Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

tiểu luận nguyên lý của chủ nghĩa mác lênin về chủ nghĩa xã hội hiện thực và triển vọng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (296.72 KB, 37 trang )

Chủ nghĩa Xã hội hiện thực và Triển vọng GVHD: TS. Nguyễn Khánh Vân



A. NGUYÊN LÝ CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊ NIN VỀ CHỦ NGHĨA XÃ
HỘI KHOA HỌC HIỆN THỰC

1. Cách mạng tháng 10 Nga và mô hình CNXH hiện thực đầu tiên trên thế giới:
a. Cách mạng tháng 10 Nga:
+ Thời gian xảy ra :
Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 là một sự kiện lịch sử đánh dấu sự ra
đời của nhà nước Nga Xô Viết. Cách mạng tháng Mười nổ ra vào ngày 24 tháng 10
năm 1917, do Vladimir Ilyich Lenin và Ðảng Bolshevik lãnh đạo. Cách mạng tháng
Mười thành công vào ngày 7 tháng 11 năm 1917.
+ Kết quả :
Cách mạng tháng Mười đã hoàn thành sứ mệnh đánh đổ giai cấp tư sản và giai
cấp phong kiến địa chủ, giành chính quyền về tay vô sản và nhân dân lao động.
Ngay trong đêm 7 tháng 11 năm 1917 (25 tháng 10 theo lịch Nga), Đại hội Xô
Viết toàn Nga lần thứ hai tuyên bố khai mạc tại điện Smoniyl và tuyên bố thành lập
chính quyền Xô Viết do Lenin đứng đầu. Các sắc lệnh đầu tiên của chính quyền Xô
Viết đã được thông qua là Sắc lệnh hòa bình và Sắc lệnh ruộng đất. Chính quyền Xô
Viết còn thực hiện các biện pháp thủ tiêu các tàn tích của chế độ cũ như xóa bỏ sự
phân biệt đẳng cấp, những đặc quyền của giáo hội, nam nữ bình đẳng. Đối với các
dân tộc, chính phủ Xô Viết công bố bản Tuyên ngôn về quyền các dân tộc ở Nga
khẳng định quyền bình đẳng của các dân tộc và cho phép các dân tộc có quyền tự
quyết như công nhận nền độc lập của Ba Lan, Phần Lan. Các cơ quan trung ương và
Xô Viết các địa phương được thành lập. Tháng 12 năm 1917, Hội đồng kinh tế quốc
dân tối cao được thành lập nhằm xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Ngày 3
tháng 3 năm 1918, nước Nga Xô Viết kí Hòa ước Brest-Litovsk với các nước phe
Liên minh Trung tâm chính thức rút khỏi Thế chiến thứ nhất.
Lớp 7 K34 1


Chủ nghĩa Xã hội hiện thực và Triển vọng GVHD: TS. Nguyễn Khánh Vân
Trong khi nước Nga đang xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa thì các phần tử
bạch vệ với sự giúp sức của 14 nước đế quốc đã ra sức lật đổ chính quyền Xô Viết.
Trước tình hình đó, nước Nga Xô Viết đã áp dụng chính sách cộng sản thời chiến,
xây dựng Hồng quân công nông. Cuộc nội chiến Nga đã diễn ra từ đầu năm 1918
đến tháng 11 năm 1920 khi Hồng quân đã đánh tan đội quân của. Cuộc nội chiến kết
thúc với thắng lợi thuộc về chính quyền Xô Viết.
+ Ý nghĩa:
Cách mạng Tháng Mười Nga giành thắng lợi và đã đi vào lịch sử nhân loại như
một sự kiện vĩ đại nhất của thế kỷ 20, là cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa đầu tiên
trên thế giới do giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, binh sĩ cách mạng và đông
đảo quần chúng lao động ở nước Nga tiến hành dưới sự lãnh đạo của Ðảng Cộng
sản, đứng đầu là Lê-nin. Sự kiện Cách mạng Tháng Mười đánh dấu bước ngoặt vĩ
đại trong lịch sử cách mạng Nga, xóa bỏ ách áp bức, bóc lột tư bản chủ nghĩa và
những tàn dư của chế độ chuyên chế Nga hoàng, giải phóng cho công - nông và
nhân dân lao động, đưa họ tới địa vị của người làm chủ xã hội.
Cách mạng Tháng Mười Nga mở đầu thời đại mới - thời đại quá độ lên CNXH
trên phạm vi toàn thế giới. Cách mạng Tháng Mười đã thức tỉnh và cổ vũ các dân
tộc bị áp bức trong cuộc đấu tranh giải phóng, chống lại ách áp bức, bóc lột và nô
dịch của chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa thực dân, xóa bỏ mọi hình thức nô lệ, vươn
tới tự do, bình đẳng, thực hiện quyền tự quyết dân tộc. Thắng lợi của Cách mạng
Tháng Mười khẳng định bản chất khoa học và cách mạng của Chủ nghĩa Mác - Lê-
nin, cung cấp những bài học lịch sử vô giá cho các cuộc cách mạng vì độc lập dân
tộc và CNXH.
Chủ tịch Hồ Chí Minh, khi nói về cuộc Cách mạng tháng Mười Nga, đã khẳng
định: “Giống như mặt trời chói lọi, Cách mạng tháng Mười chiếu sáng khắp năm
châu, thức tỉnh hàng triệu người bị áp bức, bóc lột trên trái đất. Trong lịch sử loài
người chưa từng có cuộc cách mạng nào có ý nghĩa to lớn và sâu xa như thế!”
b. Mô hình CNXH đầu tiên trên thế giới:
92 năm trước, V.I.Lênin và Đảng Bôn-sê-vích Nga lãnh đạo giai cấp công nhân

và nhân dân lao động Nga tiến hành thắng lợi cuộc Cách mạng tháng Mười, khai
sinh Nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới, đánh dấu một bước ngoặt to
lớn trong lịch sử thế giới, kết thúc cả một thời kỳ lịch sử do giai cấp bóc lột kế tiếp
Lớp 7 K34 2
Chủ nghĩa Xã hội hiện thực và Triển vọng GVHD: TS. Nguyễn Khánh Vân
nhau thống trị nước Nga, mở đầu một thời kỳ lịch sử của giai cấp công nhân và nông
dân lao động Nga đứng lên làm chủ vận mệnh của mình, xây dựng nền chuyên chính
vô sản. Mặt khác, nó đã làm đảo lộn hoàn toàn chiến lược toàn cầu của Mỹ và các
nước đồng minh của Mỹ. Thể hiện tính ưu việt của Chủ nghĩa xã hội xây dựng và
phát triển kinh tế , quốc phòng vững mạnh, nâng cao đời sống của của nhân dân.
Đối với Việt Nam, sự ra đời của Liên Xô có ý nghĩa trọng đại, soi sáng và thức
tỉnh con đường cách mạng Việt Nam: Giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Nhờ vậy, con tàu cách mạng Việt Nam đã vượt qua bao ghềnh thác, giành được
những thắng lợi mang ý nghĩa thời đại và đang tiếp tục vững bước trên con đường
đổi mới, đẩy mạnh Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa.
Mô hình đầu tiên của chủ nghĩa xã hội ra đời trong bối cảnh đặc biệt. Điều kiện
xây dựng một chế độ mới cực kỳ khó khăn và phức tạp. Chiến tranh thế giới thứ
nhất kết thúc, nhân dân Liên Xô phải gánh chịu những hi sinh và tổn thất hết sức to
lớn. Đây là cuộc chiến tranh tàn khốc và đẫm máu nhất trong lịch sử nhân loại, số
người Nga thiệt mạng lên đến 20 triệu người, nền kinh tế vốn lạc hậu lại bị tàn phá
nặng nề. Sau đó nước Nga phải trải qua 4 năm nội chiến đầy khốc liệt (1918 – 1921)
chống lại lực lượng phản cách mạng nổi dậy khắp nơi trong nước, tiếp đó là chiến
tranh can thiệp của 14 nước đế quốc và bị bao vây, cấm vận về kinh tế, vừa có thù
trong, vừa có giặc ngoài.
Từ năm 1918 đến mùa xuân 1921 để đảm bảo cung cấp lương thực cho quân
đội, cho tiền tuyến, cho công nhân và cho nhân dân thành thị trong điều kiện lương
thực cực kỳ khan hiếm, Đảng Cộng sản Nga, Đứng đầu là Lênin đã đề ra Chính sách
cộng sản thời chiến, nhằm huy động mọi tài nguyên trong nước cho nhu cầu của tiền
tuyến. Là một chính sách đặc biệt trong điều kiện nền kinh tế bị tàn phá nặng nề,

thực hiện chế độ phân phối hiện vật, loại bỏ quan hệ hàng hoá - tiền tệ, thị trường.
Chính quyền Xô Viết ngoài việc quốc hữu hoá nền công nghiệp quy mô lớn, còn
nắm trong tay công nghiệp hạng vừa và một phần công nghiệp hạng nhỏ. Việc quản
lí toàn bộ công nghiệp tập trung ở các cơ quan trung ương; việc cung cấp nguyên
liệu, thiết bị, vật liệu cho xí nghiệp cũng như việc phân phối sản phẩm đều tiến hành
theo phiếu của cơ quan quản lí, không hạch toán kinh tế. Ở thành thị, vật phẩm tiêu
dùng phân phối theo phiếu với điều kiện ưu tiên cung cấp cho công nhân và căn cứ
vào tính chất quan trọng, nặng nhọc của công việc; thi hành chế độ nghĩa vụ lao
động phổ biến đối với tất cả mọi người có năng lực lao động.
Lớp 7 K34 3
Chủ nghĩa Xã hội hiện thực và Triển vọng GVHD: TS. Nguyễn Khánh Vân
Sau khi đập tan bọn can thiệp vũ trang, thời kỳ Chính sách cộng sản thời chiến
đã kết thúc, giờ đây, chính sách cộng sản thời chiến được thay thế bằng chính sách
kinh tế mới (NEP). Lấy thương nghiệp làm khâu trung tâm để khôi phục kinh tế;
thay thế chế độ trưng thu lương thực thừa bằng thuế lương thực; thực hiện chính
sách nông dân được tự do trao đổi nông sản; đặt các xí nghiệp nhà nước trên cơ sở
hạch toán kinh tế . Ngoài ra Chính phủ còn cố gắng hạ giá các mặt hàng sản xuất và
ổn định lạm phát, bằng việc áp đặt giá được kiểm soát trên các mặt hàng công
nghiệp chính và phá bỏ các tờ rớt nhằm tăng hiệu năng nền kinh tế. Chính sách kinh
tế mới thực chất là thực hiện nền kinh tế hàng hoá có sự điều tiết của nhà nước, công
nhận sự tồn tại và phát triển của nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Chính sách
kinh tế mới lấy khôi phục và phát triển nông nghiệp làm khâu căn bản, từ đó thúc
đẩy công nghiệp và các ngành kinh tế khác phát triển.
Bên cạnh đó tô nhượng cho tư bản nước ngoài cũng được sử dụng nhằm phục
vụ lợi ích xây dựng chủ nghĩa xã hội; nhà nước sử dụng các quan hệ hàng hoá - tiền
tệ và tác động một cách có kế hoạch để lãnh đạo và quản lí nền kinh tế quốc dân.
Với việc thực thi NEP thì chủ nghĩa tư bản nhà nước là một trong những hình thức
rất thích hợp để giúp nước Nga Xô viết nhanh chóng khắc phục tình trạng suy sụp
kinh tế sau chiến tranh và ngăn chặn những nảy sinh tự phát của nền sản xuất hàng
hóa nhỏ - mầm mống của sự phục hồi chủ nghĩa tư bản…

Trong giai đoạn thực hiện chính sách kinh tế mới, sản lượng nông nghiệp
không chỉ hồi phục ở mức đã đạt được trước cách mạng mà còn tăng trưởng mạnh.
Việc phá bỏ các lãnh địa gần như phong kiến tại các vùng nông thôn ở thời Sa
Hoàng trước đây cho phép nông dân có được sự khích lệ lớn nhất từ trước tới nay để
tăng cao sản xuất. Kết quả của là Liên bang sô viết trở thành nhà sản xuất lúa gạo
lớn nhất thế giới.
+ Đọc thêm:
* Chính sách cộng sản thời chiến bao gồm :
1. Tất cả nền công nghiệp được quốc hữu hóa và áp dụng cơ chế quản lý tập
trung nghiêm ngặt.
2. Độc quyền nhà nước về ngoại thương.
3. Kỷ luật nghiêm khắc đối với người lao động.
4. Nghĩa vụ lao động công ích bắt buộc áp dụng cho "tầng lớp không lao động".
Lớp 7 K34 4
Chủ nghĩa Xã hội hiện thực và Triển vọng GVHD: TS. Nguyễn Khánh Vân
5. Phân chia lương thực – trưng thu thặng dư nông sản từ nông dân theo giá trị
tối thiểu để phân phối tập trung cho dân số còn lại.
6. Lương thực và phần lớn hàng hóa được phối cấp và phân phối theo phương
thức tập trung.
7. Xí nghiệp tư nhân là bất hợp pháp.
8. Quản lý đường sắt theo dạng quân sự.
* Chính sách kinh tế mới bao gồm :
1. Lấy thương nghiệp làm khâu trung tâm để khôi phục kinh tế.
2. Thay thế chế độ trưng thu lương thực thừa bằng thuế lương thực.
3. Thực hiện chính sách nông dân được tự do trao đổi nông sản
4. Đặt các xí nghiệp nhà nước trên cơ sở hạch toán kinh tế.
5. Sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước và tô nhượng cho tư bản nước ngoài
nhằm phục vụ lợi ích xây dựng chủ nghĩa xã hội.
6. Nhà nước sử dụng các quan hệ hàng hoá - tiền tệ và tác động một cách có kế
hoạch để lãnh đạo và quản lí nền kinh tế quốc dân

* So sánh 2 chính sách:
 !"# "$ %&
Hoàn cảnh ra đời Khi nước Nga ở trong tình
thế chiến tranh.
Khi nước Nga đã trở lại hoà
bình và bước vào xây dựng
CNXH.
Mục đích Nhằm huy động tối đa
nguồn nhân lực và vật lực
để đánh bại cuộc tấn công
của liên minh 14 nước đế
quốc và nội phản.
Khắc phục khủng hoảng và
hậu quả chiến tranh, phát triển
kinh tế.
Nội dung + Nhà nước kiểm soát toàn
bộ nền nông nghiệp.
+ Tiến hành trưng thu
lương thực thừa của nông
dân
+ Thi hành chế độ lao
+ Nông nghiệp: Thay chế độ
trung thu lương thực thừa của
chính sách Cộng sản thời
chiến bằng thu thuế lương
thực.
+ Công nghiệp: Khôi phục CN
Lớp 7 K34 5
Chủ nghĩa Xã hội hiện thực và Triển vọng GVHD: TS. Nguyễn Khánh Vân
động cưỡng bức. nặng, cho phép tư nhân được

xây dựng hoặc thuê các xí
nghiệp vừa và nhỏ, khuyến
khích TB nước ngoài đầu tư
vào Nga
+ Thương nghiệp và tiền tệ:
Cho phép tư nhân được tự do
buôn bán, cho mở lại các chợ.
Phát hành đồng Rúp mới .
Tác dụng + Đánh bại cuộc tập kích
của liên minh 14 nước đế
quốc và nội phản.
+ Bảo vệ nguyên vẹn
thành quả của CM tháng
10.
+ Đưa nước Nga thoát khỏi
khủng hoảng kinh tế và chính
trị.
+ Khuyến khích nhân dân sản
xuất, tăng năng suất lao động.
Hạn chế + Trầm trọng hóa hậu quả
của chiến tranh.
+ Mất cân đối dân cư giữa
thành thị và nông thôn.
+ Gây ra nạn đói  cuộc
đình công của công nhân
và nổi loạn của nông dân.
+ Sự sụt giá tư bản có sản
lượng kém
+ Mất cân bằng giữa cầu và
cung tiền, gây ra sự độc

quyền.
2. Sự ra đời và phát triển của hệ thống CNXH và thành tựu của nó:
a. Sự ra đời và phát triển của hệ thống các nước XHCN:
Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới ra đời
bao gồm các nước Liên Xô, Cộng hòa dân chủ Đức, Bungari, Ba Lan, Hunggari,
Rumani, Tiệp Khắc, Anbani, Mông Cổ, Trung Quốc, Triều Tiên, Việt Nam, Cuba.
Nhưng đến thập niên 90 của thế kỷ 20 một số nước đã thay đổi thể chế chính trị nhà
nước cầm quyền, mà đầu tiên là Liên Xô.
Hiện nay (sau năm 2002) trên thế giới chỉ còn lại 5 nước XHCN, đó là:
Cộng hoà nhân dân Trung Hoa (từ 1/10/1949)
Lớp 7 K34 6
Chủ nghĩa Xã hội hiện thực và Triển vọng GVHD: TS. Nguyễn Khánh Vân
Cuba - Cộng hoà Cuba (từ 1/1/1959)
Lào - Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào (từ 2/12/1975)
Việt Nam - Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (từ 2/7/1976)
Triều Tiên – Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên. Đây tuy là một quốc
gia xã hội chủ nghĩa nhưng chính phủ nước này bị phần lớn cộng đồng quốc tế coi là
một chế độ độc tài chuyên chế, dựa trên các điểm chính là tự cung tự cấp, cô lập
hóa, thuyết truyền thống Triều Tiên và chủ nghĩa Marx-Lenin.
Trong đó, có 2 nước đang đổi mới kinh tế theo cơ chế thị trường nhưng có định
hướng XHCN là Trung Quốc và Việt Nam.
b. Sự phát triển của chủ nghĩa xã hội hiện thực :
Chủ nghĩa cộng sản - kể từ khi Mác và Ăngghen viết “Tuyên ngôn của Đảng
Cộng sản” (tháng 12/1847 – 1/1848) - từ một "bóng ma ám ảnh Châu Âu" như các
nhà chính trị tư sản từng tuyên bố, sau cuộc Cách mạng tháng 10 Nga năm 1917 đã
trở thành hiện thực với sự ra đời của nước Nga Xô Viết - nhà nước xã hội chủ nghĩa
đầu tiên trên thế giới. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, một loạt nước tiến hành cách
mạng thành công và đi lên chủ nghĩa xã hội ở Châu Âu, Châu Á và Châu Mỹ La
tinh.
Trong thời gian này, hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới do Liên Xô làm nòng

cốt đã phát triển mạnh mẽ, trở thành thành trì của hoà bình và cách mạng thế giới.
Để chỉ rõ những điều cơ bản trong phát triển của chủ nghĩa xã hội từ giữa thế kỷ 19
đến nay, ta tách biệt ra các giai đoạn phát triển như sau:
Giai đoạn thứ nhất là giai đoạn Mác và Ăngghen hình thành lý luận khoa học
về chủ nghĩa cộng sản, tổ chức phong trào cộng sản quốc tế (Quốc tế I) và bước
chuyển sang việc thành lập các đảng công nhân ở các nước châu Âu. Đây là giai
đoạn từ giữa thế kỷ 19 đến năm 1917. Khoa học về chủ nghĩa cộng sản là học thuyết
khoa học thường xuyên phát triển và không ngừng được làm phong phú thêm bằng
tri thức khoa học và thực tiễn. Do vậy, học thuyết cộng sản chủ nghĩa luôn mang
tính mới mẻ, sống động và hiện đại.
Giai đoạn thứ hai là bước chuyển từ lý luận khoa học sang thực tiễn của chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, là việc thực hiện cách mạng chính trị, xã hội vĩ
đại nhất thế kỷ 20 – Cách mạng Tháng Mười Nga. Đây là giai đoạn của chủ nghĩa
xã hội thực tiễn ở một nước từ năm 1917 đến giữa thập niên 40 của thế kỷ 20. Đây
là thời kỳ tốt nhất trong phát triển của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô – thời kỳ Lênin
Lớp 7 K34 7
Chủ nghĩa Xã hội hiện thực và Triển vọng GVHD: TS. Nguyễn Khánh Vân
(1917 - 1924), thời kỳ thống nhất giữa lý luận và thực tiễn của chủ nghĩa xã hội.
Đây cũng là thời kỳ giải quyết nhanh chóng những mâu thuẫn gay gắt, nâng cao tối
đa hoạt động sáng tạo của quần chúng nhân dân và của đảng cầm quyền. Mối liên hệ
mật thiết và thường xuyên giữa đảng với quần chúng đã góp phần phát huy sức
mạnh của nguồn năng lượng khổng lồ của nhân dân. Đảng và quần chúng trở thành
một khối thống nhất. Chính thực tế này đã nâng cao uy tín và ảnh hưởng của chủ
nghĩa xã hội ở nhiều nước trên thế giới.
Giai đoạn thứ ba là giai đoạn hàng loạt nước đi theo con đường chủ nghĩa xã
hội sau Thế chiến thứ 2. Đây là một bước nhảy vọt cách mạng, lớn về chất trong
phát triển của chủ nghĩa xã hội hiện thực trên thế giới. Thế giới được phân chia ra
thành 2 hệ thống xã hội đối lập nhau – chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản. Chủ
nghĩa xã hội đã mang tính toàn cầu. Việc tạo dựng thế giới xã hội chủ nghĩa đã kích
thích phong trào giải phóng dân tộc phát triển ở các nước thuộc địa, làm cho hệ

thống thuộc địa bị sụp đổ và làm xuất hiện hệ thống thế giới thứ ba – các nước đang
phát triển. Lập trường và uy tín của chủ nghĩa xã hội trên thế giới được củng cố và
tăng cường. Thế nhưng, những sai lầm trong việc tuyệt đối hóa “mô hình Xô Viết”
và đề cao “chủ nghĩa Xô Viết là trung tâm” của một số nhà lãnh đạo Xô Viết đã đem
lại một tổn thất lớn cho phong trào xã hội chủ nghĩa quốc tế. Chính nó đã cản trở lối
thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng của Liên Xô và hàng loạt nước xã hội chủ nghĩa
Đông Âu và loại bỏ triển vọng đổi mới chủ nghĩa xã hội theo con đường làm cho
“chủ nghĩa xã hội nhiều hơn”. Song, với tất cả những sai lầm mang tính chủ quan
(có thể sửa chữa được) và những hiện tượng khủng hoảng kinh tế - xã hội (có thể
khắc phục được), chủ nghĩa xã hội thế giới vẫn giữ lại một sức mạnh vật chất và tinh
thần lớn lao, những tiềm lực to lớn cho cải cách, đổi mới và phát triển.
Giai đoạn thứ tư là giai đoạn bắt đầu từ năm 1985 đến cuối những năm 90 – bi
kịch lớn nhất của thế kỷ 20 và có thể là toàn bộ lịch sử loài người. Đây là thời kỳ
đảo chính phản cách mạng ở bên trên - một hiện tượng độc đáo trong lịch sử. Nó
tuyệt đối hóa hết mức vai trò của nhân tố chủ quan (người lãnh đạo) khi vắng mặt
yếu tố dân chủ trong đảng và dân chủ trong nhân dân, khi mà không có chế độ giám
sát và báo cáo trung thực. Đây là khâu yếu nhất của hệ thống Xô Viết hậu Lênin -
tập trung quyền lực vào một cá nhân, chứ không phải vào đảng, vào nhân dân. Đó là
hệ quả của việc ban lãnh đạo đảng bỏ qua dân chủ, mặc dù Mác đã thường xuyên
nhấn mạnh rằng chủ nghĩa xã hội không tách rời dân chủ. Mặc dù chủ nghĩa xã hội
Lớp 7 K34 8
Chủ nghĩa Xã hội hiện thực và Triển vọng GVHD: TS. Nguyễn Khánh Vân
bị phá hoại nghiêm trọng, phải lùi bước tạm thời trước sự tấn công của chủ nghĩa đế
quốc, nhưng nó không bị diệt vong.
Giai đoạn thứ năm là giai đoạn phát triển hiện tại của chủ nghĩa xã hội. Đây là
giai đoạn khó khăn đối với các nước xã hội chủ nghĩa. Nhưng điều quan trọng ở đây
chính là giai đoạn rút ra những bài học từ những sai lầm nghiêm trọng của các đảng
cộng sản ở Liên Xô và Đông Âu và từ những sai lầm của bản thân các đảng cộng
sản ở các nước xã hội chủ nghĩa hiện nay. Đó là bài học về “cách mạng văn hóa” và
“đại nhảy vọt” ở Trung Quốc, về “bệnh chủ quan duy ý chí” ở Việt Nam. Từ đó rút

ra kết luận : Với tư cách một cơ thể sống luôn phát triển, chủ nghĩa xã hội không thể
không liên tục cần được cải biến, đổi mới thực hiện kết hợp những bước thay đổi về
lượng và nhảy vọt về chất một cách thích ứng.
 '$()* Thắng lợi vĩ đại của cuộc Cách mạng Tháng 10 Nga, với sự lãnh
đạo của Đảng Mácxít đứng đầu là Lênin, đã lật đổ nhà nước của giai cấp tư sản,
thành lập nhà nước cách mạng, thực hiện quyền làm chủ của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động các dân tộc trên thế giới, đã biến CNXH từ học thuyết lí luận
thành hiện thực, đã hiện thực hóa lý tưởng về một xã hội mới – XHCN, mà trước đó
chỉ là những ước mơ. Chủ nghĩa xã hội hiện thực tuy vấp phải một số sai lầm, thất
bại cũng như có những thời kỳ thoái trào, khủng hoảng trong lịch sử phát triển của
nó nhưng cũng không thể phủ nhận được sự thật là Liên Xô và các nước xã hội chủ
nghĩa khác đã có một thời phát triển mạnh mẽ rực rỡ và đạt được những thành tựu to
lớn.
c. Những thành tựu của CNXH hiện thực:
Cho dù lịch sử có biến động như thế nào, dù ai đó có cố tình xuyên tạc sự thật
và mặc dù mô hình kế họach hóa tập trung ở Liên Xô và những nước XHCN đã sụp
đổ trong những năm gần đây, người ta cũng không thể phủ nhận rằng Liên Xô và
những nước XHCN đã có một giai đọan phát triển rực rỡ và đạt được những thành
tựu to lớn.
CNXH đã từng bước đưa nhân dân lao động lên làm chủ xã hội, thúc đẩy trào
lưu đấu tranh cho quyền tự do dân chủ trên tòan thế giới. Nó chấm dứt sự thống trị
của các chế độ, các giai cấp áp bức, bóc lột và mở ra một kỉ nguyên mới về chất
trong sự phát triển của nền văn minh nhân loại – giai cấp công nhân và nhân dân lao
động trở thành lực lượng trung tâm trong một chế độ xã hội mà nhân dân lao động
làm chủ.
Lớp 7 K34 9
Chủ nghĩa Xã hội hiện thực và Triển vọng GVHD: TS. Nguyễn Khánh Vân
Sự ra đời của chế độ xã hội chủ nghĩa cũng có nghĩa là chế độ xã hội chủ nghĩa
được thiết lập, chế độ dân chủ cho tuyệt đại đa số nhân dân lao động, thực hiện ngày
càng đầy đủ những quyền dân chủ, ngăn ngừa và trấn áp những hành vi xâm phạm

quyền tự do dân chủ của nhân dân. Nó còn thúc đẩy trào lưu đấu tranh cho quyền tự
do dân chủ ở các nước tư bản chủ nghĩa và trên toàn thế giới.
Tuy rằng trong quá trình xây dựng CNXH nhiều nơi, nhiều lúc và ở những giai
đọan nào đó có sự biến dạng của nền dân chủ XHCN – quyền làm chủ của nhân dân
có lúc bị vi phạm, dân chủ còn hình thức – nhưng không một chủ thể lãnh đạo quản
lí nào dám công khai bác bỏ những quyền chính trị cơ bản, quyền làm chủ của nhân
dân và so với chế độ chuyển chế phản động của tư sản, phong kiến thì nó vẫn dân
chủ hơn nhiều.
Trong hơn 70 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội, Liên Xô và các nước XHCN
khác đã đạt đựơc sự phát triển mạnh mẽ về tiềm lực kinh tế, xây dựng cơ sở vật chất
của CNXH trên qui mô lớn với trình độ hiện đại , bảo đảm ngày càng tốt hơn đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Trước thắng lợi của cách mạng XHCN, tất
cả các nước XHCN đều là những nước nông nghiệp lạc hậu, cụ thể là Liên Xô là
nước chịu nhiều tổn thất nặng nề nhất trong chiến tranh thế giới thứ 2: khoảng 27
triệu người chết, 1710 thành phố, hơn 7 vạn làng mạc, gần 32 000 xí nghiệp bị tàn
phá nặng nề. Mục tiêu hàng đầu lúc bấy giờ là khôi phục kinh tế, Liên Xô đã nhanh
chóng khôi phục đất nc, thực hiện nhiều kế hoạch 5 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội
từ sau khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc cho đến nửa đầu những năm 70. Nhờ
đó Liên Xô và sau này là các nước Đông Âu đều trở thành những nước công nghiệp
hóa và có tốc độ phát triển kinh tế cao.
VD: 70 năm sau Cách mạng tháng Mười thu nhập quốc dân của Liên Xô tăng
150 lần và từ một nước nông nghiệp lạc hậu, lại bị tàn phá trong chiến tranh Liên Xô
chỉ cần 20 năm để trở thành một nước siêu cường công nghiệp đứng đầu châu Âu và
đứng thứ nhì thế giới trong suốt hơn 40 năm. Sau Chiến tranh thế giới lần thứ 2, tỷ
trọng của Liên Xô trong nền sản xuất thế giới không ngừng tăng lên nhanh chóng -
chiếm 20% sản xuất công nghiệp thế giới vào năm 1985. Trong suốt 70 năm sau
Cách mạng tháng Mười, nhịp độ tăng trưởng kinh tế của Liên Xô luôn gấp đôi Mỹ.
Trong lĩnh vực văn hóa - giáo dục, các nước XHCN đã thanh toán nạn mù chữ
cho toàn thể dân cư.
VD: XHCN làm việc đó trong vòng 20 năm sau cách mạng, trong khi để xóa

mù chữ CNTB đã mất 180 năm đối với nam giới và 280 năm đối với nữ giới. Liên
Lớp 7 K34 10
Chủ nghĩa Xã hội hiện thực và Triển vọng GVHD: TS. Nguyễn Khánh Vân
Xô năm 1917 từ một đất nước có 3/4 dân số mù chữ, thì đến năm 1987 trở thành đất
nước có trình đô học vấn cao nhất thế giới (78% dân cư có trình độ trung học và đại
học, chiếm 1/4 số lượng các nhà khoa học và 1/5 phát minh khoa học trên thế giới).
Hệ thống y tế và bảo vệ sức khỏe nhân dân được phát triển rộng rãi.
Liên Xô và các nước XHCN khác trước đây đã đạt được những bước tiến lớn
trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học, chinh phục vũ trụ, có tiềm lực quân sự và công
nghiệp quốc phòng hùng mạnh.
VD: Về khoa học - kĩ thuật Liên xô là nước đầu tiên phóng thành công vệ tinh
nhân tạo (1957), mở đầu kỉ nguyên chinh phục vũ trụ của lài người; năm 1961 ,
phóng con tàu vũ trụ của loài người bay vòng quanh trái đất. Liên xô cũng là nước
đứng đầu thế giới về những chuyến bay dài ngày trong vũ trụ. Như vậy, đến đầu
những năm 70 của thế kỉ XX, Liên xô đã đạt được thế cân bằng chiến lược về sức
mạnh lực lượng hạt nhân nói riêng với Mĩ và các nước phương Tây
Trong các lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật, khoa học và công nghệ, các nước
XHCN cũng đạt được những thành tựu hết sức to lớn.
Với sự lớn mạnh tòan diện, CNXH có ảnh hưởng sâu sắc trong đời sống chính
trị thế giới, đóng vai trò quyết định trong sự sụp đổ hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa
đế quốc, mở ra kỉ nguyên mới, kỉ nguyên độc lập dân tộc và thời đại quá độ lên
CNXH trên phạm vi tòan thế giới. Sự ra đời, phát triển của Liên Xô và hệ thống xã
hội chủ nghĩa thế giới sau Chiến tranh thế giới II đã tạo ra sự thay đổi tương quan
lực lượng có lợi cho lực lượng cách mạng, thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, phong trào giải phóng dân tộc, phong
trào dân chủ và hòa bình.
CNXH hiện thực chính là lực lượng đấu tranh tích cực để bảo vệ, củng cố nền
hòa bình thế giới; ngăn chặn và làm thất bại nhiều âm mưu xâm lược và gây chiến
tranh hủy diệt của chủ nghĩa đế quốc. CNXH hiện thực trên thế giới sau cách mạng
tháng mười Nga đã giải phóng hàng trăm triệu người thóat khỏi tình cảnh nô lệ, phụ

thuộc; xóa bỏ giai cấp bóc lột và khắc phục mọi sự khác biệt về giai cấp; tạo ra cái
cơ bản nhất của một xã hội nhân đạo, công bằng và bình đẳng.
Năm 1919 chỉ có duy nhất một nước XHCN là Liên Xô với 16% diện tích và
7,8% dân số thế giới; sau gần 70 năm đã có 15 nước XHCN được thành lập, chiếm
26% lãnh thổ và 1/3 dân số thế giới. Với sự ủng hộ, giúp đỡ toàn diện của các nước
XHCN, từ sau Chiến tranh thế giới lần thứ II phong trào giải phóng dân tộc đã giành
Lớp 7 K34 11
Chủ nghĩa Xã hội hiện thực và Triển vọng GVHD: TS. Nguyễn Khánh Vân
được những thắng lợi nhất định - hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc với 72%
diện tích và 70% dân số thế giới hầu như hoàn toàn tan rã và đã có hơn 100 quốc gia
độc lập trẻ tuổi ra đời.
Ngay tại các nước phương tây, nhân dân lao động được sức hấp dẫn của chủ
nghĩa xã hội đã đấu tranh giành các quyền dân sinh, dân chủ, các phúc lợi xã hội…
Với sức ép từ phía các nước XHCN, các nước TBCN phương Tây đã phải nhượng
bộ và chấp nhận thực tế rất nhiều yêu sách đó.
Ý nghĩa to lớn và sâu xa của Cách mạng tháng Mười 1917 vẫn luôn có một giá
trị vĩnh hằng trong lịch sử nhân loại - mở đầu một thời đại mới trong lịch sử, thời đại
quá độ từ CNTB lên CNXH trên thế giới. Dù phải chứng kiến một sự thật đau lòng
về sự tan rã của Liên Xô và chế độ XHCN ở các nước Đông Âu vào những năm
cuối thế kỷ XX, nhưng điều đó không có nghĩa là tư tưởng XHCN bị phá sản. Dù
phải trải qua những giai đoạn phát triển quanh co, phức tạp, lâu dài; nhưng CNXH
nhất định sẽ được hoàn thiện và chiến thắng.
+',-.+/&0123435
6789:
1. Sự khủng hoảng và sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội Xô V iết

Vào những năm 70 thế kỉ XIX, sau thất bại của chủ nghĩa Paris, cuộc khủng
hoảng đầu tiên đã diễn ra , Quốc tế I tan rã (1876).Chính lúc đó, sự phát triển của lý
luận của thời kì này đã dẫn đế thành lập quốc tế II (1889).
Cuối thế kỉ XIX đến thế kỉ XX, chủ nghĩa tư bản chuyển sang chủ nghĩa đế

quốc, Ăngghen qua đời, phong trào chủ nghĩa lại lâm vào khủng hoảng lần thứ hai.
Sau cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga thành công, dưới sự lãnh đạo của V.I.Lênin,
Quốc tế III – Quốc tế Cộng sản được thành lập, chấm dứt khủng hoảng lần hai.
Cuối thế kỉ 80 của thế kỉ XX, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu
đi vào thời kì khủng hoảng.Trong vòng 2 năm ( 1989 – 1991), Liên Xô và sáu nước
Đông Âu sụp đổ hoàn toàn, cả Mông Cổ và Anbani.
2. Nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng và sụp đổ

Nguyên nhân sâu xa là q
uan niệm giáo điều về CNXH.
 Trước hết, là do quan niệm giản đơn, phiến diện quy luật về mối quan hệ
giữa sản xuất và lực lượng sản xuất; cho rằng, có thể dùng ý chí cách mạng để xây
dựng nhanh quan hệ sản xuất tiên tiến trên cái nền lực lượng sản xuất còn nhiều yếu
kém và lạc hậu, và cho rằng, quan hệ sản xuất tiên tiến tự nó mở đường cho lực
Lớp 7 K34 12
Chủ nghĩa Xã hội hiện thực và Triển vọng GVHD: TS. Nguyễn Khánh Vân
lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ.
 Sau khi V.I.Lênin qua đời ở Liên Xô, chính sách kinh tế mới không được
tiếp tục thực hiện mà chuyển sang kế hoạch hóa tập trung cao độ. Chậm đổi mới cơ
chế kinh tế, hệ thống quản lý.
Thời gian đầu, kế hoạch hóa tập trung đã phát huy tác dụng mạnh mẽ, song đã
biến dạng thành kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp. Sau chiến tranh thế giới
lần 2, Liên Xô vẫn tiếp tục duy trì mô hình này. Trong mô hình này đã tuyệt đối hóa,
từ bỏ hay gần như từ bỏ một cách chủ quan duy ý chí nền kinh tế hàng hóa, cơ chế
thị trường, thực hiện bao cấp tràn lan, triệt tiêu tính chủ động, sáng tạo của người lao
động.
Thời kỳ 1865-1885 là thời kỳ mà những mâu thuẫn của xã hội Liên Xô đã chín
muồi và phát tác gây những hệ quả xấu cho nền kinh tế và đời sống tâm lý, chính trị,
xã hội của nhân dân. Trong kinh tế, nền sản xuất duy trì theo phương thức kế hoạch
hóa và bao cấp không tạo được kích thích quyền lợi của người sản xuất nên kỷ luật

lao động suy giảm, năng suất tăng kém. Việc trả lương theo mức chỉ tiêu kế hoạch
và kế hoạch hóa theo sản lượng thậm chí kéo lùi việc áp dụng tiến bộ khoa học kĩ
thuật: sản phẩm chế tạo ra càng đắt, càng nhiều nguyên liệu thì càng nhanh hoàn
thành và vượt chỉ tiêu kế hoạch sản lượng và càng có lợi cho người sản xuất, nên
hàng hóa của Liên xô nhanh chóng thụt lùi về chất lượng, mẫu mã và tính cạnh tranh
so với các nước phương Tây và nền kinh tế không được khuyến khích chuyển sang
phát triển theo chiều sâu. Kinh tế dựa nhiều vào khai thác ồ ạt các nguồn tài nguyên
thiên nhiên dẫn đến tài nguyên cạn kiệt và ô nhiễm môi trường gia tăng. Kết quả là
hàng hóa trong thị trường nội địa luôn thừa thãi nhưng toàn là các sản phẩm khó tiêu
thụ và đồng thời luôn khan hiếm hàng hóa có giá trị, làm nảy nở đầu cơ, tích trữ và
các loại kinh tế ngầm bất hợp pháp. Thời kỳ này Liên Xô tiếp tục lao vào lập kế
hoạch và triển khai các dự án lớn rất tốn kém, được tuyên truyền rầm rộ mang tính
phô trương nhưng sau này thực tế cho thấy hiệu quả kinh tế kém, nặng về ý nghĩa
tuyên truyền hình thức Cũng chính vì không có động lực kinh tế nên dù là đất đai
rộng lớn, phì nhiêu mà sản xuất nông nghiệp sa sút không đáp ứng được nhu cầu xã
hội, càng ngày vấn đề nông nghiệp càng trầm trọng, đến cuối thời Brezhnev thì đã
thật sự nóng bỏng.
 Không phát huy được vai trò lãnh đạo của Đảng.
Mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân, xây dựng năng lực cầm quyền của
một chính đảng cách mạng sau khi giành được chính quyền chưa thực hiện đầy đủ,
Lớp 7 K34 13
Chủ nghĩa Xã hội hiện thực và Triển vọng GVHD: TS. Nguyễn Khánh Vân
khiến Đảng không phát huy được vai trò của người lãnh đạo, người tổ chức nhân
dân; vừa không phát huy dân chủ trong Đảng và trong xã hội , dẫn đến tình trạng
quan liêu, tham nhũng, xa rời quần chúng, xa rời thực tiễn.
Nhưng về thực chất đặc điểm nổi bật của hệ thống chính trị của Liên Xô là sự bao
trùm của Đảng Cộng sản lên hệ thống chính trị. Đảng Cộng Sản Liên Xô là cơ quan
lãnh đạo theo hiến pháp quy định, không do dân bầu. Để bảo đảm sự lãnh đạo của
Đảng, Liên Xô áp dụng hệ thống nhân sự theo "Nomenclatura" nghĩa là hệ thống cơ
cấu cán bộ theo sự chỉ định của Đảng: ở mỗi cấp chính quyền hành chính, Xô viết

hoặc tư pháp thì luôn song hành với đảng ủy. Sự lãnh đạo của Đảng là trực tiếp. Hệ
thống chính trị như vậy của nhà nước Liên Xô làm xã hội Xô viết mang đặc tính tập
trung quyền lực rất lớn của Đảng. Có lúc nào đó đặc tính này có thể mang lại tác
dụng tốt nhưng đồng thời nó là nguyên nhân rất dễ dẫn đến các hiện tượng lạm dụng
quyền lực của các cấp đảng vì các cấp ủy đảng thực tế gần như không bị nhân dân
kiểm soát vì Đảng vừa làm ra pháp luật và vừa thi hành pháp luật, mà hệ quả là hiện
tượng vi phạm các quyền tự do của công dân được hiến pháp quy định, cũng như
các tiêu cực khác ví dụ tình trạng không quy được trách nhiệm cá nhân.
 Đánh giá quá cao CNXH hiện thực và đánh giá quá thấp chủ nghĩa tư bản,
chủ nghĩa đế quốc; chủ quan nóng vội, đốt cháy giai đoạn trong việc hoạch định các
bước đi của tiến trình xây dựng CNXH (như quan điểm của Liên Xô về “CNXH đã
hoàn toàn thắng lợi”, “xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa”, “CNXH phát triển” ),
không thấy hết tính chất lâu dài, quanh co, phức tạp của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa
tư bản lên CNXH. Thời kì này đã hình thành một quan niệm về thời đại dựa trên
những ảo tưởng có thể nhanh chóng thủ tiêu chủ nghĩa tư bản và thúc đẩy một cách
chủ quan quá trình cách mạng XHCN, không phù hợp với quy luật khách quan của
sự phát triển xã hội.
Những sai lầm chủ quan nghiêm trọng kéo dài trên cản trở sự cải tổ, cải cách, đổi
mới đúng đắn là nguyên nhân sâu xa làm chế độ XHCN suy yếu, rơi vào khủng
hoảng. Đó không phải những sai lầm khuyết tật do bản chất của chế độ XHCN, mà
do quan niệm giáo điều về CNXH.
Nguyên nhân chủ yếu và trực tiếp dẫn đến sự sụp đổ
1
 Một là, trong cải tổ Đảng Cộng sản Liên Xô đã mắc những sai lầm rất nghiêm
trọng về đường lối chính trị, tư tưởng và tổ chức. Đó là đường lối hữu khuynh, cơ
1
Nguồn tham khảo và tài liệu “Những nguyên lý cơ
bản của chủ nghĩa Mác Lênin”
Lớp 7 K34 14
Chủ nghĩa Xã hội hiện thực và Triển vọng GVHD: TS. Nguyễn Khánh Vân

hội và xét lại, phản bội lại chủ nghĩa Mac-lenin thể hiện trước hết ở những người lãnh
đạo cao nhất.
Mô hình đầu tiên của chủ nghĩa xã hội ra đời ở Liên Xô trong bối cảnh đặc biệt.
Từ sau Cách mạng Tháng Mười đến kết thúc chiến tranh thế giới thứ hai, Liên Xô là
nước xã hội chủ nghĩa duy nhất. Ðiều kiện xây dựng chế độ mới cực kỳ khó khăn
phức tạp: nền kinh tế lạc hậu bị tàn phá nặng nề trong chiến tranh thế giới thứ nhất,
tiếp đến là nội chiến, rồi chiến tranh can thiệp của 14 nước đế quốc, bị bao vây về
kinh tế và về mọi mặt, v.v
Mặc dù vào đầu những năm 20 của thế kỷ trước Lê-nin sáng suốt đã đề ra Chính
sách kinh tế mới, nhưng đường lối đúng đắn này sau khi Lê-nin mất không được
quán triệt thực hiện. Hơn nữa, chưa được bao lâu thì từ cuối những năm 20 đầu
những năm 30 của thế kỷ trước, triệu chứng cuộc chiến tranh thế giới mới ngày càng
lộ rõ. Trong bối cảnh ấy, phải nhanh chóng biến nước Nga lạc hậu thành cường quốc
công nghiệp, vừa để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, xóa bỏ
tình trạng lạc hậu, vừa để chuẩn bị đối phó với nguy cơ chiến tranh đang đến gần.
Giải quyết vấn đề này và giải quyết cho được trong một thời gian ngắn nhất. Đó
là mệnh lệnh sống còn đặt ra trước vận mệnh Tổ quốc Xô-viết và chế độ xã hội chủ
nghĩa.
Trong những điều kiện nghiệt ngã như vậy, nhà nước Xô-viết không thể không
áp dụng cơ chế kế hoạch hóa tập trung cao, một cơ chế cho phép huy động tối đa các
lực lượng xây dựng, sáng tạo. Ai cũng biết, Liên Xô đã hoàn thành sự nghiệp công
nghiệp hóa với thời gian chưa đầy 20 năm, trong đó quá nửa thời gian là nội chiến,
chống chiến tranh can thiệp và khôi phục kinh tế sau chiến tranh. Chỉ có chủ nghĩa
xã hội phát huy cao độ tinh thần anh dũng, hy sinh của hàng trăm triệu quần chúng
nhân dân mới thực hiện được kỳ tích như vậy. Không thể phủ nhận vai trò lớn lao có
ý nghĩa lịch sử của mô hình đầu tiên này của chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, khi thế
giới thay đổi thì không thể giữ mãi một mô hình kinh tế.Sai lầm chủ yếu dẫn đến sự
trì trệ là chậm phát hiện và chậm sửa chữa những khuyết tật của mô hình, duy trì quá
lâu mô hình đó nhất là khi nền kinh tế đã cạn khả năng phát triển theo chiều rộng,
đòi hỏi phải bước sang thời kỳ phát triển theo chiều sâu. Khi mà cuộc cách mạng

khoa học, kỹ thuật mới được chủ nghĩa tư bản đi trước.
Khuyết tật lớn của mô hình là đã tuyệt đối hóa cơ chế kế hoạch hóa tập trung
cao, tuyệt đối hóa nguyên tắc tập thể, coi nhẹ vai trò chủ động và sáng kiến cá nhân,
chối từ một cách chủ quan duy ý chí nền sản xuất hàng hóa, cơ chế thị trường, thực
Lớp 7 K34 15
Chủ nghĩa Xã hội hiện thực và Triển vọng GVHD: TS. Nguyễn Khánh Vân
hiện chế độ bao cấp tràn lan, triệt tiêu động lực lợi ích trực tiếp, do đó triệt tiêu tính
chủ động, sáng tạo của các đơn vị kinh tế và cá nhân người lao động. Hậu quả của
sự kéo dài cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp là nền kinh tế Liên Xô từ chỗ là một
nền kinh tế phát triển nhanh nhất thế giới với sự tiến bộ khoa học và kỹ thuật đạt
nhiều đỉnh cao, đã lâm vào tình trạng trì trệ, tốc độ phát triển chậm dần, sức sản xuất
ngày càng tụt hậu, hiệu quả kinh tế ngày càng thua kém các nước tư bản, đời sống
nhân dân ngày càng khó khăn, nền kinh tế rơi vào khủng hoảng trầm trọng. Trong
khi gặp khó khăn về kinh tế, nhà nước xã hội chủ nghĩa hùng mạnh nhất này vẫn
phải dành một tỷ lệ ngân sách quá lớn cho quốc phòng trước sự thách thức chạy đua
vũ trang của Mỹ.
Sai lầm, khuyết tật gắn với mô hình cũ không chỉ trên lĩnh vực kinh tế. Nó còn
thể hiện ở hệ thống chính trị, ở phương thức lãnh đạo của Ðảng, vai trò quản lý của
nhà nước, ở quan hệ giữa Ðảng và Nhà nước với nhân dân. Một trong những khuyết
điểm lớn của mô hình cũ là không phát huy được tính ưu việt của nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân bị vi phạm nghiêm trọng. Chủ nghĩa quan
liêu hoàn toàn trái ngược với bản chất chủ nghĩa xã hội, nhưng với cơ chế cũ thì
không có cách gì ngăn chặn sự phát triển của nó.
Do chậm đổi mới cơ chế kinh tế, cơ chế quản lý, hệ thống chính trị và mối quan
hệ gắn bó với nhân dân, nên hậu quả là Liên Xô đang trên đà rút ngắn khoảng cách
về trình độ phát triển kinh tế so với các nước tư bản phát triển thì từ giữa những năm
70 tình hình diễn ra theo chiều hướng ngược lại. Sự thua kém rõ rệt của Liên Xô thể
hiện trong lĩnh vực công nghệ và năng suất lao động. Mà đây lại là yếu tố như Lê-
nin nói, xét đến cùng quyết định thắng lợi hoàn toàn của chế độ mới.
Chủ nghĩa giáo điều, sự xơ cứng trong tư duy lãnh đạo dẫn tới chậm phát hiện

các sai lầm. Người ta cũng đã thi hành một vài cải cách, nhưng những cải cách đó
không cơ bản, không giải quyết trúng các vấn đề, lại phạm những sai lầm mới về
chính trị và kinh tế, trượt từ tả sang hữu.
Về kinh tế: Chính phủ Liên Xô đưa ra nhiều phương pháp nhằm chuyển biến
nền kinh tế Liên Xô sang cơ chế thị trường (tiến hành cải tạo kĩ thuật mới, thực hiện
triệt để nguyên tắc phân phối theo lao động…)
Về chính trị: Mở rộng chế độ tự quản xã hội chủ nghĩa của nhân dân, đề cao
dân chủ, mở rộng tính công khai, phê bình và tự phê bình…
Lớp 7 K34 16
Chủ nghĩa Xã hội hiện thực và Triển vọng GVHD: TS. Nguyễn Khánh Vân
Mục tiêu cải tổ rất tốt đẹp, được nhân dân chờ đợi, song trong gần 6 năm tiến
hành cải tổ, do không lường hết khó khăn, thiếu sự chuẩn bị chu đáo nên công cuộc
cải tổ đi vào bế tắc, hậu quả là nền kinh tế tụt hậu. Năm 1989, tổng sản phẩm quốc
dân giảm 4-5%, năng suất lao động xã hội giảm 2,5%…Trước tình hình đó ban lãnh
đạo Liên Xô vội chuyển sang cải tổ chính trị cực đoan, đến mức chấp nhận chế độ
đa đảng thiết lập chế độ Tổng thống (1990) dẫn đến nội bộ Đảng Cộng sản chia rẽ,
các thế lực chống phá CNXH ngóc đầu dậy, một số nước cộng hòa đòi li khai. Đất
nước rơi vào khủng hoảng toàn diện, công cuộc cải tổ bị trượt ra khỏi mục tiêu
CNXH.
Đảng không coi trọng kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với thực tiễn nước mình và
đặc điểm thời đại, không coi trọng việc kế thừa, bổ sung và phát triển lý luận
mácxít. Hoặc là giáo điều, rập khuôn máy móc, không căn cứ vào tình hình mới để
phát triển sáng tạo. Đánh giá không công bằng với lịch sử, từ chỗ phê phán sai lầm
của cá nhân đi đến phủ nhận toàn bộ lịch sử của Đảng và của nhà nước, phủ định
chế độ xã hội chủ nghĩa, phủ định chủ nghĩa Mác-Lênin để cuối cùng đi theo con
đường chủ nghĩa dân chủ xã hội.
Về tổ chức. Chế độ tập trung trong Đảng bị phá hoại, không những làm cho
Đảng mất khả năng của bộ chỉ huy chiến đấu mà ngay mâu thuẫn trong đảng cũng
không giải quyết nổi. Tính chất quan liêu, giáo điều bảo thủ rất nặng nề ở bộ phận
lãnh đạo cấp cao của Đảng và nhà nước tác động to lớn đến đời sống xã hội. Nhân

danh cải tổ với khẩu hiệu dân chủ hoá, công khai hóa trong bộ phận lãnh đạo cấp
cao đã hình thành các phe nhóm. Với chiêu bài phi chính trị lực lượng vũ trang,
quân đội có nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc chứ không thuộc đảng phái nào để tách lực
lượng vũ trang khỏi sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, từng bước vô hiệu hoá và giải
tán Đảng Cộng sản. Sự phân liệt Đảng Cộng sản thành các phe nhóm chính trị khác
nhau, nhiều tổ chức, đảng phái chính trị ra đời đấu tranh giành quyền lực chính trị.
Khuynh hướng dân tộc ly khai nảy sinh, những cuộc xung đột đẫm máu xảy ra tạo
môi trường cho các lực lượng phản động trỗi dậy, xã hội mất phương hướng gây
thảm hoạ cho nhân dân.
Lực lượng phản bội trong nước tìm chỗ dựa từ các chính phủ tư sản bên ngoài,
các thế lực chống chủ nghĩa xã hội cũng xem đây là cơ hội tốt để thực hiện ý đồ
“diễn biến hoà bình”. Chúng ra sức cổ vũ lôi kéo những phần tử cơ hội, phản bội giữ
địa vị cao ở các cơ quan đảng, nhà nước để đưa đất nước theo xu hướng tư bản. Khi
Lớp 7 K34 17
Chủ nghĩa Xã hội hiện thực và Triển vọng GVHD: TS. Nguyễn Khánh Vân
bộ phận lãnh đạo tối cao đã liên kết với lực lượng đế quốc bên ngoài thì chủ nghĩa
xã hội theo mô hình Xôviết dễ dàng sụp đổ.
Từ những tuyên bố ban đầu: “cải tổ để có nhiều dân chủ hơn, nhiều CNXH
hơn”, “chúng ta sẽ đi tới CNXH tốt đẹp hơn chứ không đi ra ngoài nó”, “chúng ta
tìm trong khuôn khổ của CNXH chứ không phải ở ngoài giới hạn của nó những câu
trả lời cho các vấn đề do cuộc sống đặt ra” , rốt cuộc chỉ là những tuyên bố suông
ngụy trang cho ý đồ phản bội. Sau đó những người lãnh đạo cải tổ lùi dần từng
bước, từng bước, thậm chí ngày càng công khai tuyên bố từ bỏ những mục tiêu
XHCN mà họ từng hứa hẹn, từ bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin, từ bỏ vai trò lãnh đạo của
Đảng Cộng sản.
Cải tổ kinh tế chuyển nhanh sang cải tổ về chính trị
một cách vô nguyên tắc đã
tạo điều kiện cho sự phát triển làn sóng “công
khai”, “dân chủ”, “không có vùng
cấm”, phủ định mọi thành tựu của chủ

nghĩa xã hội, gây tâm lý hoang mang cực độ
trong tư tưởng xã hội, phá vỡ niềm tin của quần chúng đối với chủ nghĩa xã hội.
Bằng việc loại bỏ dần những người không tán thành đường lối sai lầm của cải tổ,
nhóm lãnh đạo cải tổ đã chiếm được các vị trí chủ chốt trong bộ máy Đảng và nhà
nước.

Hai là chủ nghĩa đế quốc đã can thiệp toàn diện, vừa tinh vi, vừa
trắng trợn,
thực hiện được “diễn biến hòa bình” trong nội bộ Liên Xô và các nước Đông Âu.
Chủ nghĩa đế quốc thường xuyên tiến hành cuộc chiến tranh khi thì bằng súng
đạn, khi bằng “diễn biến hòa bình” chống chủ nghĩa xã hội, gây ra cuộc chiến tranh
lạnh từ sau Chiến tranh Thế giới thứ hai. Các chiến lược gia phương Tây đã sớm
nhận ra “gót chân Asin” của cải tổ: đó là đường lối xét lại, là hệ tư tưởng tư sản, là
chính sách thỏa hiệp, nhân nhượng vô nguyên
tắc với Mỹ và phương Tây thể hiện ở
“tư duy chính trị mới”.
Các thế lực
chống chủ nghĩa xã hội ở bên ngoài theo sát quá trình cải tổ, tìm mọi
cách để
lái nó theo ý đồ của họ, tác động vào cải tổ cả về tư tưởng, chính trị và tổ
chức. Trong cuốn sách Chiến thắng không cần chiến tranh, Tổng thống Mỹ Níchxơn
cho rằng “mặt trận tư tưởng là mặt trận quyết định nhất”. Ông ta viết: “Toàn bộ vũ
khí của chúng ta, các hiệp định mậu dịch, viện trợ kinh tế sẽ không đi đến đâu nếu
chúng ta thất bại trên mặt trận tư tưởng”. Chiến lược của Mỹ trước sau như một là
đưa bất ổn vào bên trong “bức màn sắt”
Lớp 7 K34 18
Chủ nghĩa Xã hội hiện thực và Triển vọng GVHD: TS. Nguyễn Khánh Vân
Tóm lại, sự phá hoại của chủ nghĩa đế quốc cùng với sự phản bội từ
bên trong là
nguyên nhân trực tiếp làm Liên Xô sụp đổ. Hai nguyên nhân

này quyện chặt vào
nhau, tác động cùng chiều, tạo nên lực cộng hưởng rất mạnh và nhanh như một cơn
lốc chính trị trực tiếp phá hoại ngôi nhà của chủ nghĩa xã hội. Tất nhiên, xét cho cùng
chính bọn cơ hội, xét lại và phản bội, sự mất cảnh giác trong hàng ngũ những người
cộng sản đã tạo cơ hội bằng vàng cho chủ nghĩa đế quốc “chiến thắng mà không cần
chiến tranh”.
Trong tình hình chủ nghĩa xã hội trì trệ và khủng hoảng do sai lầm của
mô hình cũ
thì cải tổ, cải cách mở cửa, đổi mới là tất yếu để thoát khỏi
khủng hoảng, đưa đất
nước vào thời kỳ phát triển mới. Nhưng vấn đề là ở chỗ, cải cách dựa trên nguyên
tắc nào? Bằng phương pháp nào để vừa giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, vừa
đạt được hiệu quả kinh tế xã hội cao.Bài học của Liên Xô và Đông Âu có ý nghĩa vô
cùng quan trọng cho những người Cộng sản ở các nước xã hội chủ nghĩa trong quá
trình đổi mới hiện nay.
;0<=2

Việt Nam- nhận thức và những đổi mới
2
Từ sự sụp đổ của mô hình CNXH ở Liên Xô và các nước Đông Âu Việt Nam
đã dần rút ra được những bài học và con đường riêng cho chính mình. Từ khi xuất
hiện những dấu hiệu bất ổn do áp dụng một cách cứng nhắc mô hình của Liên Xô,
Việt Nam đã mạnh dạn nhìn nhận và loại bỏ những khuyết điểm đế không phải bước
vào vết xe đổ của Liên Xô cũng như các nước Đông Âu.
Đại hội VI của Đảng với phương châm nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng
với sự thật, nói rõ sự thật đã khẳng định những thành tựu đạt được, đồng thời chỉ rõ
những khuyết điểm, sai lầm. Đại hội chỉ rõ chúng ta đã mắc những sai lầm nghiêm
trọng và kéo dài về chủ trương, chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ
chức thực hiện.
Về mặt lý luận, đó là sự lạc hậu về nhận thức lý luận và vận dụng các quy luật

đang hoạt động trong thời kỳ quá độ; đã mắc bệnh chủ quan duy ý chí, giản đơn hóa,
muốn thực hiện nhanh chóng nhiều mục tiêu của CNXH trong điều kiện nước ta mới
ở chặng đường đầu tiên.
2
(Nguồn trích từ cổng thông tin của Đảng Cộng Sản Việt Nam, báo Vietnamnet,…)
Lớp 7 K34 19
Chủ nghĩa Xã hội hiện thực và Triển vọng GVHD: TS. Nguyễn Khánh Vân
Chúng ta đã có thành kiến không đúng, trên thực tế, chưa thật sự thừa nhận
những quy luật của sản xuất hàng hóa đang tồn tại khách quan; do đó không chú ý
vận dụng chúng vào việc định chế các chủ trương, chính sách kinh tế. Chưa chú ý
đầy đủ việc tổng kết kinh nghiệm thực tiễn của mình và nghiên cứu kinh nghiệm của
các nước anh em.
Từ thực tiễn cách mạng, cả thành công và khuyết điểm sai lầm, Đại hội VI đã
rút ra 4 bài học kinh nghiệm, trong đó có bài học “Đảng phải luôn luôn xuất phát từ
thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan”.
Và Việt Nam đã tiến hành đổi mới và khắc phục, loại bỏ những khuyết
điểm đã mắc phải từ trước.
 Trên lĩnh vực Kinh tế:
Nhà nước chấp nhận sự tồn tại bình đẳng và hợp pháp của nhiều thành phần
kinh tế (Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần IX quy định có
6 thành phần kinh tế: kinh tế Nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể tiểu chủ, kinh
tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản Nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài), nhiều
hình thức sở hữu (sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, sở hữu hỗn hợp).
Tuy nhiên, kinh tế Nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo.
Cơ chế kinh tế là kinh tế thị trường xã hội, là nền kinh tế thị trường nhưng có
sự quản lý của Nhà nước, nền kinh tế được vận hành bởi hai bàn tay: thị trường và
Nhà nước. Điều này có ưu điểm là nó phát huy tính tối ưu trong phân bổ nguồn lực
xã hội đểtối đa hóa lợi nhuận thông qua cạnh tranh, mặt khác, sự quản lý của Nhà
nước giúp tránh được những thất bại của thị trường như lạm phát, phân hóa giàu
nghèo, khủng hoảng kinh tế

Định hướng xã hội chủ nghĩa: Theo quan điểm trước Đổi Mới, Nhà nước Việt
Nam cho rằng kinh tế thị trường là nền kinh tế của chủ nghĩa tư bản và hoạt động
không tốt. Sau Đổi Mới, quan điểm của Nhà nước Việt Nam là kinh tế thị trường là
thành tựu chung của loài người, không mâu thuẫn với chủ nghĩa xã hội. Định
hướng xã hội chủ nghĩa được hiểu là vẫn giữ vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước
trong nền kinh tế, vì theo quan điểm của chủ nghĩa Marx về chủ nghĩa xã hội thì
mọi tư liệu sản xuất đều thuộc sở hữu toàn dân và Nhà nước xã hội chủ nghĩa là Nhà
nước đại diện cho nhân dân.
Nền kinh tế chuyển từ khép kín, đóng cửa, sang mở cửa, hội nhập với thế giới.
Lớp 7 K34 20
Chủ nghĩa Xã hội hiện thực và Triển vọng GVHD: TS. Nguyễn Khánh Vân
 Trên lĩnh vực chính trị:
Theo quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam thì Đổi Mới không phải là từ
bỏ việc thực hiện chủ nghĩa xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn giữ quyền lãnh
đạo duy nhất. Đổi Mới chỉ là thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.
Cho đến nay, Đổi Mới về chính trị ở Việt Nam là chuyển từ việc lãnh đạo
kinh tế chủ quan, duy ý chí sang tôn trọng quy luật khách quan của thị trường.
Trên lĩnh vực đối ngoại, Việt Nam chuyển từ chú trọng quan hệ hợp tác với
các nước XHCN sang chú trọng quan hệ hợp tác đa phương, làm bạn với tất cả các
nước, trên quan điểm bình đẳng, cùng có lợi, không can thiệp vào công việc nội bộ
của nhau. Việt Nam đã bình thường hóa quan hệ với Mỹ, gia nhập các tổ chức khu
vực ASEAN, APEC, WTO
1994: bắt đầu thực hiện chất vấn của các đại biểu Quốc hội đối với các thành
viên Chính phủ.
Đại hội Đảng lần X lần đầu tiên lấy ý kiến đóng góp rộng rãi của các tầng lớp
nhân dân, lần đầu tiên cho phép Đảng viên tự ứng cử vào Ban Chấp hành Trung
ương Đảng.
Một số quốc gia và tổ chức cho rằng Việt Nam không có nhân quyền,
vì quyền tự do tín ngưỡng, quyền tự do ngôn luận không được đảm bảo. Tuy nhiên,
chính phủ Việt Nam khẳng định quyền tự do tôn giáo là hoàn toàn được đảm bảo ở

Việt Nam, các tổ chức tôn giáo được quyền tự do hoạt động mà không gặp bất cứ
cản trở nào của Chính quyền - Việt Nam đã có 1 Hồng y được Nhà nước Việt Nam
công nhận. Chính phủ Việt Nam cũng tuyên bố rằng các quyền con người khác được
đảm bảo ở Việt Nam: quyền tự do cư trú, quyền tự do ngôn luận, quyền tự do lập
hội, quyền được bảo vệ bình đẳng trước pháp luật, quyền được học hành, chăm sóc
y tế
Những thành tựu đạt được.
Chỉ một năm sau khi thực hiện Đổi Mới, Việt Nam từ một nước thiếu đói đã
trở thành nước xuất khẩu gạo. Những năm sau đó, khủng hoảng kinh tế và lạm phát
phi mã đã được chặn đứng.
Lớp 7 K34 21
Chủ nghĩa Xã hội hiện thực và Triển vọng GVHD: TS. Nguyễn Khánh Vân
Từ thập niên 1990, làn sóng đầu tư trực tiếp nước ngoài bắt đầu đổ vào Việt
Nam. Việt Nam trở thành một trong những nước tăng trưởng nhanh nhất thế giới
với tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình 8%/năm.
Việt Nam được đánh giá cao về việc thực hiện phúc lợi xã hội, xóa đói giảm
nghèo và thực hiện các Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ (MDG) của Liên Hợp
Quốc. Việt Nam là một trong những nước đang phát triển có chỉ số HDI cao.
GDP Việt Nam đến cuối 2008 là 1042 USD/người (GDP năm 2008 là 89,829 tỷ
USD, đứng thứ 60 trên thế giới, dân số ước tính khoàng trên 85,79 triệu người).
B. ĐÁNH GIÁ VỀ TRIžN VỌNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
>-'3&-??
?,@
1. Đặc điểm của chủ nghĩa tư bản:
Chủ nghĩa tư bản có vai trò to lớn trong sự phát triển của xã hội loài người. Bên
cạnh sự tự điều chỉnh và thích ứng, chủ nghĩa tư bản còn sử dụng một cách triệt để
những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật. Từ đó, chủ nghĩa tư bản đã
có những bước tiến vượt bậc, vượt qua một số cuộc khủng hoảng và vẫn còn khả
năng phát triển.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu, chủ nghĩa tư bản vẫn còn bộc lộ một số

khuyết tật, chính phương thức sản xuất dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản
chủ nghĩa đã tạo ra cho chủ nghĩa tư bản những ung nhọt. Trải qua một quá trình
phát triển và biến đổi lâu dài, nhưng bản chất bóc lột, phản dân chủ của nó vẫn
không thay đổi.
Bên cạnh đó, chính những cuộc khủng hoảng đã khiến cho chủ nghĩa tư bản phải
tìm cách để cải cách và thích ứng. Quá trình biến đổi và phát triển đó của chủ nghĩa
tư bản cũng chính là quá trình quá trình quá độ lên xã hội mới. Những yếu tố của
một xã hội mới đang dần xuất hiện trong lòng chủ nghĩa tư bản, những yếu tố của
nền văn minh hậu công nghiệp, kinh tế tri thức nảy sinh và phát triển, tính chất xã
hội của sở hữu ngày càng gia tăng, sự điều tiết của nhà nước đối với xã hội ngày
càng hữu hiệu, những vấn đề về môi trường và phúc lợi ngày càng được quan tâm và
Lớp 7 K34 22
Chủ nghĩa Xã hội hiện thực và Triển vọng GVHD: TS. Nguyễn Khánh Vân
giải quyết hữu hiệu. Từ những đặc điểm trên, ta có thể thấy đó là dấu hiệu của một
xã hội quá độ, vì nó chứa đựng trong đó cả yếu tố xã hội và tương lai.
2. Liên hệ thực tế:
Đây là kết quả cuộc thăm dò dư luận do BBC World Service của tổ hợp truyền
thông Anh BBC thực hiện với 29.033 người trưởng thành ở 27 quốc gia, từ ngày
19/6 đến 23/10 và công bố ngày 9/11 cho thấy sau 20 năm kể từ khi Chiến tranh
Lạnh kết thúc, nỗi thất vọng đối với chủ nghĩa tư bản ngày càng lan rộng trên phạm
vi toàn cầu. Theo cuộc thăm dò này, chỉ có 11% số người được hỏi cho rằng thị
trường tự do của chủ nghĩa tư bản đang vận hành tốt, trong khi có tới 51% nhận định
các vấn đề hiện nay của chủ nghĩa tư bản chỉ có thể được giải quyết nếu bổ sung
thêm các quy định và tiến hành cuộc cải cách triệt để.
Từ khi TBCN xuất hiện cho tới nay, tỉ suất bóc lột giá trị thặng dư theo thời gian
vẫn tăng lên một cách chóng mặt: từ trên 200% vào những năm 50, tăng lên 300%
trong những năm 90 của thế kỷ XX và đến nay con số đó đạt tới ngưỡng 500.
Sự phân cực giữa giai cấp tư sản và những người nghèo khổ mà chính 600%.
những người của thế giới tư bản đã phải gọi những người nghèo khổ này là “thế giới
thứ tư” trong xã hội, càng tăng lên nhanh chóng. Ở Mỹ, nơi được xem là mô hình

toàn cầu của sự phát triển, thì vẫn có khoảng 10% người da trắng và 31% người da
đen là những người nghèo. Theo báo cáotình trạng người Mỹ da đen 2005do Liên
đoàn thành thị toàn quốc công bố, mức thu nhập của các gia đình người Mỹ gốc Phi
chỉ bằng một phần mười thu nhập của gia đình người Mỹ da trắng. Cục Thống kê
Mỹ (2005) cho biết, thu nhập của phụ nữ Mỹ chỉ bằng 77% thu nhập của nam giới
cùng công việc
Không chỉ có thế, các thế lực tư bản đế quốc luôn mưu đồ xâm phạm nền độc
lập của các quốc gia, chà đạp quyền tự quyết của các dân tộc bằng mọi thủ đoạn, từ
can thiệp vũ trang thô bạo, trắng trợn đến tiến hành âm mưu “diễn biến hoà bình”
thâm độc, nham hiểm. Ngoài ra, sự hủy hoại môi trường sinh thái hơn 100 năm qua
đối với nhân loại mà thủ phạm gây ra chính là chủ nghĩa tư bản cũng vô cùng tàn
khốc. Rất nhiều người đã đặt câu hỏi rằng liệu sự sống trên trái đất và chủ nghĩa tư
bản có thể chung sống hòa bình với nhau không? Ông T. Phu-oa, nguyên Chủ tịch
Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Nhật Bản đưa ra kết luận rằng, về một phần nào
đó, sự hủy hoại môi trường còn nghiêm trọng hơn cả sự trì trệ và suy thoái kinh tế;
rằng chủ nghĩa tư bản đã hoàn toàn mất khả năng điều khiển thế giới. Ông G. Đê-ri-
đa, một triết gia phương Tây, một người chưa từng là mác-xít, trong cuốn “Những
Lớp 7 K34 23
Chủ nghĩa Xã hội hiện thực và Triển vọng GVHD: TS. Nguyễn Khánh Vân
bóng ma của Mác” đã mô tả cái gọi là trật tự thế giới mới của thị trường tư bản chủ
nghĩa như sau: Chưa bao giờ trong thế giới đó, con người, nhất là trẻ em lại bị nô
dịch, bị bỏ đói hoặc bị tiêu diệt nhiều đến như vậy. Lẽ tất nhiên, các tầng lớp nhân
dân đông đảo ở nơi đó không thể chấp nhận những gì họ phải gánh chịu do chủ
nghĩa tư bản gây ra như bạo lực, thảm họa nhân đạo, lãng phí, tham nhũng, bất công,
bất bình đẳng, sụp đổ văn hoá, trống rỗng tinh thần…Để thoát khỏi tình cảnh đó, lối
thoát duy nhất trong triển vọng phát triển của họ là thực hiện những cuộc cách mạng
xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tổng thống Vê-nê-xu-ê-la U. Cha-vét
tuyên bố chủ nghĩa tư bản không phải là tương lai của nhân loại và nhấn mạnh sự
cần thiết “phải vượt qua chủ nghĩa tư bản. Tuy nhiên, chủ nghĩa tư bản không bị
vượt qua từ chính trong lòng nó, mà phải thông qua chủ nghĩa xã hội, chỉ có chủ

nghĩa xã hội mới giải quyết được nghèo khổ và bất bình đẳng xã hội”.
Đành rằng trong mấy thập kỷ qua, chủ nghĩa tư bản, nhất là các nước tư bản phát
triển đã đạt được những thành tựu lớn về tin học, tự động hoá, công nghệ sinh học,
vật liệu mới…; đã tận dụng có hiệu quả những thành tựu đó trong tăng trưởng kinh
tế và điều chỉnh một số chính sách xã hội nhằm giảm mức độ căng thẳng của xung
đột giai cấp và mâu thuẫn xã hội, nhưng bản thân chủ nghĩa tư bản lại không vượt
qua được những mâu thuẫn lớn gay gắt của thời đại cũng như những mâu thuẫn nội
tại trong quá trình phát triển của chính nó. Đó là mâu thuẫn giữa tư bản và lao động
không chỉ hiện hữu trong từng nước tư bản mà ngày càng có quy mô toàn cầu. Các
tầng lớp người lao động trên toàn thế giới liên tiếp tiến hành những cuộc đấu tranh
với quy mô toàn cầu chống tư bản độc quyền xuyên quốc gia, chống mặt trái của
toàn cầu hoá theo mô hình chủ nghĩa tự do mới của chủ nghĩa tư bản… Đó là mâu
thuẫn giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội mà biểu hiện chủ yếu của nó hiện
nay là cuộc đấu tranh giữa âm mưu “diễn biến hoà bình” và cuộc đấu tranh chống lại
âm mưu này. Đó là mâu thuẫn giữa các nước đang phát triển với các nước tư bản
phát triển, hay còn được gọi là mâu thuẫn Nam- Bắc, với quy mô thực sự rộng lớn
và liên quan trực tiếp đến hàng loạt quốc gia và bao trùm mọi lĩnh vực, như chính
trị, kinh tế, văn hoá, khoa học-công nghệ…Đó là mâu thuẫn giữa các nước tư bản
với nhau, nhất là mâu thuẫn giữa ba trung tâm lớn của chủ nghĩa tư bản hiện đại -
Mỹ, Tây Âu và Nhật Bản - trong thiết lập một trật tự thế giới mới theo tham vọng
của riêng họ. Trong khi Mỹ mưu toan thiết lập một trật tự thế giới đơn cực do Mỹ
làm bá chủ, Tây Âu, Nhật Bản lại cổ xuý một trật tự thế giới đa cực mà bản thân họ
sẽ đóng vai trò là mỗi cực trong trật tự thế giới đó.
Lớp 7 K34 24
Chủ nghĩa Xã hội hiện thực và Triển vọng GVHD: TS. Nguyễn Khánh Vân
Như vậy, thời đại mới được mở ra từ sau thắng lợi của cuộc Cách mạng xã hội
chủ nghĩa Tháng Mười Nga vĩ đại hoàn toàn không phải đã chấm dứt như những kẻ
chống phá chủ nghĩa xã hội từng rêu rao. Nội dung cơ bản của thời đại vẫn là nhân
loại đang quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Thay lời kết, xin dẫn lại
nhận định của một nhà nghiên cứu Nhật Bản rằng, thế giới trong thế kỷ XXI sẽ là

một thế giới mà ở đó nhân dân mỗi nước, thông qua điều kiện và phương pháp của
mình, sẽ thoát khỏi và vượt lên trên khuôn khổ chủ nghĩa tư bản; sẽ tiến lên với
những bước phát triển mới. Những bước phát triển mới đó chính là chủ nghĩa xã hội
và chủ nghĩa cộng sản trên phạm vi toàn cầu.
A??,@
1. Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ không có nghĩa là sự cáo chung của
chủ nghĩa xã hội
Sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu là sự sụp đổ của một mô hình chủ nghĩa
xã hội trong quá trình đi tới xã hội chủ nghĩa. Nó không đồng nghĩa với sự cáo
chung của chủ nghĩa xã hội với tư cách là một hình thái kinh tế xã hội mà loài người
đang vươn tới. Tương lai của xã hội loài người vẫn là chủ nghĩa xã hội, đó là quy
luật khách quan của sự phát triển lịch sử. Tính chất của thời đại hoàn toàn không
thay đổi nhưng các mâu thuẫn của thời đại vẫn còn tồn tại, chỉ thay đổi hình thức
biểu hiện và đặt ra yêu cầu mới phải giải quyết.
2. Các nước xã hội chủ nghĩa còn lại tiến hành cải cách, đổi mới và ngày càng
đạt được những thành tựu to lớn
Các nước xã hội chủ nghĩa còn lại tiếp tục cuộc đẩy mạnh công cuộc cải cách,
đổi mới một cách toàn diện. Hiện nay trên thế giới có năm quốc gia đang đi theo
định hướng xã hội chủ nghĩa: Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, Cộng hòa
Nhân dân Trung Hoa, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên, Cộng hòa Dân chủ
Nhân dân Lào và Cộng hòa Cuba.
Trong đó, Trung Quốc và Việt Nam là hai nước đã tiến hành công cuộc cải
cách đổi mới dựa trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin vào điều kiện
cụ thể tương đối thành công nhất. Tuy có những sự khác biệt nhất định trên nhiều
phuơng diện, nhưng công cuộc cải cách mở cửa ở Trung Quốc và công cuộc đổi mới
ở Việt Nam có  BCDEFG
Lớp 7 K34 25

×