Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

Nghiên cứu khả năng sinh trưởng, phát triển của các tổ hợp lúa lai F1 tạo ra từ dòng mẹ bất dục đực TGMS 103S, TGMS 135S

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.43 MB, 78 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM



NGUYỄ N NHƢ TRANG





NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG SINH TRƢỞNG,
PHÁT TRIỂN CỦA CÁC TỔ HỢP LÚA LAI F1
TẠO RA TỪ DÒNG MẸ BẤT DỤC ĐỰC
TGMS 103S, TGMS 135S


Chuyên ngành: Khoa học cây trồng
Mã số: 62 62 01 10


LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP


Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS ĐẶ NG QUÝ NHÂN




THÁI NGUYÊN, NĂM 2012


i
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn
này là hoàn toàn trung thực, chưa hề sử dụng cho bảo vệ một học vị nào. Mọi
sự giúp đỡ cho hoàn thành luận văn đều đã được cảm ơn. Các thông tin, tài
liệu trình bày trong luận văn này đã được ghi rõ nguồn gốc.

Tác giả



Nguyễ n Nhƣ Trang



ii
LỜI CẢM ƠN

Trong thời gian thực tập và thực hiện đề tài này, tôi đã nhận được sự
quan tâm, giúp đỡ của Ban Giám hiệu Trường Đại học Nông Lâm Thái
Nguyên, Khoa Sau đại học , Khoa Nông học , Trung tâm thự c hà nh thự c
nghiệ m, các thầy giáo, cô giáo, bạn bè, đồng nghiệp và gia đình.
Nhân dịp này tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới:
1. TS. Đng Qu Nhân , Giảng viên Trường đại học Nông Lâm Thái
Nguyên đã tận tình giúp đỡ tôi trong quá trình hoàn thành luận văn này.
2. Ban Giám hiệu, Khoa Sau đại học, Khoa Nông học và các thầy
giáo, cô giáo giảng dạy chuyên ngành Trường Đại học Nông Lâm, Đại học
Thái Nguyên đã tạo điều kiện và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập.
3. Các bạn sinh viên lớp 44A Trồ ng trọ t, cùng bạn bè đồng nghiệp và

người thân đã quan tâm giúp đỡ, tạo điều kiện và động viên tôi trong suốt
quá trình học tập và thực hiện đề tài.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!
Tác giả


Nguyễ n Nhƣ Trang

iii
MỤC LỤC

Trang phụ bìa
Lời cam đoan i
Lời cảm ơn ii
Mục lục iii
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng vi
Danh mục các hình vii
MỞ ĐẦU 1
1. Đt vấn đề 1
2. Mục tiêu của đề tài 2
3. Yêu cầu của đề tài 3
4. Ý nghĩa của đề tài 3
Chƣơng 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 4
1.1. Cơ sở khoa học của đề tài 4
1.2. Tình hình sản xuất lúa gạo trên thế giới và ở Việt Nam 5
1.2.1. Tình hình sản xuất lúa gạo trên thế giới 5
1.2.2. Tình hình sản xuất lúa ở Việt Nam 8
1.3. Lịch sử phát hiện và nghiên cứu ưu thế lai trên cây lúa 10
1.4. Cơ sở khoa học của công nghệ sản xuất lúa lai 12

1.4.1. Lúa lai hệ ba dòng 12
1.4.2. Lúa lai hệ hai dòng 14
1.4.3. Ưu điểm của lúa lai hệ hai dòng 14
1.5. Hiện trạng sản xuất lúa lai trên thế giới và ở Việt Nam 15
1.5.1. Sản xuất lúa lai trên thế giới 15
1.5.2. Sản xuất lúa lai ở Việt Nam 16

iv
1.6. Nghiên cứu, phát triển lúa lai trên thế giới và Việt Nam 19
1.6.1. Nghiên cứu, phát triển lúa lai trên thế giới 19
1.6.2. Nghiên cứu, phát triển lúa lai ở Việt Nam 23
1.7. Một số tổ hợp lúa lai đang trồng phổ biến ở Việt Nam 25
1.8. Những trở ngại chính trong sản xuất lúa lai tại Việt Nam 26
1.9. Triển vọng, định hướng phát triển lúa lai Việt Nam 27
Chƣơng 2. NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 29
2.1. Đối tượng và địa điểm nghiên cứu 29
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu 29
2.1.2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu 29
2.2. Nội dung nghiên cứu và các chỉ tiêu theo dõi 30
2.2.1. Nội dung nghiên cứu 30
2.2.2. Các chỉ tiêu theo dõi 30
2.3. Phương pháp nghiên cứu 31
2.3.1. Thí nghiệm 1: Đánh giá đc điểm nông học cho các dòng bố mẹ
trong vụ mùa 2011 tại Trường ĐH Nông Lâm Thái Nguyên 31
2.3.2. Thí nghiệm 2: Đánh giá các đc điểm nông sinh học cho các tổ hợp
lúa lai hai dòng thế hệ F1 mới lai tạo được trong vụ xuân 2012 34
2.3.3. Phương pháp xử l số liệu 40
3.1. Tình hình sinh trưởng, phát triển của các dòng, giống tham gia
thí nghiệm 41
3.1.1. Thời gian sinh trưởng của các giống thí nghiệm 41

3.1.2. Khả năng đẻ nhánh, ra lá và sự phát triển chiều cao 43
3.1.3. Kích thước bộ lá đòng 46
3.1.4. Khả năng chống chịu sâu bệnh của các giống lúa thí nghiệm 47
3.1.5. Các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất lúa 49

v
3.2. Lai tạo các tổ hợp F1-103s và F1-135S 51
3.2.1. Lựa chọn các tổ hợp lai tạo thế hệ F1 51
3.3. Đánh giá sinh trưởng, phát triển của các tổ hợp lai F1 53
3.3.1. Thời gian sinh trưởng của các tổ hợp lai F1 53
3.3.2. Đánh giá sinh trưởng thân lá của các tổ hợp lai F1 55
3.3.3. Đc điểm bộ lá đòng của các tổ hợp lai F1mới lai tạo 59
3.3.4. Năng suất và các yếu tố cấu thành năng suất của các tổ hợp lai F1
mới lai tạo 61
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 65
1. Kết luận 65
1.1. Đánh giá sinh trưởng phát triển của nguồn vật liệu khởi đầu sử
dụng làm bố mẹ 65
1.2. Lựa chọn các tổ hợp lai F1-103S và F1-135S 65
1.3. Đánh giá sinh trưởng, phát triển cho các tổ hợp lai F1 mới lai tạo 65
2. Đề nghị 66
TÀI LIỆU THAM KHẢO 67
I. Tài liệu tiếng Việt 67
II. Tài liệu tiếng Anh 69
III. Tài liệu từ Internet 70


vi
DANH MỤC CÁC BẢNG


Bảng 1.1. Diện tích, năng suất và sản lượng lúa của 10 nước có sản
lượng lúa hàng đầu thế giới năm 2010 6
Bảng 1.2. Diện tích, năng suất và sản lượng lúa của Việt Nam giai
đoạn từ năm 2000 đến năm 2010 9
Bảng 1.3. Diện tích lúa lai thương phẩm ở Việt Nam giai đoạn 1998 - 2010 18
Bảng 1.4. Diện tích, năng suất và sản lượng hạt F1 sản xuất tại Việt
Nam thời kỳ 1998 - 2010 19
Bảng 1.5. Một số tổ hợp lúa lai F1 đang trồng phổ biến ở Việt Nam 25
Bảng 2.1. Dòng, giống lúa tham gia thí nghiệm 29
Bảng 2.2. Các tổ hợp lai giữa TGMS 103S, 135S và các dòng bố 30
Bảng 3.1. Thời gian sinh trưởng của các giống lúa tham gia thí nghiệm 42
Bảng 3.2. Một số đc điểm nông học của các giống lúa tham gia thí nghiệm 44
Bảng 3.3. Đc điểm bộ lá đòng của các giống lúa tham gia thí nghiệm 47
Bảng 3.4. Khả năng kháng một số sâu bệnh chính của các giống lúa
tham gia thí nghiệm 48
Bảng 3.5. Các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất của các giống
lúa tham gia thí nghiệm 50
Bảng 3.6. Các tổ hợp lai tạo thế hệ F1 và số hạt lai F1 thu được 52
Bảng 3.7. Thời gian sinh trưởng của các dòng tổ hợp lai F1 - 103S 53
Bảng 3.8. Thời gian sinh trưởng của các dòng tổ hợp lai F1 - 135S 54
Bảng 3.9. Một số đc điểm nông học của các dòng tổ hợp lai F1 - 103S 55
Bảng 3.10. Một số đc điểm nông học của các dòng tổ hợp lai F1 - 135S 56
Bảng 3.11. Đc điểm bộ lá đòng các tổ hợp lai F1 - 103S 60
Bảng 3.12. Đc điểm bộ lá đòng các tổ hợp lai F1 - 135S 60
Bảng 3.13. Các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất các tổ hợp lai
F1-103S 62
Bảng 3.14. Các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất các tổ hợp lai
F1-135S 63

vii

DANH MỤC CÁC BẢNG


Hình 1. Động thái tăng trưởng chiều cao của các dòng F1-103S và
bố mẹ 57
Hình 2. Động thái tăng trưởng chiều cao của các dòng F1-135S và
bố mẹ 57
Hình 3. Động thái ra lá của các dòng F1-103S và bố mẹ 58
Hình 4. Động thái ra lá của các dòng F1-135S và bố mẹ 58
Hình 5. Động thái đẻ nhánh của các dòng F1 - 103S và bố mẹ 58
Hình 6. Động thái đẻ nhánh của các dòng F1 - 135S và bố mẹ 59

1
MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Lúa (Oryza sativa L.) là một trong những cây lương thực có vị trí quan
trọng hàng đầu trên thế giới và là nguồn thức ăn thường xuyên cho khoảng 3
tỷ người trên trái đất. Lúa có khả năng thích nghi rộng nên được trồng nhiều
nơi trên thế giới, tuy nhiên tập trung chủ yếu ở châu Á chiếm 90% (còn lại
phân bố ở châu Phi, châu Mỹ và châu Úc) trong đó khoảng 75% diện tích lúa
được trồng trong điều kiện ruộng ngập nước, 19% diện tích lúa trồng trong
điều kiện ruộng thấp nhờ nước trời, và khoảng 4% diện tích lúa trồng trong
điều kiện ruộng cạn không chủ động nước. Lúa gạo là một trong ba loại cây
lương thực hàng đầu, cung cấp tới 23% năng lượng, 16% protein dạng dễ tiêu
cho con người, ngoài ra nó còn cung cấp các chất khoáng và các vitamin cũng
như các hydratcacbon.
Ở Việt Nam diện tích canh tác lúa khoảng 4,36 triệu ha, trong đó có 2,2
triệu ha là đất thâm canh, chủ động tưới tiêu nước, còn lại hơn 2,1 triệu ha là
đất canh tác lúa trong điều kiện khó khăn. Trong 2,1 triệu ha có khoảng 0,5
triệu ha lúa cạn, khoảng 0,8 triệu ha nếu mưa to và tập trung hay bị ngập úng

và còn lại khoảng 0,8 triệu ha là đất bấp bênh nước (Vũ Tuyên Hoàng, 1995).
Theo số liệu thống kê (năm 2002), trong những năm gần đây diện tích gieo
trồng lúa hàng năm có khoảng 7,3 - 7,5 triệu ha, thì có tới 1,5 - 1,8 triệu ha
thường bị thiếu nước và có từ 1,5 - 2,0 triệu ha cần phải có sự đầu tư để chống
úng khi gp mưa to và tập trung. Trong điều kiện ít mưa, thiếu nước tưới sẽ
kéo theo sự bốc mn và phèn ở những vùng ven biển [T]. Lúa vùng cạn đạt
năng suất rất thấp, từ 10 - 18 tạ/ha. Ở những vùng đất cạn, khó khăn về nước
tưới, thường sử dụng các giống lúa địa phương, có năng suất thấp, thời gian
sinh trưởng dài, nhưng có khả năng chịu hạn tốt và chất lượng gạo ngon. Đối
với những vùng bấp bênh về nước, thì ngoài các giống lúa địa phương còn sử

2
dụng một số giống lúa thâm canh, nhưng khả năng chịu hạn kém, hoc sử
dụng một số giống chịu hạn cải tiến nhưng chất lượng chưa phù hợp với thị
hiếu người dân địa phương.
Theo hướng này, việc nghiên cứu đánh giá nguồn gen các giống lúa chịu
hạn thuộc các vùng cao, vùng khô hạn được xem là công việc khởi đầu và cần
tiến hành thường xuyên cho những chương trình chọn giống chịu hạn. Thành
công của công tác chọn tạo giống phụ thuộc rất nhiều vào số lượng và chất
lượng của vật liệu khởi đầu. Vật liệu khởi đầu càng nhiều và chất lượng càng tốt
cơ hội để tạo ra giống mới càng nhanh và thu được kết quả mong muốn.
Từ đầu những năm 1990s của thế kỷ trước, Việt Nam nhập khẩu rất
nhiều các giống lúa lai hai dòng và ba dòng của Trung Quốc để sản xuất, các
giống lúa này có khả năng thích ứng rộng trong điều kiện thâm canh, cho
năng suất cao hơn các giống lúa thuần địa phương. Tuy nhiên chưa có giống
lúa lai có khả năng chịu hạn hoc có khả năng canh tác trong điều kiện khó
khăn về nước. Những năm gần đây, việc tìm ra và phát triển các dòng mẹ có
khả năng bất dục đực tuỳ vào điều kiện môi trường (EGMS) trong đó các
dòng bất dục đực tế bào chất phụ thuộc vào nhiệt độ được nghiên cứu khá
nhiều. Nhờ có các dòng TGMS này mà việc lai tạo các giống lúa lai hai dòng

sẽ dễ dàng hơn, tuy nhiên kết quả của việc có tạo ra giống lúa có khả năng
chịu hạn hay không phụ thuộc nhiều vào các dòng bố hay còn gọi là dòng R.
Xuất phát từ những vấn đề thực tiến nêu trên chúng tôi tiến hành nghiên
cứu đề tài: “Nghiên cứu khả năng sinh trưởng, phát triển của các tổ hợp
lúa lai F1 tạo ra từ dòng mẹ bất dục đực TGMS 103s, TGMS 135s”.
2. Mục tiêu của đề tài
Đánh giá nguồn vật liệu khởi đầu, chọn tạo một số dòng, giống lúa lai
hai dòng có năng suất cao, có khả năng chịu hạn thích nghi với vùng đất trồng
lúa không chủ động nước hoàn toàn phụ thuộc vào canh tác nước trời khu vực
Trung du, miền Núi phía Bắc.

3
3. Yêu cầu của đề tài
- Đánh giá sinh trưởng phát triển và các đc tính nông học của các dòng
bố (có khả năng chịu hạn) và hai tổ hợp TGMS 103S và TGMS 135S dùng
làm mẹ.
- Lai tạo các tổ hợp lai đời F1 giữa các dòng bố tiềm năng và hai dòng
mẹ TGMS 103s và 135s.
- Đánh giá sinh trưởng phát triển, năng suất và khả năng chịu hạn cho
các tổ hợp lúa lai hai dòng F1 lai tạo được giữa các dòng bố có tiềm năng
được chọn lọc và các dòng mẹ TGMS 103s và 135s.
4. Ý nghĩa của đề tài
* Ý nghĩa khoa học
- Làm quen với phương pháp chọn giống
- Chọn ra các dòng lúa tốt làm cơ sở phục vụ cho công tác chọn tạo
giống và nghiên cứu về sau.
* Ý nghĩa thực tiễn
Giới thiệu một số dòng lúa có triển vọng làm nguồn nguyên liệu mới
phục vụ cho công tác chọn tạo giống cũng như thực tế sản xuất lúa vùng khó
khăn về nước.


4
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. Cơ sở khoa học của đề tài
Từ xa xưa con người đã biết thuần hoá các loại cây hoang dại thành các
loại cây trồng. Các kỹ thuật được áp dụng trong trồng trọt cũng ngày càng
phát triển.
Năm 1926, J. W. Jones (nhà thực vật học người Mỹ [28] lần đầu tiên
báo cáo về sự xuất hiện ưu thế lai (ƯTL) trên những tính trạng số lượng và
năng suất lúa. Tuy nhiên, lúa là cây tự thụ phấn điển hình, khả năng nhận
phấn ngoài rất thấp, do đó khai thác ƯTL ở lúa đc biệt khó khăn trong khâu
sản xuất hạt lai F1.
Những năm đầu của thập kỷ 60, Yuan Long Ping (Trung Quốc) đã cùng
đồng nghiệp phát hiện được cây lúa dại bất dục trong loài lúa dại: Oryza fatua
spontanea tại đảo Hải Nam. Sau khi thu về, nghiên cứu, lai tạo, họ đã chuyển
được tính bất dục đực dạng hoang dại này vào lúa trồng và tạo ra những vật
liệu di truyền mới giúp cho việc khai thác ƯTL thương phẩm.
Năm 1974, các nhà khoa học Trung Quốc đã cho ra đời những tổ hợp
có ưu thế lai cao, đồng thời xây dựng quy trình kỹ thuật sản xuất hạt lai hệ "3
dòng" được hoàn thiện và đưa vào sản xuất năm 1975. Năm 1996, Trung
Quốc lại thành công với quy trình sản xuất lúa lai "2 dòng" và đẩy mạnh
nghiên cứu lúa lai 1 dòng và lúa lai siêu cao sản nhằm tăng năng suất và sản
lượng lúa gạo của đất nước [33].
Việt Nam là một quốc gia sử dụng lúa gạo làm lương thực chính, và là
nước xuất khẩu lúa gạo đứng thứ hai trên thế giới. Việc nghiên cứu và áp
dụng lúa lai là rất cấp thiết. Tuy vậy, việc áp dụng gp phải một số khó khăn:
(I) Giống lúa lai chủ yếu nhập khẩu từ nước ngoài (hiện tại nước ta nhập khẩu


5
hơn 80% giống F1 của Trung Quốc), không chủ động được nguồn giống, giá
giống lúa lai cao, khó kiểm soát thị trường giống; (II) Các giống lúa lai
thường có nhược điểm là năng suất chưa ổn định, chất lượng lúa gạo chưa
cao, khả năng chống chịu sâu bệnh kém; (III) Qui trình công nghệ sản xuất
hạt giống lúa lai rất nghiêm ngt, các tỉnh phía Bắc và ven biển Trung Bộ nơi
tiêu thụ chính về lúa giống lại rất khó chủ động công nghệ sản xuất lúa lai.
Việc nghiên cứu hoàn thiện công nghệ sản xuất hạt giống lúa lai cho các tỉnh
trồng lúa trong cả nước là rất cấp thiết và có triển vọng: Mở ra cơ hội mới
tăng năng suất và sản lượng lúa gạo, tạo việc làm và thu nhập cho nông dân
qua việc sản xuất hạt giống lúa lai; góp phần giải quyết vấn đề an ninh lương
thực; thu hút lao động ở lại nông thôn.
Từ thực tiễn trên chúng tôi tiến hành thí nghiệm nghiên cứu và lai tạo
giữa giống bố có khả năng sinh trưởng tốt với giống mẹ có chất lượng cũng
như khả năng chống chịu sâu bệnh tốt, nhằm tạo ra con lai F1 có ưu thế lai
cao mang các đc tính tốt của bố mẹ.
1.2. Tình hình sản xuất lúa gạo trên thế giới và ở Việt Nam
1.2.1. Tình hình sản xuất lúa gạo trên thế giới
Cây lúa có nguồn gốc ở vùng nhiệt đới, có khả năng thích nghi rộng
nên có thể trồng ở nhiều vùng khí hậu khác nhau và được trồng ở nhiều nơi
trên thế giới. Hiện nay trên thế giới có trên 100 nước trồng lúa ở hầu hết các
châu lục, với tổng diện tích thu hoạch năm 2009 khoảng 158,3 triệu ha. Tuy
nhiên sản xuất lúa gạo vẫn tập trung chủ yếu ở các nước châu Á nơi chiếm tới
90% diện tích gieo trồng và sản lượng [41], trong đó Ấn Độ là nước có diện
tích thu hoạch lúa lớn nhất tiếp đến là Trung Quốc.
Những năm đầu của thế kỷ XXI, các nước trồng lúa đều có xu hướng
hạn chế sử dụng các chất hoá học tổng hợp trong thâm canh lúa, chú trọng chỉ
tiêu chất lượng hơn là số lượng làm cho năng suất lúa có xu hướng chững lại

6

hoc tăng không đáng kể. Tuy nhiên, ở những nước có nền nông nghiệp phát
triển, năng suất lúa vẫn cao hơn hẳn. Điều này được chứng minh qua số liệu
thống kê của 10 nước có sản lượng lúa hàng đầu trên thế giới [41].
Bảng 1.1. Diện tích, năng suất và sản lƣợng lúa của 10 nƣớc
có sản lƣợng lúa hàng đầu thế giới năm 2010
Tên nƣớc
Diện tích
(Triệu ha)
Năng suất
(Tạ/ha)
Sản lƣợng
(Triệu tấn)
Trung Quốc
29,9
65,8
196,7
Ấn Độ
41,8
31,9
133,7
Inđônêxia
12,9
50,0
64,4
Băngladesh
11,3
42,0
47,7
Việt Nam
7,4

52,3
38,9
Myanma
8,0
40,8
32,7
Thái Lan
11,0
28,7
31,5
Philippin
4,5
35,9
16,3
Braxin
2,9
44,0
12,6
Nhật Bản
1,6
65,2
10,6
(Nguồn: FAOSTAT, 2011) [41]
Theo số liệu của Bảng 1.1 thì trong 10 nước trồng lúa có sản lượng trên
10 triệu tấn/năm đã có 9 nước nằm ở châu Á, chỉ có một đại diện của châu lục
khác đó là Braxin (Nam Mỹ). Riêng 8 nước: Trung Quốc, Ấn Độ, Thái Lan,
Inđônêxia, Bangladest, Việt Nam, Mianma, Nhật Bản chiếm 84,1% sản lượng
lúa của thế giới. Trung Quốc và Nhật Bản là 2 nước có năng suất cao hơn hẳn
đạt 65,8 tạ/ha (Trung Quốc) và 65,2 tạ/ha (Nhật Bản). Điều đó có thể l giải bởi
Trung Quốc là nước đi tiên phong trong lĩnh vực phát triển lúa lai và người dân

nước này có tinh thần lao động cần cù, có trình độ thâm canh cao. Còn Nhật Bản
là nước có trình độ khoa học kỹ thuật cao, đầu tư lớn [6]. Việt Nam cũng là nước
có năng suất và sản lượng lúa cao đứng vị trí thứ 5 trong 10 nước trồng lúa

7
chính, đạt 38,9 tạ/ha. Thái Lan tuy là nước xuất khẩu gạo đứng đầu thế giới
trong nhiều năm liền, song năng suất chỉ đạt 28,7 tạ/ha, bởi vì Thái Lan chú
trọng nhiều hơn đến canh tác các giống lúa dài ngày, chất lượng cao [17].
Trong vài thập niên gần đây Trung Quốc có nhiều thành tựu trong cải
tiến giống lúa trong đó đc biệt quan tâm đến sử dụng ưu thế lai ở lúa do đó
năng suất bình quân đạt 65,8 tạ/ha, sản lượng năm 2010 đạt 196,7 triệu tấn
cao nhất thế giới [41], thấp hơn so với những năm 90 của thế kỷ XX, nguyên
nhân do diện tích sản xuất lúa ngày càng bị thu hẹp bởi sự chuyển đổi cơ cấu
kinh tế và vấn đề đô thị hoá [30]. Bên cạnh đó nguồn nước ngọt không đủ và
phân bố không đều còn là trở ngại lớn trong việc nâng cao năng suất và sản
lượng lúa của Trung Quốc [13].
Theo dự báo của Ban Nghiên cứu Kinh tế - Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ,
trong giai đoạn 2007 - 2017, các nước sản xuất gạo ở châu Á sẽ tiếp tục là
nguồn xuất khẩu gạo chính của thế giới, bao gồm Thái Lan, Việt Nam, Ấn
Độ. Riêng xuất khẩu gạo của hai nước Thái Lan và Việt Nam sẽ chiếm
khoảng nửa tổng lượng gạo xuất khẩu của thế giới. Một số nước khác cũng sẽ
đóng góp giúp tăng sản lượng gạo thế giới như: Ấn Độ, các tiểu vùng Sahara
Châu Phi, Bangladesh, Philippin, Brazil [40].
Trong “Báo cáo Chiến lược về an ninh lương thực Quốc gia đến năm
2020 và tầm nhìn 2030” Bộ Nông nghiệp và PTNN năm 2008 đã dự báo tình
hình sản xuất và tiêu thụ gạo trên thế giới đến năm 2020 [36]:
- Trong 10 năm tới, sản xuất lúa gạo trên thế giới tăng chậm do hạn
chế việc mở rộng diện tích gieo cấy, một số nước có diện tích lúa lớn có xu
hướng giảm và năng suất lúa kém ổn định khi phải chịu ảnh hưởng của thiên
tai dịch bệnh.

- Tiêu dùng gạo trên thế giới tiếp tục tăng do tăng dân số, đc biệt ở
Châu Á, Châu Phi là khu vực sử dụng nhiều lúa gạo, khu vực Tây bán cầu và
Trung Đông tăng mức tiêu thụ gạo trên đầu người.

8
- Nhiều quốc gia xuất khẩu gạo lớn giảm lượng gạo xuất khẩu, trong
khi nhu cầu nhập khẩu gạo tăng, nguồn cung thị trường gạo sẽ thiếu hụt so
với cầu, giá gạo trên thị trường thế giới giữ ở mức cao: Theo Bộ Nông nghiệp
Mỹ, thương mại gạo toàn cầu năm 2008 là 29,4 triệu tấn, giảm 1,3 triệu tấn so
với năm 2007. Dự báo lượng gạo thương mại trên thế giới trong thập kỷ tới sẽ
tăng bình quân 2,4% trên năm và sẽ đạt mức 35 triệu tấn vào năm 2017. Tuy
nhiên, trước nguy cơ khủng hoảng lương thực toàn cầu, để đảm bảo an ninh
lương thực trong nước, một số nước như Trung Quốc, Ấn độ, Pakistan, Mỹ
giảm lượng gạo xuất khẩu, trong khi nhiều nước tăng lượng nhập khẩu. Do
thiếu hụt nguồn cung sẽ làm cho giá gạo thế giới duy trì giữ ở mức cao trong
trung và dài hạn.
1.2.2. Tình hình sản xuất lúa ở Việt Nam
Việt Nam là một trong những nước trồng lúa trọng điểm trên thế giới,
người Việt Nam vẫn thường tự hào về nền văn minh lúa nước của đất nước
mình. Từ xa xưa cây lúa đã trở thành cây lương thực chủ yếu, có  nghĩa quan
trọng trong đời sống của người dân [17]. Việt Nam đã tiếp thu cách mạng
xanh khá mau lẹ. Năm 1987 trước đổi mới, sản lượng thóc chỉ đạt 15,1 triệu
tấn đến năm 2009 thì sản lượng thóc đạt 39 triệu tấn, gấp 2,58 lần.
Nhập nội, chọn tạo các giống lúa mới: Trong những năm 70 của thế kỷ
trước, Việt Nam đã nhập nội các giống lúa Thần Nông, NN8, IR20, IR26,…
từ IRRI. Nhiều giống lúa thấp cây, ngắn ngày năng suất cao đã được nhập nội,
lai tạo và tuyển chọn. Kết quả điều tra của Trung tâm Khảo kiểm nghiệm
Giống cây trồng Trung ương trong hai năm 2000 - 2001 cho thấy: Cả nước có
trên 680 giống lúa được gieo trồng (chưa kể các giống địa phương chưa rõ
tên). Năm 2000 ở các tỉnh phía Bắc trong vụ Đông Xuân có 198 giống, vụ

mùa có 218 giống. Năm 2001, các tỉnh Duyên hải miền Trung và Tây Nguyên
trong vụ Đông Xuân có 129 giống, vụ Hè Thu 207 giống.

9
Trong 10 năm trở lại đây, diện tích gieo cấy lúa nước ta lại giảm
khoảng 3,9% (7,7 triệu ha năm 2000 còn 7,4 triệu ha năm 2009). Tuy nhiên
việc ứng dụng những tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất được đẩy mạnh nên năng
suất lúa tăng trên 23% (42,4 tạ/ha năm 2000 lên 52,3 tạ/ha năm 2009), nhờ
vậy sản lượng năm 2009 tăng 20% so với năm 2000. Năng suất và sản lượng
lúa tăng trong khi diện tích canh tác giảm do nhiều nguyên nhân: Bố trí cơ
cấu mùa vụ được điều chỉnh hợp l, kỹ thuật canh tác được cải tiến và các
giống lúa có năng suất cao được đưa vào đồng ruộng ngày càng nhiều trong
đó các tỉnh phía Bắc đã đưa lúa lai năm sau cao hơn năm trước đã góp phần
làm tăng tổng sản lượng lúa của nước ta (Bảng 1.2).
Bảng 1.2. Diện tích, năng suất và sản lƣợng lúa của Việt Nam
giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2010
Năm
Diện tích
(Triệu ha)
Năng suất
(Tạ/ha)
Sản lƣợng
(Triệu tấn)
2000
7,7
42,4
32,5
2001
7,5
42,8

32,1
2002
7,5
45,9
34,4
2003
7,4
46,4
34,6
2004
7,4
48,5
36,1
2005
7,3
48,9
35,8
2006
7,3
48,9
35,8
2007
7,2
49,9
35,9
2008
7,4
52,2
38,7
2009

7,4
52,3
39,0
2010
7,5
53,2
39,9
(Nguồn: FAOSTAT, 2011) [41].

10
1.3. Lịch sử phát hiện và nghiên cứu ƣu thế lai trên cây lúa
Theo Gurdev S. Khush trong bài khai mạc hội thảo “Lúa lai và sự thay
đổi trong hệ thống nông trang” do hiệp hội các nhà khoa học trẻ có triển vọng
tổ chức tại Đại học Kyushu, Nhật Bản từ 22 - 24/11/2008 [34] cho biết lịch sử
chọn tạo giống lúa trên thế giới chia làm 3 giai đoạn:
Giai đoạn chọn lọc: 1901 - 1949
Cây lúa xuất hiện sớm nhất ở khu vực châu Á. Xuất hiện đầu tiên ở
Maligaya (Philippines) vào năm 1902, Nishigahara (Japan) vào năm 1903,
Bogor (Indonesia) năm 1905, Mandalay (Burma) năm 1907 Đây là khu
vực được coi là cái nôi của nghề trồng lúa nước, là nơi tập trung rất đa dạng
nguồn gen cây lúa. Tuy nhiên ở giai đoạn này chủ yếu là các giống lúa thuần
có năng suất thấp.
Giai đoạn lai tạo: 1950 - 1960
Giai đoạn này, nhiều tiến bộ kỹ thuật đã được tạo ra để nâng cao năng
suất và sản lượng lúa gạo. Bên cạnh đó các nhà khoa học còn tập trung nghiên
cứu những giống lúa có khả năng chống lại sự xâm nhiễm của cỏ dại, dịch
bệnh và sự tàn phá của côn trùng.
Giai đoạn Cách mạng xanh: 1961 - 2000
Cuộc cách mạng xanh đã làm cho năng suất và sản lượng lúa trên thế
giới tăng lên một cách rõ rệt, đáp ứng đủ nhu cầu lương thực cung cấp cho

người dân. Tuy nhiên diện tích trồng lúa ngày càng thu hẹp, tốc độ đô thị hoá
gia tăng. Mt khác, giá lúa tăng chậm trong khi đó giá vật tư đầu vào tăng cao
không khuyến khích nông dân trồng lúa, hệ số sử dụng ruộng đất khó có thể
tăng cao hơn, nông dân chuyển diện tích trồng lúa sang trồng các cây khác và
nuôi trồng thuỷ sản có hiệu quả kinh tế cao hơn hoc chuyển sang trồng các
giống lúa có chất lượng cao mc dù năng suất thấp hơn.

11
Hiện tượng con lai hơn hẳn bố mẹ về một hoc một số tính trạng đã
được con người biết từ lâu. Năm 1763 Kolreuter (người Nga gốc Đức) đã phát
hiện ra ƯTL ở cây thuốc lá khi trồng thuốc lá Nga cạnh ruộng thuốc lá Peru.
Những năm 1866 - 1867 Darwin sau khi nghiên cứu những biến dị của thực
vật tự thụ phấn và giao phấn đã chỉ ra rằng ngô cũng có ƯTL. Năm 1926,
J.W.Jones (nhà thực vật học người Mỹ) lần đầu tiên báo cáo về sự xuất hiện
ƯTL trên những tính trạng số lượng và năng suất lúa, sau đó có rất nhiều
nghiên cứu tiếp theo về ƯTL trên cây lúa, họ đã khẳng định việc khai thác
ƯTL ở lúa là hướng rất có triển vọng [9].
Lúa là cây tự thụ phấn điển hình, khả năng nhận phấn ngoài rất thấp, do
đó khai thác ƯTL trên cây lúa đc biệt khó khăn ở khâu sản xuất hạt lai F1.
Các nhà khoa học đã nghiên cứu khá sớm cách sản xuất hạt lúa lai F1 như các
nhà khoa học Ấn Độ Kadam (1937), Amand và Murti (1968); các nhà khoa
học Mỹ Stansel và Craijmiles (1966), Cranahan và cộng sự (1972); nhà khoa
học Nhật Bản như Shinjyo và Omura (1966) và Viện Nghiên cứu lúa gạo
Quốc tế (IRRI)…. Nhưng họ đều không thành công vì chưa tìm ra phương
pháp thích hợp để sản xuất hạt lai [9].
Trong những năm đầu của thập kỷ 60, Yuan Long Ping (nhà khoa học
Trung Quốc) đã cùng đồng nghiệp phát hiện được cây lúa dại bất dục đực trong
loài lúa dại Oryza fatua spontanea tại đảo Hải Nam, Trung Quốc. Sau nhiều
năm nghiên cứu họ đã hoàn thiện công nghệ nhân dòng bất dục đực, công nghệ
sản xuất hạt lai và đưa ra nhiều tổ hợp lai có năng suất cao đầu tiên.

Từ đó đến nay, diện tích trồng lúa lai của các nước ngày càng được mở
rộng, năng suất sản lượng tăng, nhiều tổ hợp lai tốt được công bố và sản xuất
thử. Ngoài hệ thống lúa lai ba dòng, thì hệ lúa lai hai dòng đang là hướng
nghiên cứu và sản xuất chính của các nước sản xuất lúa lai.

12
1.4. Cơ sở khoa học của công nghệ sản xuất lúa lai
Lúa là loại cây tự thụ phấn điển hình, khả năng nhận phấn ngoài rất
thấp, hoa nhiều, nhỏ do vậy muốn sản xuất hạt lai F1 thì phải sử dụng một hệ
thống bất dục đực. Hệ thống bất dục đực tế bào chất đã được dùng rộng rãi tại
Trung Quốc và một số quốc gia khác trong mấy thập kỷ qua. Hiện nay hệ
thống bất dục đực mẫn cảm với điều kiện môi trường cũng đang được sử
dụng để phát triển lúa lai, nâng cao ưu thế lai, các gen tương hợp cũng đã
được khai thác để phát triển các tổ hợp lai giữa các loài phụ Indica và
Japonica. Ở cây lúa người ta đã phát hiện được đầy đủ các dạng bất dục đực
như một số cây trồng khác như ngô, cao lương. Hiện tại có hai hệ lúa lai đang
được phát triển, đó là lúa lai hệ ba dòng và lúa lai hệ hai dòng.
1.4.1. Lúa lai hệ ba dòng
Lúa lai hệ ba dòng là hệ lúa lai khi sản xuất hạt lai F1 phải sử dụng ba
dòng có bản chất di truyền khác nhau và hai lần lai. Dòng bất dục đực tế bào
chất CMS - Cytoplasmic Male Sterile - dòng A; dòng duy trì bất dục đực
Maintainer - dòng B và dòng phục hồi hữu dục Restorer - dòng R.
- Dòng A: được sử dụng làm mẹ, cơ chế của sự bất dục là tương tác
giữa gen trong tế bào chất và gen nhân, có bao phấn lép, hoa nở bao phấn
không mở, trong bao phấn chứa hạt phấn bị thoái hoá do không tích luỹ
được tinh bột. Nhìn bằng mắt thường thấy bao phấn vàng ngà hoc trắng
sữa, rung cây lúa trổ hoa không có hạt phấn tung ra, không nhuộm màu
trong dung dịch KI 1%. Hình thái hạt phấn bất thường: tam giác, hình thoi,
cầu khuyết. Cơ quan sinh sản cái của dòng A hoàn toàn bình thường, có
những bộ phận tỏ ra có sức sống cao hơn bình thường. Vòi nhụy to hơn,

vươn ra ngoài vỏ trấu sau khi hoa khép lại, và khả năng tiếp nhận hạt phấn
để thụ tinh sau khi hoa nở khoảng năm ngày, khi rũ phấn giống lúa khác

13
vào dòng A thì khả năng tiếp nhận phấn dễ dàng. Dòng A muốn sản xuất
hạt lai cần có các yêu cầu sau:
+ Bất dục đực hoàn toàn và ổn định qua các vụ, nghĩa là tỷ lệ hạt phấn
bị thoái hoá là 100%, tỷ lệ này không thay đổi khi điều kiện thời tiết biến
động, không biến đổi sau các lần gieo lại.
+ Phải tương đối dễ phục hồi.
+ Phổ phục hồi rộng: nhiều giống lúa có thể phục hồi cho dòng A nhờ
vậy dễ tìm tổ hợp lai tốt.
+ Khả năng đậu hạt khi lai với dòng phục hồi cao và ổn định trong điều
kiện ngoại cảnh.
+ Có cấu trúc hoa và tập tính nở hoa tốt, cụ thể thời gian nở hoa sớm,
góc mở hoa rộng, thời gian mở vỏ trấu lâu, vòi nhuỵ dài vươn ra ngoài vỏ
trấu, bông trổ thoát ra khỏi bẹ lá đòng.
- Dòng B: duy trì tính bất dục cho dòng A, trừ tính bất dục dòng B hoàn
toàn giống dòng A, dòng B phải chọn cẩn thận, phải là dòng thuần, nhiều hạt
phấn, sức sống hạt phấn cao.
- Dòng R: cho phấn dòng A để sản xuất hạt lai F1, F1 hữu dục đồng
nhất về các tính trạng nông sinh học và có ưu thế lai cao, dòng R phải là dòng
thuần có nhiều đc điểm tốt, năng suất và phẩm chất cao, thời gian sinh
trưởng phù hợp. Dòng R tốt cần có các đc điểm sau:
+ Có khả năng phục hồi mạnh, tỷ lệ đậu hạt của con lai ngang với lúa
thuần hoc lớn hơn 80% so với lúa thuần.
+ Có đc tính nông sinh học tốt, khả năng phối hợp cao, cho ƯTL cao
đáng tin cậy.
+ Cây cao, khoẻ hơn dòng A, thờ i gian sinh trưở ng (TGST) xấp xỉ hoc
dài hơn dòng A.

+ Bao phấn mẩy, chứa nhiều hạt phấn, tập tính nở hoa tốt.

14
1.4.2. Lúa lai hệ hai dòng
Lúa lai hệ hai dòng là bước tiến mới của loài người trong cuộc ứng
dụng ƯTL ở cây lúa. Hai công cụ cơ bản để phát triển lúa lai hai dòng là dòng
bất dục đực chức năng di truyền nhân mẫn cảm với nhiệt độ TGMS
(Thermosensitive Genic Male Sterile) và bất dục đực chức năng di truyền
nhân mẫn cảm với chu kỳ chiếu sáng PGMS (Photoperoid sensitive Genic
Male Sterile). Tính chuyển hoá từ bất dục sang hữu dục và ngược lại ở TGMS
và PGMS gây ra do điều kiện môi trường. Vì thế bất dục đực kiểu này gọi là
bất dục đực chức năng di truyền nhân cảm ứng với điều kiện môi trường
EGMS (Enviroment Sensitive Genic Male Sterile).
Quá trình sản xuất hạt lúa lai F1 của hệ lúa lai hai dòng được đơn giản
hoá, không tổ chức lai để duy trì dòng bất dục. Dòng TGMS trong điều kiện
nhiệt độ cao, từ 23-30
o
C tuỳ dòng sẽ bất dục tuyệt đối, được dùng làm mẹ để
sản xuất hạt lai F1, từ 19-240
o
C tuỳ dòng sẽ hữu dục. Dòng PGMS trong điều
kiện ngày dài cần thiết sẽ bất dục để dùng làm mẹ và ngày ngắn cần thiết sẽ
hữu dục để duy trì dòng mẹ, tuy nhiên sự hữu dục hay bất dục của dòng
PGMS cũng còn tương tác với nhiệt độ môi trường. Để phát triển lúa lai hai
dòng quan trọng nhất là phát triển các dòng TGMS và PGMS gọi chung là các
dòng EGMS.
1.4.3. Ưu điểm của lúa lai hệ hai dòng
Việc ứng dụng các dòng EGMS để phát triển lúa lai so với ứng dụng
dòng CMS kinh điển có các ưu thế hơn hẳn sau [9].
- Quá trình phát triển hạt lai được đơn giản hoá, không phải tổ chức

một lần lai để duy trì dòng bất dục như hệ “ba dòng” vì không cần dòng B.
- Do tính bất dục đực được kiểm soát bởi các gen ln nên hầu hết các
giống lúa thường đều phục hồi phấn được cho các dòng EGMS. Vì vậy việc
chọn dòng phục hồi sẽ dễ dàng hơn, phổ cập hơn, có thể mở rộng ra ngoài

15
phạm vi của một loài phụ và khả năng tạo ra các tổ hợp năng suất cao hơn
được tăng lên đáng kể.
- Kiểu gen của EGMS dễ dàng được chuyển sang giống khác, để tạo ra
các dòng bất dục mới với nguồn di truyền khác nhau, tránh nguy cơ đồng tế
bào chất và thu hẹp phổ di truyền.
- Tính bất dục của dòng EGMS không liên quan đến tế bào chất vì thế
các ảnh hưởng của kiểu bất dục dạng dại “WA” (Wild Abortion) đã được
khắc phục, khả năng kết hợp giữa năng suất cao và chất lượng tốt được mở
rộng và hiện thực hơn.
Ngoài hai hệ lúa lai nêu trên, các nhà khoa học đang từng bước nghiên
cứu để phát triển hệ lúa lai một dòng: lúa lai một dòng thực chất là vấn đề
duy trì ƯTL của một tổ hợp lai nào đó được xác định là có ƯTL cao về mọi
tính trạng mong muốn, cơ sở để sản xuất hạt lai một dòng là sản xuất hạt lai
thuần (Truebred - Hybrid - Rice) nhờ sử dụng thể vô phối (Apomixis). Đây
sẽ là một thành tựu mới có  nghĩa lớn lao trong công nghệ sản xuất lúa lai
trong tương lai.
1.5. Hiện trạng sản xuất lúa lai trên thế giới và ở Việt Nam
1.5.1. Sản xuất lúa lai trên thế giới
Lúa là cây tự thụ phấn, việc nghiên cứu và khai thác cường lực giống
lai trên cây lúa được Viên Long Bình (Yuan Longping), nhà khoa học Trung
Quốc, được xem là cha đẻ của lúa lai, nghiên cứu và áp dụng thành công trên
diện rộng đầu tiên trên thế giới.
Ông đã phát hiện cây lúa có cường lực ưu thế lai trong tự nhiên vào
năm 1964 do sự biểu hiện vượt trội với các cây lúa xung quanh, chính nhờ

phát hiện bất ngờ này đã khích lệ ông tìm hiểu và nghiên cứu thành công tạo
ra giống lúa lai ba dòng cho năng suất tăng từ 15-20% so với lúa thường. Trải

16
qua quá trình phát triển, hiện nay lúa lai chủ yếu là lúa lai hệ hai dòng, với
năng suất tăng từ 20-30% so với lúa thường.
Nhờ phát minh ra lúa lai, Trung Quốc đã giải quyết được vấn đề thiếu
hụt lương thực đối với một đất nước đông dân nhất thế giới, hơn một tỷ
người. Các nhà khoa học Trung Quốc tạo ra giống lúa lai đầu tiên năm 1974.
Năm 1976, diện tích lúa lai của Trung Quốc là 12,4 triệu ha, năng suất bình
quân 6,9 tấn/ha. Năm 1995, diện tích lúa lai hai dòng là 2,6 triệu ha, chiếm
18% diện tích lúa lai của Trung Quốc, năng suất cao hơn lúa lai ba dòng từ 5-
10% [37]. Năm 2006, diện tích gieo trồng lúa lai của Trung Quốc lên tới 18
triệu ha, chiếm 66% diện tích trồng lúa cả nước, năng suất bình quân 7 tấn/ha,
cao hơn lúa thuần 1,4 tấn/ha [19].
Ngoài cái nôi là Trung Quốc, lúa lai cũng đã mở rộng ra các nước trồng
lúa châu Á khác như Ấn Độ, Philipines, Bangladesh, Myanmar, Indonesia, Ai
Cập và Việt Nam, nhờ sự giúp đỡ của tổ chức Lương thực và Nông nghiệp
Liên Hiệp Quốc FAO (Food and Agricuture Organization), Viện Nghiên cứu
Lúa gạo Quốc tế IRRI (International Rice Research Institute), Chương trình
Phát triển của Liên Hiệp Quốc UNDP (United Nations Development
Programme) và Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB - Asian Development
Bank). Trong những năm 2001 - 2002 diện tích trồng lúa lai của các nước trên
khoảng 800.000 ha; năm 2006 chỉ tính riêng diện tích lúa lai của Việt Nam và
Bangladesh đã đạt 786.429 ha [21] [16].
1.5.2. Sản xuất lúa lai ở Việt Nam
Lúa là cây lương thực chính tại Việt Nam, cung cấp lương thực và là
ngành sản xuất truyền thống trong nông nghiệp. Từ khi thực hiện công cuộc
Đổi mới (năm 1986) đến nay, Việt Nam đã có những tiến bộ vượt bậc trong
sản xuất lúa, đưa nước ta từ chỗ là nước thiếu ăn triền miên đã không những

đảm bảo đủ lương thực cho nhu cầu trong nước mà còn xuất khẩu từ 3-4 triệu

17
tấn gạo/năm, đứng hàng thứ 2 trên thế giới về các nước xuất khẩu gạo [38].
Mục tiêu sản xuất lúa đến năm 2015 là ổn định diện tích trồng lúa ở mức 3,8
triệu ha, sản lượng đạt 40 triệu tấn/năm. Để đạt được mục tiêu trên, khả năng
mở rộng diện tích không nhiều, và có thể ảnh hưởng đến hệ sinh thái, do vậy
chủ yếu phải tăng năng suất. Giống là một biện pháp kỹ thuật để tăng năng
suất hiệu quả nhất. Sử dụng ưu thế lai của cây lúa (lúa lai) để tạo ra những
giống lai F1 năng suất cao đang được nghiên cứu và sử dụng trong những
năm gần đây.
Mc dù Trung Quốc đã nghiên cứu thành công chọn giống lúa lai từ
năm 1964 và đã sản xuất trên diện tích lớn từ hơn 30 năm nay, nhưng mãi tới
cuối năm 1992 Việt Nam mới bắt đầu tiếp cận với công nghệ lúa lai [9]. Bộ
Nông nghiệp và PTNT đã tiếp thu những thành tựu nghiên cứu và thực hiện
phương châm “đi tắt đón đầu” tiến bộ kỹ thuật về lúa lai thông qua hệ thống
khuyến nông để mở rộng ra sản xuất. Cùng với sự giúp đỡ của các tổ chức
quốc tế và sự quan tâm của Đảng và nhà nước lúa lai đã từng bước phát triển
biểu hiện qua Bảng 1.3.
Qua bảng 1.3 ta thấy diện tích lúa lai từ năm 1998 đến năm 2010 tăng
mạnh từ 200.000ha lên 605.642 ha chứng tỏ lúa lai ngày càng được sử dụng
nhiều. Tuy nhiên do mới bước đầu vào nghiên cứu và sản xuất lúa lai nên diện
tích và năng suất còn chưa ổn định. Qua đó ta cũng nhận thấy diện tích và
năng lúa lai vụ xuân cao hơn so với vụ mùa. Nguyên nhân là do các giống lúa
lai được sử dụng còn chưa thích hợp với thời tiết khí hậu vụ mùa của nước ta,
thời gian sinh trưởng của các giống lúa lai còn dài không phù hợp với tập
quán canh tác của nước ta (ở nhiều vùng không trồng được lúa vụ mùa và
người dân thường sử dụng những giống ngắn ngày để có thể trồng cây vụ
đông tăng sản lượng). Điều này giúp cho các nhà nghiên cứu lúa lai nước ta

×