Ba kích, Sa nhân,
Thảo quả, Trám trắng, Mây nếp,…(Nguyễn Ngọc Bình, 2000) [4].
Thuần hóa lâm sản ngoài gỗ thành công rõ rệt nhất là với những loài cây dược
liệu. Trong vòng 50 năm trở lại đây, ở Việt Nam có hơn 30 loài cây thuốc vốn mọc tự

×