ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
–––––––––––––––––––––––––––––––
TRƢƠNG QUỐC HƢNG
NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG PHỤC HỒI RỪNG TRÊN ĐẤT
SAU CANH TÁC NƢƠNG RẪY TẠI HUYỆN CHỢ ĐỒN,
TỈNH BẮC KẠN
Chuyên ngành: Lâm học
Mã số: 60. 62. 02. 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
1. PGS.TS. LÊ SỸ TRUNG
2. ThS. NGUYỄN THỊ THU HOÀN
Thái Nguyên, 2012
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình khoa học của bản thân tôi, công trình
được nghiên cứu trong thời gian từ năm 2011 đến năm 2012. Các kết quả
nghiên cứu được trình bày trong luận văn hoàn toàn trung thực, khách quan
và chưa được công bố.
Thái Nguyên, ngày tháng 9 năm 2012
Ngƣời cam đoan
TRƢƠNG QUỐC HƢNG
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ii
LỜI CẢM ƠN
Luận văn được hoàn thành tại Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên
theo chương trình đào tạo thạc sĩ lâm nghiệp. Để hoàn thành được bản luận
văn này tôi luôn nhận được sự giúp đỡ của lãnh đạo trường Đại học Nông
Lâm Thái Nguyên, Ban chủ nhiệm Khoa Lâm Nghiệp, Phòng Quản lý đào tạo
sau đại học, các thầy cô giáo, các em sinh viên K40 khoa lâm nghiệp cũng
như chính quyền địa phương của huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn.
Nhân dịp này tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất tới
những sự quan tâm giúp đỡ quý báu trên. Đặc biệt tôi xin được bày tỏ lòng
biết ơn tới PGS.TS. Lê Sỹ Trung, Ths.Nguyễn Thị Thu Hoàn với những tâm
huyết của người hướng dẫn khoa học đã dành nhiều thời gian để chỉ bảo giúp
đỡ tôi trong quá trình thực hiện đề tài.
Tôi xin được bày tỏ lòng cảm ơn tới gia đình đã động viên, tạo mọi điều
kiện cho tôi học tập, nghiên cứu. Tôi cũng xin được cảm ơn tới các thầy cô, bạn
bè đồng nghiệp đã chia sẻ chuyên môn để tôi hoàn thành bản luận văn này.
Đây là công trình nghiên cứu khoa học của bản thân tôi chắc chắn
không tránh khỏi những thiếu sót, kính mong nhận được những ý kiến phê
bình, góp ý của quý thầy cô, các nhà khoa học, các bạn bè đồng nghiệp và độc
giả để bản luận văn được hoàn thiện hơn.
Xin trân trọng cảm ơn!
Tác giả
TRƢƠNG QUỐC HƢNG
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
iii
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU i
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Mục tiêu nghiên cứu 2
2.1. Mục tiêu về lý luận 2
2.2. Mục tiêu thực tiễn 2
3. Ý nghĩa của đề tài 2
Chƣơng 1. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU 3
1.1. Một số khái niệm liên quan được sử dụng trong đề tài 3
1.2. Các nghiên cứu liên quan trên thế giới và Việt Nam 5
1.2.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới 5
1.2.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam 10
1.3. Tổng quan khu vực nghiên cứu 20
1.3.1. Điều kiện tự nhiên khu vực nghiên cứu 21
1.3.2. Điều kiện kinh tế xã hội 25
Chƣơng 2. ĐỐI TƢỢNG, PHẠM VI, NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU 30
2.1. Đối tượng nghiên cứu 30
2.2. Phạm vi nghiên cứu 30
2.3. Nội dung nghiên cứu 30
2.3.1. Hiện trạng rừng và đất rừng tại khu vực nghiên cứu 30
2.3.2. Xác định các đặc điểm phản ảnh khả năng phục hồi rừng trên đất sau
canh tác nương rẫy 30
2.3.3. Đề xuất các giải pháp kỹ thuật lâm sinh phục hồi rừng trên đất sau canh
tác nương rẫy 30
2.4. Phương pháp nghiên cứu 30
2.4.1. Phương pháp kế thừa các số liệu thứ cấp 30
2.4.2. Phương pháp bố trí thí nghiệm 31
2.4.3. Sử dụng phương pháp đánh giá nhanh nông thôn 31
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
iv
2.4.4. Phương pháp thu thập số liệu 31
2.4.5. Phương pháp xử lý số liệu 33
Chƣơng 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 37
3.1. Hiện trạng và các đặc điểm chủ yếu của đất sau canh tác nương rẫy 37
3.1.1. Hiện trạng rừng và đất lâm nghiệp tại huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn 37
3.1.2. Đặc điểm hiện trạng rừng và đất rừng 2 xã Phương Viên và Rã Bản 38
3.2. Kết quả điều tra một số đặc điểm phản ánh khả năng phục hồi rừng trên
đất sau canh tác nương rẫy 41
3.2.1. Đặc điểm cấu trúc tầng cây gỗ phục hồi sau nương rẫy (trạng thái IIa) 41
3.2.2. Đặc điểm về tái sinh của một số thảm thực vật tại khu vực nghiên cứu 51
3.2.3. Đặc điểm tầng cây bụi thảm tươi của một số thảm thực vật rừng sau
canh tác nương rẫy 58
3.2.4. Đặc điểm vật rơi rụng dưới tán rừng 60
3.2.5. Một số tính chất vật lý của đất 62
3.2.6. Ảnh hưởng của một số nhân tố đến tái sinh 63
3.3. Đề xuất một số biện pháp kỹ thuật cho đối tượng nghiên cứu 67
3.3.1. Đối với các trạng thái đã phục hồi thành rừng (trạng thái IIa) 68
3.3.2. Đối với trạng thái chưa có rừng 69
KẾT LUẬN, TỒN TẠI VÀ KIẾN NGHỊ 71
A. KẾT LUẬN 71
B. TỒN TẠI 73
C. KIẾN NGHỊ 73
TÀI LIỆU THAM KHÁO 74
I. PHẦN TIẾNG VIỆT 74
II. PHẦN TIẾNG ANH 76
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
v
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
- ÔTC: Ô tiêu chuẩn
- ÔDB: Ô dạng bản
- D
1.3
: Đường kính thân cây ở vị trí cách mặt đất 1,3 m
- H
vn
: Chiều cao vút ngọn
- PTLS: Phương thức lâm sinh
- DTR: Diện tích rừng``
- VĐTQHR: Viện điều tra quy hoạch rừng
- UBND: Ủy ban nhân dân
- TTV: Thảm thực vật
- TPCG: Thành phần cơ giới
- FAO: Food and Agriculture Organization of the United
Nations - Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên
Hiệp Quốc.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
vi
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 1.1. Tình hình sản xuất nông nghiệp của xã Phương Viên và xã Rã Bản
năm 2010 26
Bảng 3.1. Hiện trạng rừng và đất rừng của huyện Chợ Đồn 37
Bảng 3.2. Tổ thành và mật độ cây gỗ trạng thái IIa 42
Bảng 3.3. Chỉ số đa dạng sinh học loài cây ở xã Phương Viên 43
Bảng 3.4. Chỉ số đa dạng loài cây ở xã Rã Bản 44
Bảng 3.5. Phân bố số cây theo cấp đường kính 46
Bảng 3.6. Phân bố loài cây theo cấp đường kính 47
Bảng 3.7. Phân bố số cây theo cấp chiều cao 48
Bảng 3.8. Phân bố số loài theo cấp chiều cao 49
Bảng 3.9. Phân bố loài cây theo tầng phiến 50
Bảng 3.10. Tổ thành cây tái sinh trạng thái IIa 51
Bảng 3.11. Tổ thành cây tái sinh trạng thái Ic 52
Bảng 3.12. Mật độ cây tái sinh trạng thái rừng IIa và Ic 53
Bảng 3.13. Kết quả nghiên cứu về triển vọng của cây tái sinh 54
Bảng 3.14. Chất lượng và nguồn gốc cây tái sinh trạng thái thảm thực vật Ic
và IIa 55
Bảng 3.15. Bảng chỉ số đa dạng sinh học cây tái sinh trạng thái thảm thực vật
Ic và IIa 56
Bảng 3.16. Phân bố số cây theo cấp chiều cao trạng thái Ic 57
Bảng 3.17. Độ che phủ cây bụi thảm tươi các trạng thái Ia, Ib, Ic, IIa 59
Bảng 3.18. Chỉ số đa dạng sinh học lớp cây bụi 59
Bảng 3.19. Đặc điểm tầng thảm mục các trạng thái Ia, Ib, Ic, Iia 60
Bảng 3.20. Khối lượng vật rơi rụng ở các trạng thái Ia, Ib, Ic, IIa 61
Bảng 3.21. Kết quả điều tra tính chất lí tính của đất 62
Bảng 3.22. Tổng hợp các yếu tố ảnh hưởng đến đặc điểm tái sinh tự nhiên 64
Bảng 3.23. Tổng hợp ảnh hưởng của con người đến tái sinh rừng 67
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
vii
DANH MỤC CÁC HÌNH
Trang
Hình 3.1. Biểu đồ phân bố loài cây theo các nhóm tần số xuất hiện 45
Hình 3.2. Đồ thị phân bố số cây theo đường kính 46
Hình 3.3. Đồ thị phân bố loài cây theo cấp đường kính 47
Hình 3.4. Đồ thị phân bố số cây theo cấp chiều cao 48
Hình 3.5. Đồ thị phân bố loài cây theo cấp chiều cao 49
Hình 3.6. Đồ thị phân bố loài cây theo tầng phiến 50
Hình 3.7. Biểu đồ phân bố số cây theo cấp chiều cao 58
Hình 3.8. Biểu đồ biểu thị quá trình phân giải tầng thảm mục 60
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Vai trò của rừng trong việc điều tiết nguồn nước, đảm bảo cung cấp
nước mùa khô và hạn chế lũ lụt vào mùa mưa đã được thừa nhận. Ở Việt Nam
việc điều tiết nguồn nước tại các lưu vực sông suối, hồ chứa để đảm bảo tính
ổn định bền vững của môi trường sống và sự hoạt động của các công trình đã
đưa chức năng phòng hộ của rừng lên tầm quan trọng mới. Vì nhu cầu bảo vệ
nước và đất, đảm bảo an toàn sinh thái ở vùng đầu nguồn, việc phục hồi và
phát triển rừng là rất cần thiết, đặc biệt ở những nơi đất trống, trảng cỏ, nương
rẫy, cây bụi tại những vùng đầu nguồn.
Trong những năm qua, nước ta đã triển khai nhiều chương trình nhằm
tăng độ che phủ của rừng (tính đến năm 2010, độ che phủ của rừng là 39,5%
tăng 11% so với năm 1995) [34]. Đây là những lỗ lực lớn của ngành lâm
nghiệp, khẳng định tính đúng đắn của các giải pháp tác động, khẳng định vai
trò quan trọng của rừng đối với sự phát triển bền vững đất nước. Mặc dù đã đạt
được những kết quả đáng kể, tuy nhiên hiệu quả của các chương trình, dự án
phục hồi và phát triển rừng thứ sinh nghèo ở nước ta còn thấp. Nguyên nhân
chủ yếu của tình trạng trên là còn thiếu những giải pháp đồng bộ cho hoạt động
phục hồi và phát triển rừng. Chúng ta vẫn chưa xác định được tiêu chuẩn phân
loại đối tượng cần tác động cho từng điều kiện cụ thể; chưa xây dựng được hệ
thống biện pháp kỹ thuật hoàn chỉnh, những giải pháp có hiệu quả cho hoạt
động phục hồi và phát triển rừng trong từng điều kiện cụ thể; thiếu sự hỗ trợ
cần thiết để đưa quy trình kỹ thuật vào thực tiễn kinh doanh rừng.
Chợ Đồn là huyện miền núi của tỉnh Bắc Kạn, là vùng đầu nguồn của
lưu vực sông Cầu, nơi có địa hình núi cao, bề mặt bị bào mòn, chia cắt mạnh,
vì thế đánh giá khả năng phục hồi tự nhiên của một số thảm thực vật sau canh
tác nương rẫy nhằm xác định các kiểu sử dụng đất và hệ thống các biện pháp
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
quản lý hiệu quả là rất cần thiết hiện nay. Tuy nhiên các nghiên cứu này tại
huyện Chợ Đồn và tỉnh Bắc Kạn còn ít ỏi, hạn chế này đã gây khó khăn cho
thực tiễn sản xuất, đây là các nguyên nhân làm cho kết quả của hoạt động
phát triển rừng còn rất hạn chế.
Để góp phần giải quyết những tồn tại nêu trên, đề tài "Nghiên cứu khả
năng phục hồi rừng trên đất sau canh tác nương rẫy tại huyện Chợ Đồn -
tỉnh Bắc Kạn" được đề xuất thực hiện.
Hướng của đề tài là đánh giá thực trạng một số kiểu trạng thái thực vật
rừng; nghiên cứu đặc điểm cấu trúc, đặc điểm tái sinh tự nhiên trên một số
trạng thái sau canh tác nương rẫy; nghiên cứu ảnh hưởng của các nhân tố đến
khả năng tái sinh; phân loại đối tượng tác động trong từng điều kiện và đề
xuất các giải pháp kỹ thuật hiệu quả.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu về lý luận
Xác định được một số cơ sở khoa học nhằm rút ngắn thời gian phục hồi
và đẩy nhanh việc phát huy chức năng phòng hộ của rừng tỉnh Bắc Kạn.
2.2. Mục tiêu thực tiễn
- Xây dựng các đối tượng tác động làm cơ sở cho việc đề xuất giải pháp
kỹ thuật phục hồi rừng trên đất sau canh tác nương rẫy.
- Đề xuất được một số giải pháp kỹ thuật nhằm phục hồi rừng trên đất
sau canh tác nương rẫy.
3. Ý nghĩa của đề tài
Kết quả nghiên cứu của đề tài là cơ sở khoa học cung cấp thêm những
thông tin về khả năng phục rừng sau canh tác nương rẫy tại huyện Chợ Đồn,
tỉnh Bắc Kạn, đồng thời làm cơ sở đề xuất những giải pháp kỹ thuật lâm sinh
áp dụng cho rừng phục hồi nhằm đem lại hiệu quả trong phát triển rừng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
Chƣơng 1
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
1.1. Một số khái niệm liên quan đƣợc sử dụng trong đề tài
* Phục hồi rừng
Phục hồi rừng là một trong những nội dung quan trọng nhất hiện nay của
ngành lâm nghiệp Việt Nam cũng như của các nước nhiệt đới khi mà độ che
phủ của rừng giảm xuống dưới mức an toàn sinh thái và không bảo đảm được
sự phát triển bền vững của đất nước. Theo nghĩa thông thường thì đây là công
việc tái lập lại rừng trên những diện tích đã bị mất rừng. Nhưng về phương
diện sinh thái học thì phục hồi rừng là một quá trình tái tạo lại một hệ sinh
thái, một hệ sinh vật quần thể mà trong đó cây gỗ là yếu tố cấu thành chủ yếu.
Đó là một quá trình sinh địa phức tạp gồm nhiều giai đoạn và kết thúc bằng
sự xuất hiện một thảm thực vật cây gỗ bắt đầu khép tán [13]
Tuỳ theo mức độ tác động của con người mà người ta phân chia 3 giải
pháp phục hồi rừng đó là: phục hồi tự nhiên, phục hồi bán tự nhiên (xúc tiến
tái sinh) và phục hồi nhân tạo (trồng rừng) [11]. Khoanh nuôi phục hồi rừng
là một thuật ngữ được các nhà khoa học đưa ra gần đây để chỉ giải pháp phục
hồi rừng bằng con đường tự nhiên. Trong đó khoanh nuôi có tác động là giải
pháp phục hồi rừng bán tự nhiên và khoanh nuôi không có tác động là giải
pháp phục hồi tự nhiên.
Rừng thứ sinh thường được dùng khi diễn tả một quần xã thực vật hình
thành bởi quá trình phục hồi lại sau khi bị gián đoạn trong chuỗi diễn thế
nguyên sinh [7]. Những khu rừng thứ sinh nghèo được hình thành có sự tác
động ở mức độ trực tiếp và cả gián tiếp của con người [15] [25]. Đặc trưng
của rừng thứ sinh nghèo là tính quy luật trong kết cấu lâm phần không rõ
ràng, đặc biệt là cấu trúc tổ thành, cấu trúc tầng thứ, độ tàn che, cấu trúc mật
độ và tuổi cây trong quần xã; làm cho cây bụi và dây leo phát triển cực kì
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
mạnh. Rừng thứ sinh nói chung và rừng thứ sinh nghèo nói riêng đều có sản
lượng và giá trị kinh tế kém. Mật độ thiếu đặc biệt là mật độ của những loài
cây mục đích cũng là một đặc điểm dễ nhận thấy ở rừng thứ sinh [7].
* Tái sinh rừng
Tái sinh rừng là một quá trình sinh học mang tính đặc thù của hệ sinh thái
rừng, biểu hiện của nó là sự xuất hiện của một thế hệ cây con của những loài cây
gỗ ở những nơi còn hoàn cảnh rừng: dưới tán rừng, chỗ trống trong rừng, đất
rừng sau khai thác, đất rừng sau nương rẫy. Vai trò lịch sử của lớp cây con này là
thay thế thế hệ cây già cỗi. Vì vậy tái sinh từng hiểu theo nghĩa hẹp là quá trình
phục hồi thành phần cơ bản của rừng, chủ yếu là tầng cây gỗ. Sự xuất hiện lớp
cây con là nhân tố mới làm phong phú thêm số lượng và thành phần loài cây,
đóng góp vào việc hình thành tiểu hoàn cảnh rừng, làm thay đổi cả quá trình trao
đổi vật chất và năng lượng diễn ra trong hệ sinh thái. Do đó, tái sinh rừng hiểu
theo nghĩa rộng là sự tái sinh của một hệ sinh thái rừng. Tái sinh rừng thúc đẩy
việc hình thành cân bằng sinh học trong rừng đảm bào cho rừng tồn tại liên tục
và do đó bảo đảm cho việc sử dụng rừng thường xuyên và bền vững.
Tái sinh rừng tuân theo những quy luật nhất định. Quy luật tái sinh phụ
thuộc vào đặc điểm sinh vật học, sinh thái học của loài cây, điều kiện địa lý và
tiểu hoàn cảnh rừng Quy luật tái sinh rừng là cơ sở khoa học quan trọng cho
việc đề xuất các biện pháp tái sinh rừng có hiệu quả. Xét về bản chất sinh học,
tái sinh rừng diễn ra dưới 3 hình thức: tái sinh hạt, tái sinh chồi và tái sinh thân
ngầm. Mỗi hình thức tái sinh trên có quy luật riêng và trải qua nhiều giai đoạn
khác nhau [9].
Như vậ y, tái sinh rừng là một khái niệm chỉ khả n ăng và quá trì nh thiết
lậ p lớ p cây con dướ i tá n rừ ng . Đặc điểm cơ bản của quá trình này là lớp cây
con đề u có nguồ n gố c từ hạ t và trồ i có sẵ n , kể cả trong trườ ng hợ p tá i sinh
nhân tạ o thì cây con cũng phả i mọ c từ nguồ n hạt do con người gieo trước đó .
nó được phân biệt với các khái niệm khác (như trồ ng rừ ng) là sự thiết lập lớp
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
cây con bằ ng việ c trồ ng cây giố ng đã đượ c chuẩ n bị trong vườ n ươm . Vì đặc
trưng đó nên tá i sinh là mộ t quá trì nh sinh họ c mang tí nh đặ c thù củ a cá c hệ
sinh thá i rừ ng.
* Canh tác nương rẫy
Canh tác nương rẫy được hiểu theo nhiều cách khác nhau: nông nghiệp
du canh, canh tác du canh, nhưng thường được hiểu là chặt cây- đốt nương-
làm rẫy, thuật ngữ này mang nặng dấu ấn về phá hoại môi trường.
Định nghĩa được dùng nhiều nhất “ Canh tác nương rẫy được coi là
những hệ thống canh tác nông nghiệp trong đó đất được phát quang để canh
tác trong một thời gian ngắn hơn thời gian bỏ hóa” (Conklin, 1957) [6].
Ở Việt Nam, canh tác nương rẫy là một tập quán lâu đời của người dân,
kỹ thuật canh tác đơn giản phù hợp với khả năng của người dân bản địa và
đáp ứng được nhu cầu tại chỗ cho người dân. Canh tác nương rẫy là nguyên
nhân chính gây suy giảm tài nguyên rừng. Theo FAO ước tính, nguyên nhân
mất rừng do canh tác nương rẫy hàng năm xấp xỉ 50%.
* Canh tác sau nương rẫy
Canh tác sau nương rẫy là canh tác trên diện tích đất nương rẫy trước
đây được bỏ hóa và đang trong quá trình phục hồi
* Phục hồi sau canh tác nương rẫy
Là quá trình phục hồi hệ sinh thái rừng trên đất nương rẫy đã bỏ hóa.
1.2. Các nghiên cứu liên quan trên thế giới và Việt Nam
1.2.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Phục hồi, tái sinh rừng là một trong những nội dung quan trọng của kỹ
thuật lâm sinh. Lịch sử nghiên cứu tái sinh rừng trên thế giới đã trải qua hàng
trăm năm nhưng với rừng nhiệt đới vấn đề này được tiến hành chủ yếu từ
những năm 30 của thế kỷ trước trở lại đây. Nghiên cứu về phục hồi, tái sinh
rừng là những nghiên cứu rất quan trọng làm cơ sở cho các biện pháp kỹ thuật
lâm sinh xây dựng và phát triển rừng, đây là một quá trình sinh học mang tính
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
đặc thù của hệ sinh thái, đảm bảo cho nguồn tài nguyên có khả năng tái sản
xuất mở rộng nếu con người nắm bắt được quy luật tái sinh và điều khiển nó
phục vụ cho kinh doanh rừng. Vì vậy, tái sinh rừng trở thành vấn đề then chốt
trong việc xác định các phương thức kinh doanh rừng. Kết quả nghiên cứu
của các công trình nghiên cứu về tái sinh phục hồi rừng tự nhiên trên thế giới
rất nhiều, chúng tôi nêu một số nghiên cứu và được tóm tắt như sau:
1.2.1.1. Nghiên cứu về đặc điểm tái sinh, phục hồi rừng
Tái sinh (Regeneration) là một thuật ngữ chỉ khả năng tự tái tạo, hay sự
hồi sinh từ mức độ tế bào đến một quần lạc sinh vật trong tự nhiên, các tác giả
như Jordan, Peter và Allan (1998) sử dụng thuật ngữ này để diễn tả sự lặp lại
của quần xã sinh vật giống như nó đã xuất hiện trong tự nhiên. Tái sinh rừng
(Forestry regeneration) cũng để mô tả sự tái tạo của lớp cây con dưới tán rừng.
Về đặc điểm tái sinh, theo Van Steenis (1956), đối với rừng nhiệt đới
có hai đặc điểm tái sinh phổ biến là tái sinh phân tán liên tục và tái sinh vệt
(tái sinh lỗ trống). Hai đặc điểm này không chỉ thấy ở rừng nguyên sinh mà
còn thấy ở cả rừng thứ sinh - một đối tượng rừng khá phổ biến ở nhiều nước
nhiệt đới [33].
Theo Aubréville (1938), nghiên cứu tái sinh tự nhiên ở rừng nhiệt đới
Châu Phi, ông cho rằng “Cây con của loài cây ưu thế trong rừng mưa có thể
cực hiếm”. Tổ thành loài cây mẹ ở tầng trên và tổ thành loài cây tái sinh ở
tầng dưới thường khác nhau rất nhiều. Trong khi đó nghiên cứu của Davi, Ri
Sa (1993), Bead (1964) và RôLê (1969) ở rừng nhiệt đới Nam Mỹ nhận định
sự xuất hiện hiện tượng tái sinh tại chỗ và liên tục của các loài cây và tổ thành
loài cây có thể giữ nguyên không đổi trong một thời gian dài [29]. Sự khác
nhau của hai tác giả này có thể lý giải: nơi tác giả quan sát, khi đó rừng chưa
đạt tới giai đoạn ổn định, tổ thành loài cây chưa ổn định về thành phần loài và
ngược lại.
Theo quan điểm của các nhà nghiên cứu thì hiệu quả của tái sinh rừng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
được xác định bởi mật độ, tổ thành loài, cấu trúc tuổi, chất lượng cây con, đặc
điểm phân bố. Sự tương đồng hay khác biệt giữa lớp cây con và tầng cây gỗ
được nhiều nhà khoa học quan tâm như Mibbre-ad (1930), Richards (1952),
Baur G.N (1964) và Rollet (1969) [30].
Theo Van Stennit (1956) thì đặc điểm tái sinh là “tái sinh phân tán, liên
tục”, vì rừng mưa nhiệt đới có tổ thành loài cây phức tạp, khác tuổi nên thời
kỳ tái sinh của quần thể diễn ra quanh năm[33].
1.2.1.2. Nghiên cứu về nhân tố ảnh hưởng đến tái sinh, phục hồi rừng
Các nhân tố ảnh hưởng đến tái sinh được phân tích và chia thành hai nhóm:
Nhóm nhân tố sinh thái ảnh hưởng đến tái sinh và phục hồi rừng không
có sự can thiệp của con người (Baur G. N, 1962; Anden. S (1981)[28]
Theo Aubréville [27], trong các nhóm yếu tố sinh thái phát sinh quần
thể thực vật, nhóm yếu tố khí hậu - thủy văn là nhóm yếu tố chủ đạo, quyết
định hình thái và cấu trúc của các kiểu thảm thực vật. Nhóm khí hậu - thủy
văn gồm các yếu tố quan trọng nhất là nhiệt độ, ánh sáng, lượng mưa, độ ẩm,
chế độ gió,…
Bechse, nhà lâm học người Đức cho rằng “ánh sáng là chiếc đòn bẩy
mà nhà lâm học dùng để điều khiển sự sống của rừng theo hướng có lợi về
kinh tế” (Dẫn theo Bùi Đăng Pho, 2006).
Độ khép tán của quần thụ ảnh hưởng trực tiếp đến mật độ và sức sống
của cây con. Andel.S (1981) chứng minh độ đầy tối ưu cho sự phát triển bình
thường của cây gỗ là 0,6 - 0,7. V.G.Karpov (1969) còn khẳng định “ độ khép
tán của quần thụ ảnh hưởng trực tiếp đến mật độ và sức sống của cây con”.
Ngoài những nhân tố sinh thái, thì trong tái sinh rừng, các nhân tố như : Thảm
tươi, cây bụi, động vật ăn hạt cũng có ảnh hưởng rõ rệt đến tái sinh tự nhiên
(Xannikov (1976), Vipper (1973), Mishra và Sharma (1994).
Khi nghiên cứu phân tích ảnh hưởng của các nhân tố sinh thái đến tái
sinh tự nhiên. Trong đó nhân tố ánh sáng (thông qua độ tàn che của rừng), độ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
ẩm của đất, kết cấu quần thụ, cây bụi, thảm tươi được đề cập thường xuyên.
Baur G.N cho rằng, trong rừng nhiệt đới sự thiếu hụt ánh sáng ảnh hưởng đến
phát triển của cây con còn đối với sự nảy mầm, ảnh hưởng này thường không
rõ ràng [28].
Nhóm nhân tố sinh thái ảnh hưởng đến tái sinh và phục hồi rừng có sự
can thiệp của con người. Các nhà lâm học như: Gorxenhin (1972, 1976);
Bêlốp (1982) đã xây dựng thành công nhiều phương thức tái sinh và phục hồi
rừng nghèo kiệt; đáng chú ý là một số công trình nghiên cứu của Maslacop
E.L (1981) về "phục hồi rừng trên các khu khai thác", Mêlêkhốp I.C (1966)
về "ảnh hưởng của cháy rừng tới quá trình tái sinh phục hồi rừng",
Pabedinxkion (1966) về "phương pháp nghiên cứu quá trình phục hồi rừng".
Myiawaki (1993), Yu cùng các cộng sự (1994), Goosem và Tucker (1995),
Sun và cộng sự (1995), Kooyman (1996) cũng đã đưa ra nhiều hướng tiếp cận
nhằm phục hồi hệ sinh thái rừng đã bị tác động ở vùng nhiệt đới. Kết quả ban
đầu của những nghiên cứu này đã tạo nên những khu rừng có cấu trúc và làm
tăng mức độ đa dạng về loài. Tuy nhiên, hạn chế của chúng là không thể áp
dụng trên quy mô rộng, bởi các yêu cầu về nhân công và các nguồn lực khác
trong quá trình thực hiện (Dẫn theo Phạm Văn Điển, 2006).
1.2.1.3. Nghiên cứu về điều tra, đánh giá tái sinh tự nhiên
Có nhiều phương pháp khác nhau để xác định mật độ cây tái sinh như:
ô dạng bản theo hệ thống với diện tích ô đo đếm điều tra tái sinh từ 1 đến 4
m
2
. Do diện tích ô nhỏ nên việc đo đếm gặp nhiều thuận lợi nhưng số lượng ô
phải đủ lớn và trải đều trên diện tích khu rừng mới phản ánh trung thực tình
hình tái sinh rừng.
Richards P.W (1952) đã tổng kết việc nghiên cứu tái sinh trên các ô
dạng bản và phân bố tái sinh tự nhiên ở rừng nhiệt đới. Để giảm sai số trong
khi thống kê tái sinh tự nhiên, Barnard (1955) đã đề nghị một phương pháp
"điều tra chẩn đoán" mà theo đó kích thước ô đo đếm có thể thay đổi tuỳ theo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
giai đoạn phát triển của cây tái sinh ở các trạng thái rừng khác nhau. Richards
P.W (1952) và Barnard (1974) tổng kết các kết quả nghiên cứu về tái sinh tự
nhiên đã nhận xét: Trong các ô kích thước nhỏ có phân bố dạng cụm, một số
ít phân bố Poison [31]
Ở Châu Phi trên cơ sở các dữ liệu thu thập Taylor (1954), Barnard
(1955) xác định cây tái sinh trong rừng nhiệt đới thiếu hụt cần thiết phải bổ
sung bằng trồng rừng nhân tạo, ngược lại một số tác giả nghiên cứu tái sinh tự
nhiên rừng nhiệt đới châu Á như Bara (1954), Budowski (1956), có nhận
định, dưới tán rừng nhiệt đới nhìn chung có đủ lượng cây tái sinh có giá trị
kinh tế, nên việc đề xuất các biện pháp lâm sinh để bảo vệ lớp cây tái sinh
dưới tán rừng là rất cần thiết. Nhờ những nghiên cứu này nhiều biện pháp tác
động vào lớp cây tái sinh đã được xây dựng và đem lại hiệu quả đáng kể (dẫn
theo Nguyễn Duy Chuyên, 1995).
1.2.1.4. Phương thức lâm sinh liên quan đến tái sinh phục hồi rừng
Vấn đề tái sinh rừng nhiệt đới được thảo luận nhiều nhất là hiệu quả
của các phương thức xử lý lâm sinh liên quan đến tái sinh của các loài cây
mục đích ở các kiểu rừng. Từ kết quả nghiên cứu kiểu tái sinh các nhà lâm
sinh học đã xây dựng thành công nhiều phương thức chặt tái sinh như: Công
trình của Bernard (1954, 1959), Wyatt Smith (1961, 1963) với phương thức
kinh doanh rừng đều tuổi ở Mã Lai; Nicholson (1958) ở Bắc Borneo; Taylor
(1954), Jones (1960) phương thức chặt dần tái sinh dưới tán ở Nijêria và
Gana; Barnarji (1959) với phương thức chặt dần nâng cao vòm lá ở
Andamann; Donis và Maudouz (1951, 1954) với phương thức đồng nhất hóa
tầng trên ở Java [32].
Các phương thức lâm sinh cho phục hồi và phát triển rừng tự nhiên có
hai dạng chính: (i) Duy trì cấu trúc rừng tự nhiên không đều tuổi bằng cách
lợi dụng lớp thảm thực vật tự nhiên hiện có và sự thuận lợi về điều kiện tự
nhiên để thực hiện tái sinh tự nhiên, xúc tiến tái sinh tự nhiên, hoặc trồng bổ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
sung. Ngoài ra còn có thể sử dụng phương thức chặt chọn từng cây hay từng
đám, phương thức cải thiện quần thể và chặt nuôi dưỡng rừng tự nhiên để dẫn
dắt rừng có cấu trúc gần với cấu trúc của rừng tự nhiên nguyên sinh. (ii)- Tác
động rừng theo hướng đều tuổi, có một hoặc một số loài cây bằng phương
thức chủ yếu là cải biến tổ thành rừng tự nhiên, tạo lập rừng đều tuổi bằng tái
sinh tự nhiên đều tuổi, như các phương thức chặt dần tái sinh dưới tán rừng
nhiệt đới; phương thức cải tạo rừng bằng chặt trắng trồng lại; phương thức
trồng rừng kết hợp với nông nghiệp (Taungya).
1.2.1.5. Những tồn tại trong nghiên cứu
Nghiên cứu ở các nước trên thế giới cho thấy, vì còn thiếu những nghiên
cứu cụ thể về tái sinh cho từng trạng thái thực vật khác nhau, ở vị trí địa lý
khác nhau mà những biện pháp kỹ thuật lâm sinh thường không được áp dụng
hoặc được áp dụng một cách hình thức và không đạt được hiệu quả như mong
muốn. Bên cạnh đó, các yếu tố về kinh tế - xã hội nhạy cảm nhất với các giải
pháp phục hồi rừng thường liên quan đến chính sách về quyền sở hữu và sử
dụng rừng, chia sẻ lợi ích từ rừng, thuế tài nguyên, sự tham gia của cộng đồng
trong quản lý rừng, vì vậy, trong một số trường hợp, người ta đã coi trọng
những giải pháp kinh tế - xã hội hơn là các nghiên cứu về đặc điểm tự nhiên
của thực vật
1.2.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam
Ở Việt Nam, tái sinh rừng đã đươc quan tâm nghiên cứu từ những thập
kỷ 60 của thế kỷ trước. Kết quả nghiên cứu có thể tóm tắt như sau:
1.2.2.1. Nghiên cứu về đặc điểm tái sinh, phục hồi rừng
Các kết quả nghiên cứu được Nguyễn Vạn Thường (1991) tổng kết về
tình hình tái sinh tự nhiên của một số khu rừng ở miền Bắc Việt Nam; hiện
tượng tái sinh dưới tán rừng của một số loài cây gỗ đã tiếp diễn liên tục,
không mang tính chu kỳ, sự phân bố số cây tái sinh không đều tuổi, số cây mạ
có chiều cao < 20 cm chiếm ưu thế rõ rệt so với lớp cây ở cấp kích thước khác
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
nhau. Những loại cây gỗ mềm, ưa sáng mọc nhanh có khuynh hướng phát
triển mạnh và chiếm ưu thế trong lớp cây tái sinh. Những loại cây gỗ cứng,
sinh trưởng chậm chiếm tỷ lệ thấp và phân bố tản mạn [22].
Nguyễn Văn Trương (1983) đã nghiên cứu mối quan hệ giữa lớp cây tái
sinh với tầng cây gỗ và quy luật đào thải tự nhiên dưới tán rừng. Ông nhận xét:
cần phải thay đổi cách khai thác rừng cho hợp lý vừa cung cấp được gỗ, vừa
nuôi dưỡng và tái sinh được rừng. Muốn đảm bảo cho rừng phát triển liên tục
trong điều kiện quy luật đào thải tự nhiên hoạt động thì rõ ràng là số lượng lớp
cây dưới phải nhiều hơn lớp cây kế tiếp nó ở phía trên. Điều kiện này không
thực hiện được trong rừng tự nhiên ổn định mà chỉ có trong rừng chuẩn có hiện
tượng tái sinh liên tục đã được sự điều tiết khéo léo của con người [26].
Vũ Tiến Hinh (1991), nghiên cứu đặc điểm quá trình tái sinh của rừng tự
nhiên ở Hữu Lũng (Lạng Sơn) và vùng Ba Chẽ (Quảng Ninh) đã nhận xét: hệ
số tổ thành tính theo % số cây của tầng tái sinh và tầng cây cao có liên hệ chặt
chẽ. Đa phần các loài có hệ số tổ thành tầng cây cao càng lớn thì hệ số tổ
thành tầng tái sinh cũng vậy [8].
Lê Đồng Tấn - Đỗ Hữu Thư (1995) nghiên cứu thảm thực vật tái sinh
trên đất sau nương rẫy tại Sơn La qua 3 giai đoạn phát triển: giai đoạn I (tuổi
từ 4 đến 5), giai đoạn II (tuổi 9 đến 10), giai đoạn III (tuổi 14 đến 15) và nhận
xét: Trong 15 năm đầu, thảm thực vật tái sinh trên đất sau nương rẫy có số
lượng loài đều tăng lên qua các giai đoạn phát triển. Sau 3 giai đoạn phát triển
thảm thực vật tái sinh trên đất sau nương rẫy thể hiện một quá trình thay thế
tổ thành rất rõ ràng, lượng tăng trưởng của thảm thực vật không cao [18].
Căn cứ vào nguồn giống, người ta phân chia ra 3 mức độ tái sinh: (i) tái
sinh nhân tạo, (ii) tái sinh bán nhân tạo (xúc tiến TSTN), (iii) tái sinh tự
nhiên. Theo Phùng Ngọc Lan (1986) [7], biểu hiện đặc trưng của tái sinh rừng
là sự xuất hiện một thế hệ cây của những loài cây ở những nơi còn hoàn cảnh
rừng, còn Trần Xuân Thiệp (1995) cho rằng, nếu thành phần cây tái sinh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12
giống như thành phần cây đứng thì đó là quá trình thay thế một thế hệ cây này
bằng thế hệ cây khác [20].
Như vây, đặc điểm cơ bản của quá trình này là lớp cây con đều có
nguồn gốc từ hạt và chồi sẵn có, kể cả trong trường hợp tái sinh nhân tạo.
1.2.2.2. Nghiên cứu về nhân tố ảnh hưởng đến tái sinh, phục hồi rừng
Theo Thái Văn Trừng (1978) đã xây dựng quan niệm “Sinh thái phát
sinh quần thể ” trong thảm thực vật rừng nhiệt đới và vận dụng để xây dựng
biểu phân loại thảm thực vật rừng Việt Nam. Theo tác giả một công trình
nghiên cứu về thảm thực vật mà không đề cập đến hoàn cảnh thì đó là một
công trình hình thức, không có lợi ích thực tiễn. Trong các nhân tố sinh thái
thì ánh sáng là nhân tố quan trọng khống chế và điều khiển quá trình TSTN cả
ở rừng nguyên sinh và rừng thứ sinh [25]
Nếu các điều kiện khác của môi trường như đất rừng, nhiệt độ, độ ẩm
dưới tán rừng chưa thay đổi thì tổ hợp các loài cây tái sinh không có những
biến đổi lớn và cũng không diễn thế một cách tuần hoàn trong không gian và
theo thời gian mà diễn thế theo những phương thức tái sinh có qui luật nhân
quả giữa sinh vật và môi trường.
Một số tác giả trong nước đã nghiên cứu về mối quan hệ giữa địa hình
và khả năng tái sinh tự nhiên của thực vật: Ngô Quang Đê, Lê Văn Toán,
Phạm Xuân Hoàn (1994) nghiên cứu mật độ cá thể và số lượng loài cây phục
hồi sau nương rẫy bỏ hóa tại Con Cuông - Nghệ An; Lâm Phúc Cố (1996)
nghiên cứu ở Púng Luông - Yên Bái; Phùng Tửu Bôi - Trần Xuân Thiệp
(1997) nghiên cứu ở vùng Bắc Trung Bộ.
Mặt khác, theo Thái Văn Trừng [25] một kiểu thảm thực vật có xuất
hiện hay không trước hết phụ thuộc vào khu hệ thực vật ở đó và điều kiện khí
hậu thổ nhưỡng thích hợp. Việc tái sinh phục hồi lại rừng trên đất chưa có
rừng ngoài việc bị chi phối bởi khu hệ thực vật thì nó còn chịu ảnh hưởng bởi
khoảng cách từ nơi đó đến các khu rừng lân cận. Thực vật có khả năng tự phát
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
13
tán để gieo giống hoặc gieo giống nhờ gió, nhờ nước, nhờ động vật. Tuy vậy,
phạm vi phát tán để gieo giống của bất kỳ cách thức nào cũng không phải là
vô hạn, nên khoảng cách càng xa thì khả năng tái sinh của thực vật càng kém
vì càng xa thì mật độ hạt giống đưa đến càng thấp. Phạm Ngọc Thường
(2001) [23]đã nghiên cứu mối liên quan giữa khoảng cách từ nguồn giống tự
nhiên đến khu vực tái sinh trên đất sau canh tác nương rẫy và kết luận:
“khoảng cách từ nơi tái sinh đến nguồn cung cấp giống càng xa thì mật độ và
số loài cây tái sinh càng thấp”.
Đinh Quang Diệp (1993) nghiên cứu tái sinh tự nhiên ở rừng khộp vùng
Easup, Đắc Lắc kết luận: độ tàn che của rừng, thảm mục, độ dầy của thảm tươi,
điều kiện lập địa, lửa rừng là những nhân tố có ảnh hưởng lớn đến số lượng và
chất lượng cây con tái sinh dưới tán rừng, trong đó lửa rừng là nguyên nhân
gây nên hiện tượng cây chồi. Về quy luật phân bố cây trên bề mặt đất, tác giả
nhận định khi tăng diện tích lên thì lớp cây tái sinh có phân bố cụm.
Trần Ngũ Phương (1970), khi nghiên cứu về kiểu rừng nhiệt đới mưa
mùa lá rộng thường xanh đã có nhận xét: “Rừng tự nhiên dưới tác động của
con người khai thác hoặc làm nương rẫy, lặp đi lặp lại nhiều lần thì kết quả
cuối cùng là sự hình thành đất trống, đồi núi trọc. Nếu chúng ta để thảm thực
vật hoang dã tự nó phát triển lại thì sau một thời gian dài trảng cây bụi, trảng
cỏ sẽ chuyển dần lên những dạng thực bì cao hơn thông qua quá trình tái sinh
tự nhiên và cuối cùng rừng khí hậu sẽ có thể phục hồi dưới dạng gần giống
rừng khí hậu ban đầu”[15].
Trần Ngũ Phương (2000), khi nghiên cứu các quy luật phát triển rừng tự
nhiên miền Bắc Việt Nam đã nhấn mạnh quá trình diễn thế thứ sinh của rừng
tự nhiên như sau: “Trường hợp rừng tự nhiên có nhiều tầng khi tầng trên già
cỗi, tàn lụi rồi tiêu vong thì tầng kế tiếp sẽ thay thế; trường hợp nếu chỉ có
một tầng thì trong khi nó già cỗi một lớp cây con tái sinh xuất hiện và sẽ thay
thế nó sau khi nó tiêu vong, hoặc cũng có thể một thảm thực vật trung gian
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
14
xuất hiện thay thế, nhưng về sau dưới lớp thảm thực vật trung gian này sẽ
xuất hiện một lớp cây con tái sinh lại rừng cũ trong tương lai và sẽ thay thế
thảm thực vật trung gian này, lúc bấy giờ rừng cũ sẽ được phục hồi” [16].
Nghiên cứu sự biến động về mật độ và tổ thành loài tái sinh trong các
trạng thái thực bì ở tỉnh Quảng Ninh, Nguyễn Thế Hưng (2003), nhận xét
trong lớp cây tái sinh tự nhiên ở rừng non phục hồi thành phần loài cây ưa
sáng cực đoan giảm nhường chỗ cho nhiều loài cây ưa sáng sống định cư và
có đời sống dài chiếm tỉ lệ lớn, thậm chí trong tổ thành cây tái sinh đã xuất
hiện một số loài chịu bóng sống dưới tán rừng như Bứa, Ngát. Sự có mặt với
tần số khá cao của một số loài ưa sáng định cư và một số loài chịu bóng là
dấu hiệu chuyển biến tích cực của diễn thế rừng. Tác giả kết luận khả năng tái
sinh tự nhiên của các trạng thái thực vật có liên quan nhiều đến độ che phủ,
mức độ thoái hoá của thảm thực vật, phương thức tác động của con người và
tổ thành loài trong quần xã. Quảng Ninh rừng thứ sinh có mức độ tái sinh
trung bình với các loài khá phong phú. Những dạng thảm mới phục hồi hoặc
ở mức độ thái hoá chưa cao có khả năng tái sinh tự nhiên rất tốt bằng các hình
thức tái sinh phong phú. Tuy nhiên, cây có triển vọng thuộc nhóm loài ưa
sáng còn chiếm tỉ lệ cao trong các quần xã này.
Tìm hiểu đặc điểm quá trình tái sinh, diễn thế tự nhiên của thảm thực
vật cây gỗ trên đất bỏ hoá sau canh tác nương rẫy ở Bắc Kạn. Tác giả Phạm
Ngọc Thường (2003) cho rằng: Tổ thành cây gỗ phụ thuộc vào mức độ thoái
hoá đất. Phân bố số cây tái sinh theo cấp chiều cao có dạng một đỉnh, từ giai
đoạn II (3-6 năm), đến giai đoạn V (12-15 năm) được mô tả bởi phân bố
Weibull. Phân bố số cây theo mặt phẳng ngang dưới 7 năm là phân bố cụm,
từ 7-15 năm là phân bố ngẫu nhiên và có xu hướng tiến dần đến phân bố đều.
Mật độ tái sinh giảm dần theo thời gian phục hồi. Từ kết quả trên tác giả cho
biết nếu sau nương rẫy thảm thực vật tái sinh không bị phá hoại thì rừng thứ
sinh được phục hồi thông qua con đường tái sinh tự nhiên là thuận lợi. Tuy
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
15
nhiên, do tổ thành loài đơn giản nên trong điều kiện cho phép cần xúc tiến tái
sinh tự nhiên bằng biện pháp tra dặm hạt giống, phát dây leo bụi rậm, kết hợp
trồng bổ sung cây có giá trị kinh tế để nâng cao năng suất chất lượng rừng [24].
1.2.2.3. Nghiên cứu về điều tra, đánh giá tái sinh tự nhiên
Từ năm 1962 - 1967 Cục điều tra quy hoạch rừng (nay là Viện Điều tra
quy hoạch rừng) đã điều tra tái sinh tự nhiên trên một số vùng thuộc tỉnh
Quảng Bình, Hà Tĩnh, Nghệ An, Yên Bái và Quảng Ninh với sự tư vấn của
chuyên gia Hà Cự Trung - Trung Quốc. Phương pháp tiến hành là điều tra
khu tiêu chuẩn điển hình của các trạng thái rừng, trên cơ sở sử dụng ô điều tra
2.000m
2
diện tích đo đếm tái sinh 100 - 125m
2
kết hợp với điều tra theo
tuyến. Dựa vào các tài liệu đã thu thập ngoài rừng, các tác giả tiến hành phân
tích, tính toán những chỉ tiêu cây đứng và cây tái sinh, phân chia các loại hình
thực vật rừng và dựa trên cơ sở đó nhận xét thực trạng rừng, đánh giá tình
hình TSTN và đề xuất biện pháp kinh doanh [3].
Trong thời gian từ năm 1962 đến năm 1969, Viện Điều tra - Quy hoạch
rừng đã điều tra tái sinh tự nhiên theo các "loại hình thực vật ưu thế" rừng thứ
sinh ở Yên Bái (1965), Hà Tĩnh (1966), Quảng Bình (1969) và Lạng Sơn
(1969). Đáng chú ý là kết quả điều tra tái sinh tự nhiên ở vùng sông Hiếu
(1962-1964) bằng phương pháp đo đếm điển hình. Từ kết quả điều tra tái
sinh, dựa vào mật độ cây tái sinh, Vũ Đình Huề (1969) đã phân chia khả năng
tái sinh rừng thành 5 cấp, rất tốt, tốt, trung bình, xấu và rất xấu. Nhìn chung
nghiên cứu này mới chỉ chú trọng đến số lượng mà chưa đề cập đến chất
lượng cây tái sinh. Cũng từ kết quả điều tra trên, Vũ Đình Huề (1975) đã tổng
kết và rút ra nhận xét, tái sinh tự nhiên rừng miền Bắc Việt Nam mang những
đặc điểm tái sinh của rừng nhiệt đới. Dưới tán rừng nguyên sinh, tổ thành loài
cây tái sinh tương tự như tầng cây gỗ; dưới tán rừng thứ sinh tồn tại nhiều loài
cây gỗ mềm kém giá trị và hiện tượng tái sinh theo đám được thể hiện rõ nét
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
16
tạo nên sự phân bố số cây không đồng đều trên mặt đất rừng. Với những kết
quả đó, tác giả đã xây dựng biểu đánh giá tái sinh áp dụng cho các đối tượng
rừng lá rộng, miền Bắc nước ta.
Lê Đồng Tấn (1993-1999), nghiên cứu quá trình phục hồi tự nhiên một
số quần xã thực vật sau nương rẫy tại Sơn La theo phương pháp kết hợp điều
tra ô tiêu chuẩn 400m
2
cho các đối tượng là thảm thực vật phục hồi sau nương
rẫy và theo dõi ô định vị 2000m
2
. Tác giả kết luận: mật độ cây tái sinh giảm
dần từ chân đồi lên đỉnh đồi. Tổ hợp loài cây ưu thế trên ba vị trí địa hình và 3
cấp độ dốc là giống nhau. Sự khác nhau chính là hệ số tổ thành các loài trong
tổ hợp đó [19].
Đánh giá vai trò tái sinh và phục hồi rừng tự nhiên ở các vùng miền Bắc,
Trần Xuân Thiệp (1995) [21] nghiên cứu tập trung vào sự biến đổi về lượng,
chất lượng của tái sinh tự nhiên và rừng phục hồi. Qua đó, tác giả kết luận:
Rừng phục hồi vùng Đông Bắc chiếm trên 30% diện tích rừng hiện có, lớn
nhất so với các vùng khác. Khả năng phục hồi hình thành các rừng vườn,
trang trại rừng đang phát triển ở các tỉnh trong vùng. Rừng Tây Bắc phần lớn
diện tích rừng phục hồi sau nương rẫy, diễn thế rừng ở nhiều vùng xuất hiện
nhóm cây ưa sáng chịu hạn hoặc rụng lá, kích thước nhỏ và nhỡ là chủ yếu và
nhóm cây lá kim rất khó tái sinh phục hồi trở lại do thiếu lớp cây mẹ
Đỗ Thị Ngọc Lệ (2009), thử nghiệm một số phương pháp điều tra tái
sinh rừng tự nhiên. Kết quả nghiên cứu cho thấy, các phương pháp điều tra tái
sinh khác nhau sẽ thu được những số liệu biểu thị tái sinh khác nhau về tổ
thành, mật độ, nguồn gốc, chất lượng và hình thái phân bố cây tái sinh. Căn
cứ vào sai số giữa các chỉ tiêu biểu thị tái sinh ở các phương pháp điều tra với
phương pháp điều tra toàn diện trên 6 ô tiêu chuẩn có diện tích 1000m
2
, tác
giả đã lựa chọn được hai phương pháp phù hợp là phương pháp điều tra 5 ô
dạng bản với diện tích mỗi ô là 25m
2
(5x5m) và phương pháp điều tra theo
dải để điều tra tái sinh rừng tự nhiên [10].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
17
1.2.2.4. Nghiên cứu về giải pháp về tái sinh phục hồi rừng
Các nghiên cứu liên quan đến phục hồi rừng tự nhiên ở Việt Nam đã được
bắt đầu từ những năm 1960, các đề tài nghiên cứu về phân loại rừng, nghiên cứu
cấu trúc, động thái, các kỹ thuật khai thác bảo đảm tái sinh, kỹ thuật làm giàu
rừng, với các hệ sinh thái rừng đặc trưng của Việt Nam. Trong giai đoạn 1991 -
2000, các nghiên cứu về rừng tự nhiên hầu như bị gián đoạn để tập trung cho
nghiên cứu trồng rừng, bắt đầu từ năm 2001 trở lại đây, các nghiên cứu về rừng tự
nhiên mới được khởi động trở lại.
Trong một công trình nghiên cứu về cấu trúc, tăng trưởng trữ lượng và tái
sinh tự nhiên rừng thường xanh lá rộng hỗn loài ở ba vùng kinh tế (sông Hiếu,
Yên Bái và Lạng Sơn), Nguyễn Duy Chuyên (1988) đã khái quát đặc điểm phân
bố của nhiều loài cây có giá trị kinh doanh và biểu diễn bằng các hàm lý thuyết.
Từ đó làm cơ sở định hướng các giai pháp lâm sinh cho các vùng sản xuất nguyên
liệu. Tiếp theo, sự ra đời của thuật ngữ phục hồi rừng bằng “khoanh nuôi xúc
tiến tái sinh” những năm 1990 được coi như một bước tiến vượt bậc về mặt
khoa học trong phục hồi rừng khi hàng loạt công trình nghiên cứu về lĩnh vực
này được triển khai và tập trung theo hai hướng chủ yếu [4]:
Tập trung nghiên cứu các vấn đề cơ bản của quá trình phục hồi rừng
tự nhiên. Điển hình trong số đó là các đề tài của Viện Sinh thái và tài nguyên
sinh vật, (1992, 1994), Trường Đại học Lâm nghiệp (1993), Đỗ Hữu Thư
cùng các cộng sự (1994), Viện Điều tra quy hoạch rừng (1991-1995).
Tập trung nghiên cứu triển khai bao gồm việc phân loại đối tượng, đề
xuất các biện pháp cũng như các quy trình kỹ thuật nhằm phục hồi rừng bằng
khoanh nuôi; điển hình trong số đó là hai đề tài nghiên cứu cấp Nhà nước
thuộc Chương trình lâm nghiệp tổng hợp, mã số 04.01, giai đoạn 1986-1990
và Chương trình khôi phục và phát triển rừng, giai đoạn 1991-1995. Một số
nghiên cứu điển hình khác của Trung tâm Khoa học sản xuất lâm nghiệp Tây
Bắc (1992), Trần Đình Đại (1990), Trần Đình Lý (1995), Viện ĐTQHR
(1998), Phạm Ngọc Thường (2001-2003), v.v [12][23][24]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên