Phân tích chính sách thuế
TRƯỜNG ĐH KINH TẾ TP HỒ CHÍ MÍNH
Khoa: TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
GV phụ trách:
Học phần: PHÂN TÍCH CHÍNH SÁCH THUẾ
Chủ đề bài nghiên cứu:
THUẾ VÀ LẠM PHÁT
Danh sách nhóm số 10 lớp TCDN – CH22:
1) Võ Thị Thúy Diễm (Nhóm trưởng - SĐT: 0909 070 436)
2) Trần Thân Bích Hợp
3) Phan Thị Thanh Kiều
4) Trần Thị Trang
5) Trương Phú Trí
6) Nguyễn Thị Hồng Minh
7) Nguyễn Thị Hồng Vân
8) Nguyễn Thủy Vi
9) Lê Thị Diễm Thùy
10) Lý Hoàng Kim
11) Bùi Thị Thương
Phân tích chính sách thuế
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Cuộc khủng hoảng tài chính và kinh tế thế giới 2008, cùng với các bất cập nội tại nền
kinh tế khiến chính sách tài khóa của Việt Nam đã bộc lộ nhiều bất cập trên nhiều mặt
như thu ngân sách thiếu tính bền vững, còn phụ thuộc nhiều vào các khoản thu không tái
tạo, không bền vững như khoản thu từ bán tài nguyên, đất đai Cùng với tiến trình hội
nhập sâu vào nền kinh tế quốc tế và cam kết gia nhập WTO, hàng rào thuế quan sẽ ngày
một thu hẹp, do vậy khả năng thu từ hoạt động nhập khẩu sẽ giảm sút trong những năm
tới Những sức ép về việc giảm thâm hụt ngân sách và tập trung nhiều hơn các các biện
pháp kích cầu buộc Chính phủ Việt Nam nhìn nhận và quan tâm nhiều hơn đến vấn đề
thu ngân sách, chủ yếu thông qua nguồn thu từ thuế.
Tuy nhiên, hiện nay các doanh nghiệp Việt Nam đang gặp khó khăn do lạm phát cao
đã tác động đến mọi mặt của nền kinh tế. Làm sao để vừa có thể hỗ trợ doanh nghiệp,
vừa không làm ảnh hưởng nhiều đến thu ngân sách Nhà nước. Thông qua diễn biến tình
hình lạm phát và thuế trong những năm gân đây để tìm hiểu xem lạm phát đã tác động
đến thuế như thế nào. Tìm ra những hướng mới để cải thiện chính sách thuế sao cho phù
hợp với tình hình biến động kinh tế thế giới trong thời qua.
Bài tiểu luận gồm bốn phần:
- Cơ sở lý thuyết về thuế
- Cơ sở lý thuyết về lạm phát
- Mối quan hệ giữa thuế và lạm phát
- Thực trạng và nhận xét kiến nghị.
TỔNG QUAN VỀ THUẾ
1. Sự cần thiết của thuế:
Page 3 of 34
Lịch sử xã hội loài người đã trải qua những giai đoạn tiến hoá và phát triển, trong
quá trình đó thì sự hình thành Nhà nước là một tất yếu khách quan. Nhà nước là một
phạm trù mang tính lịch sử, Nhà nước do giai cấp thống trị hình thành nên để cai trị
những giai cấp đối kháng trong xã hội. Nhà nước xét ở khía cạnh phân công lao động xã
hội là một bộ máy tổ chức với nhiều hệ thống cơ quan có chức năng nhiệm vụ khác nhau
để tổ chức cai quản xã hội. Để hoạt động được, bộ máy Nhà nước cần nguồn tài chính để
chi tiêu, trước hết là chi cho việc duy trì và củng cố bộ máy từ trung ương đến địa
phương, chi cho những công việc thuộc chức năng Nhà nước như: chi đầu tư phát triển,
chi an ninh quốc phòng, các vấn đề phúc lợi xã hội…Ngày nay, xã hội càng phát triển thì
nhu cầu chi tiêu càng lớn, cả về phát triển chiều rộng lẫn chiều sâu cho tất cả lĩnh vực.
Như vậy, vấn đề được đặt ra là thu từ đâu để phục vụ cho chi tiêu? Bộ máy Nhà
nước gồm những người chuyên công tác quản lý điều hành chứ không trực tiếp sản xuất
trong khi thu nhập của xã hội do các tầng lớp dân cư tạo ra. Lịch sử cho thấy có 3 hình
thức động viên một phần thu nhập của xã hội để phục vụ nhu cầu chi tiêu của Nhà nước,
đó là: quyên góp, vay của dân và dùng quyền lực buộc dân đóng góp. Quyên góp thì dựa
trên tinh thần tự nguyện, vay thì phải trả mà trả thì lại phải tìm nguồn thu. Cho nên lịch
sử cũng cho thấy hình thức thứ 3 là hữu hiệu và hiệu quả nhất. Và hình thức buộc dân
đóng góp chính là thuế.
Từ những nhận định trên cho thấy, thuế là một sản phẩm tất yếu của sự phân công
lao động xã hội. Thuế ra đời và tồn tại cùng với sự ra đời và tồn tại của Nhà nước, vì Nhà
nước và do Nhà nước. Nhà nước ra đời là một tất yếu khách quan vì vậy thuế cũng là một
tất yếu khách quan với chức năng chủ yếu và đầu tiên là nhằm đảm bảo nguồn tài chính
cho Nhà nước.
2. Khái niệm thuế:
Thuế là nguồn thu quan trọng của ngân sách quốc gia. Nước nào cũng có những
khoản chi ngân sách hằng năm. Để tài trợ cho những khoản công chi đó, có 5 nguồn
tài trợ chính sau:
Page 4 of 34
- Bằng thuế.
- Bằng cách phát hành tiền tệ.
- Bằng cách phát hành công trái.
- Nhận viện trợ hoàn lại và vay, nợ của nước ngoài
- Nhận viện trợ không hoàn lại của nước ngoài
Trong đó thuế giữ vai trò quan trọng hơn cả, vì thuế có sự điều tiết chia sẻ và
công bằng giữa người có thu nhập cao và người có thu nhập thấp đồng thời nói lên sức
mạnh tự chủ về tài chính của một quốc gia.
Phát hành tiền sẽ gây ra mức độ lạm phát nào đó. Các nhà kinh tế tài chính đều
thận trọng về phương diện áp dụng lối tài trợ này.
Phát hành công trái rộng rãi cho công chúng và vay, nợ nước ngoài thì tại các
nước có nền kinh tế phát triển, tiền tệ có giá trị ổn định thì sẽ thu được kết quả tốt. Tuy
nhiên đối với các nước chậm hay đang phát triển thì nguồn tài trợ này có thể gây hậu
quả tương tự như phát hành tiền.
+ Vậy ta có thể định nghĩa về thuế như sau: Thuế là khoản đóng góp bắt buộc
theo luật của mỗi tổ chức, cá nhân đối với nhà nước, không hoàn trả trực tiếp ngang
giá, nhưng được dùng để trang trải các chi phí vì lợi ích chung của toàn dân như: quốc
phòng, an ninh, giao thông, giáo dục, y tế…
3. Đặc điểm thuế:
3.1. Thuế gắn liền với quyền lực Nhà nước:
Bản chất của thuế gắn liền với bản chất của Nhà nước. Nhà nước mang bản chất nào
thì thuế mang bản chất của giai cấp mà Nhà nước đó đại diện. Trong xã hội phong kiến,
Nhà nước vương quyền dùng thuế là phương tiện bóc lột, vơ vét của nhân dân bị trị để
Page 5 of 34
phục vụ cho nhu cầu chi tiêu theo ý chí riêng của giai cấp mình mà không quan tâm đến
lợi ích nhân dân. Đến xã hội tư bản, cũng là xã hội có giai cấp đối kháng là tư sản- vô
sản, thuế đã đóng vai trò to lớn trong nền kinh tế xã hội, thực hiện được nhiều chức năng
của nó nhưng xét về bản chất vẫn phục vụ cho giai cấp tư sản- giai cấp thống trị. Nhà
nước ta là Nhà nước của dân do dân và vì dân nên thuế nước ta mục tiêu cuối cùng cũng
phục vụ lợi ích nhân dân. Quan điểm của Nhà nước ta về thuế là việc động viên vào ngân
sách Nhà nước phải vừa hài hòa về lợi ích kinh tế và xã hội, vừa đảm bảo nguồn thu tài
chính để Nhà nước thực hiện các chức năng điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế, thực hiện các
chính sách xã hội, bảo vệ an ninh quốc phòng.
3.2.Tính cưỡng chế của thuế:
Đây là một phạm trù độc đáo và có nét riêng. Tính cưỡng chế được thể hiện thông
qua các điều khoản pháp luật. Thuế không thể xây dựng trên và dung hòa với tư tưởng tự
nguyện; khoản thuế thu được không thể trông chờ vào thiện chí hay nhiệt tình của dân
chúng đối với Nhà nước. Thuế thể hiện ý chí toàn dân chứ không riêng ai cả.
3.3. Tính không có đối giá trực tiếp:
Nộp thuế cho Nhà nước không giống chi tiền mua một sản phẩm hay dịch vụ nào đó
để thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng riêng tư. Nộp thuế là một nghĩa vụ không thể thoái thác và
khối lượng các lợi ích mà người nộp thuế nhận được từ Nhà nước không liên quan gì đến
khối lượng thuế đã chi trả. Người nộp thuế không nhận lại được lợi ích tương xứng với
khoản họ đóng góp. Khoản tiền từ thuế sẽ được Nhà nước sử dụng vào những mục tiêu
chiến lược và lâu dài, nó quay lại phục vụ cho người dân nhưng gián tiếp và rất khó nhận
thấy.
4. Vai trò của thuế trong nền kinh tế nước ta:
4.1 Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách:
-Một nền tài chính quốc gia lành mạnh và vững chắc phải dựa chủ yếu vào nguồn
thu từ nội bộ nền kinh tế quốc dân. Thuế là nguồn thu quan trọng nhất để phân phối lại
tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân theo đường lối xây dựng kinh tế định
Page 6 of 34
hướng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Hiện nay nguồn thu từ nước ngoài giảm nhiều, kinh
tế đối ngoại chuyển thành có vay, có trả. Trước mắt, thuế phải là một công cụ quan
trọng góp phần tích cực giảm bội chi ngân sách, giảm lạm phát, từng bước góp phần
ổn định trật tự xã hội và phát triển kinh tế bền vững.
- Với cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, hệ thống thuế phải được áp dụng thống
nhất giữa các thành phần kinh tế, thuế phải bao quát hết các hoạt động kinh doanh, các
nguồn thu nhập, mọi tài nguyên chịu thuế và tiêu dùng xã hội.
4.2. Thuế góp phần điều chỉnh nền kinh tế:
Ngoài việc huy động nguồn thu cho ngân sách, thuế có vai trò quan trọng
trong việc điều chỉnh nền kinh tế. Thuế có ảnh hưởng trực tiếp đến giá cả và thu nhập.
Vì vậy căn cứ vào tình hình cụ thể, nhà nước sử dụng công cụ này để chủ động điều
hành nền kinh tế. Lúc nền kinh tế quá thịnh thì việc gia tăng thuế có tác dụng ức chế
sự tăng trưởng của tổng nhu cầu làm giảm phát triển của kinh tế. Những mặt hàng
quan trọng như xăng dầu, sắt thép… khi có sự biến động giá cả trên thế giới, để ổn
định giá cả trong nước nhà nước thông qua công cụ thuế để ổn định giá cả. Như vậy,
qua việc xây dựng các luật thuế mà nhà nước có thể chủ động phát huy vai trò điều
hoà nền kinh tế. Dựa vào công cụ thuế, nhà nước có thể thúc đẩy hoăc hạn chế việc
tích luỹ đầu tư, khuyến khích xuất khẩu….
4.3. Thuế góp phần bảo đảm bình đẳng giữa các thành phần kinh tế và công bằng
xã hội:
Hệ thống thuế được áp dụng thống nhất giữa các ngành nghề, các thành phần kinh
tế, các tầng lớp dân cư để đảm bảo sự bình đẳng và công bằng xã hội.
Sự bình đẳng và công bằng xã hội được thể hiện thông qua chính sách động
viên giống nhau giữa các đơn vị, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế có những điều
kiện hoạt động giống nhau, đảm bảo sự bình đằng về nghĩa vụ đối với mọi công dân,
không có đặc quyền, đặc lợi cho bất kì đối tượng nào.
Page 7 of 34
Công bằng xã hội không có nghĩa là bình quân chủ nghĩa. Người có thu
nhập cao phải đóng thuế nhiều hơn người có thu nhập thấp.Tuy nhiên phải để người có
thu nhập cao chính đáng được hưởng thành quả lao động của mình thì mới khuyến
khích họ phát triển sản xuất kinh doanh, tránh lạm thu, trùng lắp để đảm bảo công
bằng và bình đẳng xã hội.
Bình đẳng, công bằng xã hội không chỉ là đạo lý, lý thuyết mà phải được
biểu hiện bằng luật pháp, chế độ qui định của nhà nước. Phải có những biện pháp
chống thất thu về thuế đối với đối tượng nộp thuế, về căn cứ tính thuế, về tổ chức
quản lý thu thuế, về chế độ miễn giảm thuế, về kiểm tra, xử lý nghiêm minh đối với
các vụ vi phạm trốn thuế…
5. Phân loại thuế:
Phân loại thuế là việc sắp xếp các loại thuế trong hệ thống pháp luật thuế thành
những nhóm khác nhau theo những tiêu thức nhất định.
Căn cứ để phân loại thuế
Tùy thuộc vào mục tiêu, yêu cầu của từng giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội mà cơ
cấu và nội dung các Luật thuế có khác nhau. Cũng tùy thuộc vào cơ sở, mục đích phân
định, thông thường thuế được phân loại theo các tiêu thức sau:
5.1 Căn cứ vào tính chất của nguồn tài chính động viên vào ngân sách Nhà nước,
thuế được phân làm 2 loại: thuế trực thu và thuế gián thu.
- Thuế gián thu là loại thuế mà Nhà nước sử dụng nhằm động viên một phần thu
nhập của người tiêu dùng hàng hóa, sử dụng dịch vụ thông qua việc thu thuế đối với
người sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ. Tính chất gián thu thể hiện ở chổ người
nộp thuế và người chịu thuế không đồng nhất với nhau. Thuế gián thu là một bộ
phận cấu thành trong giá cả hàng hoá, dịch vụ do chủ thể hoạt động sản xuất, kinh doanh
nộp cho Nhà nước nhưng người tiêu dùng lại là người phải chịu thuế. Ở nước ta thuộc
loại thuế này bao gồm: Thuế giá trị gia tăng, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, thuế tiêu
thụ đặc biệt
Page 8 of 34
- Thuế trực thu là loại thuế mà Nhà nước thu trực tiếp vào phần thu nhập của các
pháp nhân hoặc thể nhân. Tính chất trực thu thể hiện ở chổ người nộp thuế theo quy định
của pháp luật đồng thời là người chịu thuế. Thuế trực thu trực tiếp động viên, điều tiết thu
nhập của người chịu thuế.
Ở nước ta thuộc loại thuế này gồm: thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập đối
với người có thu nhập cao, thuế chuyển quyền sử dụng đất, thuế sử dụng đất nông
nghiệp
Sự phân loại thuế thành thuế trực thu và thuế gián thu có ý nghĩa quan trọng trong
việc xây dựng chính sách pháp luật thuế.
5.2. Căn cứ vào đối tượng đánh thuế.
Theo cách phân loại này thuế được chia thành:
• Thuế đánh vào hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ như thuế giá trị gia tăng.
• Thuế đánh vào sản phẩm hàng hoá như thuế xuất nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc
biệt
• Thuế đánh vào thu nhập như thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập đối với
người có thu nhập cao.
• Thuế đánh vào tài sản như thuế nhà đất.
5.3. Căn cứ theo mức thuế:
Thuế đánh theo tỷ lệ %
Thuế lũy tiến
Thuế lũy thoái
Thuế tỷ lệ cố định
Thuế đánh trên mức tuyệt đối
Ấn định một số thu bằng tiền trên một đơn vị tính thuế như trọng lượng, khối
lượng, diện tích, đơn vị sản phẩm
5.4. Phân loại theo chế độ phân cấp và điều hành ngân sách
Thuế trung ương
Được Nhà nước ban hành luật pháp và thu trong phạm vi toàn quốc
Page 9 of 34
Thuế địa phương
Thu trong phạm vi lãnh thổ vùng hoặc địa phương và NSNN ở địa phương hưởng
Ở Việt nam áp dụng CS thuế thống nhất, không có thuế TW, thuế ĐP
II. Tổng quan về lạm phát
1. Khái niệm và đo lường
1.1 Khái niệm
Lạm phát được định nghĩa là sự gia tăng liên tục trong mức giá chung. Điều này
không nhất thiết có nghĩa giá cả của mọi hàng hóa và dịch vụ đồng thời phải tăng lên
theo cùng một tỷ lệ, mà chỉ cần mức giá trung bình tăng lên. Lạm phát vẫn có thể xảy ra
khi giá của một số hàng hóa giảm, nhưng giá cả của các hàng hóa và dịch vụ khác tăng
đủ mạnh.
Lạm phát cũng có thể được định nghĩa là sự suy giảm sức mua của đồng tiền. Trong
bối cảnh lạm phát, một đơn vị tiền tệ mua được ngày càng ít đơn vị hàng hóa và dịch vụ
hơn. Hay nói một cách khác, trong bối cảnh lạm phát, chúng ta sẽ phải chi ngày càng
nhiều tiền hơn để mua một giỏ hàng hóa và dịch vụ nhất định. Nếu thu nhập bằng tiền
không tăng kịp tốc độ trượt giá, thì thu nhập thực tế, tức là sức mua của thu nhập bằng
tiền sẽ giảm. Do vậy, thu nhập thực tế tăng lên hay giảm xuống trong thời kỳ lạm phát
phụ thuộc vào điều gì xảy ra với thu nhập bằng tiền, tức là, phải chăng các cá nhân có
nhận thêm lượng tiền đã giảm giá trị đủ để bù đắp cho sự gia tăng của mức giá hay
không. Người dân vẫn có thể trở nên khá giá hơn khi thu nhập bằng tiền tăng nhanh hơn
tốc độ tăng giá.
Một điều quan trọng mà chúng ta cần nhận thức là lạm phát không chỉ đơn thuần là
sự gia tăng của mức giá mà đó phải là sự gia tăng liên tục trong mức giá. Nếu như chỉ có
một cú sốc xuất hiện làm tăng mức giá, thì dường như mức giá chỉ đột ngột bùng lên rồi
lại giảm trở lại mức ban đầu ngay sau đó. Hiện tượng tăng giá tạm thời như vậy không
Page 10 of 34
được gọi là lạm phát. Tuy nhiên, trong thực tế mỗi cú sốc thường có ảnh hưởng kéo dài
đối với nền kinh tế và do đó có thể gây ra lạm phát.
1.2. Đo lường lạm phát
100
1tnaêmgiaùsoáChæ
1tnaêmgiaùsoáChætnaêmgiaùsoáChæ
I
f
×
−
−−
=
Để đo lường mức độ lạm phát mà nền
kinh tế trải qua trong một thời kỳ nhất định, các nhà thống kê kinh tế sử dụng chỉ tiêu tỷ
lệ lạm phát được tính bằng phần trăm thay đổi của mức giá chung. Tỷ lệ lạm phát cho
thời kỳ t được tính theo công thức sau:
Rõ ràng là để tính được tỷ lệ lạm phát, trước hết các nhà thống kê phải quyết định sử
dụng chỉ số giá nào để phản ánh mức giá. Người ta thường sử dụng chỉ số điều chỉnh
GDP (D) và chỉ số giá tiêu dùng (CPI) để đo lường mức giá chung. Tuy nhiên, nếu mục
tiêu là xác định ảnh hưởng của lạm phát đến mức sống, thì rõ ràng chỉ số giá tiêu dùng tỏ
ra thích hợp hơn. Trong thực tế, các số liệu công bố chính thức về lạm phát trên toàn thế
giới đều được tính trên cơ sở CPI.
2. Phân loại lạm phát
Theo mức độ của tỷ lệ lạm phát, các nhà kinh tế phân biệt 3 loại lạm phát: lạm phát
vừa phải, lạm phát phi mã và siêu lạm phát.
2.1. Lạm phát vừa phải
Lạm phát vừa phải được đặc trưng bởi mức giá tăng chậm và nhìn chung có thể dự
đoán trước được vì tương đối ổn định. Đối với các nước đang phát triển lạm phát ở mức
một con số thường được coi là vừa phải. Đó là mức lạm phát mà bình thường nền kinh tế
Page 11 of 34
trải qua và ít gây tác động tiêu cực đến nền kinh tế. Trong bối cảnh đó, mọi người vẫn sẵn
sàng giữ tiền để thực hiện giao dịch và ký các hợp đồng dài hạn tính bằng tiền vì họ tin
rằng giá và chi phí của hàng hóa mà họ mua và bán sẽ không đi chệch quá xa.
2.2. Lạm phát phi mã
Lạm phát trong phạm vi hai hoặc ba con số một năm thường được gọi là lạm phát
phi mã. Việt Nam và hầu hết các nước chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang
nền kinh tế thị trường đều phải đổi mặt với lạm phát phi mã trong những năm đầu thực
hiện cải cách. Nhìn chung lạm phát phi mã được duy trì trong thời gian dài sẽ gây ra
những biến dạng kinh tế nghiêm trọng. Trong bối cảnh đó, đồng tiền bị mất giá rất nhanh,
cho nên mọi người chỉ giữ lượng tiền tối thiểu vừa đủ cho các giao dịch hàng ngày. Mọi
người có xu hướng tích trữ hàng hóa, mua bất động sản và chuyển sang sử dụng vàng
hoặc các ngoại tệ mạnh để làm phương tiện thanh toán cho các giao dịch có giá trị lớn và
tích lũy của cải.
2.3. Siêu lạm phát
Siêu lạm phát là trường hợp lạm phát đặc biệt cao. Định nghĩa cổ điển về siêu lạm
phát do nhà kinh tế người Mỹ Phillip Cagan đưa ra là mức lạm phát hàng tháng từ 50%
trở lên. Trong khi lạm phát 50% một tháng có thể không thực sự gây ấn tượng, nhưng nếu
tỷ lệ lạm phát này được duy trì liên tục suốt 12 tháng thì tỷ lệ lạm phát cả năm sẽ lên tới
khoảng 13.000 phần trăm. Theo định nghĩa này, cho đến nay thế giới mới trải qua 15
cuộc siêu lạm phát. Một trường hợp được nghi nhận chi tiết về siêu lạm phát là nước Đức
sau Chiến tranh Thế giới thứ Nhất. Giá một tờ báo đã tăng từ 0,3 mác vào tháng 1 năm
1921 lên đến 70.000.000 mác chỉ trong chưa đầy hai năm sau. Giá cả của các thứ khác
cũng tăng với tốc độ tương tự. Từ tháng Giêng năm 1922 đến tháng 11 năm 1923, chỉ số
giá đã tăng từ 1 lên 10.000.000.000. Cuộc siêu lạm phát ở Đức có tác động tiêu cực tới
nền kinh tế Đức đến mức nó thường được coi là một trong những nguyên nhân làm nảy
sinh chủ nghĩa Đức quốc xã và cuộc Chiến tranh Thế giới thứ Hai.
Một số điều kiện cơ bản gây ra siêu lạm phát:
Page 12 of 34
Thứ nhất, các hiện tượng này chỉ xuất hiện trong các hệ thống sử dụng tiền pháp
định.
Thứ hai, nhiều cuộc siêu lạm phát đã có xu hướng xuất hiện trong thời gian sau
chiến tranh, nội chiến, hoặc cách mạng, do sự căng thẳng về ngân sách chính phủ. Vào
những năm 1980, các cú sốc bên ngoài và cuộc khủng hoảng nợ của thế giới thứ ba đã
đóng vai trò quan trọng trong việc gây ra siêu lạm phát ở một số nước Mỹ La-tinh. Đặc
điểm chung của mọi cuộc siêu lạm phát là sự gia tăng quá mức trong cung tiền, điều này
thường bắt nguồn từ sự cần thiết phải tài trợ cho thâm hụt ngân sách quá lớn. Hơn nữa,
một khi lạm phát cao đã bắt đầu, tình hình thâm hụt ngân sách có thể trở nên không thể
kiểm soát được: lạm phát cao dẫn đến giảm mạnh nguồn thu từ thuế tính theo phần trăm
so với GDP, làm tăng thâm hụt ngân sách và chính phủ sẽ phải dựa nhiều hơn vào phát
hành tiền mà điều này đến lượt sẽ đẩy lạm phát dâng lên cao hơn. Dựa trên các bằng
chứng lịch sử, dường như là thâm hụt ngân sách kéo dài được tài trợ bằng phát hành tiền
trong khoảng từ 10-12 % của GDP sẽ gây ra siêu lạm phát.
3. Các nguyên nhân gây ra lạm phát
3.1. Lạm phát do cầu kéo
Lạm phát do cầu kéo xảy ra do tổng cầu tăng, đặc biệt khi sản lượng đã đạt hoặc
vượt quá mức tự nhiên. Thực ra đây cũng là một cách định nghĩa về lạm phát dựa vào
nguyên nhân gây ra lạm phát: lạm phát được coi là do sự tồn tại của một mức cầu quá
cao. Theo lý thuyết này nguyên nhân của tình trạng dư cầu được giải thích do nền kinh tế
chi tiêu nhiều hơn năng lực sản xuất. Tuy nhiên để cho định nghĩa này có sức thuyết phục
thì cần phải giải thích tại sao chi tiêu lại liên tục lớn hơn mức sản xuất. Chúng ta sẽ lần
lượt xem xét các thành tố của tổng cầu. Lạm phát có thể hình thành khi xuất hiện sự gia
tăng đột biến trong nhu cầu về tiêu dùng và đầu tư. Chẳng hạn, khi có những làn sóng
mua sắm mới làm tăng mạnh tiêu dùng, giá cả của những mặt hàng này sẽ tăng, làm cho
lạm phát dâng lên và ngược lại.
Page 13 of 34
Tương tự, lạm phát cũng phụ thuộc vào sự biến động trong nhu cầu đầu tư: sự lạc
quan của các nhà đầu tư làm tăng nhu cầu đầu tư và do đó đẩy mức giá tăng lên. Trong
nhiều trường hợp, lạm phát thường bắt nguồn từ sự gia tăng quá mức trong các chương
trình chi tiêu của chính phủ. Khi chính phủ quyết định tăng chi tiêu cho tiêu dùng và đầu
tư nhiều hơn vào cơ sở hạ tầng, thì mức giá sẽ tăng. Ngược lại, khi chính phủ quyết định
cắt giảm các chương trình chi tiêu công cộng, hoặc các công trình đầu tư lớn đã kết thúc,
thì mức giá sẽ giảm.
Lạm phát cũng có nguyên nhân từ nhu cầu xuất khẩu. Tuy nhiên, hàng xuất khẩu tác
động tới lạm phát trong nước theo một cách khác: khi nhu cầu xuất khẩu tăng, lượng còn
lại để cung ứng trong nước giảm và do vậy làm tăng mức giá trong nước. Ngoài ra, nhu
cầu xuất khẩu và luồng vốn chảy vào cũng có thể gây ra lạm phát, đặc biệt trong chế độ
tỷ giá hối đoái cố định, vì điều này có thể là nguyên nhân dẫn tới sự gia tăng lượng tiền
cung ứng. Tình hình ngược lại sẽ xảy ra khi nhu cầu xuất khẩu và luồng vốn nước ngoài
chảy vào giảm do nền kinh tế thế giới hay trong khu vực lâm vào suy thoái. Do đường
tổng cung dốc lên trong ngắn hạn, nền kinh tế sẽ có tốc độ tăng trưởng cao hơn và thất
nghiệp thấp hơn, nhưng đồng thời lại phải đối mặt với lạm phát. Rõ ràng lạm phát do cầu
kéo sẽ không phải là vấn đề mà thực ra còn cần thiết và có lợi cho nền kinh tế nếu như
nền kinh tế còn nhiều nguồn lực chưa sử dụng. Ngược lại, lạm phát do cầu kéo sẽ trở
thành vấn đề thực sự nếu như toàn bộ nguồn lực đã sử dụng hết và đường tổng cung trở
nên rất dốc. Khi đó, sự gia tăng tổng cầu chủ yếu đẩy lạm phát dâng cao trong khi sản
lượng và việc làm tăng lên rất ít.
3.2. Lạm phát do chi phí đẩy
Lạm phát cũng có thể xảy ra khi một số loại chi phí đồng loạt tăng lên trong toàn bộ
nền kinh tế. Trong đồ thị tổng cung-tổng cầu, một cú sốc như vậy sẽ làm đường tổng
cung dịch chuyển lên trên và sang bên trái. Trong bối cảnh đó, mọi biến số kinh tế vĩ mô
trong nền kinh tế đều biến động theo chiều hướng bất lợi: sản lượng giảm, cả thất nghiệp
và lạm phát đều tăng. Chính vì vậy, loại lạm phát này được gọi là lạm phát do chi phí đẩy
hay lạm phát đi kèm suy thoái (stagflation). Ba loại chi phí thường gây ra lạm phát là:
Page 14 of 34
tiền lương, thuế gián thu và giá nguyên liệu nhập khẩu. Khi công đoàn thành công trong
việc đẩy tiền lương lên cao, các doanh nghiệp sẽ tìm cách tăng giá và kết quả là lạm phát
xuất hiện. Vòng xoáy đi lên của tiền lương và giá cả sẽ tiếp diễn và trở nên nghiêm trọng
nếu chính phủ tìm cách tránh suy thoái bằng cách mở rộng tiền tệ. Việc chính phủ tăng
những loại thuế tác động đồng thời đến tất cả các nhà sản xuất cũng có thể gây ra lạm
phát. Ở đây, thuế gián thu (kể cả thuế nhập khẩu, các loại lệ phí bắt buộc) đóng một vai
trò đặc biệt quan trọng, vì chúng tác động trực tiếp tới giá cả hàng hoá. Nếu so sánh với
các nước phát triển là những nước có tỷ lệ thuế trực thu cao, chúng ta có thể nhận định
rằng ở các nước đang phát triển, nơi mà thuế gián thu chiếm tỷ trọng lớn trong tổng
nguồn thu từ thuế, thì thay đổi thuế gián thu dường như có tác động mạnh hơn tới lạm
phát.
Đối với các nền kinh tế nhập khẩu nhiều loại nguyên, nhiên, vật liệu thiết yếu mà
nền công nghiệp trong nước chưa sản xuất được, thì sự thay đổi giá của chúng (có thể do
giá quốc tế thay đổi hoặc tỷ giá hối đoái biến động) sẽ có ảnh hưởng quan trọng đến tình
hình lạm phát trong nước. Nếu giá của chúng tăng mạnh trên thị trường thế giới hay đồng
nội tệ giảm giá mạnh trên thị trường tài chính quốc tế, thì chi phí sản xuất trong nước sẽ
tăng mạnh và lạm phát sẽ bùng nổ.
Những yếu tố nêu trên có thể tác động riêng rẽ, nhưng cũng có thể gây ra tác động
tổng hợp, làm cho lạm phát có thể tăng tốc. Nếu chính phủ phản ứng quá mạnh thông qua
các chính sách thích ứng, thì lạm phát có thể trở nên không kiểm soát được, như tình hình
của nhiều nước công nghiệp trong thập niên 1970 và đầu thập niên 1980.
3.3. Lạm phát theo thuyết định lượng tiền tệ
Lý thuyết tiền tệ là cách giải thích thuyết phục nhất về nguồn gốc sâu xa của hiện
tượng lạm phát. Tư tưởng cơ bản của các nhà tiền tệ là luận điểm cho rằng lạm phát về cơ
bản là hiện tượng tiền tệ. Tuy nhiên, nhiều tác giả khác, ví dụ như Friedman đã đi xa hơn
và đề ra một hình thái mạnh hơn của chủ nghĩa tiền tệ. Họ đã chỉ ra mối quan hệ nhân
quả trực tiếp giữa cung tiền và lạm phát: "Lạm phát ở đâu và bao giờ cũng là hiện tượng
tiền tệ và nó chỉ có thể xuất hiện một khi cung tiền tăng nhanh hơn sản lượng". Thực
Page 15 of 34
ra, kết luận này dựa trên hai điều. Thứ nhất, các nhà tiền tệ cho rằng lạm phát gây ra bởi
sự dư thừa tổng cầu so với tổng cung, và nguyên nhân của sự dư cầu này là do có quá
nhiều tiền trong lưu thông. Nếu cách giải thích này đúng về mặt lịch sử, thì nó khẳng
định rằng lạm phát gây ra bởi sức ép từ phía cầu, chứ không phải từ phía cung. Thứ hai,
các nhà tiền tệ giả thiết rằng mối quan hệ nhân quả bắt nguồn từ cung ứng tiền đến mức
giá, chứ không phải ngược lại là giá cả tăng lên làm tăng lượng tiền cung ứng. Để hiểu
mối quan hệ đó chúng ta phải xem xét cơ chế lan truyền. Với giả thiết về thị trường cân
bằng, và bắt đầu từ vị trí cân bằng trên thị trường tiền tệ, khi đó sự gia tăng trong cung
ứng tiền tệ sẽ dẫn đến sự mất cân bằng trên thị trường tiền tệ. Để thiết lập trạng thái cân
bằng, một phần của số tiền dư thừa được dùng để mua hàng hoá và dịch vụ. Tuy nhiên, vì
số lượng hàng hoá và dịch vụ được qui định bởi các nguồn lực khan hiếm trong nền kinh
tế, do đó xuất hiện dư cầu trên thị trường hàng hoá. Điều này, đến lượt nó sẽ gây áp lực
làm giá cả tăng lên để thiết lập trạng thái cân bằng mới trên thị trường hàng hoá. Trong
mô hình tổng cung - tổng cầu, sự gia tăng cung ứng tiền tệ sẽ dẫn đến sự dịch chuyển
sang bên phải của đường tổng cầu và làm tăng mức giá do đường tổng cung thẳng đứng
trong dài hạn. Điểm khởi đầu cho lý thuyết số lượng là quan sát cho thấy dân cư giữ tiền
chủ yếu để mua hàng hóa và dịch vụ. Giả sử Y là mức sản lượng mà nền kinh tế tạo ra
trong một năm và P là giá của một đơn vị sản lượng điển hình, khi đó số đồng được trao
đổi trong năm bằng P.Y. Vì tiền trao tay khi giao dịch, chúng ta có thể sử dụng thông tin
này để dự đoán số lần mà một tờ giấy bạc điển hình trao tay trong năm. Nếu chúng ta ký
hiệu V là tốc độ chu chuyển, tức là số lần trung bình mà một tờ giấy bạc điển hình được
sử dụng để mua hàng hóa và dịch vụ trong một năm, và M là cung tiền, thì số đơn vị tiền
tệ trao đổi trong năm cần phải bằng M.V. Do vậy, chúng ta có đồng nhất thức:
M.V = P.Y
Đó là phương trình số lượng, bởi vì nó phản ánh mối quan hệ giữa lượng tiền cung
ứng (M) và GDP danh nghĩa (P.Y). Phương trình số lượng cho thấy sự gia tăng lượng tiền
trong nền kinh tế phải được phản ánh ở một trong ba biến số khác: mức giá phải tăng, sản
lượng phải tăng, hoặc tốc độ chu chuyển tiền tệ phải giảm. Nhìn chung, tốc độ chu
Page 16 of 34
chuyển tiền tệ tương đối ổn định theo thời gian. Khi đó, lạm phát (P tăng) chỉ có thể xảy
ra khi lượng tiền cung ứng (M) tăng nhanh hơn sản lượng (Y): tốc độ tăng cung tiền càng
cao thì tỷ lệ lạm phát càng cao (khi các nhân tố khác không thay đổi). Đồng thời, các biện
pháp chính sách mà một nước cần thực hiện để giảm lạm phát chính là cắt giảm tốc độ
cung ứng tiền tệ. Như vậy, theo quan điểm này, chính sách tiền tệ sẽ là chính sách then
chốt nhằm kiểm soát lạm phát; và chính sách tài khoá cũng có thể ảnh hưởng đến lạm
phát bởi vì thâm hụt ngân sách của chính phủ có xu hướng làm tăng cung tiền.
3.4. Lạm phát ỳ
Trong các nền kinh tế hiện đại trừ lạm phát và lạm phát phi mã, lạm phát vừa phải
có xu hướng ổn định theo thời gian. Hàng năm, mức giá tăng lên theo một tỷ lệ khá ổn
định. Tỷ lệ lạm phát này được gọi là tỷ lệ lạm phát ỳ. Đây là loại lạm phát hoàn toàn
được dự tính trước. Mọi người đã biết trước và tính đến khi thỏa thuận về các biến danh
nghĩa được thanh toán trong tương lai.
4. Những tổn thất xã hội – Tác động của lạm phát
Tại sao người dân lại không thích lạm phát? Nếu như thu nhập danh nghĩa luôn tăng
cùng với mức giá, thì thu nhập thực tế giữ nguyên không thay đổi. Song điều này thường
khó xảy ra. Tính chất của lạm phát có ảnh hưởng quan trọng đến tổn thất mà lạm phát
gây ra cho xã hội. Theo tính chất người ta phân biệt lạm phát được dự tính trước và lạm
phát không được dự tính trước.
4.1. Đối với lạm phát được dự tính trước
Lạm phát hoàn toàn được dự tính trước là trường hợp lạm phát xảy ra đúng như dự
tính từ trước của các tác nhân kinh tế. Trong trường hợp này, mọi khoản vay, tiền lương
cũng như hợp đồng về các biến danh nghĩa khác nhìn chung được điều chỉnh thích ứng
với tốc độ trượt giá. Loại lạm phát này gây ra những tổn thất gì cho xã hội?
Thứ nhất, lạm phát hoạt động giống như một loại thuế đánh vào những người giữ
tiền và được gọi là thuế lạm phát. Tuy nhiên chúng ta cần thận trọng phân biệt thuế lạm
phát với thuế đúc tiền. Như chúng ta đã biết thâm hụt ngân sách xảy ra khi chính phủ chi
Page 17 of 34
nhiều hơn thu nhập từ thuế. Chính phủ có thể tài trợ thâm hụt bằng đi vay hoặc in tiền.
Tương tự như thuế, tiền mới phát hành cũng là một nguồn thu của chính phủ bởi vì chi
phí phát hành tiền mới rất nhỏ, trong khi chính phủ có thể sử dụng số tiền đó để mua
hàng hóa và dịch vụ. Thu nhập mà chính phủ nhận được bằng cách in tiền được gọi là
thuế đúc tiền. Tuy nhiên, một số người phải trả cho khoản thu nhập đó của chính phủ.
Thực ra, khi in tiền mới, chính phủ đã đánh thuế lạm phát. Lượng tiền được cung ứng
nhiều hơn thường gây ra lạm phát và do đó làm giảm giá trị của những đồng tiền đang
lưu hành. Có một điều chúng ta cần nhận thức đúng là bản thân thuế không phải là chi
phí đối với xã hội, nó chỉ là sự chuyển giao nguồn lực từ các hộ gia đình sang cho chính
phủ. Nhưng kinh tế học vi mô lại chỉ ra rằng hầu hết các loại thuế đều làm cho mọi người
có động cơ thay đổi hành vi để tránh thuế và gây biến dạng các kích thích này làm cho xã
hội với tư cách một tổng thể bị tổn thất. Giống như các loại thuế khác, thuế lạm phát cũng
gây ra tổn thất cho xã hội bởi vì mọi người lãng phí nguồn lực khan hiếm khi tìm cách
tránh thuế. Lạm phát làm tăng lãi suất danh nghĩa, và do đó làm giảm cầu tiền. Nếu bình
quân mọi người giữ ít tiền hơn, họ cần đến ngân hàng thường xuyên hơn để rút tiền. Sự
bất tiện của việc giữ ít tiền hơn tạo nên chi phí mòn giày, vì việc đến ngân hàng nhiều
hơn làm cho “giày” của bạn chóng mòn hơn. Tuy nhiên, không nên hiểu khoản chi phí
này theo nghĩa đen của nó: chi phí thực tế mà bạn bỏ ra để giữ ít tiền hơn không chỉ ở chỗ
giày của bạn nhanh mòn, mà là thời gian và sự tiện lợi mà bạn phải hy sinh khi giữ ít tiền
hơn – cái mà bạn không phải trả khi không có lạm phát.
Thứ hai, lạm phát gây ra chi phí thực đơn. Đó là những chi phí phát sinh do các
doanh nghiệp có thể phải gửi các catalô mới cho khách hàng, phân phối bảng giá mới cho
nhân viên bán hàng của mình, các hiệu ăn cũng phải thay đổi thực đơn mới, khi giá cả
thay đổi. Việc này đôi khi cũng tốn kém.
Thứ ba, lạm phát có thể tạo ra những thay đổi không mong muốn trong giá tương
đối. Giả sử một doanh nghiệp có phát hành catalô chỉ thay đổi giá cả mỗi năm một lần do
phát sinh chi phí liên quan đến việc in và phân phối catalô, và giả sử các doanh nghiệp
khác thay đổi giá cả thường xuyên hơn. Nếu trong năm các doanh nghiệp khác tăng giá
Page 18 of 34
bán cho các sản phẩm của họ, thì giá tương đối của sản phẩm do doanh nghiệp phát hành
catalô sẽ giảm. Như chúng ta đã biết kinh tế vi mô nhấn mạnh đến vai trò của giá tương
đối trong việc phân bổ các nguồn lực một cách có hiệu quả. Trong chừng mực mà lạm
phát gây ra sự thay đổi giá cả không đều và do đó làm méo mó giá tương đối, thì sức
mạnh của thị trường tự do sẽ bị hạn chế. Sự phân bổ sai lệch này cũng cần được hiểu là
nội dung truyền đạt thông tin của giá cả bị suy yếu.
Thứ tư, lạm phát có thể làm thay đổi nghĩa vụ nộp thuế của các cá nhân thường trái
với ý định của những người làm luật. Trên thực tế, luật thuế thường không tính đến tác
động của lạm phát, và do vậy khi thu nhập danh nghĩa tăng, mọi người sẽ phải nộp mức
thuế cao hơn, ngay cả khi thu nhập thực tế của họ không thay đổi và do vậy làm giảm thu
nhập khả dụng của họ. Điều này không khuyến khích mọi người làm nhiều, làm tốt và
làm hiệu quả. Lạm phát có ảnh hưởng chủ yếu đến hai loại thuế đánh vào thu nhập từ tiết
kiệm: Tiền lãi vốn là thu nhập có được từ việc bán một tài sản cao hơn giá mua. Lãi vốn
danh nghĩa là đối tượng chịu thuế. Giả sử bạn mua một cổ phiếu giá 20 đồng và bán nó
với giá 50 đồng. Nếu mức giá tăng gấp đôi trong thời gian sở hữu cổ phiếu đó, thì bạn chỉ
thu được một khoản lãi về vốn thực tế là 10 đồng (bởi vì thực ra bạn phải bán cổ phiếu
với giá 40 đồng thì mới hòa vốn), nhưng bạn phải đóng thuế trên khoản thu nhập danh
nghĩa là 30 đồng, vì luật thuế không tính đến lạm phát. Tiền lãi danh nghĩa cũng bị đánh
thuế, cho dù một phần tiền lãi danh nghĩa đơn thuần chỉ để bù đắp lạm phát. Khi chính
phủ đánh thuế theo một tỷ lệ phần trăm cố định của tiền lãi danh nghĩa, thì tiền lãi suất
thực tế sau thuế vẫn giảm trong điều kiện có lạm phát ngay cả khi lãi suất danh nghĩa
được điều chỉnh hoàn toàn cùng với tỷ lệ lạm phát. Chẳng hạn, chính phủ đánh thuế 30%
thu nhập từ tiền lãi. Nếu ban đầu, lãi suất danh nghĩa là 10% và tỷ lệ lạm phát là 5%, thì
lãi suất thực tế trước thuế là 5% và lãi suất thực tế sau thuế là 2% [=(1-0,3)×10% - 5%].
Sau đó, giả sử tỷ lệ lạm phát tăng lên 10% và lãi suất danh nghĩa được điều chỉnh hoàn
toàn theo lạm phát lên 15% để duy trì lãi suất thực tế trước thuế không thay đổi. Tuy
nhiên, bây giờ lãi suất thực tế sau thuế giảm xuống chỉ còn 0,5 % [=(1-0,3)×15% - 10%].
Bởi vì thuế đánh trên lãi vốn danh nghĩa và tiền lãi danh nghĩa, cho nên lạm phát làm
Page 19 of 34
giảm lợi tức thực tế sau thuế cho các khoản tiết kiệm và vì vậy lạm phát không khuyến
khích tiết kiệm và không có lợi cho tăng trưởng kinh tế. Vấn đề này có thể được giải
quyết bằng cách đưa lạm phát ra khỏi hệ thống thuế hoặc áp dụng chỉ số trượt giá trong
hệ thống thuế sao cho thuế chỉ còn đánh vào thu nhập thực tế.
Cuối cùng, lạm phát gây ra sự nhầm lẫn và bất tiện. Hãy tưởng tượng rằng chúng ta
tiến hành thăm dò ý kiến và đặt ra cho mọi người câu hỏi sau: “Hiện tại 1 m bằng 100
cm. Theo bạn, năm tới 1 m nên có độ dài bao nhiêu?” Giả sử mọi người đều trả lời một
cách nghiêm túc, thì chắn chắn họ sẽ nói với chúng ta là độ dài của 1 m năm tới vẫn nên
bằng 100 cm. Cách làm khác chỉ phức tạp hoá vấn đề một cách không cần thiết. Phát hiện
này có gì liên quan đến lạm phát? Chúng ta đã biết tiền là đơn vị hạnh toán, tức tiền là cái
mà chúng ta sử dụng để niêm yết giá và ghi các khoản nợ. Nói cách khác, tiền là thước đo
mà chúng ta sử dụng để đo lường các giao dịch kinh tế. Nhiệm vụ của Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam tương tự công việc của Tổng cục tiêu chuẩn đo lường ở chỗ là đảm bảo
tính tin cậy của đơn vị đo lường được sử dụng phổ biến. Khi Ngân hàng Nhà nước tăng
cung ứng tiền tệ và gây ra lạm phát, nó làm méo mó giá trị thực tế của đơn vị hạnh toán.
Thật là khó có thể tính toán được tác hại của sự nhầm lẫn và bất tiện gắn với lạm phát.
Như vậy việc các luật thuế đo lường sai thu nhập như thế nào khi nền kinh tế có lạm phát.
Điều đó cũng giống như các nhà kế toán tính sai các khoản thu nhập của doanh nghiệp
khi giá cả thay đổi theo thời gian. Vì lạm phát làm cho đồng tiền có sức mua không giống
nhau vào các thời điểm khác nhau, nên việc tính toán lợi nhuận của công ty - phần chênh
lệch giữa các khoản thu và chi phí - sẽ phức tạp hơn khi nền kinh tế có lạm phát. Do vậy,
trong một chừng mực nào đó, lạm phát làm cho các nhà đầu tư khó phân biệt giữa các
doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả và các doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả và kết quả
là cản trở thị trường tài chính trong trong việc phân bổ một cách hiệu quả các khoản tiết
kiệm của nền kinh tế cho các dự án đầu tư.
4.2. Đối với lạm phát không được dự tính trước
Lạm phát không được dự tính trước dẫn đến sự phân phối lại thu nhập giữa các
thành viên trong xã hội không theo nỗ lực, cống hiến và nhu cầu của họ. Xét các hợp
Page 20 of 34
đồng tín dụng dài hạn. Các hợp đồng tín dụng thường qui định mức lãi suất danh nghĩa
dựa trên tỷ lệ lạm phát dự tính. Khi tỷ lệ lạm phát thực tế khác với tỷ lệ lạm phát dự tính
thì lãi suất thực tế thực hiện và lãi suất thực tế dự tính cũng khác nhau. Nếu tỷ lệ lạm phát
thực tế lớn hơn tỷ lệ lạm phát dự tính, thì lãi suất thực tế thực hiện thấp hơn lãi suất thực
tế dự tính. Điều đó có nghĩa người tiết kiệm có thu nhập thấp hơn dự tính ban đầu, trong
khi người đi vay trả vốn gốc và tiền lãi bằng những đồng tiền kém giá trị hơn so với dự
tính ban đầu. Điều đó hàm ý có sự phân phối lại của cải từ người cho vay sang người đi
vay. Người đi vay sẽ được lợi, còn người cho vay sẽ bị tổn thất. Sự phân phối lại diễn ra
theo chiều hướng ngược lại khi tỷ lệ lạm phát thực tế thấp hơn tỷ lệ lạm phát dự tính.
Lạm phát không được dự tính trước còn gây tổn thất cho những người nhận thu
nhập danh nghĩa cố định hoặc có thu nhập danh nghĩa chậm được điều chỉnh theo lạm
phát. Công nhân và doanh nghiệp thường thoả thuận về mức lương danh nghĩa trong các
hợp đồng lao động dài hạn dựa trên kỳ vọng về lạm phát. Do vậy, công nhân sẽ bị tổn
thất khi lạm phát cao hơn mức dự kiến, ngược lại các doanh nghiệp lại bị tổn thất khi lạm
phát thấp hơn mức dự kiến. Trên thực tế, lạm phát cao thường có xu hướng biến động
mạnh và khó dự đoán trước, gây ranhững bất trắc và rủi ro cho các hoạt động tiết kiệm và
đầu tư dài hạn, và do đó không có lợi cho tăng trưởng kinh tế. Chính vì vậy ổn định lạm
phát ở mức thấp là một mục tiêu quan trọng của điều tiết vĩ mô.
III. Mối quan hệ giữa thuế và lạm phát:
1. Tác động của lạm phát lên thuế:
1.1. Đối với người dân:
Trong môi trường lạm phát, sức mua của đồng tiền bị bào mòn, nó như một loại
thuế đánh vào thu nhập thực tế của người có thu nhập (inflation tax). Chẳng hạn như
trước đây, 1 nghìn mua được một quả trứng, hiện tại 3 nghìn mới mua được 1 quả trứng.
Với cùng một lượng tiền mặt như nhau nhưng khi lạm phát xảy ra, sau một thời gian
người giữ tiền sẽ mua được ít hàng hóa hơn. Ví dụ, với mức giá tăng đến 17,96% trong
năm 2010 và giả sử 1kg lương thực có giá 10 nghìn đồng vào đầu năm thì 100 nghìn
đồng sẽ mua được 10kg, nhưng cuối năm chỉ còn 8,5kg. Tính bình quân trong năm 2010,
Page 21 of 34
những người giữ tiền mặt đã mất 11,75% giá trị tài sản của mình khi so với rổ hàng hóa
chung của cả nền kinh tế.
Và bằng việc in tiền để mua hàng hóa trong nền kinh tế của mình, Nhà nước đã làm
giảm giá trị (sức mua) của lượng tiền đang có. Một cách gián tiếp Nhà nước đã đánh thuế
lên những người nắm giữ tiền mặt. Đây chính là thuế lạm phát.
Thuế lạm phát là thứ thuế mà hầu như nước nào cũng có, nhưng nó có tính lũy thoái
mà hiểu một cách đơn giản người có thu nhập thấp hơn phải chịu mức thuế suất cao hơn.
Nguyên nhân gây ra tính lũy thoái của thuế lạm phát là do việc tăng giá trong nền
kinh tế theo khuynh hướng các mặt hàng thiết yếu như lương thực, thực phẩm - rổ hàng
hóa tiêu dùng chủ yếu của người nghèo - thường cao hơn rất nhiều so với những mặt
hàng khác, nhất là những hàng hóa cao cấp - loại hàng hóa chiếm một tỷ phần chi tiêu lớn
của những người khá giả hơn.
Tóm lại, thuế lạm phát là thứ thuế tồn tại trong hầu hết các nền kinh tế, nhưng nó có
tính lũy thoái đánh vào người nghèo gây ra bất công trong xã hội nên cần phải hết sức
hạn chế bằng việc kéo mức tăng giá xuống càng thấp càng tốt (thông thường là một vài
phần trăm ở các nước phát triển và dưới 5% ở các nước đang phát triển).
1.2. Tác động của lạm phát đối với thuế thu nhập cá nhân:
Ngoài ra, lạm phát cũng tác động tới thuế thu nhập cá nhân bằng nhiều cách khác.
Bất cứ đại lượng nào của thuế thu nhập được tính bằng số đo danh nghĩa, như là các dòng
thuế và các khoản giảm thuế, đều thay đổi giá trị khi có lạm phát. Nếu các dòng thuế cố
định theo các số đo danh nghĩa, thì trong trường hợp lạm phát mà nó làm cho thu nhập
danh nghĩa tăng lên, người trả thuế được đẩy lên dòng thuế cao hơn. Hiện tượng này,
được nhắc đến như là sự trườn lên của dòng thuế, là một cách mà thuế suất trung bình
tăng lên theo thời gian. Để ngăn chặn sự trườn lên của dòng thuế này, các dòng thuế có
thể được áp dụng hệ số theo những thay đổi của chỉ số giá. Các khoản khấu trừ chuẩn,
miễn giảm cá nhân cũng được xác lập theo các số đo danh nghĩa và bị giảm giá trị trong
trường hợp lạm phát nếu chúng không được áp dụng hệ số theo những thay đổi của chỉ số
Page 22 of 34
giá. Vì vậy, hệ thống thuế thu nhập cần được điều chỉnh theo lạm phát, nhưng thực tế là
các chính phủ không điều chỉnh theo lạm phát.
Trong tình trạng lạm phát làm tăng lãi suất danh nghĩa, đã làm tăng gánh nặng về
thuế đối với người cho vay và làm giảm gánh nặng về thuế đối với người đi vay. Ngoài
ra, chính việc tăng lãi suất cũng đã làm tăng gánh nặng thuế đánh vào các khoản thu nhập
kiếm được từ tiết kiệm. Bởi vì, khi nền kinh tế có lạm phát Chính phủ sẽ áp dụng các
biện pháp thắt chặt tiền tệ bằng cách tăng lãi suất. Do đó khi lãi suất tăng thì các khoản
lãi nhận được từ tiết kiệm/lãi từ việc cho vay cũng sẽ tăng lên và đẩy mức thu nhập của
người dân vào khung thuế cao hơn.
Trong thời kỳ lạm phát giá cả hàng hóa – dịch vụ tăng lên, bên cạnh đó tiền lương
danh nghĩa cũng theo xu hướng tăng lên, vì vậy thu nhập thực tế của người lao động nói
chung có thể không đổi hoặc tăng lên, hoặc giảm đi chứ không phải bao giờ cũng suy
giảm. Lạm phát là thuế vô hình đánh vào toàn dân mà người thu nhập càng cố định thì
hiệt hại càng lớn.
Lạm phát cũng như là một đòn bẩy vào chính mức thuế thu nhập của người có thu
nhập. Cụ thể môi trường lạm phát cao thì làm cho các khoản mất đi từ thuế có tác động
lớn hơn rất nhiều so với môi trường lạm phát thấp (thuế trên thuế). Bởi vì, cùng chi tiêu
một tỷ lệ % số thu nhập có được, người thu nhập thấp sẽ thấy khó khăn hơn rất nhiều so
với người có thu nhập cao. Chính vì vậy, giảm thuế trong môi trường lạm phát cao có tác
dụng tích cực hơn nhiều về hỗ trợ mức sống, vừa hỗ trợ vốn cho việc tiếp tục duy trì hoạt
động đầu tư, kinh doanh. Đối với thị trường chứng khoán, với cùng một kỳ vọng sinh lợi,
sẽ kích thích người ta đầu tư nhiều hơn hơn trước.
1.3. Đối với Nhà nước:
Lạm phát có tác động làm gia tăng số thuế nhà nước thu được trong những trường
hợp nhất định. Nếu hệ thống thuế tăng dần (thuế suất lũy tiến) thì tỷ lệ lạm phát cao hơn
sẽ đẩy người chịu thuế sang nhóm phải đóng thuế cao hơn trong trường hợp lương được
Page 23 of 34
điều chỉnh tăng, và như vậy chính phủ có thể thu được nhiều thuế hơn mà không phải
thông qua luật.
Sau đó ảnh hưởng nặng nề của lạm phát mà những nguồn thu của NS (chủ yếu là
thuế) ngày càng bị giảm do sản xuất yếu kém, nhiều công ty phá sản…
2.Thuế điều chỉnh lạm phát
- Theo các lý thuyết kinh tế, lạm phát và tăng giá có thể xuất phát từ nguyên nhân cầu kéo
hoặc chi phí đẩy. Trường hợp lạm phát do nguyên nhân cầu kéo làm giá cả tăng cao. Nhà
nước có thể dùng biện pháp điều chỉnh tăng thuế tiêu dùng làm giảm bớt áp lực tăng cầu
giả tạo, trên cơ sở điều chỉnh lại quan hệ cung cầu.
- Nếu lạm phát nảy sinh từ chi phí đẩy, thì việc giảm thuế đối với các yếu tố đầu vào là cần
thiết nhằm giảm nhẹ áp lực tăng chi phí và tạo điều kiện hạ giá bán sản phẩm, trên cơ sở
đó lập lại quan hệ cung cầu, ổn định giá cả thị trường.
Trên cơ sở phân loại thành thuế trực thu và thuế gián thu, ta có những tác động điều
chỉnh cơ bản của thuế lên lạm phát.
2.1. Thuế trực thu tác động tới lạm phát
Lạm phát do chi phí đẩy:
Giá cả hàng hoá đầu vào tăng cao, doanh nghiệp đứng trước mức chi phí đầu vào
cao, khó khăn trong quá trình sản xuất kinh doanh. Đối với khoản thu nhập cá nhân, lạm
phát tăng cao, thu nhập thực giảm, cá nhân hạn chế tiêu dùng hàng hoá có giá trị cao.
Tổng nhu cầu xã hội cũng giảm, ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế.
Đễ hỗ trợ doanh nghiệp phát triển, chính phủ có chính sách miễn, hoãn thuế thu
nhập doanh nghiệp nhằm làm giảm chi phí đầu vào, giảm giá thành sản phẩm dịch vụ cho
các doanh nghiệp. Đồng thời có những hỗ trợ trên thuế thu nhập cá nhân. Chính nhờ
những biện pháp của chính phủ, doanh nghiệp có thể vượt qua khủng hoảng, cá nhân đảm
bảo thu nhập tiêu dùng hàng hoá dịch vụ, kinh tế từng bước ổn định, lạm phát được giải
quyết.
Page 24 of 34
Ví dụ: Lạm phát (2011) 18,58% - Nghị định số 101/2011/NĐ-CP ngày 4/11/2011
của Chính phủ. Theo đó, giảm 30% số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp năm 2011
của doanh nghiệp nhỏ và vừa, trừ số thuế tính trên thu nhập từ kinh doanh xổ số, kinh
doanh bất động sản, kinh doanh tài chính, kinh doanh chứng khoán, ngân hàng, bảo hiểm
và thu nhập từ sản xuất hàng hóa, kinh doanh dịch vụ thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc
biệt Đồng thời, giảm 30% số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp năm 2011 của doanh
nghiệp sử dụng nhiều lao động trong lĩnh vực sản xuất, gia công, chế biến nông sản, lâm
sản, thủy sản, dệt may, da giày, linh kiện điện tử, xây dựng các công trình hạ tầng kinh tế
- xã hội. Giảm 50% số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp phát sinh từ ngày 01 tháng 7
năm 2011 đến hết ngày 31 tháng 12 năm 2011 (số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp
quý III/2011 và quý IV/2011) đối với thu nhập của hoạt động kinh doanh cung ứng suất
ăn ca cho công nhân của doanh nghiệp có hoạt động cung ứng suất ăn.
Nghị định cũng nêu những chính sách hỗ trợ của chính phủ trên thu nhập cá nhân.
Miễn thuế thu nhập cá nhân từ ngày 01 tháng 8 năm 2011 đến hết ngày 31 tháng 12 năm
2011 đối với cá nhân, hộ kinh doanh có thu nhập tính thuế từ tiền lương, tiền công và từ
kinh doanh đến mức phải chịu thuế thu nhập cá nhân ở bậc 1 của Biểu thuế luỹ tiến từng
phần quy định tại Điều 22 Luật Thuế thu nhập cá nhân số 04/2007/QH12 ngày 21 tháng
11 năm 2007. (5 triệu đồng/tháng). Miễn thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập từ cổ tức
mà cá nhân thực nhận từ ngày 01/8/2011 đến hết ngày 31/12/2012 do đầu tư vào thị
trường chứng khoán, góp vốn mua cổ phần của doanh nghiệp. Trường hợp cá nhân
chuyển nhượng cổ phiếu (được trả thay cho cổ tức) trong thời gian từ ngày 01/8/2011 đến
hết ngày 31/12/2012 thì cá nhân được miễn thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập từ cổ
tức.
Lạm phát do cầu kéo:
Nếu lạm phát bắt nguồn từ nguyên nhân cầu kéo thì khi giảm thuế trực thu có nghĩa
là làm tăng thu nhập của doanh nghiệp, của dân chúng. Thu nhập khả dụng của người dân
tăng lên chắc chắn làm tăng tiêu dùng, không những hiện tại hôm nay mà cả trong tương
lai. Chính từ việc tăng tiêu dùng lên như vậy, nếu nguồn cung ứng hàng hoá và dịch vụ
trong nền kinh tế không tăng theo kịp thì chắc chắn dẫn đến lạm phát tăng.
Page 25 of 34