Tải bản đầy đủ (.pdf) (42 trang)

Phân tích, đánh giá nguyên nhân, tác động của cuộc khủng hoảng đến thế giới, khu vực và đặc biệt là Việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (611.17 KB, 42 trang )








LUẬN VĂN:

Phân tích, đánh giá nguyên nhân, tác
động của cuộc khủng hoảng đến thế giới,
khu vực và đặc biệt là Việt nam



Lời Nói Đầu

Trong vài thập kỷ qua sự tăng trưởng liên tục với tốc độ cao ( >7%) của khu
vực châu á mà nòng cốt là khu vực châu á - Thái bình dương đã thu hút được sự quan
tâm rất lớn của cả thế giới. Tiếp theo sự thần kỳ của Nhật bản, các nước NICs và
ASEAN đã biến khu vực này thành khu vực có nền kinh tế năng động nhất trên thế
giới. Nhiều nhà kinh tế và học giả phương tây đã không tiếc lời ca tụng về sự phát
triển kinh tế của khu vực này và cho rằng thế kỷ 21 là thế kỷ của những con rồng châu
á. Chính vì thế các nước này luôn được coi là các mô hình kinh tế mẫu mực để nhiều
nước đang phát triển trên thế giới học tập trong việc xây dựng chiến lược phát triển
kinh tế của mình . Thế nhưng, cơn bão tài chính - tiền tệ châu á xảy ra ở khu vực này
đã làm chấn động cả nền kinh tế khu vực và thế giới.Phạm vi và mức độ thiệt hại của
nó là rất lớn. Cuộc khủng hoảng bắt đầu từ Thái lan sau đó lan sang các nước khu vực
Đông Nam á, sang Đông Bắc á và ảnh hưởng đến hầu hết khu vực trên thế giới. Thực
chất của cuộc khủng hoảng này là một cuộc khủng hoảng mang tính cơ cấu với sắc
thái tài chính - tiền tệ rất đậm nét chứ không phải là khủng hoảng chu kỳ hay sự đỗ vỡ


của một mô hình phát triển nào.
Đối với nước ta sau hơn mười năm đổi mới, đã đạt được rất nhiều thành tựu to
lớn, chúng ta đã từng bước thực hiện thành công những mục tiêu như : chuyển sang
nền kinh tế nhiều thành phần, thực hiện tự do kinh doanh đa dạng, đa phương hoá
quan hệ kinh tế đối ngoại để từng bước hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới,
ngày càng khẳng định vị thế của mình trên trường quốc tế . Là một nước nằm trong
khu vực xảy ra khủng hoảng, chúng ta cũng gặp phải rất nhiều khó khăn và thử thách
do cuộc khủng hoảng gây ra. Chính vì lẽ đó, đề tài này với mong muốn là từ những
phân tích, đánh giá nguyên nhân, tác động của cuộc khủng hoảng đến thế giới, khu vực
và đặc biệt là Việt nam, trên cơ sở đó có thể rút ra các bài học kinh nghiệm và đưa ra
các giải pháp nhằm hạn chế và khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực của nó đến công
cuộc đổi mới và đường lối mở cửa mà Đảng và nhân dân ta đang ra sức thực hiện .

i. khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu á
1. lý luận chung về khủng hoảng
1.1 Thế nào là một cuộc khủng hoảng ?
Khủng hoảng tài chính - tiền tệ là một sự đổ vỡ trầm trọng các thị trường tài chính
được đặc trưng bởi sự sụt giảm mảnh mẽ về giá tài sản và sự vỡ nợ của nhiều hãng tài
chính và phi tài chính, kéo theo sự suy thoái nặng nề. Những cuộc khủng hoảng tài
chính là vấn đề chung trong lịch sử của hầu hết các quốc gia. Việc nghiên cứu các
cuộc khủng hoảng là cần thiết vì chúng đã dẫn đến những sa sút kinh tế nghiêm trọng
trong quá khứ và có khả năng xảy ra trong tương lai.

1.2 Các biểu hiện của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ
Khủng hoảng tài chính - tiền tệ xảy ra thường có các biểu hiện sau :
* Sự mất giá nhanh của đồng tiền kéo theo sự mất giá chao đảo của thị trường chứng
khoán có liên quan. Đây là đặc trưng có tính chất bắt buộc nếu như đó là một cuộc
khủng hoảng tài chính - tiền tệ.
* Sự sụt giảm mạnh mẽ về giá tài sản và sự vỡ nợ hay mất khả năng thanh toán của
các tổ chức tài chính cũng như phi tài chính.

* Sự rút vốn ồ ạt của các chủ đầu tư khi có sự biểu hiện mất giá của đồng tiền.
* Nợ nước ngoài tăng nhanh và suy thoái kinh tế trầm trọng.

1.3 Tại sao khủng hoảng tài chính - tiền tệ thường lây lan từ nước này sang nước
khác
Tại nước xảy ra khủng hoảng tài chính - tiền tệ, giá của đồng nội tệ bị xuống quá
nhanh và quá nhiều so với đồng USD. Nếu giữa các nước hoàn toàn không có quan hệ
gì thì sẽ không có hiện tượng lây lan khủng hoảng từ nước này sang nước khác. Tuy
nhiên, ngày nay giữa các nước luôn có những mối quan hệ, đặc biệt ngày nay thị
trường ngoại hối không chỉ giới hạn trong phạm vi một quốc gia mà là thị trường
chung của toàn thế giới, do đó có hiện tượng lây lan khủng hoảng từ nước này sang
nước khác. Những nước mà đồng tiền của họ có khả năng chuyển đổi được trên thị
trường ngoại hối thì phải chịu lây lan và ảnh hưởng nặng nề nhất, còn những nước
đồng tiền không chuyển đổi được như Việt Nam sẽ phải chịu ảnh hưởng ít hơn.

1.4 Đặc điểm chung của các cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ.
Khởi nguồn của các cuộc khủng hoảng kinh tế biều hiện dưới hình thức khủng
hoảng tài chính - tiền tệ đều từ các quốc gia và khu vực phụ thuộc quá nhiều vào thị
trường quốc tế cả về mặt tiền vốn và thị trường tiêu thụ. Những cuộc khủng hoảng tài
chính tiền tệ này thường mang những đặc điểm và nguyên nhân chủ yếu sau :

* Sự tách rời ngày càng xa giữa tiền vốn ký hiệu và tiền vốn thực tế
Lạm phát tiền vốn ký hiệu thực chất là sự mở rộng quá mức lượng tiền vốn này so
với lượng tiền vốn thực tế. Khi khủng hoảng xảy ra các loại tiền vốn ký hiệu đều giảm
giá nhanh, làm cho chúng trở lại với giá trị thực tế, điều này được biểu hiện qua sự
giảm giá, giảm giá bất động sản hoặc phá giá tiền giấy nền kinh tế rơi vào tình trạng
tiêu điều.

* Tác động của sự di chuyển tiền vốn quốc tế ngày nay
Di chuyển tiền vốn quốc tế là một trong những nội dung cơ bản của các giao dịch

quốc tế, tạo nên sự lưu động của các yếu tố sản xuất và các loài tiền vốn trên thị
trường thế giới. Từ những năm 80 đến nay, xu thế toàn cầu hoá thị trường tiền vốn
quốc tế phát triển rất mạnh. Nó tăng cường ảnh hưởng của sự lưu động tiền vốn quốc
tế đối với nền kinh tế thế giới. Một mặt nó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của các nước
cũng như thương mại quốc tế; song mặt khác cũng làm cho một số nước đang phát
triển mắc sai lầm trong việc sử dụng tiền vốn nước ngoài. Do lạm dụng tiền vốn nước
ngoài, sử dụng kém hiệu quả đã làm cho một số nước rơi vào tình trạng không trả nỗi
nợ, nền kinh tế bị phụ thuộc và trì trệ kéo dài. Tình hình Mỹ La tinh những năm 80 và
Đông Nam á gần đây là những bài học kinh nghiệm.
Hơn nữa, do tiền vốn ký hiệu ngày càng phát triển, đặc biệt loại tiền vốn ngắn hạn
quá lớn trong tổng số vốn lưu động trên thị trường thế giới đã làm tăng tính biến động
của nền kinh tế thế giới.Hiện nay, có khoảng hơn 1500 tỷ USD được gọi là " vốn lang
thang" trên thế giới, hình thành lực lượng đầu cơ mạnh, dễ gây nên những biến động
tài chính quốc tế. Những công cụ tài chính mới ra đời như tiền điện tử, thẻ tín dụng
lại cung cấp thêm điều kiện khách quan cho những nhà đầu cơ tiền tệ quốc tế.

* Sản xuất thừa các mặt hàng xuất khẩu truyền thống
Cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu á vừa qua nằm trong chuỗi các cuộc
khủng hoảng tài chính - tiền tệ ở các nước đang phát triển 20 năm qua. ở một khía
cạnh nào đó, có thể nói đó đều là khủng hoảng sản xuất thừa của các ngành chế biến
truyền thống. Trong hơn 20 năm qua các nước đang phát triển, đặc biệt là các nước
Đông á đã tăng vọt sản xuất của các ngành chế biến sử dụng nhiều lao động. Kết quả
làm cho cung vượt cầu, thị trường đã bão hoà đây cũng là một nguyên nhân quan trọng
để giải thích khủng hoảng kinh tế của các nước đang phát triển.

2. Một số cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ đã xảy ra trên thế giới
2.1 Các cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ đã xảy ra
Cho đến thời điểm nổ ra khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu á, đã có ba cuộc
khủng hoảng tài chính quốc tế xảy ra. Đó là phá giá đồng Bảng Anh năm 1967, sự sụp
đổ hệ thống Bretton woods năm 1971 và cuộc khủng hoảng tài chính Mêhicô năm

1994.
2.2 Những bài học rút ra từ các cuộc khủng hoảng
Trước hết, chúng ta hãy xem xét sự phá giá đồng Bảng Anh năm 1967. Chúng ta
đã biết nguyên nhân dẫn đến sự mất giá của đồng Bảng Anh là sự thiếu hụt dai dẳng
trong cán cân thanh toán của Anh mà thậm chí sau này Mêhicô lâm vào tình trạng
tương tự. Nhận thấy sự nguy hiểm của thâm hụt cán cân thanh toán nên bài học đầu
tiên là hạn chế tối đa mức thâm hụt cán cân thanh toán có thể được.
Cũng như cuộc khủng hoảng ở Anh, cuộc khủng hoảng Mêhicô sau này là sai lầm
trong việc tung ngoại tệ mạnh ra để kìm giữ tỷ giá, dẫn đến tỷ lệ dự trữ ngoại tệ đã
thiếu lại càng thiếu hơn. Vì vậy, cần thận trọng trong việc tung ngoại tệ để kìm giữ tỷ
giá. Cùng với nó là việc duy trì một cơ cấu hợp lý về vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp
để tránh tác động của đầu cơ và nguy cơ rút vốn đột ngột và ồ ạt của các nhà đầu tư
nước ngoài.
Ngân hàng là nơi nhạy cảm nhất đối với cuộc khủng hoảng, hơn nữa cuộc khủng
hoảng có thể được hạn chế hay trầm trọng hơn cũng do hệ thống ngân hàng quyết
định. Vì vậy, cần phải tăng cường vai trò của chính phủ trong việc tạo ra khung pháp
lý và đề ra các chủ trương chính sách để tăng cường hệ thống ngân hàng tài chính.
3.Diễn biến của khủng hoảng tài chính-tiền tệ châu á

Cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu á xuất phát từ Thái Lan, nó nằm trong
chuỗi các cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ liên tiếp diễn ra ở các nước đang phát
triển trong vòng 20 năm trở lại đây. Sau những gì đã xảy ra từ những cuộc khủng
hoảng trước với quá nhiều bài học thu được người ta nghĩ rằng khó có thể để xảy ra
một cuộc khủng hoảng tương tự. Vậy mà nó đã xảy ra ngay tại Đông Nam á - nằm
trong khu vực Đông á vốn được coi là nơi có sự phát triển thần kỳ, là động lực tăng
trưởng của nền kinh tế thế giới trong nhiều năm qua.
Ngay từ năm 1996, đã xuất hiện những dấu hiệu về một khủng hoảng tiền tệ, tài
chính ở các nước Thái Lan, Inđônêsia, Malaysia, Philippin. Những dấu hiệu này là :
mức tăng trưỡng xuất khẩu đã giảm mạnh trong năm 1996, ở Thái Lan chỉ còn 6% so
với mức 20% mỗi năm trong thời kỳ 1985 - 1995. Nợ bằng USD của ngân hàng nước

ngoài ở bốn nước trên đến cuối năm 1996 đã chiếm từ 15-37% GDP, trong đó số nợ
phải đáo hạn trong mười hai tháng chiếm tỷ lệ khá cao khoảng 50-70%. Dư nợ ngân
hàng tăng cao 50-110% GDP do ngân hàng của bốn nước trên vay USD với lãi suất
thấp và tái cho vay bằng nội tệ với lãi suất cao. Nhiều chuyên gia đã cảnh báo với
chiều hướng xấu đi này của nền kinh tế. Nhưng vì trong năm 1996 tốc đọ tăng trưởng
còn cao, dự trữ ngoại tệ chưa suy giảm nên chính phủ các quốc gia này đã chưa tính
tới việc áp dụng các biện pháp đủ mạnh để ngăn chặn chiều hướng xấu đi trên đây.
Đến năm 1997 tình hình kinh tế xấu đi nhanh chóng hơn. Mức xuất khẩu giảm
mạnh hơn, thâm hụt cán cân thương mại nghiêm trọng hơn. Nợ nước ngoài của Thái
Lan lên đến 85 tỷ USD, gấp ba lần dự trữ ngoại tệ. Trong đó, nợ thương mại chiếm
một tỷ trọng lớn, nợ của khu vực tư nhân lên đến 66 tỷ USD, nợ nhà nước là 21 tỷ
USD. Trong khi đó dự trữ ngoại tệ liên tục giảm, từ 31,6% so với GDP năm 1994
xuống 29,5% năm 1995 và 26,6% năm 1996. Đến cuối tháng 5/1997 ngân hàng Trung
ương Thái Lan đã phải bỏ ra 5 tỷ USD để bảo đảm giá trị đồng Baht. Trong tháng
6/1997 Thái Lan phải đóng cửa 40 công ty tài chính.
Dự trữ ngoại tệ giảm sút đột ngột từ 33 tỷ USD trong tháng 4/1997 xuống còn 15
tỷ USD vào cuối tháng 6/1997. Ngân hàng Thái Lan đã cảm thấy sự bất lực của mình,
việc bán USD để giữ giá đồng Baht tỏ ra không hiệu quả nữa. Vào ngày 2/7/1997 ngân
hàng trung ương Thái lan đã quyết định thả nỗi đồng Baht, chấm dứt thời kỳ dài giữ tỷ
giá Baht/USD cố định.
Ngay sau khi chính phủ Thái lan tuyên bố thả nổi, đồng Baht đã mất giá ngay 5-
7%, sau đó tiếp tục mất giá và vào thời điểm tháng 1/1998 đã mất giá 110%, mức kỷ
lục trong lịch sử Thái lan.
Cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ ở Thái lan nhanh chóng lan sang các đồng tiền
khác trong khu vực, nhất là các nước có nền kinh tế tương đồng như Inđônêsia,
Malaysia, Philippin, Hàn quốc . . .
Trước những khó khăn nội tại của nền kinh tế, nhất là sự thâm hụt cán cân vãng lai
và tác động ảnh hưởng của khủng hoảng Thái lan và các nước trong khu vực, ngân
hàng trung ương Philippin đã bỏ ra 2 tỷ USD để trợ giá cho đồng Pêsô. Nhưng biện
pháp này đã không đạt được kết quả mong muốn. Trước sức ép quá lớn của thị trường,

chỉ sau Thái lan vài ngày tức ngày 7/7/1997 ngân hàng trung ương Philippin đả phải
tăng lãi suất và ngày 11/7/1997 đã công bố nới rộng biên độ giao động tỷ giá đồng
Pêsô mà thực chất là phá giá đồng tiền. Ngân hàng trung ương đã phải thừa nhận rằng
họ không thể sử dụng số dự trữ ngoại tệ ít ỏi ( tính đến tháng 4/1997 chỉ có 10.3 tỷ
USD) cho việc bảo vệ đồng Pêsô. Sau khi nới rộng tỷ giá, tỷ giá Pêsô so với USD tăng
lên 28.1 Pêsô/USD và đạt đỉnh cao vào cuối tháng 9/1997 là 40 Pêsô/USD.
Đồng Ringgit của Malaysia vốn là đồng tiền tương đối ổn định. Tuy nhiên cũng
giống đồng Baht của Thái lan, đồng Rupi của Inđônêsia, nó cũng rất nhạy cảm đối với
những biến động bất thường bắt nguồn từ sự lo ngại về tốc độ tăng trưởng quá nóng
của nền kinh tế cộng thêm thâm hụt cán cân vãng lai ở mức độ lớn và kéo dài.
Năm 1996, với sự thành công trong kinh tế của Malaysia, đồng Ringgit đã tăng lên
tới 2.53 RM/USD. Nguyên nhân của sự tăng này là do sự tăng lên của các đồng vốn
đầu tư từ bên ngoài. Tuy nhiên vào giữa tháng 4/1997 ngân hàng Negra Malaysia
(BNM) đã can thiệp vào thị trường để bảo vệ đồng Ringgit khi mà đồng tiền này bị
đầu cơ. Lãi suất cũng tăng trong thời gian này. Đống Ringgit đứng trước sức ép rất
mạnh về tỷ giá và bắt đầu có dấu hiệu mất giá. Trước tình hình đó, ngân hàng Trung
ương đã bỏ ra hàng tỷ USD để bảo vệ đồng Ringgit. Đồng thời lãi suất cũng được kính
lên ở mức cao nhất trong vòng mười năm trở lại đây nhằm bảo vệ đồng tiền và chống
lại sự bất ổn của thị trường ngoại hối. Ngày 15/7/1997 chính phủ Malaysia đã tuyên bố
thả nỗi đồng Ringgit. Ba ngày sau khi tuyên bố, tỷ giá đồng Ringgit đã lên 2.633
RM/USD tức là mất giá khoảng 88% so với trước tháng 2/1997.
Mặc dù đồng Rupi của Inđônêsia không bị sức ép căng thẳng như đồng Pêsô của
Philippin nhưng chính phủ Inđônêsia đã công bố nới rộng biên độ tỷ giá từ 8% lên
12% vào tháng 11/1997 với khả năng dự trữ ngoại tệ của Inđônêsia còn hạn chế, Việc
nới rộng biên độ tỷ giá là điều cần thiết nhằm tăng khả năng bảo vệ đồng Rupi khỏi sự
đầu cơ tiền tệ. Sau một tuần mở rộng không can thiệp, tỷ giá tăng lên mức 2.52
RP/USD và mất giá khoảng 8,25%. Riêng ngày 13/8/1997 ngân hàng Trung ương
Inđônêsia đã phải bỏ ra 500 triệu USD để giữ đồng Rupi biến động trong mức 12%.
Tuy nhiên biện pháp này cũng tỏ ra không hiệu quả và ngày 14/8/1997 ngân hàng
trung ương Inđônêsia phải tuyên bố thả nỗi đồng Rupi. Ngay sau đó đồng Rupi bị mất

giá liên tục, ở thời điểm thấp nhất là 19000 RP/USD so với 2648RP/USD ngày
14/8/1997, có nghĩa là mất giá hơn 500%.
Trong các đồng tiền châu á, đồng Đôla Singapore được nhận định là vững chắc
hơn cả, nhưng tính đến ngày 18/8/1997, đồng Đôla Singapore mất giá khoảng 7% so
với thời điểm 2/7/1997. Sỡ dĩ đồng Đôla Singapore bị ảnh hưởng nhẹ bởi vì quốc gia
này đã giữ được trong một thời gian dài thặng dư trong cán cân thanh toán và cân đối
ngân sách, tiết kiệm nội địa cũng như dự trữ ngoài tệ khá cao. Chính vì yếu tố đó, cuộc
khủng hoảng tài chính - tiền tệ trong khu vực không ảnh hưởng nhiều đến đồng Đôla
Singapore.
Bảng tương quan so sánh nợ nước ngoài và dự trữ ngoại tệ
của các nước trong khu vực.

Tên nước
Inđônêsi
a
Malaysia

Philippi
n
Singapo Thái lan
D
ự trữ ngoại tệ
chính thức (USD)
18.16 25.3 10.3 78.3 31.8
N
ợ n
ư
ớc ngoài
(USD)
109.3 29.0 43.2 0 85.0

T
ỷ lệ trả nợ

nước ngoài (%)
33 6.0 15.0 0 14.0
Nguồn: Tạp chí nghiên cứu kinh tế tháng 1-1998

Trong khu vực Đông Bắc á, giá trị đồng tiền của các nước đài loan, Hồng Kông,
Hàn Quốc và Nhật Bản đều bị ảnh hưởng và giảm ở mức độ khác nhau so với đồng
USD. Thị trường chứng khoán ở các nước này cũng chịu ảnh hưởng và sụt giá từ 10-
20%.
Trong số các nước trên thì khủng hoảng ở Hàn Quốc là nặng nề nhất. Đồng Won
mất giá nhanh và liên tục. Ngày 25/12/1997, tỷ giá Won/USD lá 1987, nghĩa là đồng
Won đã mất giá hơn 100% so với đầu tháng 6/1997 (868 Won/USD). Trước cuộc
khủng hoảng này, bảy tập đoàn kinh tế vào loại hàng đầu của Hàn Quốc như : Hanbo,
Samni, Jinzo, Diamony lần lượt bị phá sản. 25 ngân hàng thương mại có liên quan
đến tài trợ vốn cho các tập đoàn bị ảnh hưởng và rơi vào tình trạng khó khăn trong
thanh toán.
Sau khi khủng hoảng tài chính - tiền tệ ở Hàn Quốc nổ ra đã làm cho đồng tiền của
nhiều nước ở châu á có xu hướng giảm giá tiếp, gây ảnh hưởng trực tiếp đến Mỹ và
Nhật, bởi vì 50% kim ngạch xuất khầu của Mỹ là sang các nước châu á - thái bình
dương, và trong số nợ nước ngoài của Hàn Quốc thì Nhật chiếm 25%.
Như vậy, chỉ sau một thời gian ngắn, cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ xảy ra
thì đã có hàng loạt các quốc gia lâm vào khủng hoảng nhưng với tính chất, quy mô,
mức độ bị ảnh hưởng rất khác nhau tuỳ thuộc vào vị thế, bối cảnh riêng của từng quốc
gia trong quá trình tự do hoá và toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới hiện nay.

ii. nguyên nhân và tác động của cuộc khủng hoảng
1. nguyên nhân của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu á
1.1 Nguyên nhân chủ quan

Theo nhận định của nhiều chuyên gia thì nguyên nhân chủ yếu dẫn đến khủng
hoảng xuất phát từ nội tại của nền kinh tế hay nói cách khác đó là chính nhân tố chủ
quan, là ngòi nổ trực tiếp cho cuộc khủng hoảng.
Thứ nhất, thâm hụt tài khoản vãng lai, nền kinh tế phát triển mất cân đối.
Các nền kinh tế ASEAN là những nền kinh tế hướng ngoại dựa vào tăng trưởng xuất
khẩu và trên thực tế các nền kinh tế này đã thực hiện đẩy mạnh tăng trưởng bằng các
nỗ lực thu hút đầu tư nước ngoài, tăng vay nợ nước ngoài chứ không phải dựa vào các
nguồn lực trong nước, cơ cấu xuất khẩu lại đơn điệu, chủ yếu dựa vào các mặt hàng
điện tử và may mặc ( thường chiếm 30-40% kim ngạch xuất khẩu của các nước
ASEAN ) và khi nhu cầu của thế giới về các mặt hàng này bị giảm sút thì cán cân
thương mại của các nước này bị thâm hụt lớn, gánh nặng nợ nước ngoài tăng vọt. Mặt
khác, các khoản vay bên ngoài với lại suất thấp đã được tập trung chủ yếu cho vay với
lãi suất cao ở hai khu vực không sinh lời và chậm thu hồi vốn là bất động sản và chứng
khoán chứ không phải tập trung cho ngành công nghiệp xuất khẩu. Kết quả là, hầu hết
nền kinh tế ASEAN rơi vào tình trạng thâm hụt lớn về tài khoản vãng lai. ở Thái lan
mức thâm hụt này bằng 8% GDP, Malaysia là 8.6% GDP. Theo tính toán của IMF nếu
mức thâm hụt tài khoản vãng lai của một nền kinh tế nào đó lớn hơn 5% GDP thì nền
kinh tế đó khó tránh khỏi nguy cơ xảy ra một cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ.
Hơn nữa khi xảy ra thâm hụt cán cân thanh toán và tài khoản vãng lai con đường vay
nóng các khoản vay ngắn hạn từ nước ngoài để khắc phục là cái "án tử hình" đối với
nền kinh tế vốn đã bị suy yếu. Có khoảng 47% vốn vay của ASEAN dưới hình thức
trung vầ ngắn hạn. Đây là khoản vốn vay mang tính chất biến động lớn, khi có yếu tố
bất lợi chúng sẽ nhanh chóng được rút đi và dĩ nhiên gây sự đảo lộn cho nền kinh tế.
Thứ hai, tỷ giá hối đoái cố định được duy trì quá lâu. Các nền kinh tế ASEAN
trong một thời gian tương đối dài duy trì chính sách tỷ giá hối đoái cố định (Thái lan là
13 năm) đã khiến cho các đồng tiền ASEAN tăng giá cao một cách không thực chất so
với đồng USD. Các đồng tiền này hầu hết neo giá vào đồng USD, nên khi đồng USD
nâng giá so với đồng Yên chúng đã mất giá 20-30% so với đồng tiền này. Chính tỷ giá
cố định kéo dài tạo ra sự cường thịnh giả tạo của nền kinh tế, khiến cho các đồng vốn
tiếp tục đỗ mạnh vào các nước ASEAN thông qua các dòng FDI và dòng vay ngắn

hạn, khi có dấu hiệu đột biến và sự cần thiết phải điều chỉnh tỷ giá, các dòng vốn này
đã lập tức ồ ạt rút ra khỏi ASEAN. Mặt khác sự cao giá không thực chất của đồng tiền
này đã triệt tiêu các động lực kính thích tăng trưởng xuất khẩu vốn đã không lấy gì làm
mạnh mẽ của các nước ASEAN trong thời gian này. Hơn nữa, chính sách tỷ giá này
đặc biệt mâu thuẫn với cơ chế tự do di chuyển vốn trong các nền kinh tế ASEAN. Đây
là sự dị dạng của một cơ chế tài chính - tiền tệ, làm suy yếu năng lực kiểm soát các
dòng vốn. Vì vậy, sau nữa năm với nhiều giải pháp như đóng cữa một số công ty tài
chính, tiết kiệm chi ngân sách, nhận sự hỗ trợ từ bên ngoài các nền kinh tế này chẳng
những không khắc phục được sự mất giá cũ mà các đợt mất giá mới vẫn tiếp tục diễn
ra. Qua phân tích cho thấy vấn đề tỷ giá là rất nhạy cảm nó giữ vai trò rất quan trọng
đối nền kinh tế.
Thứ ba, hệ thống tài chính - ngân hàng hoạt động yếu kém, quản lý ngoại hối
lõng lẻo. Hệ thống tài chính - ngân hàng chưa đáp ứng được đòi hỏi của nền kinh tế
đang phát triển với nhịp độ cao. Thị trường tài chính tự do hoá mạnh mẽ nhưng các thể
chế giám sát điều hành không được tăng cường phù hợp. Hơn nữa, chính sách quản lý
ngoại hối của các nước này quá tự do, việc chuyển đổi giữa ngoại tệ và nội tệ quá dễ
dàng đã tạo khả năng bán tháo đồng nội tệ lấy USD khi xuất hiện những dấu hiệu bất
ổn định trên thị trường tiền tệ. Hiện tượng thất thoát vốn trở nên nghiêm trọng ở các
nước này do những hoạt động đầu tư sai lầm. Để duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế
nóng và duy trì tỷ giá cố định, ngân hàng các nước này đã vay các khoản vay nóng từ
các ngân hàng nước ngoài ở mức độ nguy hiểm vượt xa so vơi mức dự trữ ngoại tệ
trong nước. Nhìn chung các ngân hàng ở ASEAN đã không thực hiên được vai trò
điều tiết khi xuất khẩu bị giảm sút, khi các dòng vốn bị rút ra ồ ạt cũng như khi lạm
phát ở mức cao mà tốc độ cung ứng tiền vốn vẫn tiếp tục tăng mạnh.
Thứ tư, Những bất cập trong chuyển đổi của quá trình công nghiệp hoá - hiện
đại hoá đất nước. Một nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu á là
những bất cập và yếu kém trong bước ngoặt chuyển đổi của quá trình CNH-HĐH khi
chuyển thành nền công nghiệp mới như ở Thái lan, Inđônêsia, Malaysia. Chính bất cập
về thể chế và cơ cấu, những chậm chạp trong cải cách đã không giúp cho các nền kinh
tế này chuyển kịp trong điều chỉnh cơ cấu đầu tư, tái phân bổ nguồn lực và điều chỉnh

nền kinh tế ở giai đoạn cao hơn. Mất cân đối lớn nhất và đe doạ trực tiếp đến sự ổn
định của hệ thống tài chính - tiền tệ mỗi nước là sự thâm hụt tài khoản vãng lai và cơ
cấu vốn nước ngoài đổ vào trong nước. Mặt khác vốn huy động gián tiếp qua thị
trường chứng khoán cũng tăng nhanh, trong khi dự trữ ngoại tệ quốc gia không cao và
kim ngạch xuất khẩu giảm dần, có nghĩa là có sự phụ thuộc vào nguồn ngoại tệ nước
ngoài. Hơn nữa, các khoản vốn vay nóng lại được tập trung đầu tư vào các lĩnh vực
kinh tế nóng như bất động sản hay một số ngành công nghiệp mà trước đó có sự tăng
trưỡng mạnh dẫn đến cung vượt quá cầu và gây ra sự trì trệ trên thị trường.
Thứ năm, sai lầm của các nhà đầu tư trong nước. Là những người trực tiếp tiến
hành thực hiện các quá trình đầu tư của mình, các nhà đầu tư trong nước của khu vực
châu á phải là người chịu trách nhiệm hàng đầu về số phận doanh nghiệp do họ làm
chủ từ cả ba khía cạnh : cơ cấu vốn vay, cơ cấu đầu tư và khả năng thích ứng của thị
trường.
Trước hết có thể khẳng định một trong những nguyên nhân hàng đầu gây ra cơn
bùng phát khủng hoảng tài chính - tiền tệ ở châu á là do sự nóng lên của thị trường
chứng khoán và bất động sản dẫn đến khủng hoảng nợ ở khu vực kinh tế tư nhân, số
nợ của doanh nghiệp đã vượt quá tổng số vốn tới 200-400%. Chính việc làm này của
họ đã đẩy nhanh sự gia tăng nợ nước ngoài của Thái lan từ 28 tỷ USD năm 1990 lên
85 tỷ USD năm 1997 chiếm 97% GDP của Thái lan. Những doanh nghiệp với tình
trạng tài chính và năng lực kinh doanh kém tham gia thị trường chứng khoán đã dẫn
đến những hậu quả nặng nề cho xã hội. Hạch toán, kiểm toán và sự công khai tài chính
yếu kém làm cho chính phủ và các cổ đông nhỏ không kiểm soát được tình hình tài
chính của doanh nghiệp, mặt khác những mối quan hệ mờ ám giữa những quan chức
chính phủ với các doanh nghiệp làm méo mó cơ chế trị trường, nền kinh tế kém hiệu
quả. Bản thân các doanh nghiệp này lại chưa bắt kịp các diễn biến thị trường trong và
ngoài nước, chưa xử lý kịp thời các tình huống cung - cầu, giá cả và chất lượng, chiến
lược thị trường và xuất khẩu chưa đủ đa dạng, dựa quá sâu vào số ít các mặt hàng chủ
lực truyền thống, do đó lúng túng trong các quyết định đầu tư mới và bỏ lỡ các cơ hội
kinh doanh cũng như làm nặng thêm, trả giá đắt cho các đầu tư cũ. Tình trạng tài chính
doanh nghiệp đã xấu lại càng xấu hơn, sự sút giảm bất thường trong kim ngạch xuất

khẩu của nhiều nước khu vực đã cho thấy rõ điều đó.

1.2 Các nguyên nhân khách quan
Thị trường thương mại toàn cầu giảm sút.
Từ năm 1995, tốc độ tăng trưởng của hầu hết các nước công nghiệp phát triển đều
giảm sút mạnh dẫn đến giảm cầu, đặc biệt các nước này là những đối tác kích thích
quá trình tăng trưởng hướng về xuất khẩu của các nước Đông á, làm cho những sản
phẩm xuất khẩu chủ lực của các nước này như hàng điện tử may mặc đứng trước
nguy cơ bão hoà trên thị trường quốc tế. Tính đến năm 1996, thị trưỡng bán dẫn suy
giảm mạnh, giá vi mạch giảm hơn 80%. Trong khi đó các sản phẩm điện tử dân dụng
của Nhật bản và các nước NICs giảm lượng bán hơn 40% trên thị trường quốc tế. Mặt
khác tính hấp dẫn của thị trường Đông Nam á với các đối tác Mĩ và Tây âu đã giảm sút
trước những thị trường không kém phần năng động và hấp dẫn như Trung quốc, SNG,
Đông âu và Mỹ latinh.
Sự gia tăng tính không ổn định của các nguồn vốn ngắn hạn trên thị trường tài
chính quốc tế.
Toàn cầu hoá cao độ về tài chính - tiền tệ và sự phát triển quá nhanh của các loài
quĩ ở các nước phát triển đã dẫn đến sự bùng nổ các luồng vốn đầu tư tư nhân ngắn
hạn. Các nguồn vốn dài hạn như ODA ngày càng có xu hướng giảm trong khi đó các
nguồn vốn đầu tư gián tiếp ngày càng tăng thậm chí tăng nhanh hơn cả vốn đầu tư trực
tiếp. Các nước trong khu vực trong khi huy động và sử dụng các nguồn vốn này đã sự
dụng quá nhiều loại vốn đầu tư gián tiếp (chứng khoán), điều đó dễ dẫn đến những tổn
thương của hệ thống tài chính trong nước.
Các hoạt động đầu cơ từ bên ngoài.
Ngoài nhà tỷ phú G.Soros còn nhiều nhà đầu cơ trong tổng số 2300 quĩ tín dụng ở
Mỹ với số tài sản khổng lồ khoảng 100 tỷ USD như Tiger, Orbics, Pumar họ đã mua
đồng Baht, Pêsô, Ringgit, Rupi, các quĩ nói trên đã bán ra khối lượng đồng Baht trị giá
15 tỷ USD. Với khả năng về tài chính như vậy, các quĩ tín dụng này hoàn toàn có khả
năng tiến hành các hoạt động nhằm cải thiện tình hình hoặc làm trầm trọng thêm cuộc
khủng hoảng này.

Tình hình chính trị và môi trường quốc tế.
Có thể nói đây không phải là nguyên nhân chủ yếu của cuộc khủng hoảng, tuy
nhiên nó cũng là nhân tố góp phần không nhỏ gây ra cuộc khủng hoảng này.
Với nhiều phe phái chính trị tranh giành quyền lực ở Thái lan đã làm ảnh hưởng
tiêu cực đến quản lý và điều hành nền kinh tế vốn đã chứa đựng những mất cân đối.
Mặt khác với nhiều mối quan hệ mờ ám giữa các chính trị gia và các tập đoàn lớn đã
gây nên một sự cạnh tranh không lành mạnh trong nền kinh tế. Còn ở Inđônêsia, gia
đình Tổng thống Shuhactô đã thao túng nhiều ngành kinh tế then chốt - đây là lối quản
lý theo kiểu " gia đình trị" - đã làm suy yếu dần sức cạnh tranh của nền kinh tế. Còn ở
Philippin thì tình trạng tham nhũng của các quan chức chính phủ cũng trở nên nghiêm
trọng không kém. Chính những yếu tố bất ổn của môi trương pháp lý và chính trị nói
trên đã làm giảm sút sức hấp dẫn của đầu tư nước ngoài vào khu vực này.
Ngoài ra sự nỗi lên của các nền kinh tế như Trung quốc, ấn độ, Nam Mỹ đã làm
giảm khả năng cạnh tranh của các nước Đông Nam á. Cùng với đó là sự sáp nhập của
nhiều tập đoàn kinh tế lớn trên thế giới đã bóp chết nhiều công ty nhỏ và non yếu của
các nước đang phát triển.

2.Tác động của cuộc khủng hoảng đối với nền kinh tế khu vực và thế giới
2.1 Tác động tiêu cực
Hậu quả tiêu cực mà cuộc khủng hoảng gây ra là quá rõ ràng, toàn diện và hết sức
nặng nề đối với nhiều quốc gia trong khu vực cũng như trên thế giới.
Trước hết, hậu quả dễ nhận thấy nhất và phổ biến nhất trong toàn khu vực lá sự
mất ổn định của các thị trường tiền tệ mỗi nước và khu vực, lá sự sút giảm ngay cả đầu
tư trong nước do lãi suất cao và yếu tố lòng tin. Tất cả các vấn đề đó đã làm giảm sút
tốc độ tăng trưởng kinh tế các nước này và toàn khu vực toàn thế giới nói chung đi đôi
với sự gia tăng tình trạng thất nghiệp và lạm phát cao; cũng như làm tăng nợ nước
ngoài bằng ngoại tệ do sự mất giá của đồng bản tệ và do phải thu hút thêm các khoản
tín dụng quốc tế mới để vượt qua khủng hoảng.
Lịch sử khu vực trong vòng nửa thế kỷ nay chưa bao giờ lại có đợt đại hạ giá đồng
loạt của các đồng tiền trong khu vực với số lượng lớn như thế, ít nhất cũng có hai

mươi đồng tiền khác nhau bị giảm giá mạnh ( từ 30-70%, thậm chí có lúc đồng Rupi
Inđônêsia mất giá tới 400% so với USD).
Cuộc khủng hoảng cũng đánh dấu sự kết thúc một giai đoạn tăng trưởng nhanh,
kéo dài hàng thập kỷ dựa chủ yếu vào các nguồn vốn nước ngoài của các nước trong
khu vực, để chuyển sang một giai đoạn mới đặc trưng bởi nhịp độ tăng trưỡng ôn hoà
hơn, thận trọng hơn và dựa vào sực mình nhiều hơn.Nhịp độ tăng trưỡng trung bình
của khu vực đã giảm đi 2.5% năm 1998 so với năm 1997. Do khủng hoảng ở châu á
làm cho tăng trưởng của Mỹ giảm đi 0.7% trong năm 1998, EU giảm 0.3%, Mỹ la tinh
giảm 1.5%, còn tốc độ thương mại toàn cầu giảm đi 2.5% so với năm 1997. Theo
OECD, cuộc khủng hoảng châu á đã làm cho tăng trưởng của các nước công nghiệp
phát triển giảm 0.9%. Thậm chí nếu như Trung quốc, Nhật bản, Brazin phá giá đồng
tiền của họ thì rất có thể xảy ra một cuộc khủng hoảng tài chính trên phạm vi toàn
cầu.
Cuộc khủng hoảng đã gây thiệt hại cho châu á ít nhất là 300 tỷ USD, bằng khoảng
20% GDP của các nước bị khủng hoảng và làm thiệt hại chung cho toàn thế giới
khoảng 500 tỷ USD. Có tới 150 tỷ USD đầu tư tài chính đã rút ra khỏi Đông Nam á,
các nhà đầu tư nước ngoài giảm sút niềm tin, FDI đổ vào châu á bị sụt giảm mạnh và
tiếp tục ở mức thấp trong một số năm tới.
Sự phá giá đồng bản tệ đã làm tăng các chi phí dịch vụ nợ và chất thêm gánh nặng
nợ nần lên vai các công ty làm tăng tình trạng mất khả năng thanh toán, phá giá nhất là
các công ty phục vụ thị trường trong nước mà nhu cầu đang giảm sút nhanh chóng. Sự
phá giá bản tệ ở những nước có hàng hoá xuất nhập khẩu mà nguyên liệu nhập khẩu
chiếm tỷ lệ cao sẽ làm tăng chi phí xuất khẩu, đẩy giá thành lên cao, giảm sức cạnh
tranh của sản phẩm trên thị trường quốc tế.
Lạm phát gia tăng sẽ làm giảm mức sống thực tế của người làm công ăn lương,
những căng thẳng và bất ổn về xã hội cũng vì thế mà tăng lên.

2.2 Tác động tích cực
Cuộc khủng hoảng hiện nay không chỉ hoàn toàn gây tác hại cho các nước trong
khu vực mà ở một chừng mực nào đó, nó là điểm dừng để mở đầu cho một giai đoạn

phát triển mới đầy triển vọng, là cơ hội để các nền kinh tế ASEAN thực hành sự cải
cách triệt để các điều kiện kinh tế vĩ mô kể cả sự cần thiết phải xác định lại mô hình
chiến lược phát triển. Như Tổng thống Hàn quốc cũng từng khẳng định : " Tôi muốn
biến cuộc khủng hoảng này thành một cơ hội để cải biến nền kinh tế nước tôi, đưa nó
lên trình độ của thế giới". Những tác động tích cực của cuộc khủng hoảng hiện nay có
thể quy tụ ở những khía cạnh sau :
Thứ nhất, việc chuyển sang chính sách tỷ giá linh hoạt sẽ giúp các chính phủ giảm
tối thiểu lượng ngoại tệ can thiệp để giữ giá bản tệ như thời gian trước đó, giúp tăng
dự trữ quốc gia về lâu dài, với đồng bản tệ rẻ sẽ kính thích khả năng cạnh tranh xuất
khẩu, từ đó cải thiện những cán cân tài chính của đất nước.
Thứ hai, nhiều nước như Thái lan, Inđônêsia, Hàn quốc, Philippin sẽ nhận được
lượng tín dụng quốc tế chính thức với khối lượng lớn để phục vụ mục tiêu khắc phục
khủng hoảng cải cách và phát triển kinh tế ( mặc dù với lãi suất khá cao và các điều
kiện ngặt nghèo kèm theo). Cuộc khủng hoảng cũng giúp định hướng lại và cải thiện
cơ cấu đầu tư, lành mạnh hoá nền tài chính quốc gia. Các khoản chi kém hiệu quả sẽ bị
điều chỉnh, cắt giảm; các dự án tư nhân sẽ được khuyến khích, thúc đẩy quá trình tư
nhân hoá, giảm bớt sự độc quyền của khu vực nhà nước, sự can thiệp và bao cấp của
Chính phủ trong khu vực kinh doanh sẽ được xúc tiến tích cực hơn, kiên quyết và rộng
rãi hơn.
Có thể nói cuộc khủng hoảng là một cú hích mạnh, để xốc lại cơ cấu kinh tế cho
cân bằng, hợp lý và hiệu quả hơn. Sau khi vượt qua giai đoạn khó khăn nhất của khủng
hoảng, các doanh nghiệp đã có định hướng thị trường nhiều hơn, đầy đủ, sâu sắc và
hoàn thiện hơn, do đó có hiệu quả và sức cạnh tranh cao hơn.
Thứ ba, cuộc khủng hoảng ít nhiều góp phần để Chính phủ và nhân dân mỗi nước
trong khu vực cũnh như các tổ chức tài chính - tiền tệ quốc tế xem lại mình, bổ khuyết
những chính sách cả về chính sách, thể chế lẫn những yếu tố thuộc con người, từ đó
tạo ra những xung lực tích cực cho sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững ở cấp đọ
quốc gia, khu vực và quốc tế với tư cách là một chỉnh thể hữu cơ. Quá trình tự do hoá
và toàn cầu hoá sẽ được đẩy lên một bước mới, một phần nhờ những chương trình điều
chỉnh kinh tế rộng rãi, một phần nhờ sự chuẩn bị chu đáo hơn, thận trọng hơn và thích

hợp hơn của mỗi nước, phần nữa nhờ sự xuất hiện của những cơ chế thúc đẩy và giám
sát mới mang tính khu vực, nhờ sự bổ sung chức năng của IMF và các tổ chức tài
chính - tiền tệ quốc tế và khu vực, đồng thời đó cũng là kết quả của sự hợp tác giữa
các nước khu vực trong nỗ lực vượt qua khủng hoảng.

3. một số biện pháp hạn chế và khắc phục khủng hoảng
3.1 Những biện pháp can thiệp của Chính phủ
a) Can thiệp thị trường
Để duy trì tỷ giá, các nước này ở những mức độ khác nhau đã sử dụng biện pháp
truyền thống là tung dự trữ ngoại tệ ra bán và thắt chặt tiền tệ. Các nước này đã dùng
hàng chục tỷ USD dự trữ ngoại tệ để can thiệp thị trường hỗ trợ đồng nội tệ, tạm đình
chỉ việc mua bán ngoại tệ không vì mục đích thương mại nhằm ngăn chận việc bán
tháo đồng nội tệ để mua ngoại tệ mạnh. Một số nước chủ trương tạm đình chỉ thị
trường chứng khoán khi giá cổ phiếu tụt quá thấp, yêu cầu các nhà kinh doanh ngoại
hối phải đăng ký, Nhà nước ban hành quy chế quản lý chặt, cấm các công ty và ngân
hàng trong nước đầu cơ, hợp tác với các cơ quan tiền tệ trong khu vực để kiểm soát
các luồng di chuyển ngoại tệ.

b) Cải cách hệ thống tài chính - ngân hàng
Thái lan, Inđônêsia, Philippin đã lần lượt cải tổ mạnh mẽ hệ thống ngân hàng - tài
chính theo các hướng :
* Tiếp tục mở cữa và tự do hoá thị trường tài chính để thu hút nguồn vốn trong nước
và nước ngoài, tăng cường sự tham gia của khu vực tư nhân.
* Chấn chỉnh lại hệ thống ngân hàng - tài chính bằng cách đóng cửa các ngân hàng,
công ty tài chính làm ăn thua lỗ. Thái lan đóng cửa 58 công ty tài chính kinh doanh
thua lỗ, tham nhũng và không đòi được nợ (trên tổng số 91 công ty). Trong số đó, 18
công ty đã trình Uỷ ban kiểm tra các kế hoạch phối hợp nhằm phục hồi hoạt động và
10 trong tổng số này đã có kế hoach hợp nhất. Inđônêsia cũng đã đóng cửa 16 công ty
tài chính, quy định các công ty tài chính phải trả nợ ngân hàng, sáp nhập với nhau và
đáp ứng mức dự trữ bắt buộc mới với 50% nguồn vốn tối thiểu là tiền mặt. Hàn quốc

cũng đang cơ cấu lại các ngân hàng thương mại quốc doanh.
* Tăng cường hệ thống thông tin, chế độ kiểm tra, kiểm toán, giám sát chặt chẽ đối
với hoạt động của các ngân hàng và công ty tài chính. Đẩy mạnh quá trình công khai
thông tin thành các quy định báo cáo cụ thể cho các ngân hàng thương mại và công ty
tài chính, pháp chế hoá việc công khai thông tin trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng.

c) Cải cách chính sách ngoại hối
Hầu hết các nước bị khủng hoảng đều tiến hành cải cách chính sách ngoại hối, đặc
biệt là chính sách tỷ giá.
Nhận thấy những hạn chế do duy trì quá lâu tỷ giá cố đinh một cách cứng nhắc với
đồng USD trong khi đồng tiền này lên giá, các nước đã tiến hành thực hiện chính sách
tỷ giá linh hoạt dựa trên các tín hiệu của thị trường tiền tệ và thúc đẩy xuất khẩu. Tuy
nhiên, trong trường hợp Inđônêsia, do đồng Rupiah bị sụt giá mạnh ( lúc thấp nhất
xuống đến 19.000 RP/USD) Chính phủ đã áp dụng một chế độ tiền tệ gọi là hệ thống
định vị tiền tệ CBS ( currency board system ). Mục tiêu của biện pháp này là khôi
phục lòng tin của đồng Rupiah và hệ thống ngân hàng. CBS là chế độ tiền tệ dựa trên
sự cam kết pháp lý rõ ràng, chốt đồng tiền trong nước với đồng USD ở một tỷ giá cố
định theo đó lượng nội tệ trong lưu thông phải hoàn toàn tương xứng với dự trữ ngoại
tệ.
d) Điều chỉnh cơ cấu và chính sách kinh tế
Các nước này đều phải giảm bớt tốc độ tăng trưỡng để nền kinh tế bớt nóng, để vay
được một khoản tiền lớn, Thái lan và Inđônêsia phải thực hiện cải cách cơ cấu theo các
điều kiện khắt khe của IMF, điều chỉnh một loạt các chỉ tiêu phát triển kinh tế vĩ mô,
cắt giảm chi tiêu, sửa đổi chính sách đầu tư cũng như chính sách tài chính tiền tệ, đẩy
mạnh xuất khẩu,hạn chế nhập khẩu, xoá bỏ độc quyền của nhà nước trong một số lĩnh
vực kinh doanh, thúc đẩy tư hữu hoá xí nghiệp công, giải thể và sáp nhập công ty, tự
do hoá thương mại

3.2 Những biện pháp từ các tổ chức quốc tế
Là những người ý thức rất rõ được mối liên kết chặt chẽ giữa thị trường tài chính

các nước trong khu vực trong tiến trình toàn cầu hoá, tính phụ thuộc lẫn nhau rất lớn
giữa các nền kinh tế, theo đó một sự đỗ vỡ ở bất kỳ nước nào cũng đều mang tính chất
lan truyền, các tổ chức tài chính- tiền tệ quốc tế như IMF, WB, ADB đã rất tích cực trợ
giúp cho những mắt xích yếu nhất trong hệ thống.
a) Phản ứng của quỹ tiền tệ quốc tế (IMF).
Sự sụp đổ của các hệ thống tài chính châu á là mắt xích cuối cùng trong loạt đỗ vỡ
tài chính nghiêm trọng. Mỗi nước Thái lan, Inđônêsia, Malaysia, Philippin, Hàn quốc
đều có những vấn đề riêng, chúng không hề giống nhau nhưng đều có điểm cốt lõi
chung : các chính sách công cộng sai lầm đã khuyến khích những khoản vay nợ khổng
lồ cả ở trong và ngoài nước, những bảo đảm công khai hay ngầm định đã làm cho các
nước này ngộ nhận về mức độ rũi ro thấp và đã xảy ra đổ vỡ tài chính. Quỹ tiền tệ
quốc tế đã can thiệp vào các khu vực có vấn đề của châu á bằng cách cung cấp các
khoản tín dụng khoảng 17 tỷ USD, trong đó có 4 tỷ USD của Nhật bản giúp cho các
nhà vay nợ của Thái lan, cho Hàn quốc khoảng 57 tỷ USD và một số nước khác. Các
khoản viện trợ cả gói có sự đóng góp của WB, ADB các nước Australia, Trung quốc,
Hồng kông, Nhật bản, Singapore là nhằm hỗ trợ cho các chương trình được hoạch
định tận gốc, nhằm khắc phục những nguồn gốc cũng như hậu quả của mất cân đối cơ
cấu và triệt tiêu những mối đe dọa tiềm tàng mà chúng gây ra cho hệ thống tiền tệ
quốc tế.

b) Giải pháp của IMF
IMF đã cam kết viện trợ cả gói cho các nước Hàn quốc 57 tỷ USD. Thái lan 17.3
tỷ USD và Inđônêsia 43 tỷ USD, đổi lại các nước này phải chấp nhận một số điều
khoản tương đối chặt chẻ của IMF :
- Cải cách chính sách tài chính - tiền tệ và ngoại hối như chính sách tỷ giá tăng
cường quản lý nợ, đặc biệt là nợ nước ngoài, cải cách chính sách thuế và ngân sách,
cắt giảm chi tiêu của chính phủ, tăng thuế để hạn chế tiêu dùng và cân bằng ngân sách.
Đồng thời ngân hàng Trung ương của các nước này sẽ phải thắt chặt nguồn cung cấp
tiền tệ và cho phép tỷ giá tại thị trường tăng tạm thời để giảm thiểu tác động của lạm
phát.

- Mở cửa thị trường tài chính rộng hơn và tự do hoá thị trường tài chính để thu hút
nguồn vốn trong và ngoài nước, sở hữu tối đa chứng khoán của người nước ngoài có
thể lên tới 50% và sau đó tăng thêm 5% vào năm sau (Hàn quốc) thị trường trái phiếu
ngắn hạn sẽ mở cữa cho đầu tư nước ngoài.
- Cải tổ hệ thống tài chính - ngân hàng. Các cơ sở tài chính nước ngoài sẽ được phép
thành lập liên doanh hay các công ty con ( riêng Hàn quốc sẽ bắt đầu thực hiện vào
giữa năm 1998). Cải tổ được các cơ sở tài chính không trả được nợ và thành lập cơ chế
chuyên đóng cửa hoặc sáp nhập các cơ sở này với nhau. Chính phủ sẽ thúc đẩy việc
chấm dứt các khoản cho vay không hiệu quả. Tất cả các ngân hàng phải đề ra kế hoạch
tự khôi phục để đáp ứng tiêu chuẩn đủ vốn do các ngân hàng thanh toán quốc tế đặt ra.
- Các công ty kiểm toán được quốc tế công nhận sẽ kiểm toán những cơ sỡ tài chính
lớn của các quốc gia này.
- Tăng cường hệ thống thống tin, chế độ kiểm tra kiểm toán, giám sát đối với các
hoạt động của các ngân hàng và công ty tài chính, pháp chế hoá của việc công khai
thông tin trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng.
- Điều chỉnh tốc độ tăng trưởng : IMF đưa ra các điều kiện để làm giảm mức độ
"nóng" của nền kinh tế của các nước này như giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế trong
các năm trước mắt, điều chỉnh chính sách đầu tư theo hướng tiết kiệm vốn, ngoại tệ,
hoãn các công trình cần vốn lớn.
- Cải cách chính sách công ty và chính sách lao động : Xoá bỏ độc quyền nhà nước
trong một số lĩnh vực quan trọng, đồng thời chính phủ sẽ chấm dứt biện pháp trợ cấp
nhằm cứu các doanh nghiệp tư nhân và dần cắt giảm các khoản vay theo chính sách,
giải thể và sáp nhập các công ty làm ăn thua lỗ nhằm tăng hiệu quả của nền kinh tế :
cho phép các công ty sa thải công nhân để tăng tính hiệu quả. Yêu cầu các công ty lớn
công bố tình hình tài chính và sẽ được kiểm soát một cách độc lập. Cơ cấu lại hệ thống
đảm bảo thanh toán chéo giữa các công ty con. Về thị trường lao động : Chính phủ sẽ
thực hiện trợ cấp thất nghiệp và nâng cao tính năng động của thị trường lao động.
- Tiếp tục đẩy mạnh xuất khẩu, đa dạnh hoá hoạt động thương mại, tiết kiệm ngoại
hối để nhanh chóng cân bằng cán cân vãng lai.
Ngoài một số giải pháp được coi là hơi cứng nhắc mà IMF đưa ra ở trên thì còn rất

nhiều ý tưởng, đề xuất tại các hội nghị thưởng đỉnh APEC, hội nghị cấp cao ASEAN,
các cuộc gặp không chính thức đa phương và song phương giữa các nước trong khu
vực nhằm góp phần giải quyết khủng hoảng ở từng quốc gia khác nhau với những
nguyên nhân và tính chất khủng hoảng khác nhau.


iii. Một số giải pháp nhằm hạn chế và khắc phục ảnh hưởng tiêu cực của cuộc
khủng hoảng tới việt nam
1.Bối cảnh quốc tế và trong nước
1.1 Bối cảnh chung
Cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu á đã làm giảm tốc độ tăng trưởng của
nền kinh tế thế giới trong năm 1998 là 0.8%, tức là chỉ tăng 3.5% thay vì 4.3% như đã
dự đoán ban đầu trước khi châu á lâm vào khủng hoảng. Theo IMF thì thiệt hại đó to
lớn nhưng không đều, chịu hậu quả nặng nề nhất là những nơi đã xuất phát khủng
hoảng như Thái lan, Inđônêsia, Malaysia, Philippin. Các nước này chỉ tăng trưởng
kinh tế trung bình là 1,5% trong năm 1998. Tiếp sau là bốn nước NICs : Singapo, Đài
loan, Hồng kông, Hàn quốc chỉ tăng trưởng kinh tế trung bình 3,6% trong năm 1998 so
với 6,2% trong năm 1997. Hàn quốc lẽ ra phải tuyên bố vỡ nợ nếu như không được sự
tài trợ khẩn cấp của Nhật bản và Phương tây.
Bị vạ lây còn có hầu hết các nước Đông âu đang trong thời kỳ chuyển tiếp và các
quốc gia đang phát triển ở Nam Mỹ cũng như ở châu phi ( các quốc gia này vốn đã
khó khăn lại càng khó khăn thêm). Trong nhóm G7 chỉ có Nhật bản là bị tác hại nặng
vì Nhật bản đả bỏ rất nhiều vốn vào các nước láng giềng và phải chịu cải tổ nền tài
chính trong nước một cách toàn diện. Mức tăng trưởng kinh tế của Nhật bản năm 1998
là (-)2,7% so với 2,2% năm 1997. Các quốc gia khác trong khối G7 chỉ bị ảnh hưởng
nhẹ của cuộc khủng hoảng châu á làm giảm 0,4% tỷ lệ tăng trưởng kinh tế. Đối với
Mỹ mức tăng trưởng chậm bớt lại không phải là một tai hoạ mà còn có tác dụng tích
cực làm giảm nguy cơ lạm phát gia tăng. Đối với EU, do quan hệ thương mại và đầu
tư với khu vực châu á còn rất hạn chế, bởi vậy cuộc khủng hoảng cũng không tác động
nhiều tới tình hình kinh tế của các nước này.

Nhìn về tổng thể thì, các nước công nghiệp vẫn chiếm ưu thế hơn vì chuyên sản
xuất các mặt hàng kỷ thuật cao, trong khi châu á với công nghệ hạng hai, chỉ là công
trường gia công mà thôi, hai bên không cạnh tranh trên cùng một địa hạt nên tác động
của cuộc khủng hoảng đối với Phương Tây cũng có giới hạn. Sau cuộc khủng hoảng
các nước tích cực rà soát lại nền kinh tế của mình và phần nào e dè hơn đối với sự tự
do hoá thương mại, đầu tư đặc biệt là lĩnh vực tài chính - tiền tệ, đồng thời rút ra
được các bài học xương máu cho mình, cũng như các biện pháp triệt tiêu các nhân tố
là nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng.

1.2 Thực trạng nền kinh tế Việt nam trong bối cảnh khủng hoảng tài chính - tiền tệ
châu á
Từ khi thực hiện đổi mới nền kinh tế, Việt nam đã đạt được một số thành tựu
quan trọng. Tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao trong khi lạm phát được giữ ở mức ổn
định một hoặc hai con số trong một trong nhiều năm liền có thể nhận thấy điều đó qua
bảng sau :
Bảng cơ cấu tăng trưởng GDP từ năm 1994 đến năm 1998

Ch
ỉ tiêu(%)

1994

1995

1996

1997

1998


GDP
8.8 9.5 9.3 8.2 5.8
Nông nghi
ệp

3.9

4.5

4.4

4.5

3.0

Công nghiệp
14.0 13.9 14.1 13.0 12.1
D
ịch vụ

10.2

1
0.6

10.0

9.2

6.7


Nguồn : Tạp chí Phát triển kinh tế tháng 3-1999

Mức lạm phát qua các năm thể hiện ở biểu đồ dưới đây:

Biểu đồ mức lạm phát của Việt nam từ năm 1994-1998

Nguồn : Thời báo kinh tế số 18 năm 1999

Công nghiệp và dịch vụ luôn đạt được tốc độ tăng trưởng cao ở mức hai con số trong
nhiều năm liền. Sự phát triển kinh tế đang đi đúng định hướng công nghiệp hoá - hiện
đại hoá đất nước theo đường lối của đảng.
Đầu tư nước ngoài từ năm 1991 đến năm 1998 có số vốn đăng ký là 33.438 triệu
USD, vốn thực hiện là 12.204 triệu USD đạt 36,5% trên vốn đăng ký, đóng góp 43%
vào GDP. Đầu tư nước ngoài đã thực sự mang lại sự khởi sắc cho nền kinh tế Việt nam
trong những năm qua.
Tuy nhiên xét từ nhiều góc độ kinh tế khác nhau thì bản thân nội tại nền kinh tế
cũng chứa đựng những yếu tố mang tính nguyên nhân của khủng hoảng tương tự như
một số nước trong khu vực, tuy mức độ và ở một số lĩnh vực có những điểm khác
nhau. Điều đó được rút ra từ việc phân tích, so sánh nền kinh tế của nước ta với nền
kinh tế các nước trong khu vực.
Những điểm giống nhau
14.4
12.7
4.5
3.5
9.2
0
5
10

15
N¨ m
1994
N¨ m
1995
N¨ m
1996
N¨ m
1997
N¨ m
1998
Møc l¹ m
ph¸ t(%)
Nền kinh tế nước ta có tốc độ tăng trưởng cao trong vòng gần mười năm qua, tuy
nhiên chưa thực sự ổn định và vững chắc. Một phần quan trọng đóng góp cho tăng
trưởng kinh tế là tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu cao (20-30% ) và đầu tư nước ngoài
tăng mạnh. Mức tăng trưởng GDP phụ thuộc rất lớn vào nguồn vốn đầu tư nước ngoài
( chủ yếu là FDI và ODA ) nên khi nguồn vốn này giảm sút dễ gây những ảnh hưởng
tiêu cực đến nền kinh tế. Mặt khác cán cân thanh toán vãng lai thâm hụt kéo dài trong
nhiều năm ở mức cao ( khoảng 8% so với GDP ) đã gây sức ép đến tỷ giá hối đoái và
tăng dư nợ nước ngoài của Việt nam.

Bảng thâm hụt cán cân thanh toán từ năm 1995-1998

Năm

1995

1996


1997

1998

Thâm hụt cán cân vãng
lai ( tỷ USD )
1.8 2.0 1.5 1.7
Thâm hụt cán cân
thương mại (tỷ USD )
3.5 4.0 2.3 2.5
Nguồn: Tạp chí thương mại số 4 năm 1999

Phần thâm hụt này được bù lại bằng FDI, ODA và vay thương mại. Theo tính toán,
FDI bù đắp 90% cán cân vẵng lai còn lại là ODA và vay thương mại, nhưng cả hai
nguồn này đều được sử dụng kém hiệu quả. Ngoài ra tỷ lệ nợ nước ngoài đã lên
khoảng 50% GDP, dự trữ ngoại tệ thấp, năm 1997 là 2.7 tỷ USD và năm 1998 là 2.8
tỷ. Tình trạng bội chi ngân sách kéo dài, công cụ thuế chưa phát huy được hết hiệu lực
và hiệu quả đối với nền kinh tế, còn thất thu nhiều, đặc biệt là việc bao cấp cho một số
doanh nghiệp nhà nước chưa được giải quyết triệt để.
Chế độ tỷ giá ổn định kéo dài nhằm mục đích tạo ra môi trường kinh tế vĩ mô ổn
định, thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Luồng vốn nước ngoài đổ vào nhiều đã tạo nên sự
ổn định tỷ giá và tăng dự trữ ngoại tệ, tuy nhiên lại làm tăng tỷ giá thực của đồng Việt

×