Tải bản đầy đủ (.pdf) (121 trang)

nghiên cứu một số yếu tố liên quan đến dịch vụ y tế cho phụ nữ người dao về khía cạnh văn học - xã hội tại huyện bạch thông, tỉnh bắc kạn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.65 MB, 121 trang )

S húa bi Trung tõm Hc liu i hc Thỏi Nguyờn


Bễ GIA O DU C VA A O TA O
A I HO C THA I NGUYấN





PHM HNG HA I




NGHIÊN CứU một số yếu tố liên quan đến dịch vụ
y tế cho phụ nữ ng-ời dao về khía cạnh văn hoá -
xã hội tại huyện bạch thông, tỉnh bắc kạn




LUậN án tiến sĩ y học













THI NGUYấN - 2011
S húa bi Trung tõm Hc liu i hc Thỏi Nguyờn


Bễ GIA O DU C VA A O TA O
A I HO C THA I NGUYấN





PHM HNG HA I



NGHIÊN CứU một số yếu tố liên quan đến dịch vụ
y tế cho phụ nữ ng-ời dao về khía cạnh văn hoá -
xã hội tại huyện bạch thông, tỉnh bắc kạn



CHUYấN NGA NH: Vấ SINH XA Hễ I HO C VA Tễ CH C Y Tấ
M S: 62 72 73 15

LU N A N TIấ N S Y HO C



Ng i h ng dõ n khoa ho c:

1. GS.TS. Phm Huy Dng
2. GS.TS. Hong Khi Lp





THI NGUYấN - 2011
S húa bi Trung tõm Hc liu i hc Thỏi Nguyờn


Bễ GIA O DU C VA A O TA O










NGHIÊN CứU một số yếu tố liên quan đến dịch vụ
y tế cho phụ nữ ng-ời dao về khía cạnh văn hoá -
xã hội tại huyện bạch thông, tỉnh bắc kạn





LUậN án tiến sĩ y học














THI NGUYấN - 2011
S húa bi Trung tõm Hc liu i hc Thỏi Nguyờn


Bễ GIA O DU C V O TO












NGHIÊN CứU một số yếu tố liên quan đến dịch vụ
y tế cho phụ nữ ng-ời dao về khía cạnh văn hoá -
xã hội tại huyện bạch thông, tỉnh bắc kạn



CHUYấN NGA NH: Vấ SINH XA Hễ I HO C VA Tễ CH C Y Tấ
M S: 62 72 73 15

LU N A N TIấ N S Y HO C


Ng i h ng dõ n khoa ho c:

1.
2.





THI NGUYấN - 2011
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CBYT Cán bộ y tế

CSSK Chăm só c sứ c khoẻ
CSYT Cơ sở y tế
CSSKBĐ Chăm só c sứ c khoẻ ban đầ u
CSSKSS Chăm sóc sức kho sinh sn
CBM Community Based Monitoring
(Giám sát dựa vào cộng đồng)
DVYT Dch v y tế
DS - KHHGĐ Dân số - kế hoạch hoá gia đình
KCB Khám cha bnh
KQ Kế t quả
NKHH Nhiễm khuẩn hô hấp
NKĐSS Nhiễ m khuẩ n đườ ng sinh sả n
NVYTTB Nhân viên y tế thôn bn
NHS N hộ sinh
n Số lượng
SD Sử dng
SKBMTE Sứ c khoẻ bà mẹ trẻ em
SKSS Sứ c khoẻ sinh sả n
PKĐKKV Phòng khám đa khoa khu vực
PRA Participatory Rural Appraisal
(Đánh giá nhanh có sự tham gia của cộng đồng)
TMH Tai mũi họng
TYT Trạm y tế
UBND Uỷ ban nhân dân
YTTB Y tế thôn bn
YTCS Y tế cơ sở
WHO World Health Organization
(Tổ chức Y tế thế giới)



1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Sức khỏe của phụ nữ và trẻ em là những vấn đề quan tâm hàng đầu của
các quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam. Phụ nữ là cốt lõi của sự phát
triển kinh tế xã hội. Sức khỏe và cuộc sống của phụ nữ có ý nghĩa quan trọng
đối với gia đình, bản thân và cộng đồng. Hơn thế nữa, đời sống và sức khỏe
phụ nữ là yếu tố cơ bản và có ảnh hưởng trực tiếp tới thế hệ tương lai [4].
Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, Đảng và Nhà nước ta
đã có nhiều chính sách ưu tiên nhằm nâng cao đời sống cho đồng bào các dân
tộc sống ở vùng sâu, vùng xa cũng như đẩy mạnh sự phát triển của miền núi.
Trong đó, sức khoẻ của phụ nữ người dân tộc càng là vấn đề đáng quan tâm
trong chiến lược chăm sóc sức khoẻ nhân dân khu vực miền núi, dân tộc ít
người. Chăm sóc sức khoẻ cho phụ nữ đến nay đã đạt được nhiều thành tựu
rất quan trọng, nhiều chỉ số cơ bản liên quan đến chăm sóc sức khoẻ sinh sản
đã đạt và vượt mục tiêu đề ra [9], [11], [13], [24]. Tuy nhiên, thực tế cho thấy
sự phát triển về kinh tế, văn hóa, xã hội của khu vực miền núi vẫn còn thấp
hơn rất nhiều so với các khu vực khác của cả nước [12], [24], [65], [66]. Mức
sống thấp, trình độ dân trí chưa được nâng cao, hệ thống giao thông đi lại khó
khăn, điều kiện chăm sóc y tế còn thiếu thốn là những vấn đề đang đòi hỏi
cần phải có sự đầu tư hơn nữa của Chính phủ cho các dân tộc sống ở những
vùng khó khăn này, trong đó có tỉnh Bắc Kạn.
Bắc Kạn là một tỉnh miền núi, vùng cao. Theo niên giám thống kê 2009
[8], Bắc Kạn có 295.296 người. Trên địa bàn tỉnh có 23 dân tộc, đông nhất là
dân tộc Tày chiếm 54,3%; dân tộc Kinh chiếm 13,3%; dân tộc Dao chiếm
16,5%; dân tộc Nùng (5,4%) và các dân tộc khác.
Huyện Bạch Thông là một trong những huyện mang đầy đủ những nét
đặc trưng của tỉnh Bắc Kạn. Huyện Bạch Thông gồm 1 thị trấn và 16 xã. Tại
đây, người Dao sống tập trung ở một số xã vùng cao như: xã Đôn Phong,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



2

Dương Phong, Cao Sơn… Bên cạnh những tiến bộ đáng kể thì nơi đây vẫn
còn tồn tại nhiều các tập quán văn hoá lạc hậu có ảnh hưởng không tốt đến
sức khoẻ đặc biệt là sức khoẻ phụ nữ và trẻ em như: Bói cúng ma khi ốm đau,
tự mua thuốc chữa bệnh, đẻ ở nhà không có nhân viên y tế giúp, kiêng khem
khi sinh đẻ, tâm lý muốn sinh nhiều con… Đồng thời, hệ thống chăm sóc y tế
vừa thiếu, vừa yếu chưa đáp ứng được nhu cầu khám chữa bệnh của người
dân. Khoảng cách xa trạm y tế, đường giao thông khó khăn, thiếu phương tiện
thông tin liên lạc, kém hiểu biết… cũng phần nào ảnh hưởng đến việc tiếp cận
và sử dụng dịch vụ y tế của người dân.
Đã có khá nhiều công trình nghiên cứu và đánh giá từng khía cạnh về
tình trạng sức khỏe, bệnh tật của người dân tộc thiểu số [2], [5], [9], [11],
nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống về những yếu tố
liên quan đến dịch vụ y tế cho người Dao nói chung và cho phụ nữ người Dao
nói riêng trên một số khía cạnh văn hoá - xã hội. Việc phân tích những ảnh
hưởng của các yếu tố văn hóa, xã hội đến dịch vụ y tế của người Dao nói
chung và của phụ nữ người Dao nói riêng là thực sự cần thiết nhằm góp phần
tìm ra giải pháp bảo vệ và chăm sóc sức khỏe cho phụ nữ dân tộc thiểu số.
Chính vì vậy, đề tài này được tiến hành nhằm các mục tiêu:
1. Mô tả và phân tích nhu cầu, thực trạng cung cấp và sử dụng dịch vụ y
tế của phụ nữ người Dao trên một số khía cạnh văn hoá, dân tộc và xã hội tại
một số xã thuộc huyện Bạch Thông, tỉnh Bắc Kạn.
2. Phân tích một số yếu tố liên quan đến cung cấp và sử dụng dịch vụ
chăm sóc sức khoẻ bà mẹ hiện có tại địa phương.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



3

Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Định nghĩa văn hóa
Văn hóa là khái niệm mang nội hàm rộng với rất nhiều cách hiểu khác
nhau, liên quan đến mọi mặt đời sống vật chất và tinh thần của con người. Do
vị trí của văn hoá trong đời sống nên văn hoá đã được nhiều người quan tâm
nghiên cứu và đưa ra hàng trăm định nghĩa về văn hoá [3], [40], [44], [47].
Văn hóa trong tiếng Hán được hiểu là những hình xăm trên cơ thể, qua
đó người khác nhìn vào để nhận biết và phân biệt mình với người khác, biểu
thị sự quy nhập vào thần linh và các lực lượng bí ẩn của thiên nhiên, chiếm
lĩnh quyền lực siêu nhiên.
Theo ngôn ngữ của phương Tây, từ tương ứng với văn hóa của tiếng
Việt (culture trong tiếng Anh và tiếng Pháp, kultur trong tiếng Đức, ) có
nguồn gốc từ các dạng của động từ Latin colere là colo, colui, cultus với hai
nghĩa: (1) giữ gìn, chăm sóc, tạo dựng trong trồng trọt; (2) cầu cúng.
Trong cuộc sống hàng ngày, văn hóa thường được hiểu là văn học, nghệ
thuật như thơ ca, mỹ thuật, sân khấu, điện ảnh Các “trung tâm văn hóa” có ở
khắp nơi chính là cách hiểu này. Một cách hiểu thông thường khác: văn hóa là
cách sống bao gồm phong cách ẩm thực, trang phục, cư xử và cả đức tin, tri
thức Vì thế chúng ta nói một người nào đó là văn hóa cao, có văn hóa, văn
hóa thấp hoặc vô văn hóa.
Trong nhân loại học và xã hội học, khái niệm văn hóa được đề cập đến theo
một nghĩa rộng nhất. Văn hóa bao gồm tất cả mọi thứ vốn là một bộ phận trong
đời sống con người. Văn hóa không chỉ là những gì liên quan đến tinh thần mà
bao gồm cả vật chất.

Năm 2002, UNESCO đã đưa ra định nghĩa về văn hóa như sau [40]:
“Văn hóa nên được đề cập đến như là một tập hợp của những đặc trưng về
tâm hồn, vật chất, tri thức và xúc cảm của một xã hội hay một nhóm người
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


4

trong xã hội và nó chứa đựng, ngoài văn học và nghệ thuật, cả cách sống,
phương thức chung sống, hệ thống giá trị, truyền thống và đức tin”.
Tóm lại, văn hoá gắn bó hữu cơ với con người, là sản phẩm hoạt động
của con người hay nói cách khác: Văn hoá vừa là vật chất, vừa là tinh thần,
vừa mang tính chất xã hội lại vừa có tư cách cá nhân. Chúng ta cũng có thể
hiểu một khía cạnh của văn hóa đó là những phong tục, tập quán, thói quen,
nếp sống của con người được hình thành, tồn tại và phát triển trong đời sống
của con người. Các thành tố của văn hoá bao gồm 9 nội dung cơ bản: Ngôn
ngữ, ăn uống, ở, mặc, tín ngưỡng, lễ hội, văn nghệ dân gian, tri thức dân gian
và các phong tục tập quán khác (ma chay, cưới xin, vào nhà mới, chữa bệnh,
dòng họ, gia đình ) [40].
1.1.2. Khái niệm phong tục tập quán
Phong tục, tập quán là một khái niệm phức tạp, theo từ điển tiếng Việt
thì phong tục tập quán được định nghĩa [84]: “Những thói quen đã được mọi
người tuân thủ tại một địa phương trong một hoàn cảnh bắt buộc phải chấp
nhận lề thói ấy như một phần luật pháp của địa phương”. Như vậy, phong tục,
tập quán thực chất là những qui tắc xử sự mang tính cộng đồng, phản ánh
nguyện vọng qua nhiều thế hệ của toàn thể dân cư trong một cộng đồng tự
quản (làng, xã, khu vực). Các qui tắc này được sử dụng để điều chỉnh các
quan hệ xã hội nói chung, quan hệ hôn nhân và gia đình nói riêng mang tính
tộc người hoặc mang tính khu vực.
“Tục lệ” là những tập quán có tính chất xã hội được nêu lên thành nghi thức,

có thể lệ, có tiêu chuẩn bắt buộc, truyền miệng hay thành văn, được dư luận xã hội
rộng rãi thừa nhận, ủng hộ, bảo vệ và yêu cầu mọi người tuân thủ [31].
1.1.3. Khái niệm dân tộc, quốc gia dân tộc, dân tộc thiểu số
Trong tiếng Việt cũng như trong ngôn ngữ của nhiều dân tộc trên thế
giới, thuật ngữ dân tộc và thuật ngữ Quốc gia dân tộc chỉ rõ hai khái niệm,
hai phạm trù riêng biệt. Quốc gia dân tộc mang tính lãnh thổ, chính trị, Nhà
nước; còn dân tộc lại mang tính lịch sử cộng đồng ngôn ngữ, văn hóa tự nhiên.
Một quốc gia có thể có một hay nhiều dân tộc sinh sống. Trái lại, một dân tộc
cũng có thể phân bố trên lãnh thổ nhiều quốc gia [79].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


5

Việt Nam là một nước có nhiều dân tộc. Theo từ điển tiếng Việt, dân tộc
được định nghĩa: “Cộng đồng người hình thành trong lịch sử có chung một
lãnh thổ, các quan hệ kinh tế, một ngôn ngữ văn học và một số đặc trưng văn
hoá và tính cách” [74].
Thuật ngữ dân tộc thiểu số, dân tộc ít người, dân tộc dân số ít là dựa trên
sự so sánh tỷ lệ dân số của từng dân tộc trong mỗi nước để gọi. Ở Việt Nam,
tộc người Việt (dân tộc Kinh) chiếm 82,6% dân số cả nước. Trừ dân tộc Kinh,
các dân tộc còn lại được coi là dân tộc thiểu số.
1.1.4. Một số thuật ngữ khác
Dịch vụ [81]: Dịch vụ được hiểu là những thứ tương tự như hàng hóa
nhưng phi vật chất, gồm các tính chất sau:
- Tính đồng thời: Sản xuất và tiêu dùng dịch vụ xảy ra đồng thời;
- Tính không thể tách rời: Sản xuất và tiêu dùng dịch vụ không thể tách
rời. Thiếu mặt này thì sẽ không có mặt kia;
- Tính chất không đồng nhất: Không có chất lượng đồng nhất;
- Vô hình: Không có hình hài rõ rệt. Không thể thấy trước khi tiêu dùng;

- Không lưu trữ được: Không lập kho để lưu trữ như hàng hóa được.
Dịch vụ y tế [93]: Dịch vụ y tế là một dịch vụ khá đặc biệt. Về bản chất,
dịch vụ y tế bao gồm các hoạt động được thực hiện bởi nhân viên y tế như
khám, chữa bệnh phục vụ bệnh nhân và gia đình.
1.2. Một số đặc điểm văn hóa - xã hội dân tộc Dao liên quan đến sức khoẻ
1.2.1. Ngôn ngữ
Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Mông - Dao. Ngôn ngữ giao tiếp khá
thống nhất giữa các nhóm Dao. Do ngôn ngữ văn chương mượn chữ Hán cấu
tạo sắp xếp lại và gần như khác hẳn với ngôn ngữ giao tiếp nên số lượng
người thông thạo ngôn ngữ văn chương không nhiều [78]. Do đặc thù về ngôn
ngữ, nên trong quá trình giao tiếp các cán bộ y tế gặp rất nhiều khó khăn do
bất đồng ngôn ngữ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


6

1.2.2. Nhà ở
Nhà ở của người Dao có 3 loại khác nhau: nhà sàn; nhà nửa sàn nửa đất và
nhà đất (nhà trệt) nhưng chủ yếu là nhà trệt. Nhà người Dao thường làm mái
thấp, ít cửa sổ nên trong nhà luôn ẩm thấp, thiếu lưu thông không khí và bị
thiếu ánh sáng. Hơn nữa do tập quán nên trong nhà người Dao thường có 2 đến
3 bếp đun. Việc đun nấu trong nhà gây ô nhiễm môi trường không khí dễ làm
cho các bệnh đường hô hấp phát triển, đặc biệt là nhiễm khuẩn hô hấp trẻ em.
Nghiên cứu của Nguyễn Đình Học (2004) [41] về mô hình bệnh tật trẻ
em dân tộc Dao cho thấy: Nhóm bệnh đường hô hấp chiếm 29,4% xếp thứ tư
sau nhóm bệnh về nội tiết - dinh dưỡng - chuyển hoá (45,3%), nhiễm khuẩn
nhiễm ký sinh trùng (33,3%), bệnh đường tiêu hoá (32,3%).
Người Dao không chú trọng làm công trình phụ và nhà tắm. Đại đa số
các hộ người Dao không sử dụng hố xí và nhà tắm. Không sử dụng hố xí cũng

là một tập quán của một số dân tộc thiểu số khác ở khu vực miền núi.
1.2.3. Ăn, uống
Lương thực chính của người Dao là gạo tẻ và gạo nếp. Thức ăn chủ yếu
là các loại rau rừng và rau tự trồng. Sau khi đẻ, sản phụ được nấu ăn riêng,
thức ăn chủ yếu là thịt gà, thịt lợn được nấu với các loại thuốc nam có tác
dụng nhanh khỏe người, giúp sản phụ có nhiều sữa để nuôi con.
Uống: Thức uống của người Dao trong sinh hoạt hàng ngày là nước chè.
Một số loại lá cây có vị thơm mát, dễ uống dùng để chữa bệnh gan, thận, tim
hoặc bổ máu cũng được người Dao chế biến và sử dụng. Loại đồ uống phổ
biến nữa là rượu được ủ bằng men lá. Hầu hết các gia đình người Dao đều
biết nấu rượu và cất giữ rượu. Báo cáo kết quả điều tra y tế quốc gia năm
2001 - 2002 của Bộ Y tế [17] cho thấy: Tỷ lệ uống rượu vùng Tây Bắc, Đông
Bắc và Tây Nguyên cao hơn vùng đồng bằng sông Hồng. Tuy nhiên chưa có
nghiên cứu về tỷ lệ lạm dụng rượu và nghiện rượu được tính chung cho cả nước.
1.2.4. Tục lệ sinh đẻ và nuôi con
Trước đây, khi sinh con người phụ nữ thường đẻ tại nhà và phải tự đỡ đẻ,
rốn trẻ được cắt bằng nứa, khi đẻ khó thì chỉ biết mời thầy cúng về cúng bái
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


7

Những năm gần đây, việc sinh đẻ của người Dao đã có nhiều thay đổi, phụ nữ
khi có thai đã đi khám thai và đến trạm y tế để đẻ. Tai biến sản khoa, tỷ lệ chết
ở trẻ sơ sinh đã được hạn chế tối đa, dân số người Dao tăng lên rõ rệt.
Sau khi sinh sản phụ được chăm sóc chu đáo, họ thường được ăn cháo
gạo nếp nấu với thịt gà, nghệ hoặc cháo nấu với xương lợn và đu đủ hoặc
cháo gạo nếp nấu với trứng và đu đủ. Sản phụ ăn như vậy trong khoảng mười
ngày, sau đó ăn cơm nóng với trứng luộc, canh đu đủ, rau ngải cứu, đậu tương
hầm, canh gừng. Người Dao không cho sản phụ ăn thức ăn nguội, thịt chua,

hoa quả chua, rau cải vì họ quan niệm rằng ăn những thứ đó sẽ làm người
mẹ mất sữa và làm cho con mắc một số bệnh [39].
1.2.5. Tín ngưỡng liên quan đến bệnh tật
Người Dao quan niệm khi hồn đầy đủ trong cơ thể thì con người khỏe
mạnh. Nếu hồn ở vị trí nào đó vắng thì sẽ gây ốm đau ở chỗ đó. Hồn chính mà
vắng thì con người sẽ bị bệnh nặng, nguy hiểm đến tính mạng, thậm chí bị chết.
Nguyên nhân sự vắng mặt của hồn là do chúng “mải chơi” hoặc bị các thần
thánh bắt không trở về nơi trú ngụ của mình trong cơ thể. Để tránh hậu quả xấu,
người ta phải mời thầy cúng làm mâm lễ gọi hồn trở về hoặc chuộc hồn.
1.2.6. Phong tục tập quán
Tục cúng ma [31]: Khi ốm đau, người Dao thường bói ma. Bói ra thứ ma
nào thì cúng thứ ma đó. Họ thường dùng đồng xu treo vào sợi dây, khi gọi
đến tên con ma nào mà thấy đồng xu “động đậy” thì cúng con ma đó.
Cúng tổ tiên: Người Dao quan niệm tổ tiên cũng là ma, duy có loại ma
này được coi là ma phúc thần luôn phù hộ, giúp đỡ con cháu trong đời sống
sinh hoạt, chăm lo sức khoẻ con cháu.
Trước đây, mỗi khi ốm đau, người Dao thường chỉ làm lễ cúng, ít tin vào
việc dùng thuốc và cán bộ y tế. Mặt khác, các thầy thuốc dân gian thường
kiêm luôn cả nghề cúng bái nên việc chữa bệnh bao gồm cả dùng thuốc và
cúng bái. Ngày nay, mỗi khi có ốm đau, người Dao đã đến cơ sở y tế để chữa
bệnh. Tuy nhiên, nhiều người vẫn cúng bái, đặc biệt là những trường hợp
bệnh hiểm nghèo.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


8

1.2.7. Một số kiêng kỵ
Kiêng kỵ khi có thai [31]: Khi có thai, người phụ nữ kiêng các công việc
nặng nhọc, kiêng bước qua dây thừng buộc trâu, bò, ngựa (vì họ cho rằng sau

này đứa trẻ sẽ bị tràng hoa quấn cổ và khó đẻ), không được đánh rắn (vì sợ sẽ
đau đẻ quằn quại như rắn bò), kiêng ăn thịt gà rừng (vì sợ sau này đứa trẻ sẽ
chạy nhảy nhiều), không ăn nhộng ong (vì sợ sau này đứa trẻ chỉ thích ở nhà,
không dám ra ngoài), kiêng các thức uống từ cây có gai (vì quan niệm cây đó
sẽ làm cho đứa trẻ bị mụn nhọt, ngứa ngáy)
Kiêng kỵ sau khi sinh: Sau khi sinh, sản phụ kiêng ăn các món ăn nguội,
các loại thịt chua, hoa quả chua, các loại rau có nhiều nước như rau cải, bắp
cải vì quan niệm rằng ăn những thức ăn đó không tốt sẽ gây ảnh hưởng xấu
đến sức khỏe người mẹ và con, có thể là nguyên nhân gây mất sữa hoặc làm
cho đứa trẻ chê bú sữa mẹ. Kiêng bế con đến chỗ khác trong nhà nhất là nơi
đặt bàn thờ tổ tiên và khu tiếp khách của nam giới. Kiêng đến gia đình người
khác vì sợ mang theo những thứ “không sạch sẽ” sẽ làm ảnh hưởng đến gia đình
họ. Kiêng người lạ đến nhà, cho nên dấu hiệu để nhận biết khi trong nhà có
người đẻ là người Dao thường treo cành lá hoặc hoa chuối rừng trước cửa.
Những kiêng kỵ có lợi cho sức khỏe bà mẹ và trẻ em [39].
Khi có thai được 3 - 4 tháng, phụ nữ người Dao chủ động kiêng sinh
hoạt vợ chồng để thai nhi được lành lặn, tránh tổn thương cho thai và sảy thai.
Trong thời kỳ mang thai, mỗi khi ra khỏi nhà, thai phụ phải đội nón vì họ
cho rằng Ngọc Hoàng nhìn thấy “người bẩn’’ sẽ trị tội và làm sảy thai. Khi đi
trên đường không được bước qua thừng trâu, chạc ngựa.
Khi có thai người phụ nữ phải kiêng ăn tất cả các loại thịt ôi, thiu và
kiêng ăn nhộng ong, nhộng tằm.
Sau đẻ sản phụ ăn cơm nóng với trứng luộc, canh gừng, uống nước lá
thuốc rồi ăn cơm nếp với thịt gà, thịt lợn.
Khi nhà có người sinh đẻ họ dùng lá cây cài trước cửa để cảnh báo người
lạ không được vào.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


9


Người Dao ít khi mắng, chửi, đánh đập con cái, không thích nói to tiếng
vì sợ hồn vía trẻ nhỏ bị thất lạc sẽ ốm đau.
Những kiêng kỵ bất lợi cho sức khỏe bà mẹ và trẻ em [39]:
Phụ nữ người Dao Thanh y không muốn ai hỏi tới chuyện họ có thai, nên
khi mang thai họ thường giấu giếm. Các cô dâu mới về nhà chồng rất giữ ý
kiêng khem trong ăn, uống song vẫn phải cáng đáng mọi công việc nên sức
khỏe dễ suy giảm, ảnh hưởng đến phát triển của thai nhi.
1.2.8. Tri thức y học dân gian
Trong nhiều cộng đồng dân tộc ở miền núi, ngoài các dạng thuốc truyền
thống thường gặp như thuốc sắc, rượu thuốc, cao thuốc để uống, thuốc đắp bó
gẫy xương còn có thuốc tắm của người Dao. Đó là một dạng đặc trưng về
cách sử dụng cây cỏ làm thuốc để chăm sóc sức khoẻ và chữa bệnh đã có từ
rất xa xưa, một nét đẹp văn hoá y học gia truyền trong cộng đồng các dân tộc
ở Việt Nam. Thuốc tắm (tiếng Dao gọi là Đìa dảo xin) không chỉ của người
Dao đỏ ở Bắc Kạn mà còn là dạng thuốc của các nhóm người Dao khác ở Việt
Nam. Trong cộng đồng người Dao, hầu hết các thành viên trong mỗi hộ gia
đình đều biết cây thuốc tắm. Tuy nhiên, phụ nữ người Dao thường biết nhiều
hơn, biết rõ nơi mọc của chúng và cách khai thác bền vững nguồn tài nguyên
để còn có thể sử dụng lâu dài.
Theo Trần Văn Ơn [58], nghiên cứu điều tra về bài thuốc tắm của người
Dao thì bài thuốc tắm của người Dao đỏ ở Sa Pa gồm nhiều loại cây hơn so
với bài thuốc của các nhóm người Dao khác, từ 10 đến 120 loài, trong đó có
khoảng 5-10 cây thuốc được coi là quan trọng nhất.
Phần lớn phụ nữ người Dao đều biết lấy cây thuốc nam để điều trị các
bệnh thông thường, còn bệnh nặng phải nhờ tới thầy lang chuyên nghiệp.
Người Dao có tập quán chữa bệnh đến đâu lấy thuốc đến đấy, ít khi lấy thuốc
dự trữ. Kinh nghiệm chữa một số bệnh thông thường của người Dao:
+ Chữa bệnh cảm cúm: Lấy lá rau ngải, lá cam, lá chanh, lá bưởi, lá tre
đun sôi rồi cho người ốm xông ra được nhiều mồ hôi là khỏi hoặc lấy lá tía tô

(mía đang sa) rửa sạch cho vào nước nóng uống vài lần là khỏi.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


10

+ Chữa bệnh bị sốt cao: Dùng lá chanh vò ra hoà nước cho người bệnh
uống một vài lần là hạ sốt.
+ Chữa bệnh chướng hơi đầy bụng: Lấy củ canh chì đòi cho vào rượu
ngâm uống vài lần là khỏi. Loại rượu này uống chữa khỏi bệnh đái dắt.
+ Chữa bệnh đau xương khớp: Lấy cây thanh thảo (bùng leo), lá cây dâu
tằm (phong lốm mòm) đem giã nhỏ trộn với nước vo gạo, rang lửa cho ấm lên
rồi đắp vào chỗ đau.
+ Người bị ngã gãy xương: Dùng lá và thân cây “Tồm bùng lao tòn” và
cây tầm gửi mọc trên cây tre. Hai thứ này giã nhỏ trộn với nước vo gạo và rang
qua lửa cho ấm lên rồi đắp vào chỗ xương gãy. Trước khi đắp phải nắn lại chỗ
xương bị gãy cho thẳng và dùng nẹp bằng cây mía đỏ (tăm tía xi). Mỗi ngày
thay thuốc 1 lần, khoảng 10 hôm là đỡ đau, khoảng 1 tháng sẽ liền xương.
+ Chữa bệnh đau thận: Lấy cây tầm gửi mọc trên cây gạo hoặc cây dâu,
cây môn gai (hậu giàng gim), cây “choang xi”, tất cả đem thái nhỏ, sắc nước
uống. Sau đó lấy thêm 2 loại lá cây “mắc nai nòm” và “mắc phường nòm”,
giã nhỏ ngâm vào nước vo gạo, rang nóng bọc vào mảnh vải sát vào chỗ phù.
Ngày sát 2 lần, sát từ trên xuống dưới.
+ Chữa rắn cắn: Lấy lá cây khoai môn nhai nát đắp vào chỗ rắn cắn sẽ
khỏi. Ngoài ra, họ dùng lá “tụp bầy” vò nhàu, bọc vào mảnh vải hơ nóng trên
lửa xoa vào chỗ rắn cắn và đắp vào chỗ rắn cắn vài lần là khỏi.
+ Chữa rết cắn: Lấy củ cây “tộp rùi” giã nhỏ rồi cho vào lá dong (lòm)
bọc lại hơ trên than hồng cho nóng lên rồi đắp vào chỗ rết cắn, cứ nguội lại
thay, cho đến khi không đau nữa thì thôi.
+ Để phòng bệnh và giữ gìn sức khoẻ hàng ngày, người Dao có kinh

nghiệm là khi đi ra ngoài nắng phải đội mũ, đội khăn, đi giầy dép. Khi đông
về giá lạnh, trong nhà thường xuyên đốt lửa và dùng nệm ấm khi ngủ.
1.3. Tình hình sức khỏe, sức khỏe sinh sản của phụ nữ
1.3.1. Đặc điểm cơ thể liên quan đến bệnh tật ở nữ giới
Cơ thể nữ giới được tạo hoá ban cho cấu tạo giải phẫu phù hợp với các
chức năng riêng của mình. Ngoài công tác xã hội, người phụ nữ còn là trung
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


11

tâm của gia đình về mọi mặt. Những yếu tố đó liên quan không ít đến người
phụ nữ, nhiều khi là nguyên nhân dẫn tới tình trạng sức khoẻ yếu ở cộng đồng
nữ giới, nhất là phụ nữ ở độ tuổi sinh đẻ, trong thời kỳ mang thai và nuôi con
nhỏ [30], [59], [75], [76].
Tỷ lệ mắc bệnh nói chung ở nữ giới cao hơn nam giới, cả bệnh cấp và
mạn tính, tỷ lệ chung là 2,5 bệnh/người [90], [100].
Về cơ cấu bệnh tật giữa nam và nữ, các kết quả nghiên cứu nước ngoài
và trong nước hầu như có sự tương đồng. Nam giới có xu hướng mắc các
bệnh hô hấp, tai mũi họng, bệnh tiêu hoá mạn tính và tai nạn nhiều hơn nữ
giới từ 1,3 đến 1,7 lần. Trong khi đó, nữ giới lại mắc các bệnh thuộc hệ sinh
dục, tiết niệu cao hơn đến 3 lần [34], [92], [107].
1.3.2. Sức khỏe sinh sản - nguy cơ bệnh tật cao nhất ở nữ giới
Sức khoẻ là một trong những điều kiện cơ bản để mang lại giá trị cuộc
sống cho con người [4], [6], [10]. Nói đến sức khoẻ phụ nữ là nói đến sức
khoẻ sinh sản, cho nên đầu tư cho sức khoẻ nói chung và sức khoẻ sinh sản
nói riêng cũng chính là đầu tư cho phát triển [14], [15], [16].
Nội dung của sức khoẻ sinh sản theo Chương trình hành động Cairo bao
gồm [105]: Các biện pháp kế hoạch hoá gia đình; sức khoẻ vị thành niên; dịch
vụ chăm sóc bà mẹ bao gồm chăm sóc trước trong và sau khi đẻ; phòng và

điều trị các bệnh nhiễm khuẩn đường sinh dục, các bệnh lây truyền qua đường
tình dục; điều trị vô sinh; xử trí các vấn đề sức khoẻ phụ nữ như vấn đề phụ
khoa, giáo dục tình dục học cho cả nam và nữ.
Ở Việt Nam, chăm sóc sức khoẻ sinh sản được chi tiết hoá thành 8 nội
dung [19] với các dịch vụ tương ứng: Thông tin, giáo dục, truyền thông và tư
vấn; làm mẹ an toàn; kế hoạch hoá gia đình; nạo hút thai; sức khoẻ sinh sản vị
thành niên; các bệnh nhiễm khuẩn đường sinh sản bao gồm các bệnh lây truyền
qua đường tình dục (trong đó có HIV/AIDS); các bệnh ung thư sinh sản, ung
thư vú; vô sinh.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


12

Sức khoẻ sinh sản nữ vị thành niên
Việt Nam là nước có tỷ trọng dân số vị thành niên vào hàng cao nhất
trong khu vực châu Á, tác động của nền kinh tế thị trường đã làm ảnh hưởng
đạo đức của một bộ phận thanh thiếu niên, không ít vị thành niên sống buông
thả, mà một trong hành động đáng báo động là hoạt động tình dục trước hôn
nhân và các hậu quả nghiêm trọng của nó [33], [51], [57], [82], [94].
Tổ chức Y tế Thế giới đánh giá nguy cơ tử vong do thai sản ở phụ nữ tuổi 15
đến 19 cao gấp 2 lần so với người từ 20 đến 24. Còn những em gái tuổi 10 - 14
nếu có thai thì nguy cơ tử vong cao gấp 5 lần so với tuổi ngoài 20 [95], [96].
Phụ nữ và nhiễm khuẩn đường sinh sản
Bệnh phụ khoa là bệnh của nữ giới, trong đó tỷ lệ mắc các bệnh nhiễm
khuẩn đường sinh sản và bệnh lây truyền qua đường tình dục khá cao, đặc
biệt là ở những nước chậm hoặc đang phát triển [42].
Kết quả điều tra ở Thái Bình, Hải Phòng, Lâm Đồng, Hậu Giang (cũ), Hà
Sơn Bình (cũ), Hà Tuyên (cũ) cho thấy: Trong cơ cấu bệnh tật của nữ theo độ
tuổi, bệnh phụ khoa chiếm tỷ lệ cao nhất và tăng dần theo độ tuổi sinh sản, cao

nhất là ở độ tuổi 41 - 55, chiếm 60% [1].
Sự thiếu hụt kiến thức, thiếu hụt chăm sóc y tế, cũng như tình trạng mại
dâm hiện nay cũng là những yếu tố rất quan trọng để làm tăng tỷ suất của
bệnh nhiễm khuẩn đường sinh sản (NKĐSS) [73].
Trên thế giới, NKĐSS hay gặp nhất là viêm âm đạo, rồi đến một số bệnh
lây qua đường tình dục như trichomonas, lậu, giang mai. Tỷ lệ NKĐSS cao
nhất là ở châu Mỹ La tinh, châu Phi và châu Á [90], [91].
Ở Việt Nam, các nhiễm khuẩn đường sinh sản thường gặp là: Tạp khuẩn
(44%), Candida (28,5%), Candida + tạp khuẩn (27,5%) [22], [23], [24], [30].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


13

Phụ nữ và HIV/AIDS
Đại dịch HIV/AIDS gây nên những hậu quả nặng nề cho sức khoẻ cá
nhân, hạnh phúc gia đình và an toàn xã hội. Từ ca bệnh đầu tiên phát hiện
năm 1990, đến nay trên thế giới đã có hơn 40 triệu người nhiễm HIV, trong
đó có 18,5 triệu người là phụ nữ [89], [99].
Ở Việt Nam, trong giai đoạn 2003 - 2005, mỗi năm có thêm 37.000
người mắc mới. Riêng năm 2005, đã phát hiện 13.731 ca mắc mới HIV, 2.861
ca bị AIDS và 1.673 ca chết do HIV/AIDS [8], [11], [25], [106].
Nạo phá thai và sức khoẻ phụ nữ
Bình quân cứ một phụ nữ ra khỏi độ tuổi sinh đẻ thì có 3 phụ nữ khác
bước vào độ tuổi này [15], [87], [104]. Theo thống kê của Vụ Sức khoẻ sinh
sản Bộ Y tế năm 2005, tỷ lệ nạo hút thai trên tổng số đẻ trong cả nước là
20,8%; tỷ lệ tai biến do nạo hút thai là 1,4%. Các vùng có tỷ lệ cao là miền
núi phía Bắc, đồng bằng Sông Hồng, đồng bằng sông Cửu Long [11], [27].
Sức khoẻ thai phụ và tình hình tai biến sản khoa
Tình trạng thiếu dinh dưỡng ở phụ nữ mang thai: Thiếu năng lượng

trường diễn đối với thai phụ ở nước ta chiếm tới 30% [26]. Chất lượng và số
lượng khẩu phần của phụ nữ có thai nhìn chung chưa được cải thiện.
Tai biến sản khoa: Là tai biến trước, trong khi sinh và ngay sau đẻ, rất
khó lường trước, xảy ra ngoài kiểm soát và gây tử vong cao [11], [51].
Theo thống kê của Vụ Sức khoẻ sinh sản Bộ Y tế năm 2004 [23], tỷ lệ
tai biến sản khoa còn khá cao. Cơ cấu tai biến là băng huyết, nhiễm trùng, sản
giật, vỡ tử cung và nạo phá thai.
Tử vong mẹ - nguy cơ hàng đầu của thai sản
Tỷ suất chết mẹ ở Việt Nam đã liên tục giảm. Theo số liệu của tổng cục
thống kê [22], tỷ suất này đã giảm dần từ 130/100.000 trẻ đẻ ra sống năm
1992 xuống còn 95/100.000 (năm 2000), sau đó tiếp tục giảm đi còn
85/100.000 (năm 2002) và 80/100.000 (năm 2005).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


14

Điều tra tử vong mẹ năm 2000 - 2001 do Vụ Sức khoẻ sinh sản - Bộ Y tế
hợp tác với WHO thực hiện ở 7 tỉnh thuộc 7 vùng sinh thái của Việt Nam cho
thấy tỷ suất chết mẹ ở 7 tỉnh nghiên cứu là 130/100.000 trẻ đẻ ra sống [103].
Theo Trần Thị Trung Chiến (2006) [29], có sự khác nhau về chết mẹ giữa
các vùng (269/100.000 ở vùng núi và trung du, 81/100.000 ở đồng bằng), giữa
dân tộc thiểu số và dân tộc Kinh (316 và 81/100.000), giữa nông thôn và thành
thị (145 và 79/100.000). Nguyên nhân góp phần gây tử vong mẹ là do chậm trễ
đến cơ sở y tế (46,3%), chậm gửi lên tuyến trên do đường giao thông đi lại khó
khăn 41,3%; 40% do điều trị không kịp thời; ngoài ra còn do nhân viên y tế thiếu
năng lực chuyên môn, thiếu thuốc, thiếu trang thiết bị cần thiết
Trên thế giới, các nguyên nhân trực tiếp gây tử vong mẹ chiếm 80%,
nguyên nhân gián tiếp chiếm 20% [101], [102].
Ung thư ở nữ giới

Theo số liệu thống kê của Bộ Y tế [24], thì tỷ lệ ung thư thường gặp ở
nữ là ung thư cổ tử cung chiếm 20,3%, ung thư vú (16,2%), ung thư dạ dày
(10%), đại trực tràng (8,3%), ung thư phổi (7,3%).
1.4. Nữ giới trong tiếp cận và sử dụng dịch vụ y tế
1.4.1. Hệ thống cung ứng dịch vụ y tế Việt Nam
Ở Việt Nam, hệ thống y tế được chia thành tuyến Trung ương, tuyến tỉnh
và tuyến y tế cơ sở, trong đó có y tế Nhà nước và y tế tư nhân [55], [56].
Trạm y tế xã là đơn vị kỹ thuật đầu tiên tiếp cận với nhân dân nằm trong
hệ thống y tế Nhà nước. Điều tra Y tế Quốc gia 2001 - 2002 cho biết bình
quân mỗi xã có 4,34 CBYT; có 52,7% số xã có bác sỹ, 89% xã phường có nữ
hộ sinh hoặc y sỹ sản nhi [17].
1.4.2. Hệ thống quản lý chăm sóc sức khoẻ ban đầu - công cụ đánh giá
tiếp cận và sử dụng dịch vụ y tế
CBM - Community Based Monitoring (Giám sát dựa vào cộng đồng)
[20] được xem như là một phương pháp đánh giá khả năng tiếp cận và sử
dụng dịch vụ y tế. Mục tiêu chính của CBM là xác định xem nhu cầu chăm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


15

sóc sức khoẻ đã được đáp ứng hay chưa, đáp ứng như thế nào, nguyên nhân
cản trở người sử dụng dịch vụ y tế và tồn tại của người cung ứng dịch vụ y tế
thông qua các chỉ số: Sẵn có  tiếp cận  sử dụng  sử dụng đủ  sử dụng
hiệu quả.
Đánh giá tương quan giữa tiếp cận và sử dụng DVYT bằng các biểu đồ,
xác định những vấn đề còn tồn tại dựa trên các chỉ số:
Đối tượng đích: Là nhóm đối tượng mà ngành y tế hướng tới phục vụ.
Tỷ lệ sẵn có: Là tỷ lệ những ngày mà trạm y tế có đầy đủ các điều kiện
cần thiết phục vụ cho chăm sóc sức khoẻ nhân dân.

Tỷ lệ tiếp cận: Là tỷ lệ dân số trong xã có thể đến được trạm y tế trong
khoảng thời gian dưới một giờ bằng phương tiện sẵn có của mình.
Tỷ lệ sử dụng: Là tỷ lệ số người có sử dụng DVYT dù chỉ một lần trong
kỳ theo dõi trên tổng số đối tượng.
Tỷ lệ sử dụng đầy đủ: Là tỷ lệ số người được nhận đầy đủ các DVYT cần
thiết có liên quan đến vấn đề sức khoẻ của họ.
1.4.3. Hệ thống tổ chức y tế tỉnh Bắc Kạn
Theo niên giám thống kê tỉnh Bắc Kạn năm 2009 [83], toàn tỉnh có 8 bệnh
viện (gồm 1 bệnh viện đa khoa tỉnh và 7 bệnh viện huyện), 10 phòng khám đa
khoa khu vực, 122 trạm y tế xã phường. Số cán bộ ngành y tế là 1.197 người,
trong đó có 354 bác sỹ, 326 y sỹ, 517 y tá. Tỷ lệ trạm y tế xã có bác sỹ là
59,01%; có nữ hộ sinh là 81,97%; hầu hết các xã đều có nhân viên y tế thôn bản.
Theo niên giám thống kê y tế năm 2005 [21], tỷ lệ trạm y tế xã có bác sỹ
và nữ hộ sinh của tỉnh Bắc Kạn thấp hơn cả nước nhưng cao hơn so với vùng
Tây Bắc và Tây Nguyên.
1.4.4. Nhu cầu chăm sóc sức khoẻ, tiếp cận và sử dụng dịch vụ y tế
1.4.4.1. Nhu cầu chăm sóc sức khoẻ
Nhu cầu chăm sóc sức khoẻ là sự cần thiết được CSSK theo các vấn đề sức
khoẻ của người dân. Chúng ta cần phân định giữa nhu cầu (need - sự cần thiết) và
cầu (demand - là thể hiện qua ý muốn chủ quan của người bệnh, phụ thuộc vào sức
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


16

mua và khả năng chi trả). Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta trong CSSK luôn
gắn liền với nhu cầu chứ không gắn với sức mua [61]. Theo kết quả của VNHS
2001 - 2002 [17], bình quân sẽ có 1,5 đợt ốm_người/năm làm ảnh hưởng tới các
hoạt động như đi học, đi làm.
1.4.4.2. Tiếp cận dịch vụ y tế

“Tiếp cận dịch vụ y tế” là khả năng mà người sử dụng dịch vụ y tế
(DVYT) khi cần có thể đến sử dụng DVYT tại nơi cung cấp. Tiếp cận bao
hàm cả sự đánh giá, cách nhìn nhận DVYT trong tầm suy nghĩ của người dân
về loại dịch vụ qua các yếu tố không gian, thời gian, chi phí và chất lượng
dịch vụ y tế.
Tiếp cận DVYT phụ thuộc vào nhiều nhóm yếu tố nhưng có 4 nhóm yếu
tố cơ bản sau:
* Khoảng cách từ nhà đến cơ sở y tế: Được tính bằng thời gian đi từ nhà
đến cơ sở y tế. Nếu thời gian này trong vòng 60 phút đi bằng phương tiện
thông thường thì coi là tiếp cận được. Cách tính và đo lường này hợp lý cho
mọi trường hợp. Nếu càng tốn ít thời gian để đến với cơ sở y tế thì tính tiếp
cận càng cao và ngược lại [70].
Nghiên cứu của Nguyễn Mạnh Hùng (2007) [43] về chăm sóc sản khoa
thiết yếu tại tỉnh Lạng Sơn cho thấy: Tỷ lệ tiếp cận trong chăm sóc trước và
sau sinh đạt 85,9%.
* Kinh tế: Yếu tố kinh tế có tác động rất lớn tới sự tiếp cận và sử dụng
dịch vụ y tế [32].
Nghiên cứu của Trương Việt Dũng tại 4 xã tỉnh Quảng Ninh [35] cho
thấy: 22% tự chữa lấy không mua thuốc, 20% đến bệnh viện huyện, 28% đến
thầy thuốc tư.
Theo báo cáo năm 2007 của đơn vị nghiên cứu chăm sóc sức khoẻ cộng
đồng - Bộ Y tế [7]: Tỷ lệ người ốm không chữa gì là 2,7%; tự mua thuốc về
chữa 32,8%; đến trạm y tế xã 22,4%; đến y tế tư nhân 19,6% Những hộ có
thu nhập thấp thì lựa chọn hình thức tự chữa là cao nhất (35,4%), hộ có thu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


17

nhập trung bình và cao thì đến bệnh viện (13,5% và 22%), đến trạm y tế xã

(22,5% và 16,8%).
Kết quả nghiên cứu theo dõi điểm ở một số tỉnh do Bộ Y tế tiến hành
năm 2001 - 2002 [17] cho thấy: Ở miền Bắc số người nghèo bị ốm không
điều trị gì chiếm 40%; 32% không có tiền chữa.
Lê Thị Hồng Thơm (2006) [66] nghiên cứu về tiếp cận và sử dụng dịch
vụ y tế cho phụ nữ nông thôn cho kết quả: 48,6% phụ nữ chọn hình thức tự
chữa bệnh, sau đó đến y tế tư (22,9%), tiếp đến là trạm y tế xã (13,8%). Nhóm
phụ nữ nông thôn nghèo chọn hình thức tự chữa bệnh cao hơn so với nhóm
phụ nữ có thu nhập từ khá trở lên (55,7% so với 23,7%), ngược lại, nhóm phụ
nữ có thu nhập cao lựa chọn khám chữa bệnh tư (25,9%) cao hơn so với nhóm
có thu nhập thấp hơn (18,1%).
Nhà nước cũng như ngành y tế rất quan tâm và đã có nhiều giải pháp về
chăm sóc sức khoẻ cho người nghèo nhưng cho đến nay chúng ta vẫn chưa
thể giải quyết được căn nguyên của vấn đề [2], [4], [5].
* Dịch vụ y tế: Nhóm này không đề cập đến giá dịch vụ đắt hay rẻ mà
chỉ đề cập đến tính sẵn có của các dịch vụ mà người dân cần, tính thường trực,
thời gian mở cửa thích hợp, thái độ của cán bộ y tế với bệnh nhân, chất lượng
dịch vụ mà người dân yêu cầu.
Nghiên cứu quá trình cung cấp dịch vụ chăm sóc trước sinh ở huyện Cần
Đước - Long An [62] cho thấy: Yếu tố sẵn có của phương tiện khám thai, viên
sắt, giấy thử albumin niệu chưa đầy đủ (97%), trong khi đó tất cả phụ nữ
đều có khả năng tiếp cận với dịch vụ. Như vậy, tồn đọng của dịch vụ chăm
sóc sức khoẻ cho phụ nữ có thai trước sinh ở địa phương này chính là sử dụng
hiệu quả.
Báo cáo của sở Y tế tỉnh Thanh Hoá [63] về tính bao phủ của dịch vụ
chăm sóc trước sinh cho thấy yếu tố sẵn có chỉ đạt 86%, trong khi đó yếu tố
tiếp cận và sử dụng là 100%, tồn đọng của dịch vụ chăm sóc phụ nữ có thai
trước sinh vẫn là tỷ lệ sử dụng hiệu quả (66%).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



18

* Văn hoá - xã hội: Trình độ hiểu biết của người ốm, người chủ gia đình
có ảnh hưởng rất lớn tới quyết định xử lý khi bị ốm đau và thông qua đó ảnh
hưởng gián tiếp tới lựa chọn DVYT. Yếu tố văn hoá - xã hội còn chịu sự tác
động của phong tục tập quán: Cúng bái trừ tà ma, kiêng khem, đẻ tại nhà,
ngại phải thổ lộ bệnh tật của mình với người khác…
1.4.4.3. Sử dụng dịch vụ y tế
Sử dụng DVYT là một quá trình tương tác của nhiều yếu tố. Hiện nay có 3
cách đề cập chính được sử dụng để xây dựng mô hình giải thích các mối quan hệ
ảnh hưởng của các yếu tố đến việc sử dụng DVYT của người dân: Kinh tế học,
nhân học và ứng xử xã hội trong chăm sóc sức khoẻ [86].
* Kinh tế học: Cách đề cập này dựa trên nhận định rằng con người khi
phải lựa chọn một dịch vụ nào đó, phải luôn tuân theo các nguyên lý kinh tế
học nhằm đạt được lợi ích tối đa với mức chi phí có thể bỏ ra.
* Nhân học: Cơ sở của cách đề cập này là sự lựa chọn cụ thể của người
dân được xem là kết quả của quá trình ra những quyết định nhiều bậc. Do vậy,
các mô hình phát triển từ cách đề cập này còn có tên là mô hình lý thuyết
quyết định.
* Mô hình quyết định: Cách đề cập này tập trung vào việc xem xét đồng thời
sự tác động của tập hợp các biến giải thích sự lựa chọn DVYT của người dân.
1.4.4.4. Mối liên quan giữa yếu tố tiếp cận và sử dụng dịch vụ y tế
Về mặt lý luận, hệ thống y tế được cấu thành bởi những cơ sở cung cấp
DVYT, người sử dụng DVYT và hệ thống pháp lý cũng như môi trường, kinh
tế xã hội chi phối mối quan hệ giữa bên cung và bên cầu. Nếu bên cung thiếu
các nguồn lực cần thiết, tổ chức và quản lý dịch vụ chăm sóc sức khoẻ không
tốt sẽ dẫn đến hiệu quả sử dụng nguồn lực thấp và ảnh hưởng đến sức khoẻ
cộng đồng. Nếu bên “cầu” không có nhu cầu đúng, không chấp nhận, không
sử dụng các DVYT mà bên “cung” sẵn sàng cung cấp, có nghĩa là không

tham gia vào hệ thống y tế công cộng thì dẫn tới lãng phí nguồn lực và hiệu
quả các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ cộng đồng cũng bị hạn chế.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


19

1.4.4.5. Tình hình sử dụng dịch vụ y tế ở nữ giới
Nghiên cứu của Bùi Thanh Tâm ở Thái Bình [64] cho thấy: Ở Thái Bình
hệ thống y tế của Nhà nước mới chỉ thu hút được 54% các trường hợp ốm, có
44,9% chữa bệnh ở trạm y tế xã; 9,77% đến bệnh viện hoặc phòng khám đa
khoa khu vực; 23,13% tự chữa, còn 13,5% không chữa gì.
Tỷ lệ sử dụng dịch vụ y tế cơ bản giữa các nhóm thu nhập khác nhau
không giống nhau, người nghèo có xu hướng sử dụng dịch vụ trạm y tế xã
nhiều hơn các đối tượng khác, trong khi đó người giàu có xu hướng sử dụng
dịch vụ tư nhiều hơn [67], [68], [70].
Ở các nước công nghiệp phát triển, nữ giới sử dụng dịch vụ y tế nhiều
hơn nam giới [77].
Ở Việt Nam, liên quan giới và sử dụng dịch vụ y tế còn rất ít tài liệu đề
cập đến. Tuy nhiên, có thể đoán biết rằng trong điều kiện kinh tế xã hội hiện
nay nhiều phụ nữ sống ở khu vực nông thôn miền núi khó có điều kiện tiếp
cận dịch vụ y tế có chất lượng.
Điều tra tỷ lệ sử dụng dịch vụ cơ bản hàng năm (không kể bệnh viện)
trên đầu người theo giới và tuổi cho thấy: Ở mọi lứa tuổi, nữ giới đều sử dụng
dịch vụ y tế cao hơn nam giới [70].
Nghiên cứu của Trương Việt Dũng [34], [66] cho thấy: Nữ giới thường
mua thuốc tự chữa bệnh cao hơn nam giới (38,7% so với 25,2%). Trong khi
đó, nam giới có tỷ lệ đến bệnh viện cao hơn nữ giới (23,2% so với 18,1%).
Sử dụng dịch vụ chăm sóc trước sinh
Theo Tổ chức Y tế thế giới, tình hình chăm sóc trước và trong sinh của

phụ nữ ở các nước đang phát triển và các nước phát triển còn thấp so với nhu
cầu. Chỉ có một nửa phụ nữ 15 đến 49 tuổi ở Nam Á và các nước kém phát
triển được khám thai [90]. Trước Cairo (Hội nghị quốc tế về dân số và phát
triển tại Ai Cập), 43% phụ nữ không được khám thai, 15% các trường hợp đẻ
không được y tế hỗ trợ, 43% đẻ tại nhà; 46,5% đẻ do bà đỡ dân gian hoặc y tế
thôn bản đỡ, chỉ có 9,2% đẻ do cán bộ tuyến huyện và tỉnh thực hiện. Sau
Cairo thì tình hình sử dụng dịch vụ chăm sóc thai sản đã có sự cải thiện, số
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


20

lần khám thai trung bình là 1,4; tỷ lệ phụ nữ có thai được tiêm uốn ván 2 lần
trong thai kỳ là 82,1%; tỷ lệ thai phụ đẻ tại nhà là 50%, tỷ lệ đẻ được cán bộ y
tế hỗ trợ 88% [13], [97].
Các số liệu điều tra cho thấy việc sử dụng dịch vụ chăm sóc thai nghén
có chiều hướng gia tăng theo thời gian, nghĩa là tăng theo mức đời sống
chung, theo mức học thức và hiểu biết tăng dần ở phụ nữ trong tình hình phát
triển kinh tế xã hội chung của cả đất nước [67], [69], [70].
Điều tra y tế nhân khẩu học của Uỷ ban quốc gia dân số kế hoạch hoá gia
đình, Dự án dân số sức khoẻ gia đình cho thấy: 56% phụ nữ có thai đăng ký
chăm sóc trước sinh và số lần khám thai trung bình là 1,6; khoảng 1/3 số phụ
nữ sinh con tại nhà [80].
Mặc dù tỷ lệ khám thai ở Việt Nam còn thấp hơn nhiều so với các nước
công nghiệp và các nước thuộc Thái Bình Dương nhưng đã đạt gần tới mức
chung của thế giới. Tỷ lệ phụ nữ khi đẻ được người có chuyên môn hỗ trợ đã
đạt mức khá cao, cao hơn rất nhiều so với các nước đang phát triển và các
nước kém phát triển, chỉ kém các nước công nghiệp [64], [98].
Theo Vụ Sức khỏe sinh sản Bộ Y tế, tỷ lệ phụ nữ có thai được khám thai
từ 3 lần trở lên trong cả nước đạt 87,9% ; tỷ lệ phụ nữ có thai tiêm phòng uốn

ván đủ 2 lần đạt 92% [23].
Dịch vụ chăm sóc trong và sau sinh
Chăm sóc sau sinh cũng quan trọng không kém trước sinh, nó giúp kiểm
tra sức khoẻ thai phụ, phát hiện ngăn ngừa và điều trị biến chứng sau sinh kịp
thời. Công tác này không phụ thuộc các sản phụ, mà nó phụ thuộc hoàn toàn
vào người cung cấp dịch vụ y tế.
Theo báo cáo của Bộ Y tế: Tỷ lệ đẻ có chuyên môn trợ giúp năm 2004 cả
nước đạt 87,9%; cao nhất là đồng bằng sông Hồng (97%), sau đó là duyên hải
miền Trung, Đông Nam Bộ, thấp nhất là miền núi phía Bắc (73,1%) [23].
Cũng trong báo cáo này, tình hình tử vong sản phụ còn cao, mà nguyên
nhân chính có liên quan đến cung cấp và sử dụng dịch vụ y tế. Có 90% trường
hợp tử vong mẹ là do thiếu hụt trong hệ thống chăm sóc sản phụ [23].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

×